POPULARITY
Cuộc đảo chính ngày 01/02/2021 làm sụp đổ nền dân chủ non trẻ ở Miến Điện. Tập đoàn quân sự trở lại cầm quyền phải chăng làm Trung Quốc hài lòng ? Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát lưu ý : Giới tướng lĩnh Miến Điện, vốn dĩ là những người mang nặng tư tưởng chủ nghĩa dân tộc cứng rắn, cũng rất nghi ngại thế bá quyền của Trung Quốc. Virus « chuyên chế » lan mạnh tại Đông Nam Á ? Chủ Nhật, ngày 21/02/2021, ba tuần sau cuộc đảo chính, người dân Miến Điện vẫn đông đảo xuống đường biểu tình phản đối quân đội. Khác với những lần trước, cuộc biểu tình hôm Chủ Nhật huy động nhiều thành phần xã hội dân sự, từ công chức, y bác sĩ, sinh viên, cho đến người dân đô thị, nông thôn và cả những người thuộc các sắc tộc thiểu số như Shan, Chin, Kachin, Naga… Làn sóng bất phục tùng dân sự giờ đã vượt qua một bước mới. Sự việc cho thấy giới quân sự đã đánh giá thấp sức mạnh tinh thần của người dân. Tuy nhiên, theo quan sát của nhà nghiên cứu về Đông Nam Á, bà Sophie Boisseau du Rocher, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), trên đài RFI, cuộc đảo chính này còn phản ảnh một sự thật khác đáng quan ngại: « sự lây lan của mô hình chuyên chế Trung Quốc, đang gậm nhấm dần dần vùng Đông Nam Á. Một nhóm nhỏ các nước tự cho mình có một tính chính đáng lịch sử muốn chiếm lấy các chu trình quyền lực nhân danh tính ổn định. Mô hình này chúng ta thấy rõ ở Cam Bốt, Thái Lan và giờ đây là Miến Điện. » Từ quan sát này, phải chăng cuộc đảo chính tại Miến Điện hôm 01/02 là có lợi cho Bắc Kinh ? Thắng lợi của đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (LND) trong cuộc bầu cử lập pháp hồi tháng 11/2020 có thể sẽ còn đưa Miến Điện, dưới sự dìu dắt của bà Aung San Suu Kyi, tiếp bước trêncon đường dân chủ hóa. Điều này có thể đẩy « chính sách đối ngoại của Miến Điện phát triển theo hướng củng cố quan hệ với Washington. (…) Một Miến Điện dân chủ hơn có nguy cơ dẫn đến xung đột hệ tư tưởng với Trung Quốc », như phân tích của ông Wu Qiang, giáo sư khoa học chính trị, từng giảng dạy tại trường đại học Thanh Hoa, với Radio Free Asia. Quân đội Miến Điện và tâm lý « bài người Hoa » Nhưng ông Dominik Mierzejewski, một nhà nghiên cứu Ba Lan, trong một bài viết đăng trên trang mạng của Trung tâm Nghiên cứu châu Á (CAA), trường đại học Lodz, nhận định : Có lẽ sẽ quá vội vã khi cho rằng Trung Quốc đã có được Miến Điện và sẽ dễ dàng hợp tác hiệu quả với tập đoàn quân sự hơn là với chính phủ bán dân chủ của bà Aung San Suu Kyi. Tác giả nhắc lại rằng tâm lý « bài Trung Quốc » có một vị trí khá lớn trong mối quan hệ giữa hai nước do những yếu tố lịch sử, kinh tế và vấn đề quản lý các vùng biên giới. Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà nghiên cứu về Đông Nam Á, David Camroux, CEPI, trường đại học Khoa học Chính trị Paris (Sciences Po), tóm tắt mối quan hệ giữa Trung Quốc với giới tướng lĩnh Miến Điện: « Giới quân sự Miến Điện luôn có thái độ ngờ vực Trung Quốc, và Bắc Kinh cũng không ưa thích gì giới tướng lĩnh Miến Điện. Tuy không rõ nét như Việt Nam, nhưng người Miến Điện có một thái độ nghi kỵ Trung Quốc khá lớn. Mối ngờ vực này được thấy rõ ở việc từ một thập niên nay, giới quân sự Miến Điện mua nhiều vũ khí từ Nga hơn là Trung Quốc. Tôi cho rằng giới tướng lĩnh Miến Điện rất bài Trung Quốc. » Tuy cung cấp đến 50% vũ khí quan trọng cho quân đội Miến Điện trong giai đoạn 2014-2019, cùng lúc Bắc Kinh cũng trang bị khí tài cho các nhóm vũ trang ở các bang miền đông bắc Miến Điện, nổi dậy đòi thành lập các khu tự trị. Tại những vùng nóng bỏng nằm dọc theo biên giới với Trung Quốc, Tatmadaw – tên chính thức của quân đội Miến Điện – chiến đấu từ nhiều thập niên qua chống lại các nhóm sắc tộc nổi dậy, những lãnh chúa buôn thuốc phiện và nạn buôn lậu dưới đủ mọi hình thức. Trong quá khứ, nhiều tướng lĩnh Miến Điện được đào tạo qua các cuộc đối đầu với những nhóm chiến binh được nuôi dưỡng bằng ý thức hệ cộng sản và ít nhiều gì cũng được Bắc Kinh âm thầm hỗ trợ. Nhật báo Pháp Liberation nhắc lại, trong chuyến công du thăm Naypyidaw tháng Giêng năm 2020, Tập Cận Bình đã không thể thuyết phục được giới tướng lĩnh Miến Điện, dù đã phủ nhận việc hậu thuẫn các nhóm nổi dậy. Nhà nghiên cứu Renaud Egreteau, tác giả tập sách Lịch sử Miến Điện đương đại (nhà xuất bản Fayard), từng nhận định Tatmadaw, đôi khi mang tư tưởng biệt lập và lo lắng cho việc bảo vệ những cổ phần béo bở trong các tập đoàn nhà nước, luôn cố gắng không bắt tay với Trung Quốc, thậm chí còn thanh trừng các thành