Những cuá»™c Ä‘á»i... những số pháºn… những câu chuyện từ hiện thá»±c cuá»™c sống... cả những hồi tưởng, ký ức vá» má»™t thá»i chưa xa...Tất cả sẽ được gá»i gắm má»—i ngà y má»™t số trong chương trình Podcast Äá»c truyện đêm khuya cá»§a Äà i Hà Ná»™i.
Äá»c truyện đêm khuya - Podcast Äà i Hà Ná»™i
Tù nhân ở nhà lao Thừa Phủ bị áp giải đi lao động khổ sai, công việc nặng nhọc và thường xuyên bị đánh đập. Trong số các em nhỏ, Thúi tỏ ra tháo vát, thường xuyên xin được nước, đồ ăn thừa để nuôi Lượm và Ngạnh đang bệnh. Hình ảnh anh tù điên - một người tù kỳ dị, luôn giả vờ làm trò trêu chọc cả lính gác tàn ác khiến bọn tù khổ ải cũng có lúc bật cười làm dịu bớt cảnh địa ngục trần gian.
Lượm, Thúi và Ngạnh phải chứng kiến cảnh tù đày khốn khổ, chen chúc giữa phân rác, giòi bọ, đói khát và bệnh tật. Ngạnh kể lại chuyện mình từng bị tra tấn vì làm liên lạc cho du kích làng Liễu Cốc nhưng vẫn không khai khiến Lượm và Thúi cảm phục. Cả ba dần thân thiết chia sẻ với nhau những uất ức và ước mơ.
Sau khi thấy chỉ huy trưởng Phùng Đông bị giặc bắt, Lượm vô cùng bàng hoàng và đau xót. Trong tâm trí cậu, những nhân vật như ông Đông hay khẩu pháo ông già 75 đều là biểu tượng bất tử của sức mạnh kháng chiến, vậy mà giờ đây lại rơi vào tay giặc khiến niềm tin non trẻ bị chấn động dữ dội.
Sau khi bị tra tấn dã man, Lượm và Thúi cùng toán tù bị dồn vào khu sản lim tối tăm, hôi hám, ẩm ướt. Trong bóng tối đặc quánh, hai đứa bé run rẩy, vừa đau đớn vừa sợ hãi. Nhưng Lượm vẫn gắng gượng động viên Thúi bày trò để xua bớt nỗi lo, hai đứa vắt khô quần áo, tìm góc khô ráo trong xả lim để dựa vào nhau mà ngủ.
Lượm gặp hai đứa trẻ - con của tên mật thám và nhanh trí lấy lòng chúng bằng trò bắt chuồn chuồn khiến chúng ngưỡng mộ. Khi thấy chìa khóa bị rơi gần lính gác đang ngủ, Lượm khéo léo nhờ cô bé nhặt giúp. Giải thoát được mình, cậu bé giả vờ đi bắt chim để đánh lạc hướng hai đứa trẻ rồi chạy, nhanh chóng vượt rào thoát ra ngoài.
Đòn roi không khuất phục được cậu bé 14 tuổi. Thực dân Pháp quyết định chuyển Lượm đến Sở mật thám phòng nhì để tên quan thâm hiểm và cáo già trực tiếp dụ dỗ. Lượm lo sợ nhưng vẫn cố gắng giữ vẻ bình thản. Đến nơi, thay vì đòn roi, Lượm được cởi trói mời uống sữa và ăn bánh. Cách đối xử khiến cậu bé hoang mang vừa cảnh giác vừa mềm lòng vì quá đói nhưng Lượm vẫn quyết tâm không khai báo.
Sau lần trốn thoát khỏi trại giam, Lượm bị quản ngục theo dõi gắt gao và siết chặt kiểm soát. Nhưng sự gan dạ của cậu khiến tất cả tù nhân trong buồng giam khâm phục. Anh thợ máy - người tù lớn tuổi chăm sóc vết thương cho Lượm, tận tình coi cậu như em ruột, còn các bạn tù thì yêu mến và tự hào vì cậu đã thay mặt cả buồng giam đánh tát vào mặt ty an ninh.
