POPULARITY
Sau thành công không ngờ đến của bộ phim tài liệu “Once Upon a Bridge in Vietnam” ( Ngày xưa có một chiếc cầu ở Việt Nam ), đạo diễn trẻ mang hai dòng máu Pháp Việt François Bibonne sắp tái ngộ khán giả với phần hai của bộ phim "Once Upon a Bridge II". Bibonne hy vọng bộ phim sẽ được trình làng vào tháng 11 năm nay. Ban đầu Bibonne dự định làm một bộ phim về bóng đá Việt Nam, nhưng cuối cùng anh vẫn lồng vào đó âm nhạc, phong cảnh, văn hóa Việt Nam, như là sự tiếp nối của một cuộc hành trình tìm về nguồn. Phạm vi của "Once Upon a Bridge II" được mở rộng hơn, hành trình trải dài từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đến những vùng xa xôi như Bình Liêu (Quảng Ninh) và Pleiku. Lần này, theo lời François Bibonne, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Hà Nội, bộ phim sẽ mang tính chất cá nhân hơn, đạo diễn trở thành như là một "nhân vật chính" trong phim: “Khi làm bộ phim đầu tiên, tôi thực sự không muốn mình ở trong đó, tôi chỉ là một người quay phim. Nhưng rồi tôi nhận thấy điều mà mọi người quan tâm đó là bộ phim được hiện thân, nghĩa là có một nhân vật chính, có thể tạo ra mối liên hệ giữa tất cả các cảnh này, vì có rất nhiều chủ đề khác nhau, làm sao có thể diễn đạt, dung hòa tất cả những mối liên hệ này. Nói chung, đây là sự trở lại với nguồn gốc Việt Nam, thông qua nhân vật tôi, vì bà tôi là người Việt Nam, nên tôi là người Pháp gốc Việt. Và tôi tạo ra mối liên hệ giữa tất cả những câu chuyện nhỏ mà chúng ta tìm thấy trong mọi bộ phim tài liệu, đôi khi với những hình ảnh có tôi xuất hiện trong đó. Tôi cũng sẽ không xuất hiện nhiều đâu. Nhưng khi tôi làm một đoạn phim giới thiệu, tôi phải đặt mình vào cảnh một chút để kích hoạt câu chuyện, nếu không thì chỉ lồng tiếng thôi. Nhưng thực sự, ngoài bản thân tôi, tôi nghĩ nhân vật chính, đó là Việt Nam.” Như đã nói ở trên, ban đầu François Bibonne dự định làm một bộ phim tài liệu về bóng đá Việt Nam, nhưng cuối cùng anh quyết định là phim sẽ không bám vào thời sự của môn bóng tròn, mà sẽ là một bộ phim "phi thời gian tính": "Khi tôi đến Việt Nam để thực hiện dự án mới này, thực ra tôi đã bắt đầu theo dõi đội tuyển quốc gia, đã có rất nhiều trận thua vào thời điểm đó. Vì vậy, tôi hơi xuống tinh thần. Tôi vẫn muốn làm bộ phim này, nhưng nói ít hơn về đội tuyển quốc gia và thời gian đó người dân cũng bớt hồ hởi với bóng đá. Thế rồi gần đây, họ đã giành được chức vô địch Đông Nam Á. Họ có một huấn luyện viên mới là người Hàn Quốc và đã gặt hái rất nhiều thành công. Mọi người thực sự tin tưởng vào đội tuyển quốc gia và thực sự đang có một điều gì đó rất tích cực. Bối cảnh rất thuận lợi cho dự án của tôi. Thật ra dầu sao thì tôi không bị ảnh hưởng bởi thời sự, bởi vì tôi làm một bộ phim tài liệu điện ảnh hơn là một bộ phim tài liệu về các vấn đề thời sự, vì vậy có thể nói rằng, những gì tôi làm gần như là phim tài liệu hư cấu, một dự án dài hạn, mà tôi hy vọng sẽ là phi thời gian tính, bất kể các sự kiện hiện tại. Giống như bộ phim trước, đó là một bộ phim mà tôi nghĩ chúng ta cũng có thể xem sau nay, không nhất thiết phụ thuộc vào các sự kiện hiện tại." Trên con đường tìm về nguồn khi thực hiện bộ phim "Once Upon a Bridge II", đạo diễn trẻ Bibonne đã có dịp đến Hải Phòng, thành phố quê hương của người bà: “Tôi chưa từng đến đó, mặc dù thành phố Hải Phòng là nơi bà tôi sinh ra, đúng hơn bà sinh ra ở một ngôi làng nhỏ không xa Hải Phòng, nhưng là trong khu vực đó. Vì vậy, nó vẫn rất