phần thân Trung Quốc trong hàng ngũ của mình. Trung Quốc : « Quân đội Miến Điện tham lam và là một đối tác tồi » Giờ đây cuộc đảo chính này khiến Trung Quốc lo ngại. Năm năm gần đây, Bắc Kinh đã có mối quan hệ hữu hảo với chính phủ dân sự Aung San Suu Kyi và đầu tư khá nhiều vào các dự án cơ sở hạ tầng nằm trong chương trình Con đường Tơ lụa mới tại Miến Điện. Đặc biệt là dự án thiết lập đặc khu kinh tế với một cảng biển nước sâu, nhà máy điện, đường xá và các tuyến đường sắt. Trung Quốc đầu tư nhiều tỷ đô la vào dự án hành lang kinh tế Miến Điện – Trung Quốc, cho phép Bắc Kinh có thể tiếp cận trực tiếp Ấn Độ Dương. Nhưng biến cố đầu tháng Hai nhắc Trung Quốc nhớ lại quyết định bất ngờ dưới thời cựu thống chế Thein Sein. Năm 2011, vào thời điểm chính quyền quân sự quyết định mở cửa, chính quyền Naypyidaw đã đình chỉ dự án xây đập thủy điện Myitsone trên dòng Irrawaddy, cho phép cung cấp một lượng điện đáng kể cho tỉnh Vân Nam lân cận. Sự việc đã khiến Bắc Kinh nổi dóa, vì họ đã đầu tư khá nhiều tiền của, đến mức giờ đây « Bắc Kinh có xu hướng xem quân đội Miến Điện là bội bạc, tham lam, hám tiền và là một đối tác thương mại tồi », theo như phân tích của giáo sư Enze Han, giảng viên thỉnh giảng cho trường đại học Hồng Kông trên tờ East Asia Forum. Trong bối cảnh này, nhà nghiên cứu David Camroux cho rằng Bắc Kinh sẽ chẳng được lợi gì trước những bất ổn chính trị và việc Miến Điện phải trở về với chế độ quân sự. « Tôi nghĩ là Trung Quốc có vẻ khó xử, bởi vì biến cố này chẳng có lợi gì cho Bắc Kinh. Ngay từ những năm 1990, Trung Quốc tìm cách thúc đẩy Miến Điện thoát khỏi sự cô lập. Bắc Kinh khuyến khích Naypyidaw gia nhập ASEAN, thậm chí Trung Quốc còn xúi Miến Điện tạo ra một vẻ bề ngoài dân chủ. Tôi cho rằng Bắc Kinh chẳng có lợi lộc gì khi để Miến Điện quay về với chế độ quân sự. » ASEAN : Chiếc phao cho Trung Quốc tại Miến Điện ? Bị giam hãm trong chiếc bẫy thế nước đôi và trước những mối ngờ vực từ người dân Miến Điện, Bắc Kinh giờ khó thể đứng ra làm trung gian hòa giải, đành phải nhờ cậy đến ASEAN – vốn dĩ có thể là một công cụ ngoại giao có ích cho Trung Quốc khi hữu sự. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu về Đông Nam Á, David Camroux, khi trả lời RFI Tiếng Việt, lưu ý rằng trong vấn đề này, bản thân ASEAN cũng bị chia rẽ. « Hoa Kỳ và châu Âu cũng muốn trông cậy vào ASEAN. Chỉ có điều trong vấn đề này ASEAN bị chia rẽ vì có ba nhóm lập trường khác nhau : Nhóm những nước muốn đóng vai trò trung gian hòa giải như Malaysia, đặc biệt là Indonesia. Rồi nhóm những nước như Cam Bốt, Lào cho đấy là chuyện nội bộ. Nhưng có những nước như Thái Lan, cũng là một chế độ bán quân sự, thì lại ủng hộ giới tướng lĩnh Miến Điện. Trên thực tế, giới quân nhân Miến Điện đi theo mô hình của Thái Lan. Họ tiến hành đảo chính với lý do bảo vệ nền dân chủ và hứa hẹn tổ chức một cuộc bầu cử khác trong vòng một năm. Đó là một chiêu thức cổ điển, quen thuộc, nhằm biện minh cho các cuộc đảo chính. Vấn đề là ASEAN không đưa ra được một thông cáo chung về vụ việc này. Chỉ có một thông cáo do chủ tịch ASEAN đưa ra, chứ không phải là toàn bộ thành viên của khối. Chỉ có một nước trong ASEAN đảm nhiệm vai trò này. » Tóm lại, trong bối cảnh bị công luận quốc tế chỉ trích mạnh mẽ trong nhiều vấn đề như người Duy Ngô Nhĩ, Hồng Kông, cách xử lý dịch bệnh…, việc tìm đến ASEAN là cách tháo gỡ duy nhất cho Trung Quốc, nếu không muốn mang tiếng là nguồn hậu thuẫn chính cho chế độ độc tài quân sự, theo như kết luận của bà Sophie Boisseau du Rocher trên đài RFI: « Giờ đây Trung Quốc tìm cách tác động lên các nước ASEAN nhằm tìm kiếm một giải pháp cho cuộc khủng hoảng, bởi vì cùng với các dự án Con Đường Tơ Lụa Mới, Trung Quốc hoàn toàn hiểu rằng nếu như họ bị đánh đồng với hành động tàn bạo của Tatmadaw, những nước khác sẽ kềm hãm các mối quan hệ với Trung Quốc. »
