POPULARITY
durée : 00:02:47 - Les fables de José
Les "Fables" de La Fontaine analysées et commentées par Patrick Dandrey, l'un de meilleurs spécialistes de l'oeuvre de cet auteur du XVIIe siècle. Un podcast de France Télévisions, en partenariat avec l'académie de Paris. Par Nicolas Luiset
Les "Fables" de La Fontaine analysées et commentées par Patrick Dandrey, l'un de meilleurs spécialistes de l'oeuvre de cet auteur du XVIIe siècle. Episode 1/2. Un podcast de France Télévisions, en partenariat avec l'académie de Paris. Par Nicolas Luiset
Les "Fables" de La Fontaine analysées et commentées par Patrick Dandrey, l'un de meilleurs spécialistes de l'oeuvre de cet auteur du XVIIe siècle. Episode 2/2. Un podcast de France Télévisions, en partenariat avec l'académie de Paris. Par Nicolas Luiset
Les "Fables" de La Fontaine analysées et commentées par Patrick Dandrey, l'un de meilleurs spécialistes de l'oeuvre de cet auteur du XVIIe siècle. Un podcast de France Télévisions, en partenariat avec l'académie de Paris. Par Nicolas Luiset
Năm 2022, đại văn hào Pháp Molière tròn 400 tuổi và cũng đánh dấu 102 năm vở kịch nói đầu tiên được diễn tại Việt Nam. Vở hài kịch Bệnh tưởng (Le Malade imaginaire) của Molière, được ông Nguyễn Văn Vĩnh (15/06/1882 - 02/05/1936) dịch trước đó, đã được diễn tại Hà Nội ngày 25/04/1920, mở đường hình thành nghệ thuật kịch nói ở Việt Nam. Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ trở thành công cụ nhanh nhất và hiệu quả nhất để du nhập những kiến thức mới vào Việt Nam và Nguyễn Văn Vĩnh ý thức rõ được điều này. Cùng với nhiều học giả đương thời (Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố trong “Tứ Hổ Tràng An”), Nguyễn Văn Vĩnh tìm thấy trong văn học Pháp nguồn khai thác vô hạn để làm giầu văn học Việt Nam, cũng như để khuyến khích người dân học quốc ngữ, mà ông từng khẳng định : “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ quốc ngữ !”Chọn hài kịch để dễ phổ biến chữ quốc ngữ Sau thời gian đầu chọn những tác phẩm kinh điển của Pháp để dịch sang tiếng Việt, như những tiểu luận của Rousseau (Du contrat social - Bàn về khế-ước xã-hội), Montesquieu (L'Esprit des Lois - Vạn-pháp tinh-lý) hoặc Helvétius (Le Traité de l'esprit), Nguyễn Văn Vĩnh hiểu ra rằng những tác phẩm đó quá cao siêu, vượt trình độ của phần đông dân chúng. Ông chuyển hướng dịch những tác phẩm văn học bình dân, dễ hiểu hơn. Và táo bạo hơn, Nguyễn Văn Vĩnh đưa ra ý tưởng “diễn kịch”, một cách để khẳng định khả năng diễn tả của chữ quốc ngữ trong những loại hình nghệ thuật mới.Bệnh tưởng, do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, đã được trình diễn ngày 25/04/1920 tại Nhà hát thành phố (Nhà hát lớn Hà Nội), nhân kỷ niệm một năm ngày thành lập Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA). Phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc (1), giám đốc Viện Nghiên cứu châu Á (IrAsia), đại học Aix-Marseille, phân tích ý nghĩa sự kiện này :“Vở kịch đó có cái hay ở điểm đây là lần đầu tiên một vở kịch, gọi là “thoại kịch”, có nghĩa là kịch nói, chứ không phải hát, được trình diễn. Người diễn mặc trang phục theo kiểu châu Âu, đi lại, nói năng như người bình thường. Ngoài ra, những người diễn không phải là diễn viên chuyên nghiệp, vì lúc đó đâu có diễn viên chuyên nghiệp, cho nên các vai nam đều do các hành viên của Hội Khai-trí tiến-đức diễn. Còn hai vai nữ là mời hai diễn viên ở một đoàn tuồng ở Hà Nội tham gia. Bản thân Nguyễn Văn Vĩnh là người đóng vai ông lang ế, tức là ông bác sĩ ở trong vở kịch đó”.Bệnh tưởng (Le Malade imaginaire) là một trong bốn tác phẩm của Molière được Nguyễn Văn Vĩnh dịch, cùng với Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois gentilhomme), Người biển lận (L'Avare), Giả đạo đức (Tartuffe) và được đăng trên Đông-Dương tạp-chí. Sau đó, bốn tác phẩm này được in trong “Série A” của bộ sưu tập Phổ-thông giáo-khoa-thư xã, xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1916, dưới sự chỉ đạo của François-Henri Schneider để cổ vũ giáo dục (2) và sau này, trong bộ sưu tập Danh văn nước Pháp dịch nôm, phụ bản của báo Trung-Bắc tân-văn trong những năm 1920-1921 tại Hà Nội.Là một người đam mê kịch Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh đã bị những tác phẩm của Molière lôi cuốn vì chúng vừa hài hước vừa mang ý nghĩa dạy dỗ. Lời thoại dễ hiểu, dễ nghe là phương tiện hiệu quả để truyền bá chữ quốc ngữ, khác với lựa chọn lúc đó của học giả Phạm Quỳnh. Phó giáo sư Phương Ngọc giải thích tiếp :“Nguyễn Văn Vĩnh lựa chọn hài kịch, nhất là những vở của Molière là những vở nói về xã hội một cách phê phán, có cái nhìn phê phán, tức là dùng tiếng cười để nói lên những cái xấu, những cái cần phải sửa đổi của xã hội. Còn Phạm Quỳnh không dịch hài kịch. Ông dịch bi kịch, như Le Cid (Lôi-xích) của Corneille chẳng hạn. Theo Phạm Quỳnh, dịch kịch hoặc tiểu thuyết nói chung là phải dịch những tác phẩm có những ý tưởng cao đẹp về Tổ quốc, về yêu nước.Nguyễn Văn Vĩnh thì rất là khác. Ông có tinh thần phê phán xã hội và dùng cái cười để giúp người xem tự phân tích được những cái xấu trong xã hội. Có lẽ hai lựa chọn đó cũng liên quan đến hai cá tính khác nhau bởi vì Nguyễn Văn Vĩnh có rất nhiều bài báo phê phán xã hội Việt Nam thời đó, những cái gọi là “hủ tục”. Về mặt đó, Nguyễn Văn Vĩnh là người rất gần với tư tưởng duy tân. Trong khi đó, Phạm Quỳnh là người hay nói tới “tồn cổ”, tới “quốc hồn, quốc túy”.Kể cả trong cách ăn mặc chẳng hạn, Nguyễn Văn Vĩnh phải nói là người rất là trẻ, rất hiện đại, rất là tân học, mặc com-lê, thắt cà vạt. Còn Phạm Quỳnh mặc áo dài theo kiểu truyền thống. Có thể đó là một cách giải thích. Còn các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về kịch nói có thể đưa ra những phân tích, những giải thích khác, thì ý đó tôi không được biết rõ lắm”.Đưa cái mới để đập tan cổ hủNguyễn Văn Vĩnh đã được tiếp xúc với nghệ thuật kịch nói ngày từ năm 1906, trong chuyến sang Marseille, miền nam Pháp, dự Triển lãm Thuộc địa (Exposition coloniale de Marseille). Trong thư đề ngày 27/06/1906 gửi cho người bạn Phạm Duy Tốn, ông viết : “Đêm qua, Đ. T. Kim và tôi đi xem diễn kịch Le Cid ở nhà hát lớn, đi xem không mất tiền, vì có ông Vierge mời.Sướng quá, nhất là tại lần đầu tôi được đi xem diễn một tích hát cổ điển mà chúng ta chỉ mới được đọc thôi. Cách họ ngâm thơ làm cho ta hiểu thêm cái hay của văn chương, cái cao thượng của tình cảm thường thường người ta không được thấy rõ lắm trong khi đọc sách…” (3)Thất vọng vì hai người bạn đồng hành Đ. T. uể oải, thờ ơ trong buổi diễn nhưng vẫn vờ tán dương, Nguyễn Văn Vĩnh phải thốt lên trong thư : “Người mình bướng quá. Muốn làm cho họ thấy sự tiến bộ, thật là khó quá. Chúng ta không bao giờ chịu nhận chúng ta thua kém các dân tộc khác. Vả lại, nhận tội lỗi của mình, có phải là một sự nhục nhã gì cho cam ! Trong cõi đời này, ai lại chẳng có tính xấu ?... Đối với họ, đem giấu những nết xấu của mình đi, rồi lấy đó làm tính tốt, thế là yêu nước, thế là làm vẻ vang cho nòi giống đó ! ...Muốn có một lớp người khá, muốn có một lớp người hướng dẫn quốc dân vào con đường khoa học, ta phải mong ở lớp người đến sau, ở những bọn thiếu niên bây giờ. Óc họ chưa bị những thành kiến cổ hủ đồi bại ăn sâu đục thủng. Ngồi mà nghĩ rằng tôi sẽ là người đầu tiên để làm cái công việc đó để mà gây lấy một tương lai tốt đẹp đó, tôi sung sướng vô cùng. Cha mẹ, anh em, vợ con, tất cả đều phải nhòa trước tư tưởng đó để nhường chỗ cho một lòng vui thích êm ái nhất…”.Sau 14 năm trăn trở, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện được mong muốn. Ông đưa kịch nói vào Việt Nam. Theo ông, đây là một “loại hình nghệ thuật mượn nhiều nghệ thuật khác”, như sử dụng văn học để đối thoại, cần âm nhạc và múa để diễn tả những cấp độ khác nhau và hội họa, điêu khắc để trang trí. Nhưng điều lớn hơn cả, đó là “mục tiêu của nghệ thuật này là cho thấy vẻ đẹp của bản chất con người và thái độ của họ trong cộng đồng” (4). Phó giáo sư Phương Ngọc phân tích tiếp ý nghĩa của buổi diễn kịch nói đầu tiên :“Cần phải nói là vở kịch đó được diễn ở Nhà hát thành phố, tức là địa điểm văn hóa quan trọng nhất, đẹp nhất tại Hà Nội và tại xứ Đông Dương. Vở kịch Bệnh tưởng, khi được biểu diễn ngày 25/04/1920 là vào dịp, cũng rất đặc biệt, là để kỉ niệm một năm ngày thành lập Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA), tức là hội gồm những người có tên có tuổi trong xã hội thời đó, do Phạm Quỳnh, lúc đó là chủ nhiệm báo Nam Phong, đứng ra làm chủ tịch hội.Vì thế, sự kiện biểu diễn một vở kịch nước ngoài, dưới một hình thức rất mới, tức là nói chứ không phải là hát, do những người không chuyên biểu diễn, thì đó là một sự kiện văn hóa rất có tiếng vang và rất là mới”.Những lời bình luận tích cực nhanh chóng xuất hiện trên báo chí. Trong bài “Molière chez les Annamites” trên tạp chí La Revue Indochinoise số 5-6 ra tháng 05-06/1920, tác giả M. G. Dufresne “cảm thấy một sức hấp dẫn mới, không có được trong nguyên bản tiếng Pháp - có lẽ không lớn hơn, nhưng với một chất lượng mới” và hoan nghênh sự lựa chọn xác đáng của ông Nguyễn Văn Vĩnh : “Dịch giả hiểu rằng Molière là nguồn kịch Pháp thực thụ, và đối với các nghệ sĩ, hài kịch có nhiều khả năng thành công