Tại buồng giam, Lượm quen với một cậu bé bán kẹo gừng tên Thơm, bị chủ bóc lột và đánh đập phải bán kẹo để trả nợ. Ban đầu Lượm ghét sự nhút nhát, run rẩy của Thơm, nhưng rồi cảm thông cho hoàn cảnh đáng thương của bạn. Để động viên Thơm, mọi người trong buồng giả vờ mua kẹo, tạo nên bầu không khí tươi vui hiếm hoi chốn ngục tù. Tuy nhiên tên cài ngục hung ác đã xông vào đánh đập Thơm tàn nhẫn.
Lượm bị đưa vào một phòng giam chật hẹp, tối tăm, nơi hơn ba chục tù nhân bị giam giữ trong cảnh đói khát và đau đớn vì tra tấn. Trong những ngày đầu, mọi người nín thở lo lắng khi Lượm bị gọi lên tra khảo, sợ phải nghe tiếng kêu thảm thiết của một đứa trẻ. Nhưng cậu bé kiên cường chịu đựng không hé răng. Sau những trận tra tấn, thân thể Lượm tím bầm, đầy vết roi và máu.
Lượm và Tư 'dát' mang những đòn bánh tét chứa chuyền đơn bí mật đi về Huế. Khi ngang qua cầu Bao Vinh, hai đứa tình cờ trò chuyện vui vẻ với một cậu bé câu cá hồn nhiên và thông minh. Không ngờ Nguyễn Chí, tên phản bội từng làm quản lý trong trung đoàn, cùng đồng đội đang phục kích để bắt liên lạc viên Việt Minh. Hắn nhận ra Lượm, lập tức chặn đường, khống chế và đánh đập cậu tàn nhẫn rồi trói về.
Trong lúc Kim 'điệu' trò chuyện, vô tình phát hiện Nguyễn Chí, người anh nuôi mà cậu luôn tin tưởng chính là tay chỉ điểm cho địch. Khi Kim hoảng sợ định bỏ chạy, Nguyễn Chí lập tức khống chế, giao cho đồng bọn áp giải Kim về trụ sở an ninh. Tại đây, sau những trận đòn tra tấn tàn bạo, Kim 'điệu' khai ra nơi ở của anh Đồng 'râu' và một số bí mật của tổ chức.
Lượm trong lúc làm nhiệm vụ liên lạc đã bị thằng câu đá Đặng và một thanh niên lạ mặt bắt giữ vì nghi là việt gian. Chúng trói Lượm, khám xét kỹ và phát hiện cuộn tài liệu mật giấu trong bụng một con chim. Khi mở ra, cả hai mới biết Lượm là liên lạc của Việt Minh. Họ vội vàng cởi trói xin lỗi và vui mừng vì đã tìm thấy đồng đội. Đặng còn tặng Lượm mía để ăn dọc đường và một con dao nhỏ để tự vệ.
Lượm cố tình giả vờ ho để che tiếng súng cao su của Tư 'dát' bắn chim phía sau nhà khiến cả nhóm phải nén cười. Sáng hôm sau, anh Đồng 'râu' nhắc nhở ba đội viên nhí phải giữ gìn sức khỏe và chuẩn bị cho nhiệm vụ mới. Trước khi giao việc, anh nghiêm túc nhắc nhở nguyên tắc tuyệt đối giữ bí mật, kể cho bọn trẻ nghe về sự hy sinh kiên trung của các chiến sĩ cách mạng.
Ba đội viên thiếu niên trinh sát Kim điệu, Tư dát và Lượm sứt cùng anh Đồng râu - một cán bộ tình báo giả làm gia đình hồi cư trên chuyến đò quay về Huế. Họ phải vượt qua những lần kiểm soát gắt gao của lính Pháp và tay sai. Qua những vùng quê bị giặc tàn phá, cả nhóm tận mắt thấy cảnh nhà cửa cháy rụi, xác người ngổn ngang, đặc biệt là thi thể một bé gái bên gốc mít.
Đội thiếu niên trinh sát sau hành trình gian khổ đã lên đến chiến khu Hòa Mỹ. Trái với hình dung trước đó, Hòa Mỹ chỉ là một ngôi làng ven núi nghèo nàn, đầy bệnh tật và thiếu thốn. Các em được bố trí ở lán trại đơn sơ bên suối, sống trong cảnh cơm gạo lức, muối trắng, dụng cụ thô sơ.