Sau cuộc đảo chính, nền kinh tế Miến Điện vốn đã bấp bênh, lại càng lệ thuộc vào Trung Quốc : Đây là quan điểm của đa số các nhà phân tích. Riêng với chuyên gia về Đông Nam Á Sophie Boisseau du Rocher thuộc Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI, chưa chắc Bắc Kinh thật sự « thoải mái » khi thấy giới tướng lĩnh Miến Điện trở lại cầm quyền. Từ giữa thập niên 1950, đầu những năm 1960 thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã 9 lần công du Miến Điện. Quốc gia Đông Nam Á này là nước đầu tiên ngoài khối Cộng Sản công nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa sau thắng lợi của Mao Trạch Đông. Quan tâm của Bắc Kinh với nước láng giềng sát cạnh với hơn 2.000 cây số đường biên giới chung trên bộ không phải là điều mới mẻ. Từng bước Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế quan trọng nhất của Miến Điện và trong suốt những năm tháng tập đoàn quân sự nước này bị quốc tế trừng phạt, thì Bắc Kinh là điểm tựa duy nhất của giới tướng lĩnh tại Rangoon. Do vậy Olivier Guillard giám đốc cơ quan tư vấn Crisis24 trên báo Les Echos cho rằng cuộc đảo chính hôm 01/02/2021 không làm Trung Quốc lo ngại bởi mối liện hệ giữa quân đội Miến Điện và Bắc Kinh luôn vững chắc, cho tới khi tập đoàn quân sự bắt đầu chia sẻ quyền lực với chính quyền dân sự của Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ trong tay bà Aung San Suu Kyi. Câu hỏi đầu tiên đặt ra là tại sao Trung Quốc lại đặc biệt chiếu cố Miến Điện ? Trả lời RFI Tiếng Việt, chuyên gia về Đông Nam Á, Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI, bà Sophie Boisseau du Rocher trước hết nhấn mạnh đến yếu tố địa lý chiến lược của quốc gia là cửa ngõ mở ra Ấn Độ Dương : Sophie Boisseau du Rocher : « Nhìn một cách tuyệt đối, đầu tiên là yếu tố địa lý. Miến Điện là bản lề giữa Nam Á và Đông Nam Á, là ngã tư giữa Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, lại nằm ở cửa ngõ eo biển Malaka. Do vậy, Miến Điện đóng một vai trò đặc biệt trên các tuyến giao thông hàng hải. Đó là yếu tố giải thích vì sao Trung Quốc quan tâm đến quốc gia Đông Nam Á này. Ngoài ra còn phải kể đến các nguồn tài nguyên phong phú của Miến Điện từ quặng mỏ đến năng lượng… Tất cả những yếu tố nói trên khiến quốc gia này chiếm một vị trí quan trọng trong tương quan lực lượng của thế giới ». Là nguồn sản xuất cẩm thạch hàng đầu của thế giới, Miến Điện lại nổi tiếng với những mỏ vàng bạc, đá quý và cả các nguồn dự trữ dầu và khí đốt nên được từ Trung Quốc đến nước láng giềng sát cạnh là Thái Lan hay những đối tác châu Á xa xôi hơn như Ấn Độ, Nhật Bản cùng ve vãn. Tuy nhiên lợi thế vẫn thuộc về Bắc Kinh. Sophie Boisseau du Rocher : « Trung Quốc từ lâu nay đánh cược vào Miến Điện và trông đợi nhiều vào quốc gia này. Trung Quốc là một trong những đối tác chính về thương mại : nhập 30 % xuất khẩu của Miến Điện và trao đổi thương mại với Trung Quốc chiếm 40 % tổng kim ngạch nhập khẩu của Miến Điện. Về đầu tư cũng vậy. Trung Quốc đứng hàng thứ nhì trong số các nhà đầu tư ngoại quốc vào Miến Điện, chỉ thua có Singapore. Trên thực tế, có nhiều dấu hiệu cho thấy ngay cả vốn đầu tư được cho là của Singapore đổ vào Miến Điện, thật ra là vốn của Trung Quốc. Hạ tầng cơ sở của Miến Điện có phát triển được là nhờ tư bản của Trung Quốc. Miến Điện rất cần vốn của Trung Quốc để phát triển công nghiệp ». Vài tuần lễ trước cuộc đảo chính hôm 01/02/2021, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã công du Miến Điện với hứa hẹn viện trợ 300.000 liều vac-xin chống Covid-19 nhưng chủ yếu, đây là cơ hội để chính khách Trung Quốc này đánh giá tiến độ của khoảng trên dưới 20 dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trong khuôn khổ dự án Con đường tơ lụa mới của Trung Quốc. Mùa xuân 2020 vào lúc đang rối trí về đại dịch virus corona, Trung Quốc vẫn dành thời gian ký một ngân phiếu 5 tỷ rưỡi euro tài trợ cho nhiều dự án tại nước láng giềng Đông Nam Á này, trong đó có kế hoạch xây dựng một cảng nước sâu, đường xe lửa, một đường ống dẫn dầu và một trung tâm thủy điện … Tất cả những dự án đó đều thuộc tầm kiểm soát của quân đội cho dù về mặt chính thức, quyền lực tại Miến Điện thuộc về Đảng Liên Đoàn Quốc Gia Vì Dân Chủ. Cũng chính vì Bắc Kinh cảm nhận thấy điều gì « không ổn » trên bàn cờ chính trị Miến Điện từ sau cuộc tuyển cử hồi tháng 11/2020 với thắng lợi rõ rệt của đảng trong tay bà Aung San Suu Kyi, nên ngoại trưởng Vương Nghị đã phải sang tận nơi để thăm dò tình hình và nhắc nhở các bên rằng « trong mọi trường hợp », Trung Quốc mong muốn « các dự án đầu tư vẫn phải được tiên triển ». Bà Sophie Boisseau du Rocher nhắc lại vai trò then chốt của giới tướng lãnh Miến Điện từ gần sáu thập niên qua : Sophie Boisseau du Rocher : « Quá hiển nhiên là quân đội điều hành đất nước này từ năm 1962 một cách trực tiếp hay là gián tiếp. Giới tướng lĩnh có một trọng lượng rất lớn cả về kinh tế lẫn chính trị cũng như là an ninh. Tập đoàn quân sự này đóng vai trò then chốt và vì vậy đã ép buộc bà Aung San Suu Kyi phải có những biện pháp thỏa hiệp. Phương Tây không hiểu được điều đó. Thêm một điểm chắc chắn nữa đó là quân đội điều hành đất nước với một bàn tay sắt, dùng những thủ đoạn