hơn bị kịch”.Mở đường phát triển cho kịch nói Việt NamÔng Phạm Quỳnh, chủ bút Nam-Phong tạp-chí, coi ngày 25/04/1920 là một ngày không thể quên trong lịch sử của Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA), trong lịch sử sân khấu và văn học Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, Thượng Chi (bút danh của Phạm Quỳnh) đã dành 19 trang trong số 35 của Nam-Phong tạp-chí để giới thiệu “Lịch sử nghề diễn-kịch ở nước Pháp - Bàn về hí-kịch của ông Molière”. Trong lời nói đầu, Phạm Quỳnh viết : “Vả nước ta bây giờ đương giữa lúc muốn sửa-đổi nghề tuồng trong nước, cần phải nên biết lịch-sử và sự-nghiệp các bậc soạn kịch đại-danh như ông Molière”.Nghệ thuật kịch Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, theo phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc :“Buổi trình diễn vở kịch Bệnh tưởng đó có ảnh hưởng rất tới đời sống văn hóa, văn học, cũng như là nghệ thuật sân khấu Việt Nam nói chung. Tại như này : Rõ ràng là phải có vở kịch được biểu diễn tại Nhà hát thành phố, hiện giờ là Nhà hát lớn, năm 1920 thì sau đó, hơn một năm rưỡi sau, vào ngày 22/10/1921, mới có vở kịch Chén thuốc độc do một tác giả người Việt Nam, Vũ Đình Long, viết bằng tiếng Việt, về một đề tài xã hội lúc đó.Chén thuốc độc, trước khi được trình diễn, đã được đăng trên tạp chí Hữu-Thanh, là tạp chí của Hội Bắc-Kỳ Công-Nông-Thương đồng-hội, lúc đó do nhà thơ, nhà văn Tản Đà làm chủ nhiệm. Vở kịch Chén thuốc độc được dàn dựng và trình diễn cũng tại Nhà hát thành phố. Sự kiện sân khấu đó cũng là để kỉ niệm một năm ngày thành lập hội Bắc-Kỳ Công-Nông-Thương đồng-hội. Cũng như trước đó năm 1920, vở kịch Chén thuốc độc có tiếng vang rất lớn và sau đó, có thể nói là kịch nói ở Việt Nam đã được chính thức khai sinh.Có thể nói ngày khai sinh là năm 1920 khi diễn vở kịch Bệnh tưởng hoặc cũng có thể nói là chính thức khai sinh năm 1921 với vở kịch Việt Nam. Theo tôi, cả hai sự kiện đó đều là sự kiện khai sinh ra nghệ thuật sân khấu kịch nói ở Việt Nam”.*****(1) Phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc là dịch giả hai tác phẩm La Belle d'Occident của Huỳnh Thị Bảo Hòa và Le Petit Rêve của Tản Đà, do NXB Decrescenzo phát hành tại Pháp. (2) Corinne Flicker và Nguyễn Phương Ngọc (chủ biên), Théâtres français et vietnamien - Un siècle d'échange (1900-2008) (Kịch Pháp và Việt Nam, một thế kỷ giao lưu (1900-2008), NXB Presses universitaires de Provence, 2014.Nhiều bản dịch khác của Nguyễn Văn Vĩnh ban đầu được đăng trên Đông-Dương tạp-chí, sau đó được xuất bản trong bộ sưu tập này, như Thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn nôm (Les Fables de La Fontaine, 44 truyện), Truyện trẻ con của Perrault tiên-sanh diễn nôm (Les Contes de Perrault), Chàng Gil Blas ở xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane của Lesage), Qui-li-ve du ký (Les Voyages de Gulliver, J. Swift), Tê-lê-mặc phiêu lưu ký (Les Avantures de Télémaque của Fénelon).Ngoài ra, Nguyễn Văn Vĩnh còn dịch nhiều tác phẩm khác : Ba người lính ngự lâm (Les Trois Mousquetaires, Alenxandre Dumas), Mai-nương Lệ-cốt (Manon Lescaut của cha Antoine-François Prévost), Tấm da lừa (La Peau de chagrin, Balzac), Những người khốn khổ (Les Misérables, Victor Hugo), Rabelais (Emile Vayrac), Le Parfum des humanités (Emile Vayrac)… Truyện các danh nhân Hi Lạp La Mã dồi nhau (Les Vies parallèles des hommes illustres de la Grèce et de Rome của Plutarque), Tục-Ca-Lệ (Turcaret, Alain-René Lesage)(3) Vũ Bằng, “Tưởng nhớ một bực thầy : Quan-Thành Nguyễn Văn Vĩnh”, Tạp chí Văn học, số 111, Saigon, 8-31 (tra cứu ngày 06/02/2022).(4) Nguyễn Văn Vĩnh, “Nghề diễn-kịch bên Đại Pháp”, Đông-Dương tạp-chí, số 18 (bản mới).(Tạp chí phát lần đầu ngày 06/12/2022)
Năm 2022, đại văn hào Pháp Molière tròn 400 tuổi và cũng đánh dấu 102 năm vở kịch nói đầu tiên được diễn tại Việt Nam. Vở hài kịch Bệnh tưởng (Le Malade imaginaire) của Molière, được ông Nguyễn Văn Vĩnh (15/06/1882 - 02/05/1936) dịch trước đó, đã được diễn tại Hà Nội ngày 25/04/1920, mở đường hình thành nghệ thuật kịch nói ở Việt Nam. Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ trở thành công cụ nhanh nhất và hiệu quả nhất để du nhập những kiến thức mới vào Việt Nam và Nguyễn Văn Vĩnh ý thức rõ được điều này. Cùng với nhiều học giả đương thời (Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố trong “Tứ Hổ Tràng An”), Nguyễn Văn Vĩnh tìm thấy trong văn học Pháp nguồn khai thác vô hạn để làm giầu văn học Việt Nam, cũng như để khuyến khích người dân học quốc ngữ, mà ông từng khẳng định : “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ quốc ngữ !”Chọn hài kịch để dễ phổ biến chữ quốc ngữ Sau thời gian đầu chọn những tác phẩm kinh điển của Pháp để dịch sang tiếng Việt, như những tiểu luận của Rousseau (Du contrat social - Bàn về khế-ước xã-hội), Montesquieu (L'Esprit des Lois - Vạn-pháp tinh-lý) hoặc Helvétius (Le Traité de l'esprit), Nguyễn Văn Vĩnh hiểu ra rằng những tác phẩm đó quá cao siêu, vượt trình độ của phần đông dân chúng. Ông chuyển hướng dịch những tác phẩm văn học bình dân, dễ hiểu hơn. Và táo bạo hơn, Nguyễn Văn Vĩnh đưa ra ý tưởng “diễn kịch”, một cách để khẳng định khả năng diễn tả của chữ quốc ngữ trong những loại hình nghệ thuật mới.Bệnh tưởng, do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, đã được trình diễn ngày 25/04/1920 tại Nhà hát thành phố (Nhà hát lớn Hà Nội), nhân kỷ niệm một năm ngày thành lập Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA). Phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc (1), giám đốc Viện Nghiên cứu châu Á (IrAsia), đại học Aix-Marseille, phân tích ý nghĩa sự kiện này :“Vở kịch đó có cái hay ở điểm đây là lần đầu tiên một vở kịch, gọi là “thoại kịch”, có nghĩa là kịch nói, chứ không phải hát, được trình diễn. Người diễn mặc trang phục theo kiểu châu Âu, đi lại, nói năng như người bình thường. Ngoài ra, những người diễn không phải là diễn viên chuyên nghiệp, vì lúc đó đâu có diễn viên chuyên nghiệp, cho nên các vai nam đều do các hành viên của Hội Khai-trí tiến-đức diễn. Còn hai vai nữ là mời hai diễn viên ở một đoàn tuồng ở Hà Nội tham gia. Bản thân Nguyễn Văn Vĩnh là người đóng vai ông lang ế, tức là ông bác sĩ ở trong vở kịch đó”.Bệnh tưởng (Le Malade imaginaire) là một trong bốn tác phẩm của Molière được Nguyễn Văn Vĩnh dịch, cùng với Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois gentilhomme), Người biển lận (L'Avare), Giả đạo đức (Tartuffe) và được đăng trên Đông-Dương tạp-chí. Sau đó, bốn tác phẩm này được in trong “Série A” của bộ sưu tập Phổ-thông giáo-khoa-thư xã, xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1916, dưới sự chỉ đạo của François-Henri Schneider để cổ vũ giáo dục (2) và sau này, trong bộ sưu tập Danh văn nước Pháp dịch nôm, phụ bản của báo Trung-Bắc tân-văn trong những năm 1920-1921 tại Hà Nội.Là một người đam mê kịch Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh đã bị những tác phẩm của Molière lôi cuốn vì chúng vừa hài hước vừa mang ý nghĩa dạy dỗ. Lời thoại dễ hiểu, dễ nghe là phương tiện hiệu quả để truyền bá chữ quốc ngữ, khác với lựa chọn lúc đó của học giả Phạm Quỳnh. Phó giáo sư Phương Ngọc giải thích tiếp :“Nguyễn Văn Vĩnh lựa chọn hài kịch, nhất là những vở của Molière là những vở nói về xã hội một cách phê phán, có cái nhìn phê phán, tức là dùng tiếng cười để nói lên những cái xấu, những cái cần phải sửa đổi của xã hội. Còn Phạm Quỳnh không dịch hài kịch. Ông dịch bi kịch, như Le Cid (Lôi-xích) của Corneille chẳng hạn. Theo Phạm Quỳnh, dịch kịch hoặc tiểu thuyết nói chung là phải dịch những tác phẩm có những ý tưởng cao đẹp về Tổ quốc, về yêu nước.Nguyễn Văn Vĩnh thì rất là khác. Ông có tinh thần phê phán xã hội và dùng cái cười để giúp người xem tự phân tích được những cái xấu trong xã hội. Có lẽ hai lựa chọn đó cũng liên quan đến hai cá tính khác nhau bởi vì Nguyễn Văn Vĩnh có rất nhiều bài báo phê phán xã hội Việt Nam thời đó, những cái gọi là “hủ tục”. Về mặt đó, Nguyễn Văn Vĩnh là người rất gần với tư tưởng duy tân. Trong khi đó, Phạm Quỳnh là người hay nói tới “tồn cổ”, tới “quốc hồn, quốc túy”.Kể cả trong cách ăn mặc chẳng hạn, Nguyễn Văn Vĩnh phải nói là người rất là trẻ, rất hiện đại, rất là tân học, mặc com-lê, thắt cà vạt. Còn Phạm Quỳnh mặc áo dài theo kiểu truyền thống. Có thể đó là một cách giải thích. Còn các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về kịch nói có thể đưa ra những phân tích, những giải thích khác, thì ý đó tôi không được biết rõ lắm”.