Đoàn Vệ quốc đoàn và các thiếu niên trinh sát tiếp tục trong hành trình rút khỏi thành phố Huế lên chiến khu. Đêm tối mịt mù, mưa gió nặng hạt, đường hành quân lầy lội khiến mỗi bước chân thêm nặng nề, lương thực mang theo chỉ còn vài mẩu bánh, chút gạo khô, chia nhau từng miếng vụn để cầm cự. Nhiều em sốt rét, ho sụt sùi. Có em lả đi vì kiệt sức nhưng vẫn cố bám đơn vị.
Trưa mùng 6/2/1947, giặc phá vỡ phòng tuyến Sông Long. Quân ta nhận lệnh rút khỏi thành phố. Quân tiếp viện địch đổ bộ nhiều hướng, hình thành vành đai bao vây. Huế thành biển lửa. Mưa gió và tiếng pháo rền rít. Đội thiếu niên trinh sát được lệnh rút lui theo đơn vị Vệ quốc đoàn. Hành quân trong mưa phùn, các em lấm lem đói khát.
Vệ quốc đoàn cùng các chiến sĩ thiếu niên rút về phía Tây thành phố để tiếp tục kháng chiến. Các em phải vượt qua núi rừng hiểm trở, vừa tránh phục kích của quân Pháp, vừa làm nhiệm vụ liên lạc. Đường hành quân gian khổ, đói khát bệnh tật dồn dập nhưng không ai nản chí. Trong hoàn cảnh ấy, tình bạn giữa Mừng, Quỳnh và Vệ to đầu càng thêm gắn bó.
Ngày 17/1/1947, quân Pháp đổ bộ tiếp viện ở Lăng Cô với lực lượng hùng hậu, mở nhiều mũi tấn công về phía Bắc Thừa Thiên báo hiệu một đợt tác chiến quy mô đe dọa Huế. Chúng tung nhiều tiểu đoàn bộ binh cùng xe tăng, pháo binh từ Lăng Cô đánh ngược ra, chia làm nhiều mũi bao vây, có cả máy bay yểm trợ.
Mừng và Vệ to đầu thay nhau gánh nhiều nhiệm vụ, liên lạc, trinh sát và công việc vặt trong đội. Họ thường ghé trạm quân y thăm Quỳnh, cậu bé đang nằm điều trị và dành thời gian trò chuyện cùng y tá. Quỳnh hé lộ ước mơ được học nhạc, sáng tác với nhạc kịch. Niềm say mê âm nhạc đã đưa cậu vào Vệ Quốc đoàn khi cậu dạy và truyền lại các bài hát cách mạng cho các anh bộ đội.
Bằng kế hoạch táo bạo, Vịnh gục mình vào cột thép trên nóc giơ cờ báo hiệu. Sự hiện diện của người đứng giữa quân địch khiến cả bộ đội chỉ huy chú ý và khẩn trương điều động. Sự giao thoa giữa nỗi sợ non nớt của tuổi trẻ, lòng dũng cảm sáng tạo trong hành động mạo hiểm, đồng thời bộc lộ trách nhiệm, niềm tự hào khi Vịnh nhìn thấy vẻ đẹp của Huế từ trên cao và quyết tâm lập công.
Tỉnh dậy dưới mái hiên một nhà lầu bỏ trống, cậu thiếu niên trinh sát Vịnh phát hiện một kho xăng đạn và nhiều quân thù. Lòng chiến sĩ trong cậu trỗi dậy mạnh mẽ. Xua tan nỗi sợ, cậu liền lên kế hoạch táo bạo, xé rèm, lấy vải quần nhuộm đỏ làm cờ, trèo qua các tầng tháo ngói, leo lên nóc lầu để dùng cờ tín hiệu báo vị trí kho của địch cho đài quan sát của ta.