mang tính biểu tượng. Đến Hải Phòng là một trải nghiệm với nhiều cảm xúc mạnh mẽ, vì nguồn gốc của tôi là từ đó. Chứ bóng đá không liên quan gì đến bà tôi. Điều thú vị nữa là tìm thấy chính mình, trong một môi trường mà trước đó tôi không biết, và đó là điều tôi muốn khám phá thông qua âm nhạc. Nhưng tôi nghĩ rằng đây là những khám phá về khắp mọi miền đất nước, không nhất thiết phải liên quan trực tiếp đến bà tôi. Tôi đã đến khá nhiều nơi mà bà nghĩ là đã từng đến, nhưng vì nó cũng rất xa ngay cả trong ký ức của bà, nên tôi không chắc có đúng như thế không. Tôi biết là bà tôi có gia đình ở Hải Phòng, nhưng thực sự rất khó tìm được họ.Tôi thích mọi thứ bên bờ biển, mà Hải Phòng thì cũng bờ biển, cho nên có điều gì đó rất đặc biệt. Rồi có các tòa nhà từ thời thuộc địa Pháp, hải cảng, v.v. Có một nền văn hóa địa phương cũng rất đặc biệt. Ở Pháp, bà tôi ở cũng từng sống ở miền nam bên bờ biển, có lẽ vì vậy bà thích Hải Phòng. Cuộc sống ở đây ít hối hả hơn so với Hà Nội và tôi cũng thực sự thích điều đó.” François Bibonne cho biết trong quá trình làm phim, anh cũng đã đến Pleiku, đến Kontum và đã gặp người sắc tộc thiểu số Ba Na, rồi đến Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, miền Bắc Việt Nam, gần Trung Quốc. Ở vùng đó, Bibonne đã gặp người dân tộc Sán Chay, họ đã hát cho anh nghe một bài hát rất hay. Có những khám phá, những giao lưu văn hóa và đối với anh bóng đá trở thành như là một cái cớ để dẫn đến những cuộc gặp gỡ đó. Bibonne tiếp tục đưa âm nhạc truyền thống Việt Nam vào "Once Upon a Bridge II", tiếp tục kết nối những nhạc cụ dân tộc với những nhạc cụ phương Tây. Thực hiện bộ phim tiếp nối “Once Upon a Bridge in Vietnam”, François Bibonne cũng vẫn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ đã được biết đến nhiều qua bộ phim đầu tay, anh cũng được hỗ trợ nhiều hơn: “Khó khăn đầu tiên là có được sự thoải mái trong một môi trường xa lạ, đó là bóng đá. Vì vậy, tôi đã phải tìm hiểu rất nhiều, thậm chí nói chuyện với bạn bè ở Pháp, hiểu rõ hơn về bóng đá và nắm được những điều cơ bản, v.v. Tiếp đến là vấn đề về kỹ thuật, vì quay phim bóng đá rất phức tạp. Ta không thể quay bằng camera từ khán đài, mà phải cố vào được trong sân để quay cận cảnh các cầu thủ, một thao tác mang tính kỹ thuật rất cao. Và sau đó, cũng như mọi người Pháp, mọi người nước ngoài, trong cuộc sống hàng ngày ở Việt Nam, luôn có vấn đề về hàng rào ngôn ngữ. Tôi đang học tiếng Việt, ngày càng giỏi hơn, nhưng vẫn chưa đủ để thực hiện các cuộc phỏng vấn. Ngoài ra còn có vấn đề về ngân sách, hiện giờ tôi phải bỏ tiền túi ra và tôi rất muốn sau này tìm được các nhà tài trợ, nhưng tôi tự tin hơn. Nhờ thành công của bộ phim trước, tôi ngày càng được mọi người biết đến tôi và tôi hy vọng tìm được một nhà phát hành ở Pháp, có thể là kênh TV5 Monde hay một kênh nào đó. Các nhà báo ở Việt Nam, những người có đầu óc rất cởi mở, sẽ giúp tôi tiếp cận những thứ mà trước đây tôi có thể không có. Thêm vào đó, tôi đã định cư ở Việt Nam trong thời gian dài, trong khi trước đây tôi làm phim trong thời kỳ đại dịch. Vì vậy, bây giờ bối cảnh vẫn thuận lợi hơn.” François Bibonne cho biết: "Tôi đã quay được hai phần ba, gần ba phần tư, những gì tôi muốn. Vì vậy, tôi nghĩ có thể hoàn tất việc quay mọi thứ tôi cần vào khoảng tháng 9 và có thể hoàn thành việc biên tập phim vào khoảng tháng 11. Và biết đâu có thể kịp để gởi nó đến Liên hoan điện ảnh châu Á Vesoul!" Bộ phim đầu tay "Once Upon a Bridge