Đưa cái mới để đập tan cổ hủNguyễn Văn Vĩnh đã được tiếp xúc với nghệ thuật kịch nói ngày từ năm 1906, trong chuyến sang Marseille, miền nam Pháp, dự Triển lãm Thuộc địa (Exposition coloniale de Marseille). Trong thư đề ngày 27/06/1906 gửi cho người bạn Phạm Duy Tốn, ông viết : “Đêm qua, Đ. T. Kim và tôi đi xem diễn kịch Le Cid ở nhà hát lớn, đi xem không mất tiền, vì có ông Vierge mời.Sướng quá, nhất là tại lần đầu tôi được đi xem diễn một tích hát cổ điển mà chúng ta chỉ mới được đọc thôi. Cách họ ngâm thơ làm cho ta hiểu thêm cái hay của văn chương, cái cao thượng của tình cảm thường thường người ta không được thấy rõ lắm trong khi đọc sách…” (3)Thất vọng vì hai người bạn đồng hành Đ. T. uể oải, thờ ơ trong buổi diễn nhưng vẫn vờ tán dương, Nguyễn Văn Vĩnh phải thốt lên trong thư : “Người mình bướng quá. Muốn làm cho họ thấy sự tiến bộ, thật là khó quá. Chúng ta không bao giờ chịu nhận chúng ta thua kém các dân tộc khác. Vả lại, nhận tội lỗi của mình, có phải là một sự nhục nhã gì cho cam ! Trong cõi đời này, ai lại chẳng có tính xấu ?... Đối với họ, đem giấu những nết xấu của mình đi, rồi lấy đó làm tính tốt, thế là yêu nước, thế là làm vẻ vang cho nòi giống đó ! ...Muốn có một lớp người khá, muốn có một lớp người hướng dẫn quốc dân vào con đường khoa học, ta phải mong ở lớp người đến sau, ở những bọn thiếu niên bây giờ. Óc họ chưa bị những thành kiến cổ hủ đồi bại ăn sâu đục thủng. Ngồi mà nghĩ rằng tôi sẽ là người đầu tiên để làm cái công việc đó để mà gây lấy một tương lai tốt đẹp đó, tôi sung sướng vô cùng. Cha mẹ, anh em, vợ con, tất cả đều phải nhòa trước tư tưởng đó để nhường chỗ cho một lòng vui thích êm ái nhất…”.Sau 14 năm trăn trở, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện được mong muốn. Ông đưa kịch nói vào Việt Nam. Theo ông, đây là một “loại hình nghệ thuật mượn nhiều nghệ thuật khác”, như sử dụng văn học để đối thoại, cần âm nhạc và múa để diễn tả những cấp độ khác nhau và hội họa, điêu khắc để trang trí. Nhưng điều lớn hơn cả, đó là “mục tiêu của nghệ thuật này là cho thấy vẻ đẹp của bản chất con người và thái độ của họ trong cộng đồng” (4). Phó giáo sư Phương Ngọc phân tích tiếp ý nghĩa của buổi diễn kịch nói đầu tiên :“Cần phải nói là vở kịch đó được diễn ở Nhà hát thành phố, tức là địa điểm văn hóa quan trọng nhất, đẹp nhất tại Hà Nội và tại xứ Đông Dương. Vở kịch Bệnh tưởng, khi được biểu diễn ngày 25/04/1920 là vào dịp, cũng rất đặc biệt, là để kỉ niệm một năm ngày thành lập Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA), tức là hội gồm những người có tên có tuổi trong xã hội thời đó, do Phạm Quỳnh, lúc đó là chủ nhiệm báo Nam Phong, đứng ra làm chủ tịch hội.Vì thế, sự kiện biểu diễn một vở kịch nước ngoài, dưới một hình thức rất mới, tức là nói chứ không phải là hát, do những người không chuyên biểu diễn, thì đó là một sự kiện văn hóa rất có tiếng vang và rất là mới”.Những lời bình luận tích cực nhanh chóng xuất hiện trên báo chí. Trong bài “Molière chez les Annamites” trên tạp chí La Revue Indochinoise số 5-6 ra tháng 05-06/1920, tác giả M. G. Dufresne “cảm thấy một sức hấp dẫn mới, không có được trong nguyên bản tiếng Pháp - có lẽ không lớn hơn, nhưng với một chất lượng mới” và hoan nghênh sự lựa chọn xác đáng của ông Nguyễn Văn Vĩnh : “Dịch giả hiểu rằng Molière là nguồn kịch Pháp thực thụ, và đối với các nghệ sĩ, hài kịch có nhiều khả năng thành công hơn bị kịch”.Mở đường phát triển cho kịch nói Việt NamÔng Phạm Quỳnh, chủ bút Nam-Phong tạp-chí, coi ngày 25/04/1920 là một ngày không thể quên trong lịch sử của Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA), trong lịch sử sân khấu và văn học Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, Thượng Chi (bút danh của Phạm Quỳnh) đã dành 19 trang trong số 35 của Nam-Phong tạp-chí để giới thiệu “Lịch sử nghề diễn-kịch ở nước Pháp - Bàn về hí-kịch của ông Molière”. Trong lời nói đầu, Phạm Quỳnh viết : “Vả nước ta bây giờ đương giữa lúc muốn sửa-đổi nghề tuồng trong nước, cần phải nên biết lịch-sử và sự-nghiệp các bậc soạn kịch đại-danh như ông Molière”.Nghệ thuật kịch Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, theo phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc :“Buổi trình diễn vở kịch Bệnh tưởng đó có ảnh hưởng rất tới đời sống văn hóa, văn học, cũng như là nghệ thuật sân khấu Việt Nam nói chung. Tại như này : Rõ ràng là phải có vở kịch được biểu diễn tại Nhà hát thành phố, hiện giờ là Nhà hát lớn, năm 1920 thì sau đó, hơn một năm rưỡi sau, vào ngày 22/10/1921, mới có vở kịch Chén thuốc độc do một tác giả người Việt Nam, Vũ Đình Long, viết bằng tiếng Việt, về một đề tài xã hội lúc đó.Chén thuốc độc, trước khi được trình diễn, đã được đăng trên tạp chí Hữu-Thanh, là tạp chí của Hội Bắc-Kỳ Công-Nông-Thương đồng-hội, lúc đó do nhà thơ, nhà văn Tản Đà làm chủ nhiệm. Vở kịch Chén thuốc độc được dàn dựng và trình diễn cũng tại Nhà hát thành phố. Sự kiện sân khấu đó cũng là để kỉ niệm một năm ngày thành lập hội Bắc-Kỳ Công-Nông-Thương đồng-hội. Cũng như trước đó năm 1920, vở kịch Chén thuốc độc có tiếng vang rất lớn và sau đó, có thể nói là kịch nói ở Việt Nam đã được chính thức khai sinh.Có thể nói ngày khai sinh là năm 1920 khi diễn vở kịch Bệnh tưởng hoặc cũng có thể nói là chính thức khai sinh năm 1921 với vở kịch Việt Nam. Theo tôi, cả hai sự kiện đó đều là sự kiện khai sinh ra nghệ thuật sân khấu kịch nói ở Việt Nam”.*****(1) Phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc là dịch giả hai tác phẩm La Belle d'Occident của Huỳnh Thị Bảo Hòa và Le Petit Rêve của Tản Đà, do NXB Decrescenzo phát hành tại Pháp. (2) Corinne Flicker và Nguyễn Phương Ngọc (chủ biên), Théâtres français et vietnamien - Un siècle d'échange (1900-2008) (Kịch Pháp và Việt Nam, một thế kỷ giao lưu (1900-2008), NXB Presses universitaires de Provence, 2014.Nhiều bản dịch khác của Nguyễn Văn Vĩnh ban đầu được đăng trên Đông-Dương tạp-chí, sau đó được xuất bản trong bộ sưu tập này, như Thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn nôm (Les Fables de La Fontaine, 44 truyện), Truyện trẻ con của Perrault tiên-sanh diễn nôm (Les Contes de Perrault), Chàng Gil Blas ở xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane của Lesage), Qui-li-ve du ký (Les Voyages de Gulliver, J. Swift), Tê-lê-mặc phiêu lưu ký (Les Avantures de Télémaque của Fénelon).Ngoài ra, Nguyễn Văn Vĩnh còn dịch nhiều tác phẩm khác : Ba người lính ngự lâm (Les Trois Mousquetaires, Alenxandre Dumas), Mai-nương Lệ-cốt (Manon Lescaut của cha Antoine-François Prévost), Tấm da lừa (La Peau de chagrin, Balzac), Những người khốn khổ (Les Misérables, Victor Hugo), Rabelais (Emile Vayrac), Le Parfum des humanités (Emile Vayrac)… Truyện các danh nhân Hi Lạp La Mã dồi nhau (Les Vies parallèles des hommes illustres de la Grèce et de Rome của Plutarque), Tục-Ca-Lệ (Turcaret, Alain-René Lesage)(3) Vũ Bằng, “Tưởng nhớ một bực thầy : Quan-Thành Nguyễn Văn Vĩnh”, Tạp chí Văn học, số 111, Saigon, 8-31 (tra cứu ngày 06/02/2022).(4) Nguyễn Văn Vĩnh, “Nghề diễn-kịch bên Đại Pháp”, Đông-Dương tạp-chí, số 18 (bản mới).(Tạp chí phát lần đầu ngày 06/12/2022)
Lors d'une balade en forêt Tornado se carapate. Les enfants vont remonter sa piste jusqu'à des contrées qu'ils n'auraient jamais pensé visiter un jour.Cette série vous a été racontée par KarineTexier et Arnaud Guillou, avec la participation d'Alice Fraboulet. Enregistrement : Studio Module. Montage, création musicale et sonore : Le Phonarium. Illustration : Yuio. Et moi, Mathieu, j'ai tout écrit et coordonné ! Become a member at https://plus.acast.com/s/les-ptites-histoires. Hébergé par Acast. Visitez acast.com/privacy pour plus d'informations.
Édition spéciale de La vie en BD présentée le jeudi 6 avril, en route vers le 36e Festival Québec BD qui, lui, est présenté du 12 au 16 avril prochains.Pour l'occasion, notre animateur Raymond Poirier reçoit Achdé, autour de son travail des vingt dernières années sur Lucky Luke, édité chez Lucky Comics. Il échange avec Géraldine, autour de sa première BD, Comme des rats, disponible chez Moelle graphik. Aussi, discussion entre cinéma et bande dessinée avec Caroline Lavergne, autour de sa bande dessinée Le Film de Sarah, offerte chez Nouvelle adresse.Des échanges également autour d'événements et d'expositions présentées au Festival : Richard Vallerand pour Géolocaliser l'amour (15 avril au Musée de la civilisation), Caroline Soucy pour Les Fables du ruisseau (16 avril à la Maison de la littérature) et Benoit Duinat, chercheur au Centre de recherche en imagerie numérique et média interactifs (CIMMI) autour de l'exposition en réalité augmentée Une planche autour du monde.
De retour du Pro Tour, on vous a fait un peu mariner, mais on vous apporte du beau contenu ! Pour des raisons d'agenda ce sera aussi notre dernier épisode avant Naples, suivez-nous sur les réseaux ! Outro https://twitter.com/detsportsfan92/status/1621898036203982852?t=OqxOJQW5IbwkiTdpgaNcxg&s=19 Intro par In Uchronia https://www.facebook.com/inuchronia/ https://www.youtube.com/user/inuchronia Art par Bandit https://twitter.com/BanditMTG1 Rejoignez notre discord ! https://discord.gg/VtwSyy9 Twitters : Lino : https://twitter.com/LindrakeMTG Adrien : https://twitter.com/NeirdaF Charles : https://twitter.com/WickedFridge Théau : https://twitter.com/TheauMery Twitchs : Théau : https://www.twitch.tv/inoveletux Charles : https://www.twitch.tv/wickedfridge
durée : 00:03:44 - Le Pourquoi du comment : histoire - par : Gérard Noiriel - Quand la version française des Fables écrites par La Fontaine montre comment fonctionne le processus d'adaptation avec un public étranger
durée : 00:08:33 - L'invité de 6h20 - Julia Sedefdjian, cheffe du restaurant Baieta à Paris, détentrice du titre de plus jeune cheffe étoilée de France, est l'invitée du 6h20. En 2016, à 21 ans, elle avait obtenue une étoile pour le restaurant Les Fables de la Fontaine.