như là hù dọa, đàn áp thô bạo, giành cho giới tướng lĩnh những đặc quyền đặc lợi … Công luận Miến Điện càng lúc càng chỉ trích gay gắt đường lối lãnh đạo đó. Sẽ thú vị để đợi xem tương quan lực lượng chuyển biến như thế nào. Liệu rằng sức mạnh đường phố có đủ khả năng cưỡng lại cuộc đảo chính của tập đoàn quân sự hay không ? Hay đây là thời cơ để quân đội trở lại nắm quyền và trở lại với mô hình như xưa, tức là lại thâu tóm hết tất cả, nhất là về mặt kinh tế ». Trả lời báo Les Echos của Pháp hôm 01/02/2021 giảo sư quan hệ quốc tế Htwe Htwe Thein giảng dậy tại đại học Úc Curtin, Perth, nhắc lại : kinh tế Miến Điện đã phát triển mạnh từ khi chính quyền dân sự lên điều hành đất nước. Khu vực tư nhân chiếm một vị trí quan trọng hơn, đầu tư ngoại quốc đã mạnh mẽ đổ vào quốc gia Đông Nam Á này. Dù vậy ảnh hưởng của quân đội vẫn còn rất lớn đặc biệt là qua trung gian hai tập đoàn MEHL và MEC cả hai cùng đặt dưới sự điều hành của quân đội và kiểm soát hàng chục doanh nghiệp khác. Đây là « một trở ngại » đối với các hãng ngoại quốc muốn sang Miến Điện hoạt động. Vậy tập đoàn quân sự Miến Điện tính sao trong trường hợp bị cộng đồng quốc tế trừng phạt vì đã lật đổ một chế độ do dân bầu ra ? Giáo sư đại học Úc trả lời : giới tướng lĩnh ở Naypyidaw thừa biết rằng, nếu có bị trừng phạt thì dân chúng Miến Điện, những người lao động sẽ là những nạn nhân đầu tiên và ngay cả trường hợp bị phương Tây trừng phạt, Miến Điện vẫn có thể trông cậy vào những nhà đầu tư như Nhật Bản, vốn chưa bao giờ bỏ rơi quốc gia Đông Nam Á này. Ngoài Nhật thì Bắc Kinh vẫn là một điểm tựa chắc chắn của Naypyidaw đó là chưa kể đến các nhà đầu tư Đông Nam Á khác như Malaysia, Thái Lan vẫn sẵn sàng tiếp tục giao thương với Miến Điện. Chuyên gia Francoise Nicolas cũng thuộc Viện IFRI cho rằng, sau cuộc đảo chính lần này, kinh tế Miến Điện có nguy cơ càng thêm phụ thuộc vào nước láng giềng sát cạnh là Trung Quốc. Về điểm này, nhà nghiên cứu Sophie Boisseau du Rocher thận trọng hơn. Không phủ nhận điểm tựa Trung Quốc nhưng đồng thời bà cho rằng, Bắc Kinh cần Naypyidaw hơn là ở chiều ngược lại : Sophie Boisseau du Rocher : « Điều khá ngạc nhiên là mặc dù Trung Quốc đóng vai trò hàng đầu tại Miến Điện nhưng về mặt chính trị, thì tập đoàn quân sự Miến Điện từ trước tới nay luôn luôn thận trọng với đối tác quá cồng kềnh này. Một số nhà quan sát có cảm tưởng là trong mắt Bắc Kinh dường như bà Aung San Suu Kyi là một đối tác dễ thuyết phục hơn là giới tướng lĩnh ở Naypyidaw. Hai yếu tố giải thích cho điều này : thứ nhất, người ta nói một cách bóng gió là quân đội Miến Điện « mắc bệnh đao », tức là bị rối loạn thần kinh, không giao lưu, trao đổi gì với ai hết. Điểm thứ nhì là họ mang mặc cảm của những người sống khép kín. Tập đoàn quân sự nước này không cần quan tâm đến Trung Quốc như là Bắc Kinh quan tâm đến Miến Điện. Chính Bắc Kinh mới cần Miến Điện để thực hiện một số tham vọng chính trị và địa chính trị . Trong mục đích đó Naypyidaw là một mắt xích then chốt. Cũng chính vì vậy mà Trung Quốc đã năng động để can thiệp vào tiến trình hòa giải giữa một bên chính quyền trung ương Miến Điện và bên kia là những sắc tộc thiểu số nhằm vãn hồi hòa bình tại quốc gia Đông Nam Á này. Thực chất của vấn đề là quân đội Miến Điện có thái độ hoài nghi với tất cả mọi người, tất cả mọi đối tác, kể cả với Bắc Kinh. Phải hiểu rằng tập đoàn quân sự tự nhận là có trách nhiệm bảo vệ quốc gia và họ trông thấy những tham vọng quá lớn của Trung Quốc, họ coi Bắc Kinh là một mối đe dọa đối với an ninh và độc lập của Miến Điện. Phải công nhận là Trung Quốc thường hành động vì quyền lợi của chính mình hơn là thiên về giải pháp hợp tác. Naypyidaw đã nhiều lần phải đàm phán lại với Bắc Kinh về các dự án đầu tư của Trung Quốc. Hồi năm 2011 giới tướng lĩnh Miến Điện đã đột ngột ngừng kế hoạch xây đập Myitsone bởi đập thủy điện này đem lại những hậu quả vô cùng to lớn về mặt kinh tế và xã hội đối với Miến Điện nhưng mà từ 80 đến 90 % điện sản xuất ra thì lại được dành để phục vụ Trung Quốc ». Từ 2017 khi chính quyền Naypyidaw trên danh nghĩa là bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo, đã bị quốc tế cô lập vì chính sách đàn áp cộng đồng thiểu số Rohingya theo đạo Hồi thì đó cũng là cơ hội để Trung Quốc đẩy mạnh những nước cờ, nhất là trong khuôn khổ dự án « Một vành đai một con đường ». Có điều ngay cả với nước láng giềng sát cạnh này, Trung Quốc không một mình một chợ. Sophie Boisseau du Rocher : « Miến Điện được nhiều nước lớn khác trong khu vực quan