in Vietnam" của Bibonne đã từng được trình chiếu tại Liên hoan Vesoul năm 2023, tranh giải trong hạng mục Phim tài liệu. Tuy không nhận được giải nào, nhưng qua Liên hoan này mà chàng đạo diễn trẻ mang hai giòng máu Pháp-Việt được công chúng quốc tế biết đến nhiều hơn. "Once Upon a Bridge in Vietnam" đã từng đoạt giải Phim tài liệu ngắn hay nhất tại Liên hoan Phim Los Angeles 2022. Phim còn đã được trình chiếu ở rất nhiều nơi tại Việt Nam, Pháp, Anh và Hoa Kỳ. "Once Upon a Bridge in Vietnam" đã được phát trên hai nền tảng phát trực tuyến lớn tại Việt Nam FPT Play và Galaxy Play. Anh hy vọng là bộ phim thứ hai cũng sẽ được chiếu trên hai nền tảng đó. Nhưng François Bibonne cho biết ở Pháp, anh vẫn chưa tìm được nhà phân phối cho bộ phim đầu tiên, vì phải đáp ứng rất nhiều yêu cầu. Tuy nhiên, nhà đạo diễn trẻ vẫn không nản chí, tin tưởng là sẽ làm được.
Sau thành công không ngờ đến của bộ phim tài liệu “Once Upon a Bridge in Vietnam” ( Ngày xưa có một chiếc cầu ở Việt Nam ), đạo diễn trẻ mang hai dòng máu Pháp Việt François Bibonne sắp tái ngộ khán giả với phần hai của bộ phim "Once Upon a Bridge II". Bibonne hy vọng bộ phim sẽ được trình làng vào tháng 11 năm nay. Ban đầu Bibonne dự định làm một bộ phim về bóng đá Việt Nam, nhưng cuối cùng anh vẫn lồng vào đó âm nhạc, phong cảnh, văn hóa Việt Nam, như là sự tiếp nối của một cuộc hành trình tìm về nguồn. Phạm vi của "Once Upon a Bridge II" được mở rộng hơn, hành trình trải dài từ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định đến những vùng xa xôi như Bình Liêu (Quảng Ninh) và Pleiku. Lần này, theo lời François Bibonne, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Hà Nội, bộ phim sẽ mang tính chất cá nhân hơn, đạo diễn trở thành như là một "nhân vật chính" trong phim: “Khi làm bộ phim đầu tiên, tôi thực sự không muốn mình ở trong đó, tôi chỉ là một người quay phim. Nhưng rồi tôi nhận thấy điều mà mọi người quan tâm đó là bộ phim được hiện thân, nghĩa là có một nhân vật chính, có thể tạo ra mối liên hệ giữa tất cả các cảnh này, vì có rất nhiều chủ đề khác nhau, làm sao có thể diễn đạt, dung hòa tất cả những mối liên hệ này. Nói chung, đây là sự trở lại với nguồn gốc Việt Nam, thông qua nhân vật tôi, vì bà tôi là người Việt Nam, nên tôi là người Pháp gốc Việt. Và tôi tạo ra mối liên hệ giữa tất cả những câu chuyện nhỏ mà chúng ta tìm thấy trong mọi bộ phim tài liệu, đôi khi với những hình ảnh có tôi xuất hiện trong đó. Tôi cũng sẽ không xuất hiện nhiều đâu. Nhưng khi tôi làm một đoạn phim giới thiệu, tôi phải đặt mình vào cảnh một chút để kích hoạt câu chuyện, nếu không thì chỉ lồng tiếng thôi. Nhưng thực sự, ngoài bản thân tôi, tôi nghĩ nhân vật chính, đó là Việt Nam.” Như đã nói ở trên, ban đầu François Bibonne dự định làm một bộ phim tài liệu về bóng đá Việt Nam, nhưng cuối cùng anh quyết định là phim sẽ không bám vào thời sự của môn bóng tròn, mà sẽ là một bộ phim "phi thời gian tính": "Khi tôi đến Việt Nam để thực hiện dự án mới này, thực ra tôi đã bắt đầu theo dõi đội tuyển quốc gia, đã có rất nhiều trận thua vào thời điểm đó. Vì vậy, tôi hơi xuống tinh thần. Tôi vẫn muốn làm bộ phim này, nhưng nói ít hơn về đội tuyển quốc gia và thời gian đó người dân cũng bớt hồ hởi với bóng đá. Thế rồi gần đây, họ đã giành được chức vô địch Đông Nam Á. Họ có một huấn luyện viên mới là người Hàn Quốc và đã gặt hái rất nhiều thành công. Mọi người thực sự tin tưởng vào đội tuyển quốc gia và thực sự đang có