Fan de Raps Contenders et End Of the Weak, M. Dako et son ami Odah lui proposent depuis des années un mélange d'humour, d'improvisation et de rap. Parallèlement à leurs nombreuses scènes en France, ils créent la série "Les Fables d'Odah et Dako", diffusée sur Canal Plus, dont ils sont les protagonistes. Ils sont également capables de développer leurs projets pour le web et de se constituer une solide communauté sur le web. Aujourd'hui, M. Darko est revenu à sa première passion : la musique. Il a commencé le rap à 14 ans. Il s'en est parfois éloigné mais ne l'a jamais lâché. Cette année marquera un tournant avec la sortie de trois EP, plusieurs clips, nombreuses scènes et une présence digitale significative.
durée : 00:02:44 - Le Jardin de Régine - France Bleu Gascogne
durée : 00:03:44 - Le Pourquoi du comment : histoire - par : Gérard Noiriel - Quand la version française des Fables écrites par La Fontaine montre comment fonctionne le processus d'adaptation avec un public étranger
Ce matin, Hugo (qui remplace Elliot) a piégé Vanessa... qui nous a lâché une réponse improbable à la question : "Qui a écrit les fables de la Fontaine ?" Retrouvez Bruno sur Fun Radio avec Bruno Guillon, Christina, Pino, Karina, Maurine, Elliot et Mikka sur Funradio.fr et sur l'application Fun Radio.
durée : 00:51:43 - Répliques - par : Alain Finkielkraut - Conversation autour des Fables de Jean de la Fontaine avec le comédien, Fabrice Luchini - invités : Fabrice Luchini Comédien et acteur
Dans son village au bord de la rivière Atanawé, le petit Yuma voudrait devenir un grand pêcheur. Mais toute la journée, il doit préparer à manger avec sa grand-mère qui lui apprend les ficelles du métier de cuisinier ! Un jour, la pluie tombe, la rivière déborde et inonde la vallée. Pour prouver sa valeur en tant que navigateur, Yuma décide de remonter la rivière pour sauver son village… Des histoires écrites et racontées par Grégoire LOPOUKHINE Réalisation et musique de Léo WESTPHAL Avec : Grégoire CHATAIN Laetitia LEBACQ Marc DUMONTIER Et la participation de : Roman et Melvil BOULIN Ella SCHARFF Théo DEBERGH
Năm 2022, đại văn hào Pháp Molière tròn 400 tuổi và cũng đánh dấu 102 năm vở kịch nói đầu tiên được diễn tại Việt Nam. Vở hài kịch Bệnh tưởng (Le Malade imaginaire) của Molière, được ông Nguyễn Văn Vĩnh (15/06/1882 - 02/05/1936) dịch trước đó, đã được diễn tại Hà Nội ngày 25/04/1920, mở đường hình thành nghệ thuật kịch nói ở Việt Nam. Trong những thập niên đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ trở thành công cụ nhanh nhất và hiệu quả nhất để du nhập những kiến thức mới vào Việt Nam và Nguyễn Văn Vĩnh ý thức rõ được điều này. Cùng với nhiều học giả đương thời (Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố trong “Tứ Hổ Tràng An”), Nguyễn Văn Vĩnh tìm thấy trong văn học Pháp nguồn khai thác vô hạn để làm giầu văn học Việt Nam, cũng như để khuyến khích người dân học quốc ngữ, mà ông từng khẳng định : “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ quốc ngữ !” Chọn hài kịch để dễ phổ biến chữ quốc ngữ Sau thời gian đầu chọn những tác phẩm kinh điển của Pháp để dịch sang tiếng Việt, như những tiểu luận của Rousseau (Du contrat social - Bàn về khế-ước xã-hội), Montesquieu (L'Esprit des Lois - Vạn-pháp tinh-lý) hoặc Helvétius (Le Traité de l'esprit), Nguyễn Văn Vĩnh hiểu ra rằng những tác phẩm đó quá cao siêu, vượt trình độ của phần đông dân chúng. Ông chuyển hướng dịch những tác phẩm văn học bình dân, dễ hiểu hơn. Và táo bạo hơn, Nguyễn Văn Vĩnh đưa ra ý tưởng “diễn kịch”, một cách để khẳng định khả năng diễn tả của chữ quốc ngữ trong những loại hình nghệ thuật mới. Bệnh tưởng, do Nguyễn Văn Vĩnh dịch, đã được trình diễn ngày 25/04/1920 tại Nhà hát thành phố (Nhà hát lớn Hà Nội), nhân kỷ niệm một năm ngày thành lập Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA). Phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc (1), giám đốc Viện Nghiên cứu châu Á (IrAsia), đại học Aix-Marseille, phân tích ý nghĩa sự kiện này : “Vở kịch đó có cái hay ở điểm đây là lần đầu tiên một vở kịch, gọi là “thoại kịch”, có nghĩa là kịch nói, chứ không phải hát, được trình diễn. Người diễn mặc trang phục theo kiểu châu Âu, đi lại, nói năng như người bình thường. Ngoài ra, những người diễn không phải là diễn viên chuyên nghiệp, vì lúc đó đâu có diễn viên chuyên nghiệp, cho nên các vai nam đều do các hành viên của Hội Khai-trí tiến-đức diễn. Còn hai vai nữ là mời hai diễn viên ở một đoàn tuồng ở Hà Nội tham gia. Bản thân Nguyễn Văn Vĩnh là người đóng vai ông lang ế, tức là ông bác sĩ ở trong vở kịch đó”. Bệnh tưởng (Le Malade imaginaire) là một trong bốn tác phẩm của Molière được Nguyễn Văn Vĩnh dịch, cùng với Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois gentilhomme), Người biển lận (L'Avare), Giả đạo đức (Tartuffe) và được đăng trên Đông-Dương tạp-chí. Sau đó, bốn tác phẩm này được in trong “Série A” của bộ sưu tập Phổ-thông giáo-khoa-thư xã, xuất bản tại Sài Gòn từ năm 1916, dưới sự chỉ đạo của François-Henri Schneider để cổ vũ giáo dục (2) và sau này, trong bộ sưu tập Danh văn nước Pháp dịch nôm, phụ bản của báo Trung-Bắc tân-văn trong những năm 1920-1921 tại Hà Nội. Là một người đam mê kịch Pháp, Nguyễn Văn Vĩnh đã bị những tác phẩm của Molière lôi cuốn vì chúng vừa hài hước vừa mang ý nghĩa dạy dỗ. Lời thoại dễ hiểu, dễ nghe là phương tiện hiệu quả để truyền bá chữ quốc ngữ, khác với lựa chọn lúc đó của học giả Phạm Quỳnh. Phó giáo sư Phương Ngọc giải thích tiếp : “Nguyễn Văn Vĩnh lựa chọn hài kịch, nhất là những vở của Molière là những vở nói về xã hội một cách phê phán, có cái nhìn phê phán, tức là dùng tiếng cười để nói lên những cái xấu, những cái cần phải sửa đổi của xã hội. Còn Phạm Quỳnh không dịch hài kịch. Ông dịch bi kịch, như Le Cid (Lôi-xích) của Corneille chẳng hạn. Theo Phạm Quỳnh, dịch kịch hoặc tiểu thuyết nói chung là phải dịch những tác phẩm có những ý tưởng cao đẹp về Tổ quốc, về yêu nước. Nguyễn Văn Vĩnh thì rất là khác. Ông có tinh thần phê phán xã hội và dùng cái cười để giúp người xem tự phân tích được những cái xấu trong xã hội. Có lẽ hai lựa chọn đó cũng liên quan đến hai cá tính khác nhau bởi vì Nguyễn Văn Vĩnh có rất nhiều bài báo phê phán xã hội Việt Nam thời đó, những cái gọi là “hủ tục”. Về mặt đó, Nguyễn Văn Vĩnh là người rất gần với tư tưởng duy tân. Trong khi đó, Phạm Quỳnh là người hay nói tới “tồn cổ”, tới “quốc hồn, quốc túy”. Kể cả trong cách ăn mặc chẳng hạn, Nguyễn Văn Vĩnh phải nói là người rất là trẻ, rất hiện đại, rất là tân học, mặc com-lê, thắt cà vạt. Còn Phạm Quỳnh mặc áo dài theo kiểu truyền thống. Có thể đó là một cách giải thích. Còn các nhà nghiên cứu, các chuyên gia về kịch nói có thể đưa ra những phân tích, những giải thích khác, thì ý đó tôi không được biết rõ lắm”. Đưa cái mới để đập tan cổ hủ Nguyễn Văn Vĩnh đã được tiếp xúc với nghệ thuật kịch nói ngày từ năm 1906, trong chuyến sang Marseille, miền nam Pháp, dự Triển lãm Thuộc địa (Exposition coloniale de Marseille). Trong thư đề ngày 27/06/1906 gửi cho người bạn Phạm Duy Tốn, ông viết : “Đêm qua, Đ. T. Kim và tôi đi xem diễn kịch Le Cid ở nhà hát lớn, đi xem không mất tiền, vì có ông Vierge mời.Sướng quá, nhất là tại lần đầu tôi được đi xem diễn một tích hát cổ điển mà chúng ta chỉ mới được đọc thôi. Cách họ ngâm thơ làm cho ta hiểu thêm cái hay của văn chương, cái cao thượng của tình cảm thường thường người ta không được thấy rõ lắm trong khi đọc sách…” (3) Thất vọng vì hai người bạn đồng hành Đ. T. uể oải, thờ ơ trong buổi diễn nhưng vẫn vờ tán dương, Nguyễn Văn Vĩnh phải thốt lên trong thư : “Người mình bướng quá. Muốn làm cho họ thấy sự tiến bộ, thật là khó quá. Chúng ta không bao giờ chịu nhận chúng ta thua kém các dân tộc khác. Vả lại, nhận tội lỗi của mình, có phải là một sự nhục nhã gì cho cam ! Trong cõi đời này, ai lại chẳng có tính xấu ?... Đối với họ, đem giấu những nết xấu của mình đi, rồi lấy đó làm tính tốt, thế là yêu nước, thế là làm vẻ vang cho nòi giống đó ! ... Muốn có một lớp người khá, muốn có một lớp người hướng dẫn quốc dân vào con đường khoa học, ta phải mong ở lớp người đến sau, ở những bọn thiếu niên bây giờ. Óc họ chưa bị những thành kiến cổ hủ đồi bại ăn sâu đục thủng. Ngồi mà nghĩ rằng tôi sẽ là người đầu tiên để làm cái công việc đó để mà gây lấy một tương lai tốt đẹp đó, tôi sung sướng vô cùng. Cha mẹ, anh em, vợ con, tất cả đều phải nhòa trước tư tưởng đó để nhường chỗ cho một lòng vui thích êm ái nhất…”. Sau 14 năm trăn trở, Nguyễn Văn Vĩnh đã thực hiện được mong muốn. Ông đưa kịch nói vào Việt Nam. Theo ông, đây là một “loại hình nghệ thuật mượn nhiều nghệ thuật khác”, như sử dụng văn học để đối thoại, cần âm nhạc và múa để diễn tả những cấp độ khác nhau và hội họa, điêu khắc để trang trí. Nhưng điều lớn hơn cả, đó là “mục tiêu của nghệ thuật này là cho thấy vẻ đẹp của bản chất con người và thái độ của họ trong cộng đồng” (4). Phó giáo sư Phương Ngọc phân tích tiếp ý nghĩa của buổi diễn kịch nói đầu tiên : “Cần phải nói là vở kịch đó được diễn ở Nhà hát thành phố, tức là địa điểm văn hóa quan trọng nhất, đẹp nhất tại Hà Nội và tại xứ Đông Dương. Vở kịch Bệnh tưởng, khi được biểu diễn ngày 25/04/1920 là vào dịp, cũng rất đặc biệt, là để kỉ niệm một năm ngày thành lập Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA), tức là hội gồm những người có tên có tuổi trong xã hội thời đó, do Phạm Quỳnh, lúc đó là chủ nhiệm báo Nam Phong, đứng ra làm chủ tịch hội. Vì thế, sự kiện biểu diễn một vở kịch nước ngoài, dưới một hình thức rất mới, tức là nói chứ không phải là hát, do những người không chuyên biểu diễn, thì đó là một sự kiện văn hóa rất có tiếng vang và rất là mới”. Những lời bình luận tích cực nhanh chóng xuất hiện trên báo chí. Trong bài “Molière chez les Annamites” trên tạp chí La Revue Indochinoise số 5-6 ra tháng 05-06/1920, tác giả M. G. Dufresne “cảm thấy một sức hấp dẫn mới, không có được trong nguyên bản tiếng Pháp - có lẽ không lớn hơn, nhưng với một chất lượng mới” và hoan nghênh sự lựa chọn xác đáng của ông Nguyễn Văn Vĩnh : “Dịch giả hiểu rằng Molière là nguồn kịch Pháp thực thụ, và đối với các nghệ sĩ, hài kịch có nhiều khả năng thành công hơn bị kịch”. Mở đường phát triển cho kịch nói Việt Nam Ông Phạm Quỳnh, chủ bút Nam-Phong tạp-chí, coi ngày 25/04/1920 là một ngày không thể quên trong lịch sử của Hội Khai-trí tiến-đức (AFIMA), trong lịch sử sân khấu và văn học Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, Thượng Chi (bút danh của Phạm Quỳnh) đã dành 19 trang trong