tâm. Tôi muốn nói đến Ấn Độ và nhất là Nhật Bản. Từ mấy thập niên qua, Tokyo chưa bao giờ ngừng hợp tác với Miến Điện bất chấp chế độ chính trị tại quốc gia này. Từ rất lâu nay ngay cả khi chính trường Miến Điện chao đảo, Nhật Bản vẫn duy trì hợp tác và đầu tư. Đơn giản là do Miến Điện giàu tài nguyên thiên nhiên và cũng là một mắt xích quan trọng trên bàn cờ địa chính trị. Tokyo quan niệm không thể để Miến Điện rơi vào vòng tay của Bắc Kinh như là một số quốc gia Đông Nam Á khác. Vì thế Nhật Bản luôn luôn hiện diện tại hiện trường ». Chính vì thái độ thân thiện này, Tokyo bị chỉ trích im lặng trước thảm cảnh của hàng trăm ngàn người Rohingya và đã chậm trễ lên tiếng về cuộc đảo chính lần này.
Việt Nam đã trở thành một trong những đối tác quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á từ thời cựu tổng thống Barack Obama. Tổng thống Donald Trump đã thắt chặt và mở rộng thêm quan hệ ngoại giao với Hà Nội. Trong nhiệm kỳ của tổng thống Mỹ thứ 46 Joe Biden, Việt Nam sẽ tiếp tục là đối tác chủ chốt trong chiến lược của Mỹ ở châu Á. Tuy nhiên, người dân Việt Nam sẽ cần thêm một chút thời gian để hiểu hơn về ông Joe Biden, trái ngược với ông Trump rất nổi tiếng ở Việt Nam. « Lập trường đối đầu trực diện với Trung Quốc từ hai năm nay (của ông Trump) dĩ nhiên đã giúp Hà Nội đối thoại với Bắc Kinh ở tầm mức mà họ chưa từng có thể nghĩ đến », theo nhận định với RFI Tiếng Việt của nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, giám đốc khu vực châu Phi - châu Á - Trung Đông, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM). Mối quan hệ Hà Nội - Washington sẽ như thế nào trong nhiệm kỳ sắp tới của ông Joe Biden ? RFI Tiếng Việt lần lượt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Pháp Benoît de Tréglodé và N. T., một nhà nghiên cứu về quan hệ Việt - Mỹ (qua thư điện tử). Tiếp tục chiến lược an ninh Ấn Độ-Thái Bình Dương RFI : Thưa nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, với chính quyền mới của Hoa Kỳ, liệu sẽ có thay đổi trong chính sách an ninh của Mỹ ở châu Á, cũng như với Việt Nam ? Benoît de Tréglodé : Một chính quyền mới đứng đầu nước Mỹ sẽ dẫn đến việc các nhân tố ở châu Á, trước tiên là Trung Quốc, cũng như là Việt Nam và các quốc gia khác ở Đông Nam Á, một cách nào đó xem xét lại đối thoại và quan hệ đối tác với những nhà lãnh đạo mới của Mỹ. Dĩ nhiên là trong những tháng tới, đối thoại sẽ được nối lại, không tập trung và dựa trên những căng thẳng như trong những tháng gần đây dưới thời tổng thống Trump. Tôi không nghĩ là chính quyền mới sẽ xem xét lại toàn bộ những hồ sơ chiến lược được thông qua dưới thời tổng thống Trump, trong đó có chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương. Đây sẽ vẫn là đường lối trong chính sách quốc phòng của Mỹ ở châu Á, trong đó có Đông Nam Á, nhưng đúng là có thể sẽ có nhiều đối thoại hơn, để Trung Quốc và Mỹ cùng làm việc với nhau và hiểu nhau hơn. Do đó, nếu nhìn theo quan điểm này, căng thẳng chắc sẽ giảm bớt trong những tháng tới ở châu Á. Về chính sách của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, sẽ không có việc xem xét lại hoàn toàn những nguyên tắc lớn đang chi phối quan hệ song phương. Năm 2020, Việt Nam và Hoa Kỳ kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Vấn đề Việt Nam vẫn thường được nhìn nhận, chú ý và đôi khi, theo một số người vẫn nói, bị khai thác trong mối quan hệ Mỹ-Trung. Trong bối cảnh này, nếu Biden đi theo hướng giảm bớt căng thẳng với Trung Quốc, thì tất nhiên sẽ thấy được hệ quả trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Nhưng những bước tiến của Mỹ trong vấn đề bảo vệ tự do hàng hải ở vùng biển quốc tế ở Biển Đông chẳng hạn, là những điều về cơ bản sẽ vẫn được theo đuổi, nhưng có thể với ngôn từ mang tính ngoại giao hơn một chút, hòa dịu hơn một chút. Chúng ta có thể trông đợi những thay đổi sâu sắc trong quan điểm của Mỹ về khu vực, trên thực tế không chắc rằng chính quyền mới sẽ có thể thay đổi bất cứ điều gì. RFI : Có thể thấy là vấn đề nhân quyền tại Việt Nam ít được chú ý trong nhiệm kỳ tổng thống Trump để tránh cản trở những dự án hợp tác song phương, mà Trung Quốc là mục tiêu sâu xa. Vấn đề này sẽ được đề cập như nào trong chính quyền Joe Biden ? Benoît de Tréglodé : Trong những năm gần đây, các nhà quan sát nhận thấy vấn đề nhân quyền không phải là một ưu tiên của chính quyền Trump. Những thách thức nằm ở chỗ khác. Chính những thách thức đó giúp Hoa Kỳ tập hợp quanh mình những quốc gia sẵn sàng ủng hộ chính sách Ấn Độ-Thái Bình Dương