Mừng nhận được tin mẹ cậu đã được người vệ quốc quân đem lá thuốc về tận nơi khiến cậu xúc động đến rưng rưng nước mắt. Đội trưởng nhìn lũ trẻ càng thêm thương cảm và tự hào, bởi giữa khói lửa ngút trời, các em vừa qua tuổi học trò đã sống, chiến đấu và lớn lên như những người lính thực thụ.
Trận chiến ngày một ác liệt, Huế chìm trong bom đạn. Khi quân Pháp mở cuộc tấn công dữ dội, đội thiếu niên trinh sát được giao nhiệm vụ dẫn đường cho bộ đội vượt qua những con đường đầy chướng ngại mìn và hỏa lực. Các em vừa hồi hộp vừa hăng hái, nhiều lúc phải bò qua từng bụi cây, luồn dưới làn đạn. Giữa lúc ấy, Mừng bất ngờ phát bệnh hen suyễn, thở dốc không đi nổi.
Trên đường hành quân, những người lính vượt qua các chướng ngại vật do chiến tranh để lại, đi qua cầu Bạch Hổ bị hư hỏng giữa mưa bụi, gặp những người công binh cao lớn giả dặn và nhận những món quà an ủi nhỏ bé.
Mừng tâm sự hoàn cảnh thiếu thốn, mẹ bị đánh đập và nỗi đau day dứt vì không thể chữa bệnh cho mẹ. Sau khi biết chuyện, đội trưởng đã vô cùng thương cảm và sẽ cho Mừng về phép để mang thuốc cho mẹ.
Trong những ngày Huế bị bao vây, đội thiếu niên trinh sát nhận lệnh chuẩn bị ra mặt trận. Đêm mưa gió, các đội viên tập hợp, lắng nghe đội trưởng kể chiến công cảm tử phá xe tăng, càng thêm háo hức lên đường.
Buổi tiếp nhận Mừng vào đội diễn ra giản dị mà trang nghiêm. Các anh lớn chia cho cậu từng món đồ, dặn dò như những người anh trong một gia đình. Còn Vịnh với gánh nặng riêng của tuổi thơ mồ côi, lại vui vẻ nhận phần chăm sóc em út. Trong không khí vừa nghiêm túc, vừa ấm áp ấy, nét hồn nhiên, những câu pha trò dí dỏm vẫn chen lẫn vào từng lời nói làm dịu bớt cái khắc nghiệt của chiến tranh.
Vào những năm đầu kháng chiến chống Pháp, Mừng - cậu bé mới 13 tuổi mồ côi cha, mẹ tần tảo nuôi con bằng nghề buôn bán nhỏ. Mừng sớm bộc lộ lòng yêu nước và ước mơ trở thành chiến sĩ. Dù mẹ hết lời can ngăn, Mừng vẫn tìm cách xin gia nhập đội thiếu niên trinh sát.
"Tuổi thơ dữ dội" là một tiểu thuyết được xuất bản năm 1988 của nhà văn Phùng Quán, có nội dung xoay quanh cuộc sống chiến đấu và sự hy sinh của những thiếu niên 13, 14 tuổi trong hàng ngũ Đội thiếu niên trinh sát của trung đoàn Trần Cao Vân.
Cường và Tấn, hai người sống sót cuối cùng của đại đội. Trước khi sang sông, cả hai đứng lặng lẽ tiễn biệt đồng đội. Trong không khí buồn bã ấy, Cường bất ngờ trông thấy Hồng, người con gái anh yêu mà tưởng đã mất. Họ đoàn tụ trong giây phút nghẹn ngào. Nhưng bên nhau chưa được bao lâu, họ lại bước tiếp vào trận chiến mới.
Người đồng đội thân thiết của Cường ra đi, đó là cái chết đau đớn của chiến sĩ trẻ tên Bình. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Bình chỉ kịp gửi gắm mong muốn đưa kỷ vật về cho cha, rồi ra đi trong vòng tay bạn bè.
Trong giây phút cận kề cái chết, Hải vẫn giữ vững khí tiết, bình thản như đã chuẩn bị từ lâu. Anh hiểu rằng cái chết của mình không chỉ là sự kết thúc một sinh mệnh mà còn là sự chứng minh lòng trung thành, danh dự và tinh thần bất khuất trước đồng đội và Tổ quốc.