số 35 của Nam-Phong tạp-chí để giới thiệu “Lịch sử nghề diễn-kịch ở nước Pháp - Bàn về hí-kịch của ông Molière”. Trong lời nói đầu, Phạm Quỳnh viết : “Vả nước ta bây giờ đương giữa lúc muốn sửa-đổi nghề tuồng trong nước, cần phải nên biết lịch-sử và sự-nghiệp các bậc soạn kịch đại-danh như ông Molière”. Nghệ thuật kịch Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, theo phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc : “Buổi trình diễn vở kịch Bệnh tưởng đó có ảnh hưởng rất tới đời sống văn hóa, văn học, cũng như là nghệ thuật sân khấu Việt Nam nói chung. Tại như này : Rõ ràng là phải có vở kịch được biểu diễn tại Nhà hát thành phố, hiện giờ là Nhà hát lớn, năm 1920 thì sau đó, hơn một năm rưỡi sau, vào ngày 22/10/1921, mới có vở kịch Chén thuốc độc do một tác giả người Việt Nam, Vũ Đình Long, viết bằng tiếng Việt, về một đề tài xã hội lúc đó. Chén thuốc độc, trước khi được trình diễn, đã được đăng trên tạp chí Hữu-Thanh, là tạp chí của Hội Bắc-Kỳ Công-Nông-Thương đồng-hội, lúc đó do nhà thơ, nhà văn Tản Đà làm chủ nhiệm. Vở kịch Chén thuốc độc được dàn dựng và trình diễn cũng tại Nhà hát thành phố. Sự kiện sân khấu đó cũng là để kỉ niệm một năm ngày thành lập hội Bắc-Kỳ Công-Nông-Thương đồng-hội. Cũng như trước đó năm 1920, vở kịch Chén thuốc độc có tiếng vang rất lớn và sau đó, có thể nói là kịch nói ở Việt Nam đã được chính thức khai sinh. Có thể nói ngày khai sinh là năm 1920 khi diễn vở kịch Bệnh tưởng hoặc cũng có thể nói là chính thức khai sinh năm 1921 với vở kịch Việt Nam. Theo tôi, cả hai sự kiện đó đều là sự kiện khai sinh ra nghệ thuật sân khấu kịch nói ở Việt Nam”. ***** (1) Phó giáo sư Nguyễn Phương Ngọc là dịch giả hai tác phẩm La Belle d'Occident của Huỳnh Thị Bảo Hòa và Le Petit Rêve của Tản Đà, do NXB Decrescenzo phát hành tại Pháp. (2) Corinne Flicker và Nguyễn Phương Ngọc (chủ biên), Théâtres français et vietnamien - Un siècle d'échange (1900-2008) (Kịch Pháp và Việt Nam, một thế kỷ giao lưu (1900-2008), NXB Presses universitaires de Provence, 2014. Nhiều bản dịch khác của Nguyễn Văn Vĩnh ban đầu được đăng trên Đông-Dương tạp-chí, sau đó được xuất bản trong bộ sưu tập này, như Thơ ngụ ngôn La Fontaine diễn nôm (Les Fables de La Fontaine, 44 truyện), Truyện trẻ con của Perrault tiên-sanh diễn nôm (Les Contes de Perrault), Chàng Gil Blas ở xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane của Lesage), Qui-li-ve du ký (Les Voyages de Gulliver, J. Swift), Tê-lê-mặc phiêu lưu ký (Les Avantures de Télémaque của Fénelon). Ngoài ra, Nguyễn Văn Vĩnh còn dịch nhiều tác phẩm khác : Ba người lính ngự lâm (Les Trois Mousquetaires, Alenxandre Dumas), Mai-nương Lệ-cốt (Manon Lescaut của cha Antoine-François Prévost), Tấm da lừa (La Peau de chagrin, Balzac), Những người khốn khổ (Les Misérables, Victor Hugo), Rabelais (Emile Vayrac), Le Parfum des humanités (Emile Vayrac)… Truyện các danh nhân Hi Lạp La Mã dồi nhau (Les Vies parallèles des hommes illustres de la Grèce et de Rome của Plutarque), Tục-Ca-Lệ (Turcaret, Alain-René Lesage) (3) Vũ Bằng, “Tưởng nhớ một bực thầy : Quan-Thành Nguyễn Văn Vĩnh”, Tạp chí Văn học, số 111, Saigon, 8-31 (tra cứu ngày 06/02/2022). (4) Nguyễn Văn Vĩnh, “Nghề diễn-kịch bên Đại Pháp”, Đông-Dương tạp-chí, số 18 (bản mới).
Dans ce cinquante-neuvième épisode, nous allons parler des Fables de la Fontaine. Tout petit Français connait les Fables de la Fontaine. On les apprends à l'école et des années plus tard, on s'en souvient. C'est vraiment quelque chose qui fait partie de la culture française
“Gustave Moreau“ Les Fables de La Fontaineau Musée national Gustave Moreau, Parisdu 27 octobre 2021 au 28 février 2022Interview de Dominique Lobstein, historien de l'art et co-commissaire de l'exposition, par Anne-Frédérique Fer, à Paris, le 25 octobre 2021, durée 15'31. © FranceFineArt.Texte Sylvain SilleranAprès avoir admiré depuis juin les études, les esquisses, les animaux croqués au jardin des Plantes, notre patience est enfin récompensée par la deuxième partie de cette exposition : les aquarelles de Gustave Moreau illustrant, pour Anthony Roux, les Fables de La Fontaine. Et quelles aquarelles ! Légères et aériennes, floues et poudreuses, d'une transparence de voile, elles deviennent denses, d'une noirceur d'orage, lourdes comme de l'huile. La lumière qui fait étinceler les ors façonne la glaise sanguine, terrienne, finit absorbée par des silhouettes d'encre noire et grasse.Moreau mélange tout, les époques et les influences. Les fantasmes indolents de l'Orient, les toits d'une ville des Mille et une nuits rencontrent les mythes indiens, ses princes à dos d'éléphant. Au loin des pics rocheux bleutés se perdent dans un sfumato toscan. Des héros rembrandtiens émergent dans des intérieurs sombres, des pièces sans fond. Ici, une fenêtre ouverte laisse entrer la lumière et la vie, le divin comme chez Vermeer. Le renard et ses raisins trop verts se trouvent dans la campagne anglaise, celle si charmante, délicatement gravée par George Morland. Le gai monde rural si sensuel du XVIIIème siècle du coche et de la mouche devient une terre grave et orageuse, biblique, celle qui emporte les rêves de Perrette et de son pot au lait.Au-dessus du paysan du Danube la statue de Romulus et Rémus, la louve de Rome est tigrée d'or et de bleu. Sa gueule ouverte et grimaçante ressemble à la Bocca della Verità, défiant le lecteur d'y glisser sa main. Il y a dans ces illustrations mille références, mille petits éléments livrant à qui le veut leurs secrets plus ou moins dissimulés. Au dessus d'une ruine romantique, d'un étang ou d'un paysage de la Renaissance, les ciels offrent une diversité musicale d'humeurs, de sentiments. Celui du Lion et du Moucheron est un feu doré menaçant de consumer un arbre de rouille. Un autre est un drapé turquoise ; celui-ci est gris de bord de mer flamand, celui-là est un crépuscule sinistre annonciateur de peste. Le rose se reflète sur la mer, en fait une plaine que contemple un berger. Des sommets alpins se découpent au loin sur un firmament bleuté, animal.Moreau, plus qu'il n'interprète, se place dans une temporalité, choisit non la morale mais le récit, se place au centre des vers de La Fontaine. Le coq dans l'encadrement de la porte se retrouve hors de la scène qui se joue, il s'éloigne déjà, droit et fier, sort de l'histoire du coq et la perle au moment où se joue son deuxième acte. Les chevaux de l'attelage de Phoebus, transpirants, furieux, les yeux exorbités, sont bien ceux qui racontent la fable. Le drame de Perrette se déroule sur le paysage derrière elle, l'horizon assombri par l'adieu aux veaux, vache, cochons. Le rat des villes gras et repu, appuyé à une aiguière d'or, oppose sa fastueuse et opulente insouciance à la vivacité de son cousin des champs.C'est dans ces petits détails que vivent les fables : dans ce héron s'enfuyant au ras de l'étang dans le Chêne et le Roseau qui souligne la violence de l'orage, dans cette minuscule souris grise fuyant la Femme métamorphosée en Chatte. Gustave Moreau livre de merveilleux petits tableaux. Les fables deviennent des pièces de théâtre, des opéras. La plume, la mine, le pinceau lui offrent plus qu'ailleurs une liberté, et l'ivresse qui l'accompagne.Commissariat : Marie-Cécile Forest / Dominique Lobstein / Samuel Mandin Voir Acast.com/privacy pour les informations sur la vie privée et l'opt-out.
durée : 00:02:39 - Agenda spectacles soir FB Normandie (Caen) - Un spectacle programmé par la Scène Nationale 61 jeudi 21 octobre à 20h et vendredi 22 octobre à 19h30 au Théâtre.
Les apparences sont souvent trompeuses, et rien n'est plus humain que de vouloir faire croire à nos semblables que nous sommes au sommet de notre forme ou de notre succès. Plusieurs d'entre vous connaissent certainement cet adage « Fake it till you make it ». Bien que cette croyance puisse nous propulser et nous faire agir, elle peut aussi devenir rapidement un piège. Depuis l'avènement des médias sociaux, j'ai l'impression que cette loi de l'égo, qui se traduit en battage publicitaire ou en surexposition sur les médias sociaux et dans les médias traditionnels, s'est malheureusement généralisée du côté de nos influenceurs et personnalités qui ont acquis leur notoriété sur le Web. Plusieurs d'entre eux se présentent en permanence dans des décors de rêve, de voyage ou parés de vêtements luxueux. Je comprends qu'ils tentent de nous faire rêver, mais s'ils influencent réellement leurs abonnés, je soupçonne que plusieurs d'entre eux finissent par se sentir déprimés à force de comparer leur propre vie qui peut sembler peu reluisante lorsque l'on voit le faste et le clinquant que nous présentent en continu certains influenceurs. Mais le « hype » (battage publicitaire), qui se rapproche aussi de la propagande, ne date pas d'hier si l'on se fie aux *fables de Lafontaine écrites entre 1668 et 1694. La Fontaine y fait allusion aux courtisans hypocrites qui voulaient obtenir les faveurs du roi. Ces fables sont enseignées aux enfants, mais sont aussi très utiles aux adultes… Les milliardaires partent à la conquête de l'espace Le parfait « hype » ces temps-ci concerne le tourisme de l'espace. Une bataille entre trois milliardaires, Richard Branson, Jeff Bezos et Elon Musk qui, à tour de rôle, nous présentent leur version du tourisme dans l'espace. Quelle incroyable publicité leur est réservée. Pourtant Bezos n'a passé que quelques minutes en apesanteur avant de redescendre sur terre. On parle ici d'une nouvelle industrie qui n'existe pas encore… Quant à Virgin Galactic et Blue Origin, elles obtiennent une visibilité mondiale qu'elles ne pourraient se payer sans la renommée de leur patron respectif. C'est ici un parfait exemple de la loi de l'égo, la loi du « hype » décrite par nos amis américains. Et pour nous les francophones, il s'agit d'un très grand battage publicitaire que ne peuvent s'offrir des entreprises à l'égo plus discret… Consultation gratuite. Inscrivez-vous sur nos listes pour obtenir toute information pertinente : www.natapr.com. *Les Fables choisies, mises en vers par M. de La Fontaine, appelées simplement Fables de La Fontaine, sont trois recueils regroupant deux cent quarante-trois fables allégoriques publiées par Jean de La Fontaine entre 1668 et 1694. La plupart, inspirées des fables d'Ésope, Babrius et Phèdre, mettent en scène des animaux anthropomorphes et contiennent une morale explicite (présentée au début ou à la fin du poème) ou implicite.