và hình thành mặt trận chung ở châu Á chống Trung Quốc. Chắc chắn vấn đề nhân quyền không phải là ưu tiên lớn, ngoài Đối thoại Nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, mà cuộc họp gần đây nhất là vào tháng 10/2020. Với chính quyền mới ở Mỹ, thông thường đảng Dân Chủ vẫn được cho là có khuynh hướng thúc đẩy nhân quyền và dân chủ trên thế giới, nhưng cần nhắc lại là ưu tiên trước mắt của chính quyền mới sẽ là chính trị trong nước và tiếp tục các hồ sơ quốc phòng lớn trên thế giới. Do đó, tôi không chắc là vấn đề nhân quyền ở Việt Nam trở thành một ưu tiên rõ ràng trong chính sách của Mỹ. Mở rộng hợp tác trên nhiều lĩnh vực phi quân sự RFI : N. T. là nhà nghiên cứu về quan hệ Mỹ-Việt được RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi qua thư điện tử. Ngoài vấn đề an ninh, tự do hàng hải ở Biển Đông, những lĩnh vực nào được Việt Nam quan tâm hợp tác với Mỹ ? N. T. : Theo tôi, có hai lĩnh vực chính mà Việt Nam sẽ quan tâm hợp tác với Mỹ ngoài hợp tác an ninh hàng hải. Thứ nhất là quản lý nguồn nước ở sông Mêkông. Hiện nay, khu vực đồng bằng sông Cửu Long phải đối mặt với tình trạng thiếu nước từ đầu nguồn và nước biển xâm nhập, với nguyên nhân chính là các hoạt động xây đập do Trung Quốc đầu tư ở thượng nguồn và biến đối khí hậu. Đây là một vấn đề cấp thiết đối với Việt Nam khi đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa chính, cung cấp sinh kế cho hàng chục triệu người. Hợp tác trong lĩnh vực này có thể bao gồm hỗ trợ nông dân ứng phó với ngập mặn và thiếu nước từ thượng nguồn, chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững hơn, hỗ trợ nông dân tìm kiếm sinh kế mới… Ngoài ra, Việt Nam và Mỹ có thể hợp tác yêu cầu Trung Quốc cung cấp đầy đủ hơn thông tin về các hoạt động xây đập ở thượng nguồn và tác động của chúng đối với các quốc gia ở hạ nguồn như Việt Nam. Sáng kiến Quan hệ đối tác Mỹ-Mêkông đóng vai trò điều phối các hoạt động hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này. Lĩnh vực thứ hai là cơ sở hạ tầng. Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ, tạo sức ép rất lớn lên cơ sở hạ tầng vừa thiếu và vừa yếu. Nhu cầu này càng bức thiết trong bối cảnh ngày càng nhiều doanh nghiệp nước ngoài chuyển dây chuyền sản xuất sang Việt Nam và Việt Nam cũng muốn đóng một vai trò lớn hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy Trung Quốc là nhà đầu tư cơ sở hạ tầng hàng đầu trong khu vực, Việt Nam tỏ ra thận trọng hơn với đầu tư trong lĩnh vực này của Trung Quốc, đặc biệt là các khoản đầu tư trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI). Nguyên nhân một phần vì lý do an ninh và một phần vì các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc thường vướng nhiều vấn đề như tiến độ thi công chậm, đội vốn và chất lượng công trình kém. Do đó, nếu chính phủ và các nhà đầu tư tư nhân của Mỹ đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực này, đây là điều có lợi cho cả Việt Nam lẫn khu vực. Sự hiện diện của Mỹ, cùng cộng tác với Nhật Bản, sẽ đem lại nhiều lựa chọn cho Việt Nam và các nước trong khu vực, tránh tình trạng phụ thuộc vào một nhà đầu tư duy nhất mà có thể dẫn đến các nguy cơ cả về kinh tế và an ninh. Các thỏa thuận hợp tác mới ký kết gần đây giữa Mỹ và Việt Nam về cải thiện hệ thống thông tin lưới điện, phát triển điện từ khí hóa lỏng (LNG) và xây dựng kho cảng chứa LNG cho thấy cả hai bên đều đang chú trọng tới lĩnh vực này. RFI : Liệu « Mạng lưới Điểm Xanh » (Blue Dot Network, BDN) gồm Mỹ, Nhật Bản và Úc là một lựa chọn giúp Việt Nam đa dạng hóa đối tác cơ sở hạ tầng ? Liệu BDN có « cạnh tranh » được với các tập đoàn Trung Quốc khi phía Trung Quốc không đặt nhiều điều kiện để cho vay vốn ? N. T. : Theo quan điểm của tôi, Mạng lưới Điểm Xanh (Blue Dot Network) không nhất thiết phải « cạnh tranh » với đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung Quốc. Trước hết đây là một sáng kiến đa phương nhằm chứng nhận các dự án cơ sở hạ tầng đảm bảo các điều kiện về minh bạch tài chính, phát triển bền vững và thân thiện với môi trường. Việc triển khai sáng kiến này vẫn đang diễn ra, vẫn còn nhiều câu hỏi như tiêu chí chứng nhận, giám sát cũng như các quốc gia nào có thể tham gia. Có thể coi sáng kiến Mạng lưới Điểm Xanh là giúp đem lại cho Việt Nam, cũng như các quốc khác trong khu vực, một lựa chọn nữa cho đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài đầu tư của Nhật Bản và Trung Quốc. Một điều cần quan tâm là gần đây, nhiều dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc, nhất