Chiến sĩ Hải bị địch bắt và tra khảo. Gã Phan Thái dùng bạo lực, mỉa mai và cả đòn tâm lý để ép anh đầu hàng. Nhưng Hải vẫn giữ vững khí tiết. Dù bị đánh đập, bị súng kề vào đầu, anh vẫn đáp trả bằng lời lẽ bình tĩnh và đầy khí phách khiến kẻ thù nể phục. Anh kiên định rằng cái chết cũng phải có giá trị, không thể chết vô ích.
Trước lúc hy sinh, Tạ để lại lời trăng trối đầy xúc động gửi tới vợ con và mẹ già cùng đồng đội của mình. Anh mong sau chiến thắng, nếu có nhớ, vợ hãy về Quảng Trị để tìm phần mộ anh. Vào giữa đêm mưa, đồng đội tổ chức thủy táng cho người anh hùng kiên trung ấy ngay trên sông Thạch Hãn. Nỗi mất mát quá lớn khiến tất cả lặng đi.
Đại đội trưởng phía quân giải phóng là Tạ cùng đồng đội tiến hành một cuộc tập kích vào Ban Chỉ huy tiểu đoàn biệt động quân số 6. Dù bị cơn ho kéo dài hành hạ, Tạ vẫn cương quyết tham chiến đánh trận thành công, họ tiêu diệt được nhiều sĩ quan địch. Tuy nhiên, khi Tạ đang thu giữ tài liệu thì bất ngờ bị tên trung tá bắn lén khiến anh trọng thương.
Kẻ địch bất ngờ dùng xe tăng và pháo tăng ém sẵn khiến các chiến sĩ ta chịu tổn thất nặng. Tuy nhiên bằng tinh thần gan góc và sáng tạo, chiến sĩ Mạc Tần liệu mình dùng cối bắn thẳng vào xe tăng địch, góp phần xoay chuyển thế trận.
Cường và Hồng có buổi chia tay đầy cảm xúc bên bờ sông Thạch Hãn. Dòng sông yên ả nhưng lòng người dậy sóng. Lần này, Cường sắp vượt sông ra tiền tuyến, Hồng vừa lo lắng vừa không muốn rời xa, cả hai tâm sự về ảo giác chiến tranh, tình yêu nảy sinh giữa bom đạn và những nỗi sợ không thành lời.
Cường nhận được lời biểu dương từ Cục Chính trị mặt trận về hành động phá thế cắm cờ của địch, một chiến thắng mang ý nghĩa lớn trên mặt trận ngoại giao. Dù được đề nghị ra Bắc dưỡng thương và đào tạo nước ngoài, anh từ chối vì tình cảm với đồng đội và với Hồng.
Tiểu đội bảy người của ta nhận nhiệm vụ nhổ cờ trong đêm khuya. Họ mặc quân phục nghiêm chỉnh như để sẵn sàng ra đi trong tư thế đẹp nhất. Một cậu lính trẻ tên Tú nài nỉ được đi theo, xúc động vì được gọi là anh hùng. Ở một điểm khác, tiểu đội đặc nhiệm chia quân tiến vào khu nhà tù cũ, nơi dự đoán là mục tiêu cắm cờ của địch.
Trong khung cảnh rực lửa và đầy chết chóc của chiến trường thành cổ Quảng Trị, Bến Vượt trở thành địa danh khốc liệt nhất nơi máu thịt thương binh và lính mới nối nhau vượt sông. Giữa bãi pháo, hình ảnh dòng sông máu hiện lên bi tráng, xác người, xác thuyền bập bềnh, những người lính vượt sông mang theo thương tích hoặc hy vọng.
Sự hy sinh của Hải khiến không khí trong tiểu đội nặng trĩu. Cường chìm trong im lặng. Anh không khóc, không gào thét nhưng đôi mắt đục mờ vì nỗi đau. Hải không chỉ là người đồng đội mà còn là một phần ký ức, một người bạn thân từng chia sẻ những suy nghĩ sâu kín nhất về chiến tranh, lý tưởng và cả khát khao được công nhận.