durée : 00:55:00 - Les Nuits de France Culture - par : Philippe Garbit, Albane Penaranda, Mathilde Wagman - Par Alain Finkielkraut - Avec Fabrice Luchini - Réalisation Didier Lagarde - réalisation : Virginie Mourthé
Jean de La Fontaine, né le 8 juillet 1621 à Château-Thierry et mort le 13 avril 1695 à Paris, est un poète français de grande renommée, principalement pour ses Fables et dans une moindre mesure pour ses contes. On lui doit également des poèmes divers, des pièces de théâtre et des livrets d'opéra qui confirment son ambition de moraliste. Proche de Nicolas Fouquet, Jean de La Fontaine reste à l'écart de la cour royale mais fréquente les salons comme celui de Madame de La Sablière et malgré des oppositions, il est reçu à l'Académie française en 1684. Mêlé aux débats de l'époque, il se range dans le parti des Anciens dans la fameuse Querelle des Anciens et des Modernes. C'est en effet en s'inspirant des fabulistes de l'Antiquité gréco-latine et en particulier d'Ésope, qu'il écrit les Fables qui font sa renommée. Le premier recueil qui correspond aux livres I à VI des éditions actuelles est publié en 1668, le deuxième (livres VII à XI) en 1678, et le dernier (livre XII actuel) est daté de 1694. Le brillant maniement des vers et la visée morale des textes, beaucoup plus complexes qu'il n'y paraît à la première lecture, ont déterminé le succès de cette œuvre à part et les Fables de La Fontaine sont toujours considérées comme un des plus grands chefs-d'œuvre de la littérature française. Le fabuliste a éclipsé le conteur d'autant que le souci moralisant a mis dans l'ombre les contes licencieux publiés entre 1665 et 1674. Les Fables choisies, mises en vers par M. de La Fontaine, appelées simplement Fables de La Fontaine, sont trois recueils regroupant deux cent quarante trois fables allégoriques publiés par Jean de La Fontaine entre 1668 et 1694. La plupart, inspirées des fables d'Ésope, Babrius et Phèdre, mettent en scène des animaux anthropomorphes et contiennent une morale explicite (présentée au début ou à la fin du poème) ou implicite. L'auteur y invente un genre en rupture avec les traditions ésopique, évangélique et humaniste, où le style et l'esprit plus que le propos se veulent didactiques. Modèle du français classique, ces apologues sont utilisés dès le début du xviiie siècle comme support d'enseignement par les jésuites, principal corps enseignant en France jusqu'en 1763, et par les précepteurs familiaux, puis deviennent, sous la Troisième République et jusqu'après-guerre, un incontournable de l'école primaire.
Jean de la Fontaine Le loup et le chien Les Fables de la Fontaine sont le fruit d'un travail colossal. Elles sont composées de trois recueils et douze livres. Leur publication s'étend sur un quart de siècle (1668-1694) et leur composition sur plus de trente années. Recueils de petits poèmes en vers libre comportant une morale, ici il s'agit comme souvent dans les fables d'un récit fictif où La Fontaine utilise des animaux pour corriger les défauts humains. Chaque récit inspire une morale. Le Loup et le Chien présente deux modes de vies opposées, celui du loup qui est libre et celui du chien qui est lui au service de son maître, reprenant ainsi une thématique identique à celle des Anciens (l'opposition entre l'esclavage et la liberté).
Jean de La Fontaine, né le 8 juillet 1621 à Château-Thierry et mort le 13 avril 1695 à Paris, est un poète français de grande renommée, principalement pour ses Fables et dans une moindre mesure pour ses contes. On lui doit également des poèmes divers, des pièces de théâtre et des livrets d'opéra qui confirment son ambition de moraliste. La Cigale et la Fourmi est la première fable du livre I de Jean de La Fontaine située dans le premier recueil des Fables de La Fontaine, édité pour la première fois en mars 1668. Les vers sont en heptasyllabes. Il s'agit d'une réadaptation d'une fable d'Ésope qui a inspiré d'autres auteurs. La Fontaine a pris connaissance de la version d'Ésope à travers les travaux d'Aphthonios. Cette fable, très connue de générations d'écoliers, est celle qui a fait l'objet du plus grand nombre de commentaires, d'autant que La Fontaine ne prend pas parti et que la morale conclusive n'est pas explicitée1. L'absence de morale permet à La Fontaine de valoriser l'un et l'autre des personnages en renvoyant dos à dos l'esprit matérialiste et individualiste de la fourmi à l'ordre aristocratique incarné par la cigale2. une lecture attentive laisse deviner la bienveillance de La Fontaine à l'égard de la Cigale, Jean-Jacques Rousseau déconseillait de l'apprendre aux enfants, la considérant comme ambiguë et trop difficile à interpréter.
La fable, une des formes de l'apologue, est un récit allégorique, une histoire en vers qui met en scène le plus souvent des animaux pour donner une leçon de morale et Jean de La Fontaine (1621-1695) est un de ces auteurs qui a marqué le XVIIème, siècle du classicisme mais aussi de la censure , avec des fables illustres inspirées des Anciens, d'Esope comme : «Le Loup et l'Agneau». «Le Loup et l'Agneau» est donc une de ces fables, fable 10 extraite du Livre I du recueil écrit par cet auteur en 1668. Le thème de cette fable est de dénoncer les rapports faible/ fort, de dénoncer la violence, l'injustice qui sont exercées au nom de la raison par le pouvoir.
Le Lion et le Rat est la onzième fable du livre II de Jean de La Fontaine situé dans le premier recueil des Fables de La Fontaine, édité pour la première fois en 1668. Les conclusions morales de cette fable sont que On a souvent besoin d'un plus petit que soi et Patience et longueur de temps font plus que force ni que rage. La signification de la fable est: malgré sa royauté, le lion ne peut pas tout faire et le rat peut faire beaucoup plus de choses. Ainsi faut-il se méfier du plus faible ou du plus fort? Et bien il faut mieux douter du plus faible que du plus fort car le plus faible, comme le rat dans cette fable, peut se montrer plus fort. Donc le plus fort, comme le lion dans cette fable, peut cacher son jeu, donc être le plus faible. La Fontaine(1621-1695) a pris texte chez Esope (« Le Lion et le Rat reconnaissant »). Mais Clément Marot (1496-1544), valet de chambre de François Ier, avait déjà écrit une épître portant pour titre « A mon ami Lyon Jamet ». Il est possible que La Fontaine ait voulu rivaliser avec le poète de cour dans un souci de saine émulation.
Jean de La Fontaine, né le 8 juillet 1621 à Château-Thierry et mort le 13 avril 1695 à Paris, est un poète français de grande renommée, principalement pour ses Fables et dans une moindre mesure pour ses contes. On lui doit également des poèmes divers, des pièces de théâtre et des livrets d'opéra qui confirment son ambition de moraliste. Proche de Nicolas Fouquet, Jean de La Fontaine reste à l'écart de la cour royale mais fréquente les salons comme celui de Madame de La Sablière et malgré des oppositions, il est reçu à l'Académie française en 1684. Mêlé aux débats de l'époque, il se range dans le parti des Anciens dans la fameuse Querelle des Anciens et des Modernes. C'est en effet en s'inspirant des fabulistes de l'Antiquité gréco-latine et en particulier d'Ésope, qu'il écrit les Fables qui font sa renommée. Le premier recueil qui correspond aux livres I à VI des éditions actuelles est publié en 1668, le deuxième (livres VII à XI) en 1678, et le dernier (livre XII actuel) est daté de 1694. Le brillant maniement des vers et la visée morale des textes, beaucoup plus complexes qu'il n'y paraît à la première lecture, ont déterminé le succès de cette œuvre à part et les Fables de La Fontaine sont toujours considérées comme un des plus grands chefs-d'œuvre de la littérature française. Le fabuliste a éclipsé le conteur d'autant que le souci moralisant a mis dans l'ombre les contes licencieux publiés entre 1665 et 1674.
Jean de La Fontaine, né le 8 juillet 1621 à Château-Thierry et mort le 13 avril 1695 à Paris, est un poète français de grande renommée, principalement pour ses Fables et dans une moindre mesure pour ses contes. On lui doit également des poèmes divers, des pièces de théâtre et des livrets d'opéra qui confirment son ambition de moraliste. Le Chêne et le Roseau est la vingt-deuxième fable du livre I de Jean de La Fontaine situé dans le premier recueil des Fables de La Fontaine, édité pour la première fois en 1668 Le Chêne un jour dit au Roseau :"Vous avez bien sujet d'accuser la Nature ;Un Roitelet pour vous est un pesant fardeau.Le moindre vent, qui d'aventureFait rider la face de l'eau,Vous oblige à baisser la tête :Cependant que mon front, au Caucase pareil,Non content d'arrêter les rayons du soleil,Brave l'effort de la tempête.Tout vous est Aquilon, tout me semble Zéphyr.Encor si vous naissiez à l'abri du feuillageDont je couvre le voisinage,Vous n'auriez pas tant à souffrir :Je vous défendrais de l'orage ;Mais vous naissez le plus souventSur les humides bords des Royaumes du vent.La nature envers vous me semble bien injuste.- Votre compassion, lui répondit l'Arbuste,Part d'un bon naturel ; mais quittez ce souci.Les vents me sont moins qu'à vous redoutables.Je plie, et ne romps pas. Vous avez jusqu'iciContre leurs coups épouvantablesRésisté sans courber le dos ;Mais attendons la fin. "Comme il disait ces mots,Du bout de l'horizon accourt avec furieLe plus terrible des enfantsQue le Nord eût portés jusque-là dans ses flancs.L'Arbre tient bon ; le Roseau plie.Le vent redouble ses efforts,Et fait si bien qu'il déracineCelui de qui la tête au Ciel était voisineEt dont les pieds touchaient à l'Empire des Morts.
Jean de La Fontaine, né le 8 juillet 1621 à Château-Thierry et mort le 13 avril 1695 à Paris, est un poète français de grande renommée, principalement pour ses Fables et dans une moindre mesure pour ses contes. On lui doit également des poèmes divers, des pièces de théâtre et des livrets d'opéra qui confirment son ambition de moraliste. Proche de Nicolas Fouquet, Jean de La Fontaine reste à l'écart de la cour royale mais fréquente les salons comme celui de Madame de La Sablière et malgré des oppositions, il est reçu à l'Académie française en 1684. Mêlé aux débats de l'époque, il se range dans le parti des Anciens dans la fameuse Querelle des Anciens et des Modernes. C'est en effet en s'inspirant des fabulistes de l'Antiquité gréco-latine et en particulier d'Ésope, qu'il écrit les Fables qui font sa renommée. Le premier recueil qui correspond aux livres I à VI des éditions actuelles est publié en 1668, le deuxième (livres VII à XI) en 1678, et le dernier (livre XII actuel) est daté de 1694. Le brillant maniement des vers et la visée morale des textes, beaucoup plus complexes qu'il n'y paraît à la première lecture, ont déterminé le succès de cette œuvre à part et les Fables de La Fontaine sont toujours considérées comme un des plus grands chefs-d'œuvre de la littérature française. Le fabuliste a éclipsé le conteur d'autant que le souci moralisant a mis dans l'ombre les contes licencieux publiés entre 1665 et 1674. Le Corbeau et le Renard est la deuxième fable du livre I de Jean de La Fontaine situé dans le premier recueil des Fables, édité pour la première fois en 1668. Il existe deux sources à cette fable : la version d'Ésope et celle du fabuliste latin Phèdre. La version de Phèdre a été traduite en français par Sacy en 1647
durée : 00:05:27 - Classic & Co - par : Anna Sigalevitch - Le musicien Valentin Tournet et son ensemble La Chapelle Harmonique ont imaginé un spectacle tout public autour des œuvres de Jean de La Fontaine, dont on célèbre cette année le 400e anniversaire.