là các dự án thuộc sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI), đã phải hứng chịu nhiều chỉ trích do không đáp ứng được các tiêu chuẩn minh bạch tài chính, phát triển bền vững và đem lại nhiều nguy cơ an ninh địa chính trị. Trong bối cảnh đó, nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã hủy hoặc xem xét lại nhiều dự án cơ sở hạ tầng do Trung Quốc đầu tư. Ví dụ, Miến Điện đã cho tạm dừng dự án đập thủy điện Myitsone vào năm 2011 và Malaysia đã hủy 3 dự án thuộc BRI vào năm 2018. Như tôi đã nói ở trên, Việt Nam từ trước tới nay có cách tiếp cận khá thận trọng với đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung Quốc so với các nước khác trong khu vực. Do đó, tôi cho rằng Việt Nam sẽ duy trì cách tiếp cận này trong tương lai, nhất là với các dự án có tầm quan trọng về an ninh chiến lược. RFI : Phải chăng Việt Nam muốn dần giảm bớt phụ thuộc vào Trung Quốc khi mở rộng hợp tác với Mỹ ? Việt Nam sẽ phải cân nhắc rủi ro như nào với Trung Quốc khi tăng cường hợp tác với Mỹ ? N. T. : Việc Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ không nhất thiết chỉ vì lý do tránh sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Chính sách ngoại giao của Việt Nam luôn là duy trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa và đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Do đó, Việt Nam đã mở rộng và tăng cường hợp tác không chỉ với Mỹ, mà còn với các cường quốc khác trong khu vực như Nhật Bản, Úc, Ấn Độ và các nước khác ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Về những rủi ro Việt Nam có thể phải đối mặt với Trung Quốc khi mở rộng quan hệ hợp tác với Mỹ, điều này còn phụ thuộc vào bản chất của hoạt động hợp tác và tác động của nó tới lợi ích của Trung Quốc trong khu vực. Các rủi ro có thể bao gồm căng thẳng gia tăng trên Biển Đông và khả năng Trung Quốc đơn phương áp đặt một số biện pháp hạn chế trao đổi thương mại, như nước này đã làm đối với Nhật Bản, Hàn Quốc và gần đây nhất là Úc. Tuy nhiên, ngoại trừ tình hình căng thẳng trên Biển Đông, Việt Nam chưa phải đối mặt với các biện pháp hạn chế thương mại của Trung Quốc. Lý do thứ nhất là vì Việt Nam đã khéo léo xử lý quan hệ với cả Mỹ và Trung Quốc. Thứ hai là vì hợp tác Mỹ-Việt chủ yếu tập trung vào trao đổi thương mại song phương và các lĩnh vực phi quân sự. Tăng cường hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt trong giai đoạn gần đây cũng thiên về nâng cao năng lực an ninh hàng hải của Việt Nam, như tăng cường nhận thức khu vực trên biển (maritime domain awareness) và thực thi pháp luật trên biển (maritime law enforcement). Đây là những lĩnh vực hợp tác ít gây tranh cãi và giúp hai bên từng bước xây dựng lòng tin và sự hiểu biết về quan điểm của mỗi bên. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn hai nhà nghiên cứu N. T., chuyên về quan hệ Việt-Mỹ và Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
The problem with Myitsone dam has been going on over a decade and China is still insisting that the dam project should go ahead. - ဧရာ၀တီ ျမစ္ဆံုစီမံကိန္းျပႆနာဟာ ဆယ္စုႏွစ္တစ္ခုေက်ာ္ ၾကာျမင့္ခဲ့ပါၿပီ။ ဒီစီမံကိန္းကို ဆက္အေကာင္အထည္ေဖာ္ဘို႔ တရုတ္ႏိုင္ငံကလည္း ျမန္မာကို ဖိအားေတြေပးေနပါတယ္။[[{"fid":"1733473","view_mode":"body_content","uuid":"a6c32fb7-6e8a-4835-9bbc-fbb5ddcced81","type":"media","attributes":{"height":"394","width":"700","alt":"Myitsone protest","title":"Myitsone protest","class":"media-element file-body-content"}}]]
Mang hkrang byin nga ai Jinghpaw mungdaw na Mali Nmai zup Madim matsing hpe laiwa sai asuya lakhtak hta jahkring da ai 7 ning hpring sai re. Ya na asuya nnan hta ndai matsing hpe matut na galaw na, n galaw na ngu ai hpe n daw dan shi ai raitim $wan tsa kaba hte galaw taw ai ndai matsing a majaw buga masha ni gaw htawt sit hkrum nga ai re. Ndai bat hta Doh Athan lamang kawn Mali Nmai madim matsing a majaw hkawt sit hkrum ai mare masha ni hte uhpung uhpawng langai kawn hkrum shaga nna, shanhte hkam sha nga ai mayak mahkak ni hpe madat hkam la lu ai re. ndai shiga hkrum hkra hpe hkap madap mai sai re. It’s been seven years since the previous government that the controversial Myitsone dam in Kachin State would be halted. However, communities displaced by the multi-billion-dollar project remain in limbo, as the government has still not decided whether or not it will go ahead. This week, Doh Athan meets with communities displaced by the project several years ago, and hears about the struggles they are facing in their new communities.