Tại trận đánh giáp lá cà trong thành cổ, những binh lính tinh nhuệ của địch bị đánh trả quyết liệt. Dù có ưu thế về vũ khí và thể lực, chúng vẫn không thể áp đảo được những người lính với tinh thần chiến đấu như lửa. Tiểu đội của Cường thương vong nặng. Các chiến sĩ trẻ hy sinh khi chưa kịp sống trọn một đời, nhưng họ đã sống trọn một lý tưởng.
Cường và đồng đội bất ngờ gặp đoàn thương binh nối dài như một đoàn âm binh máu me, thương tích đầy mình. Bác sĩ Lê, người đã quen Cường từ trước chia sẻ nỗi ám ảnh về số phận thương binh chất chồng trong hầm cứu thương khiến Cường rùng mình. Đã là ngày thứ ba mươi, con số kinh hoàng của một trận chiến kéo dài liên tục. Thành cổ trụ được là nhờ hệ thống cống ngầm.
Bình, chàng họa sĩ trẻ bị thương nặng nhưng vẫn ngồi lặng lẽ vẽ bức tranh cuối cùng bằng chính máu mình, không phải bằng cọ mà bằng chính ngón tay rớm máu đỏ. Anh cố lưu lại dấu tích của sự sống, của tình đồng đội và một thời tuổi trẻ rực lửa. Không do dự, Bình ôm bộc phá lao vào ổ đại liên, một cảnh tượng đau đớn mà rực rỡ như chính số phận của anh và đồng đội.
Thành cổ Quảng Trị trở thành nấm mộ tập thể của những người lính tuổi đôi mươi. Cường, Bình và Tạ giờ chỉ còn là những cái bóng sống sót trong địa ngục có thật. Họ di chuyển trong đường hầm sạt lở, ăn cơm mốc, ngủ cạnh xác bạn nhưng không ai chịu rời trận điện. Khi được lệnh rút, họ xin ở lại.
Tình hình tiếp tế càng trở nên khó khăn khi quân Sài Gòn siết chặt vòng vây. Nhiều nữ thanh niên xung phong, trong đó có Hồng, vẫn lặng lẽ bám trụ đưa từng khẩu phần cơm, từng viên đạn vào trận địa. Cô gặp lại Cường trong một lần đưa thương binh ra sông. Cả hai có những phút giây lặng thầm ngắn ngủi và từ đây nảy sinh thứ tình cảm vừa e ấp vừa kiên cường.
Câu chuyện mở đầu bằng cuộc gặp giữa Tư lệnh Vũ Thành và Cường, chàng sinh viên Hà Nội tình nguyện vào chiến trường. Tư lệnh xúc động khi nhận ra Cường giống cha mình, một cán bộ cách mạng kỳ cựu, và khuyên anh chuyển sang công tác tuyên huấn. Nhưng Cường quyết định xin được trực tiếp ra chiến hào, giữ trọn mong muốn trở thành người lính thực thụ.
Chiến sự ác liệt nổ ra tại khu vực cửa Ái Tử và thị xã Quảng Trị. Pháo từ các chiến hạm Mỹ ngoài khơi cùng với đạn pháo từ các cao điểm đổ xuống dồn dập khiến thị xã chìm trong khói lửa. Một dòng người di tản hỗn loạn, bế bồng, gồng gánh giữa tiếng kêu khóc, máu đổ thân người tung lên quần quật.
Giữa những giờ khắc ngưng bặt của chiến tranh, tiểu đội của Cường ngồi bên nồi măng nấu thịt rừng bên bờ sông ăn bữa cơm có thể là tươi cuối cùng trước khi vào trận. 6 người lính thuộc đủ thành phần ba miền lần lượt giới thiệu tên tuổi, quê quán và hoàn cảnh của mình. Họ cùng nhau chia sẻ bữa ăn, chén rượu kết nghĩa bên sông, coi như lời thề sống chết có nhau trước giờ vượt sông sang chiến trường.
Đặng Huy Cường, một thanh niên Hà Nội vừa học nhạc vừa luyện võ. Anh chuẩn bị lên đường nhập ngũ theo lệnh tổng động viên. Dù đang là sinh viên nhạc viện với tương lai rộng mở, Cường vẫn chọn con đường ra trận mang theo lý tưởng về tình yêu đất nước.