Depuis la mise en place du confinement, les réseaux sociaux sont devenus une véritable scène pour les artistes en tout genre. Fabrice Luchini, lui, a jeté son dévolu sur une fable de Jean de La Fontaine...
« La raison du plus fort est toujours la meilleure », « On a souvent besoin d’un plus petit que soi », « Rien ne sert de courir il faut partir à point », « qui est pris qui croyait prendre » ou encore « Aides-toi le Ciel t’aidera » ? Qui peut oublier tous […]
“Zone franche”à l'Institut des Cultures d'Islam, Parisdu 3 février au 1er août 2021Interview de Stéphanie Chazalon, directrice générale de l'Institut des Cultures d'Islam, et de Bérénice Saliou, directrice artistique à l'Institut des Cultures d'Islam et co-commissaire de l'exposition,par Anne-Frédérique Fer, à Paris, le 24 mars 2021, durée 30'51, © FranceFineArt.Extrait du communiqué de presse :commissariat :INSTITUT DES CULTURES D'ISLAM [Paris, France]Co-commissaire et directrice artistique : Bérénice SaliouDOUAL'ART [Douala, Cameroun]Co-commissaire et présidente : Princesse Marilyn Douala Manga BellTHINK TANGER [Tanger, Maroc]Co-commissaires et directeurs artistiques : Hicham Bouzid et Amina Mouridl'Institut des Cultures d'Islam présente l'exposition Zone Franche et le Quartier Général Paris – Goutte d'Or, en partenariat avec Think Tanger et doual'art, dans le cadre de la Saison Africa2020.Edito par Stéphanie Chazalon, Directrice générale de l'ICIZone Franche est une aventure collective, le fruit d'une rencontre entre trois structures artistiques situées au Cameroun, au Maroc et en France, animées par un même désir d'interagir avec le territoire qui les accueille.C'est à partir de ces contextes locaux et des témoignages d'une centaine d'acteurs de proximité – artistes, commerçants, associations – que doual'art, Think Tanger et l'Institut des Cultures d'Islam ont co-créé une exposition prenant la forme d'un espace poétique et symbolique autonome. À rebours de l'enclave qu'elle désigne habituellement, cette Zone Franche explore le mouvement des voyageurs, des marchandises et des imaginaires par-delà les limites matérielles ou invisibles.Pendant six mois, l'Institut des Cultures d'Islam devient également le Quartier Général Paris – Goutte d'Or de la saison Africa2020. La programmation pluridisciplinaire de ce centre culturel panafricain temporaire propose une cinquantaine d'événements mettant à l'honneur les artistes du continent et leur regard sur le monde : contes, concerts, danse, films, conférences, ateliers de pratique artistique et visites thématiques du quartier, sans oublier les ciné-goûters et activités pour le jeune public.Enfin, même si les conditions sanitaires devaient retarder l'ouverture de nos espaces, l'exposition Zone Franche ainsi qu'une partie des rendez-vous du QG, seront à découvrir dès le 3 février sur http://www.ici.parisMalala Andrialavidrazana,Figures 1937, Lignes télégraphiques et sous-marines.Saidou Dicko,La princesse du dimanche,2020. Aquarelle sur papier.Les axes de l'expositionCe(ux) qui traverse(nt) les frontièresPour pénétrer dans Zone Franche, il convient d'abord de changer ses €uros contre des Afros. Utopie artistique imaginée par Mansour Ciss, cette monnaie panafricaine qui circule au sein de l'Institut des Cultures d'Islam, invite d'emblée à questionner les systèmes hérités du colonialisme. Dans cette logique, Malala Andrialavidrazana et Fatiha Zemmouri soulignent le caractère arbitraire de l'outil cartographique, au service de visions du monde divergentes. Jean-David Nkot fait le parallèle entre migrations contemporaines et développement urbain pour repenser la notion de progrès. Saïdou Dicko et Mohamed Arejdal rendent hommage aux peuples nomades du Sahel, en nous interpellant sur la disparition des modes de vie traditionnels. Enfin, Salim Bayri invite les visiteurs à réussir un parcours migratoire vers l'Europe, dans un jeu vidéo plein d'ironie.Dans les interstices de la mondialisationL'exposition interroge des pratiques informelles qui se glissent dans les interstices de la mondialisation, comme autant de mécanismes de survie. Sabrina Belouaar souligne le combat et la résilience des femmes pratiquant la vente à la sauvette de bijoux dans les rues d'Alger. Hicham Gardaf met en évidence l'important phénomène de construction spontanée d'habitats plus ou moins précaires qui se développent aux marges de la ville de Tanger, métamorphosée par un plan d'urbanisation massif. Tandis que Randa Maroufi s'intéresse aux protagonistes d'un important phénomène de contrebande à la frontière du Maroc et de l'Espagne, Mariam Abouzid Souali dénonce le grand jeu de l'oie du capitalisme et pose la question : quand c'est gratuit, c'est qui le produit ?Connexions immatériellesLa troisième partie de l'exposition ouvre le champ des possibles et atteste de l'infinie capacité de l'homme à se réinventer. L'âpreté de l'environnement immédiat s'y dissout au profit d'autres mondes, lointains ou rêvés, comme dans la constellation généalogique tissée par Smaïl Kanouté ou le paysage poétique dessiné par Chourouk Hriech à partir de références à Tanger, Douala et Paris. Chez Salifou Lindou,les objets de culte et les mélodies voyagent, changeant de registres, d'usages et de sens. Un parcours visuel et sonore du Cercle Kapsiki intitulé Les Fables du Calao fait enfin déborder l'exposition dans les rues de Barbès La Goutte d'Or. Les oiseaux colorés perchés ici et là guident le visiteur sur la piste des innombrables langues qui façonnent le quartier, mettant à l'honneur leurs musicalités.Une méthodologie immersive à découvrirPour construire Zone Franche, des workshops ont été organisés à Tanger, Douala et Paris entre novembre 2019 et janvier 2020, réunissant les trois structures partenaires et plus d'une centaine d'acteurs locaux. Cette méthodologie expérimentale et prospective se matérialise dans la dernière partie de l'exposition. Les témoignages d'artistes, écrivains, commerçants ou représentants d'associations engagées dans la production et la diffusion internationale de bien matériels ou immatériels, tissent un réseau numérique de territoires mouvants et interconnectés qui plongent le visiteur dans la dynamique des échanges et des réflexions qui ont nourri le projet.Le parcours dans la ville Les fables du calaoDans le prolongement de l'axe « Connections immatérielles », le parcours visuel et sonore Les fables du calao, déborde des murs de l'ICI pour investir l'espace urbain. Pendant trois mois de résidence, les artistes du Cercle Kapsiki vont à la rencontre des habitants de Barbès-Château Rouge pour mettre à l'honneur la fluidité et la musicalité des langues parlées dans ce quartier, façonné par les flux et les échanges avec le continent africain. Une quinzaine de points d'écoute sont matérialisées par des calaos en résine colorée, perchés dans des lieux emblématiques de la Goutte d'Or. Ce parcours d'une heure à découvrir via une application pour smartphone débute à l'ICI Léon, où des audio guides sont aussi à disposition des visiteurs. Un projet co-produit par l'ICI et le collectif MU dans le cadre d'«Embellir Paris », en partenariat avec la Cité Internationale des Arts et la Villa Belleville. Près d'un tiers des oeuvres de Zone Franche sont des productions inédites, fruit d'un dialogue poussé avec les artistes et d'une volonté de soutien à la création. Voir Acast.com/privacy pour les informations sur la vie privée et l'opt-out.
Les participants à l'atelier Théâtre dirigé par Mercédès Tormo, dans le cadre de l'émission "La voix des textes", nous content deux fables de La Fontaine : Les grenouilles qui demandent un roi, et le gland et la citrouille.
durée : 01:58:14 - Relax ! du lundi 18 janvier 2021 - par : Lionel Esparza - On revient sur la nomination du chef anglais Simon Rattle à la tête de l'Orchestre de la radio bavaroise. On écoute aussi le "Divertimento" de Richard Strauss, d'après l'œuvre de Couperin, ainsi que "Les Fables de La Fontaine" vues par Charles Gounod... Sans oublier notre disque de légende, à 16h ! - réalisé par : Antoine Courtin
durée : 00:04:56 - Le monde d'Elodie - par : Elodie SUIGO - Tous les jours, une personnalité s'invite dans le monde d'Élodie Suigo. Aujourd'hui : Vincent Fernandel, animateur, journaliste spécialisé dans le cinéma, raconteur d’histoires et petit-fils de Fernand Contandin, alias Fernandel. Il publie "Les fables de La Fontaine" aux éditions Fleurus.
durée : 00:06:22 - L'actu des médias - Le petit-fils de Fernandel reprend des grands classiques de notre enfance
Le compositeur Fred Pallem remet au goût du jour les Fables de Jean de la Fontaine. Thomas de Pourquery, Nicole Ferroni, Sandra Nkaké, l’Oiseau Bleu, ou encore Lucien Jean-Baptiste : autant d'artistes que de manières de raconter, non sans une certaine ironie, la musicalité de ces mots d'un autre siècle. Invités :- Fred Pallem et le sacre du tympan, compositeur- Sandra Nkaké, chanteuse et actrice franco-camerounaise.
Entretien avec le metteur en scène Philippe Car. Les Fables, d'après Jean de La Fontaine Du 3 au 7 novembre 2020 au Théâtre du Gymnase (représentations annulées en raison du confinement)
Depuis bientôt trente ans, la maison d’édition Diane de Selliers publie des livres d'art d'une qualité exceptionnelle. Des grands textes de la littérature universelle (La divine comédie de Dante, l’Iliade et l’Odyssée d’Homère) mais aussi des textes spirituels de l’hindouisme, de l'islam ou du christianisme accompagnés d'illustrations méticuleusement sélectionnées. "Chaque livre était un challenge, pour chacun d’entre eux il fallait aller encore plus loin, impressionner encore plus les lecteurs et réaliser quelque-chose de fort, utile et nécessaire", raconte Diane de Selliers, à l'origine de cette maison d'édition, qui a fait le choix de ne publier qu'un livre par an. Dans son autobiographie " Et ainsi le désir me mène ", elle se raconte, sans se cacher cette fois derrière ses livres. "Il y avait le besoin de faire une pause, de transmettre à une équipe plus jeune tout le plaisir de la recherche, de la création, des rencontres et tout ce qui m’avait porté, encouragé, guidé pour réaliser cette collection et peut-être aussi qu’il était temps de me dire qui j’étais… Une manière de commencer à essayer de me connaître". L’amour et la folie "A l’origine de toute création il y a l’amour et la folie", écrivait Jean de la Fontaine. "J’entends cette phrase avec toujours autant d’émerveillement parce que l’amour, c’est quelque chose d’essentiel avec lequel nous devons avancer mais l’amour c’est la folie également . Cette folie, c’est un peu l’envie d’absolu, tout ce qu’on a envie de mettre dedans, qui est énorme, qui nous dépasse et nous donne envie d’aller encore plus loin, ce qui ne peut être fait que dans un esprit d’amour. Cette folie me plaît ". La première publication de Diane de Selliers fut ainsi Les Fables de la Fontaine illustrées par Jean-Baptiste Oudry. Indépendance Née en Belgique il y a un peu plus d’une soixantaine d’années, cinquième d’une fratrie de six, elle raconte combien la littérature l’a toujours accompagnée, "un échappatoire extraordinaire". Jeune, passionnée notamment par Jules Verne, elle partait s’isoler dans la nature ( " la seule façon de lire sans être dérangée "), seule et libre avec son univers. "Je savais déjà que je ne dépendais de personne. C’est une forme d’indépendance dans la vie", raconte cette femme mariée et mère de quatre enfants à qui elle a cherché à transmettre ce goût du beau et de la littérature. Un besoin de transmettre du beau et du sens "Le beau, c’est les images qui accompagnent les livres et le sens que ces images vont aller donner au livre. Et j’ai vraiment choisi dans toute cette collection des livres qui faisaient sens pour moi ». Pour trouver des miniatures indiennes, des représentations de personnages japonais, Diane de Selliers a parcouru le monde, mais aussi les bibliothèques pour des voyages plus intérieurs... Une vie d'éditrice sous le signe de la Sérandipité "La sérandipité, ce sont les hasards heureux. Vous êtes confrontés à telle ou telle expérience de vie, vous voyez telle ou telle chose et tout à coup, il y a quelque-chose qui naît car vous saisissez les signes que vous trouvez dans les circonstances dans lesquelles vous êtes. Je crois que c'est peut-être une des forces de cette collection, c'est d'avoir toujours été réceptive à des intuitions, des mots, des associations, des scènes et des images que tout cela évoquait". Une quête de spiritualité Diane de Selliers a publié des grands textes de l'hindouisme, de l'islam, mais pour elle la spiritualité est présente bien au-delà, et partout dans le monde : "On a tous cet espèce de besoin de transcendance. Il transparaît dans Don Quichotte presque à chaque page, dans Rimbaud ou dans Baudelaire, dans tous les textes d'écrivains qui ont été plus loin qu'eux-mêmes et qui ont cherché à laisser une oeuvre qui leur permet de dépasser la simple condition humaine et de partager un peu d'humanité".