အျငင္းပြားဖြယ္ျဖစ္ခဲ့တဲ့ ကခ်င္ျပည္နယ္ျမစ္ဆံုစီမံကိန္းကို ၿပီးခဲ့တဲ့အစိုးရ သက္တမ္းကတည္းက ရပ္နားထားခဲ့တာ ၇ႏွစ္ျပည့္ၿပီျဖစ္ပါတယ္။ လက္ရွိအစိုးရက စီမံကိန္းကို ေရွ႔ဆက္လုပ္ မယ္မလုပ္ဘူးဆုိတာကို မဆံုးျဖတ္ေသးေပမယ့္လည္း ဒီေဒၚလာသန္းနဲ႔ခ်ီတဲ စီမံကိန္းေၾကာင့္ ေဒသခံျပည္သူေတြက မူလေနရာေတြကေန ေျပာင္းေရႊ႔ခံထားရပါတယ္။ ဒီတစ္ပတ္မွာေတာ့ ဒုိ႔အသံက စီမံကိန္းေၾကာင့္ ၿပီးခဲ့တဲ့ႏွစ္ေပါင္းမ်ားစြာကတည္းက ေျပာင္းေရြ႔ခံထားရတဲ့ အဖြဲ႔အစည္းကသူေတြနဲ႔ေတြ႔ဆံုေမးျမန္းခဲ့ၿပီး ပတ္၀န္းက်င္အသစ္မွာသူတုိ႔ရင္ဆုိင္ေနရတဲ့အခက္ခဲေတြကိုလည္း နားေထာင္ခဲ့ပါတယ္။ ဒီေဆာင္းပါးအျပည့္အစံုကို နားဆင္ႏုိင္ပါၿပီ။ It’s been seven years since the previous government that the controversial Myitsone dam in Kachin State would be halted. However, communities displaced by the multi-billion-dollar project remain in limbo, as the government has still not decided whether or not it will go ahead. This week, Doh Athan meets with communities displaced by the project several years ago, and hears about the struggles they are facing in their new communities.
အျငင္းပြားဖြယ္ျဖစ္ခဲ့တဲ့ ကခ်င္ျပည္နယ္ျမစ္ဆံုစီမံကိန္းကို ၿပီးခဲ့တဲ့အစိုးရ သက္တမ္းကတည္းက ရပ္နားထားခဲ့တာ ၇ႏွစ္ျပည့္ၿပီျဖစ္ပါတယ္။ လက္ရွိအစိုးရက စီမံကိန္းကို ေရွ႔ဆက္လုပ္ မယ္မလုပ္ဘူးဆုိတာကို မဆံုးျဖတ္ေသးေပမယ့္လည္း ဒီေဒၚလာသန္းနဲ႔ခ်ီတဲ စီမံကိန္းေၾကာင့္ ေဒသခံျပည္သူေတြက မူလေနရာေတြကေန ေျပာင္းေရႊ႔ခံထားရပါတယ္။ ဒီတစ္ပတ္မွာေတာ့ ဒုိ႔အသံက စီမံကိန္းေၾကာင့္ ၿပီးခဲ့တဲ့ႏွစ္ေပါင္းမ်ားစြာကတည္းက ေျပာင္းေရြ႔ခံထားရတဲ့ အဖြဲ႔အစည္းကသူေတြနဲ႔ေတြ႔ဆံုေမးျမန္းခဲ့ၿပီး ပတ္၀န္းက်င္အသစ္မွာသူတုိ႔ရင္ဆုိင္ေနရတဲ့အခက္ခဲေတြကိုလည္း နားေထာင္ခဲ့ပါတယ္။ ဒီေဆာင္းပါးအျပည့္အစံုကို နားဆင္ႏုိင္ပါၿပီ။ It’s been seven years since the previous government that the controversial Myitsone dam in Kachin State would be halted. However, communities displaced by the multi-billion-dollar project remain in limbo, as the government has still not decided whether or not it will go ahead. This week, Doh Athan meets with communities displaced by the project several years ago, and hears about the struggles they are facing in their new communities.
The Norwegian Institute of International Affairs has the pleasure of presenting the public seminar: ‘On Your Mark, Get Set…’ Myanmar under Reform and Chinese and Japanese Economic Diplomacy Speaker: Marc Lanteigne, Senior Research Fellow, NUPI Since March 2011, there has been a transformation of the government of Myanmar (Burma) after the dissolution of the military regime in the country. The first stages of the governmental transition has also opened the door to economic liberalisation, including increased and more diversified foreign investment in several different sectors as sanctions have been lowered. Several economies, including in the West and in East Asia, are preparing for deeper economic engagement in Myanmar. However, there is still a sense of watching and waiting as the November 2015 elections, the first major test of the reform process and the potential transfer of political power to greater civilian actors, get closer. While anticipation builds, two countries, China and Japan, are key examples of large Asian economies which have developed strong economic and aid linkages with Myanmar in recent years. In the case of Beijing, during the military regime period in Myanmar between 1988-2011, which led to wide international sanctions, China was one of the few major economic partners which maintained economic relations with Yangon. With trade diversification underway, and after the political issues caused by the halting of the Chinese-backed Myitsone hydropower project, there is the question of whether China will be able to maintain the same degree of economic visibility in Myanmar. Nonetheless, China still views Yangon as an important economic partner. As for Tokyo, there has been a flurry of infrastructure projects and services agreements being developed with Yangon in recent years. Although there has been discussion of a growing Sino-Japanese ‘aid contest’ in Myanmar, the reality is that the two Asian economies have often taken different economic paths in engaging Yangon, and are both crucial case studies in understanding the role of foreign actors in the Myanmar economic reform process.