Pour poursuivre la lecture, procurez-vous le livre ici (je touche une "micro" commission) : https://amzn.to/2RJOqdK // Extrait conté par Christelle de http://lafeuilleteuse.com // Pour me soutenir
durée : 00:07:31 - Dans la playlist de France Inter - Matthieu Conquet a de nouvelles musiques à nous faire entendre car en 2020 en dépit de toute circonstances aggravantes, un musicien relève le défi et publie 14 lectures de Jean de La Fontaine.
durée : 00:55:00 - Les Nuits de France Culture - par : Philippe Garbit, Albane Penaranda, Mathilde Wagman - Par Alain Finkielkraut - Avec Fabrice Luchini - Réalisation Didier Lagarde - réalisation : Virginie Mourthé
Voici le 10ème et dernier épisode de la Bande Originale Créative, ta série de l'été sur la créativité. 10 épisodes qui retracent la saison 1 des Racines de la Créativité. Et pour ce 10ème et dernier épisode, nous allons parler d'écriture. Bon, comment te dire que l'écriture et moi, c'est une longue histoire d'amour. Quand on parle écriture, pour moi le top, ce sont Les Fables de la Fontaine. Et après, on baisse le rideau. J'estime que pour bien écrire, tu dois maîtriser la langue, les mots, la syntaxe. Et pour t'en imprégner, ça passe par des mecs qui maîtrisent le game. Dans ce dernier épisode, tu vas découvrir ou redécouvrir : Comment Isabelle Vauché a écrit son premier roman (et pourquoi c'était super simple de l'écrire) La méthode de travail qu'utilise Lucile Gomez pour écrire chacun de ses livres La solution sans fournir plus d'efforts pour écrire un livre sans que tu t'en aperçoives avec Nicolas Brun Comment Hanna Grochocinska travaille avec ses clients en copywriting Comment Marjolaine Revel accompagne ses auteurs à publier leur premier livre Bonne Ecoute ! -- Où retrouver les interviews de mes invités : - Prends le nom de l'invité qui t'intéresse - Va dans la playlist des Racines de la Créativité et repère le podcast avec le nom de l'invité - Clique sur le bouton Play. -- Reçois mes meilleurs stratégies pour créer du contenu facilement dans ma Newsletters "Dans la tête d'un créateur de contenus" : Inscris-toi ici : https://www.subscribepage.com/creatiforganise
Sophie Fontanel nous présente son livre "Les Fables de la Fontanel" paru aux Editions Robert Laffont. La journaliste et auteure nous propose un recueil de poésie plein d’humour et de mordant, dans lequel elle décrypte nos vies intimes et sexuelles. De "l’homme qui en avait une trop petite" à la femme qui utilise Tinder pour ridiculiser ses proies, Sophie Fontanel n’épargne personne…
Avec ses fables, Sophie Fontanel se penche sur notre vie sexuelle. Voici un petit recueil destiné aux adultes, "cru, drôle et sans tabou", avec évidemment une morale pour chaque histoire.
Sophie Fontanel À quoi riment nos vies sexuelles ? Sophie Fontanel nous livre un petit recueil de textes sur l'évolution de nos relations sentimentales et sexuelles à l'époque de Mee too et des réseaux sociaux. Elle est notre invitée ce mercredi ! "Sa vie par procuration » de Myriam Leroy. La journaliste et écrivaine française Sophie Fontanel pour « Les Fables de la Fontanel » (Robert Laffont). La fable de la femme qui voulait que sa bouche ait du génie. La fable de l’homme qui savait simuler aussi bien qu’une femme. La fable de la peau de vache qui était cruelle sur Tinder. La fable du producteur qui croyait vraiment tout possible. La fable de la femme qui rêvait d’un peu de douceur. La fable de l’homme qui saoulait tout le monde avec ses clichés. La fable de la fille qui n’aimait pas qu’on lui présente des garçons. La fable de l’homme mené par son imprévisible engin. La fable de la femme qui en avait par-dessus la tête des fantasmes des autres. La fable de l’homme qui voulait changer ses habitudes. La fable de la jeune doublée par une vieille. La fable de l’homme qui se trompait sur les femmes. La fable de la femme qui voulait rire même au lit. et autres histoires... La « Bagarre » s'agrandit au cinéma et à la littérature et on vous propose aussi un petit quiz musical et de culture générale. Avec Myriam Leroy et Corentin Candi. "Les chansons de ma mère" de Sébastien Ministru : "Quelque chose tient mon coeur" d'Herbert Léonard. Publicité
Avec 113 livres publiés et une cinquantaine d'auteurs représentés, « Continents Noirs » fête ses 20 ans cette année. C’est en janvier 2000 que la prestigieuse maison d'édition Gallimard a lancé cette collection dédiée aux littératures d'Afrique et de la diaspora. Notre Dame du Nil est son plus gros succès à ce jour. Son auteure, la Rwandaise Scholastique Mukasonga, a été couronnée du Renaudot, entre autres prix, en 2012. Voilà vingt ans que la collection « Continents Noirs » de Gallimard est née, à une époque où peu de grands éditeurs s’intéressaient aux écrivains d’Afrique et de la diaspora. Son patron, Jean-Noël Schifano, se souvient. « Amos Tutuola, grand écrivain anglophone, lorsqu’il est mort un an et demi avant la sortie des premiers livres de la collection, il n’y a pas eu une ligne, pas une émission, rien, pour [évoquer] sa mort. Vous voyez dans quel état on était ? “Continents Noirs” a été un propulseur de publication d’écrivains de l’Afrique et de la diaspora. Tous les grands éditeurs se sont précipités ensuite sur ces littératures qu’ils négligeaient. » ► À lire aussi : La littérature, ferment des indépendances africaines Des auteurs comme les autres De fait, nombre de maisons d’édition publient désormais les auteurs d’Afrique comme les autres, et certains des auteurs de « Continents Noirs » ont même préféré depuis quitter la collection, de peur d’être catalogués. Ce n’est pas le cas du Camerounais Eugène Ébodé. Sous cette couverture longtemps caractérisée par une poignée de latérite jetée sur un fond crème, il a fait paraître sept romans, dont un, La Transmission, ressort en Folio. « Certains, au commencement de la collection, avançaient le mot de "ghetto". C’est un vieux débat. Il y a des gens qui peuvent estimer que c’est une collection colorisée ou essentialiste , explique Eugène Ebodé. Puis d’ajouter : Ce n’est pas ce que je pense et je redoute parfois que l’on veuille tout assimiler. Si les lecteurs nous suivent, c’est précisément parce que nous essayons de perpétuer cet appétit qu’ils ont de l’ailleurs, de la diversité du monde. » Retour aux racines Le Togolais Sami Tchak, lui, revient ce mois-ci sous la bannière « Continents Noirs », après un détour par Le Mercure de France et Lattès. Il publie Les Fables du Moineau. Et d’après Jean-Noël Schifano, qui reçoit chaque année quelque 200 ouvrages pour en publier six, c’est l’illustration d’une nouvelle tendance « afro-ascendante » chez les auteurs. « Les auteurs, de plus en plus, trouvent leur inspiration dans leur enfance, dans ce que leurs parents ont vécu “au pays”. Au Togo pour Sami Tchak, c’est le deuxième ou troisième livre qu’il donne avec des dialogues entre son père, la nature, et là avec un moineau. Et ça, c’est très beau », analyse-t-il. En ce premier trimestre 2020 paraîtront aussi deux premiers romans, chez « Continents Noirs ». Car cela reste une des missions de la collection, vingt ans après sa création : comme par le passé avec Nathacha Appanah, ou Théo Ananissoh, il s’agit aussi de révéler de nouvelles plumes. ► À lire aussi : La littérature africaine d’expression française, les années fastes
Comment comprendre le parcours associé à l'oeuvre de La Fontaine, Les Fables et plus particulièrement les livres VII à XI. Soutenez-nous !
durée : 00:03:16 - Jacques Bonnaffé lit la poésie - par : Jacques Bonnaffé - Au fil de la lectures des « Proses qui manquent d’élévation » (mais n’en sont pas dépourvues), paru chez Obsidiane, on revoit passer non sans plaisir la figure du moraliste, finalement un peu paillarde, qu’on attribuait à La Fontaine. - réalisé par : Manoushak Fashahi
MM RADIO vous invite à déjeuner cette semaine chez Les Fables de la Fontaine, avec la très jeune et talentueuse Chef, Julia Sedefjian, l’attentionné maître d’hôtel des lieux Gregory Anelka, et notre invité Foodie, Etienne Biloa, agent d’artistes. Avec Angela Peauty, ils vous présentent ce très bel et sobre établissement 1 étoile dirigé par David Bottreau, de l’art d’accueillir et de présenter un menu, de la cuisine centrée sur les fruits de Mer, et de la jeune équipe qui a transformé Les Fables de la Fontaine. "On est un restaurant spécialisé dans le poisson et fruits de mer depuis bientôt 10 ans," explique Gregoy Anelka. "On a une petite étoile au guide Michelin, et justement, le but de notre démarche, nous en salle, je parle pour les serveurs et les maîtres d'hôtel, c'est vraiment de traduire la cuisine de notre Chef. Donc il faut d'abord l'aimer, parce que c'est difficile de vendre ce qu'on n’aime pas, et on a la chance d'avoir une Chef qui nous fait tout aimer, même ce sur quoi on a des a priori."
Qui ne se souvient pas d’avoir appris une Fable de la Fontaine à l’école? Pour ma part, je me souviens très bien de la Fable que j’avais choisie d’apprendre: le petit poisson et le pêcheur. « Petit poisson deviendra grand, Pourvu que Dieu lui prête vie. Mais le lâcher en attendant, Je tiens pour moi que […] Cet article #31 – Les Fables de la Fontaine est apparu en premier sur Batooba Culture Générale.
Hélas, Hamlett 1977, Les Fables de la Poubelle, Le Casse & Abigail
On 24.05.2006, in Wrocław, we had an unique occasion to see 3 pieces from “les Fables à La Fontaine.” “Les Fables à La Fontaine” is not simply a spectacle but, before being a spectacle, it is first of all a creative project that choreographs a series of “fables” by Jean de la [...]