một điều gì đó rất tích cực. Bối cảnh rất thuận lợi cho dự án của tôi. Thật ra dầu sao thì tôi không bị ảnh hưởng bởi thời sự, bởi vì tôi làm một bộ phim tài liệu điện ảnh hơn là một bộ phim tài liệu về các vấn đề thời sự, vì vậy có thể nói rằng, những gì tôi làm gần như là phim tài liệu hư cấu, một dự án dài hạn, mà tôi hy vọng sẽ là phi thời gian tính, bất kể các sự kiện hiện tại. Giống như bộ phim trước, đó là một bộ phim mà tôi nghĩ chúng ta cũng có thể xem sau nay, không nhất thiết phụ thuộc vào các sự kiện hiện tại." Trên con đường tìm về nguồn khi thực hiện bộ phim "Once Upon a Bridge II", đạo diễn trẻ Bibonne đã có dịp đến Hải Phòng, thành phố quê hương của người bà: “Tôi chưa từng đến đó, mặc dù thành phố Hải Phòng là nơi bà tôi sinh ra, đúng hơn bà sinh ra ở một ngôi làng nhỏ không xa Hải Phòng, nhưng là trong khu vực đó. Vì vậy, nó vẫn rất mang tính biểu tượng. Đến Hải Phòng là một trải nghiệm với nhiều cảm xúc mạnh mẽ, vì nguồn gốc của tôi là từ đó. Chứ bóng đá không liên quan gì đến bà tôi. Điều thú vị nữa là tìm thấy chính mình, trong một môi trường mà trước đó tôi không biết, và đó là điều tôi muốn khám phá thông qua âm nhạc. Nhưng tôi nghĩ rằng đây là những khám phá về khắp mọi miền đất nước, không nhất thiết phải liên quan trực tiếp đến bà tôi. Tôi đã đến khá nhiều nơi mà bà nghĩ là đã từng đến, nhưng vì nó cũng rất xa ngay cả trong ký ức của bà, nên tôi không chắc có đúng như thế không. Tôi biết là bà tôi có gia đình ở Hải Phòng, nhưng thực sự rất khó tìm được họ.Tôi thích mọi thứ bên bờ biển, mà Hải Phòng thì cũng bờ biển, cho nên có điều gì đó rất đặc biệt. Rồi có các tòa nhà từ thời thuộc địa Pháp, hải cảng, v.v. Có một nền văn hóa địa phương cũng rất đặc biệt. Ở Pháp, bà tôi ở cũng từng sống ở miền nam bên bờ biển, có lẽ vì vậy bà thích Hải Phòng. Cuộc sống ở đây ít hối hả hơn so với Hà Nội và tôi cũng thực sự thích điều đó.” François Bibonne cho biết trong quá trình làm phim, anh cũng đã đến Pleiku, đến Kontum và đã gặp người sắc tộc thiểu số Ba Na, rồi đến Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh, miền Bắc Việt Nam, gần Trung Quốc. Ở vùng đó, Bibonne đã gặp người dân tộc Sán Chay, họ đã hát cho anh nghe một bài hát rất hay. Có những khám phá, những giao lưu văn hóa và đối với anh bóng đá trở thành như là một cái cớ để dẫn đến những cuộc gặp gỡ đó. Bibonne tiếp tục đưa âm nhạc truyền thống Việt Nam vào "Once Upon a Bridge II", tiếp tục kết nối những nhạc cụ dân tộc với những nhạc cụ phương Tây. Thực hiện bộ phim tiếp nối “Once Upon a Bridge in Vietnam”, François Bibonne cũng vẫn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ đã được biết đến nhiều qua bộ phim đầu tay, anh cũng được hỗ trợ nhiều hơn: “Khó khăn đầu tiên là có được sự thoải mái trong một môi trường xa lạ, đó là bóng đá. Vì vậy, tôi đã phải tìm hiểu rất nhiều, thậm chí nói chuyện với bạn bè ở Pháp, hiểu rõ hơn về bóng đá và nắm được những điều cơ bản, v.v. Tiếp đến là vấn đề về kỹ thuật, vì quay phim bóng đá rất phức tạp. Ta không thể quay bằng camera từ khán đài, mà phải cố vào được trong sân để quay cận cảnh các cầu thủ, một thao tác mang tính kỹ thuật rất cao. Và sau đó, cũng như mọi người Pháp, mọi người nước ngoài, trong cuộc sống hàng ngày ở Việt Nam, luôn có vấn đề về hàng rào ngôn ngữ. Tôi đang học tiếng Việt, ngày càng giỏi hơn, nhưng vẫn chưa đủ để thực hiện các cuộc phỏng vấn. Ngoài ra còn có vấn đề về ngân sách, hiện giờ tôi phải bỏ tiền túi ra và tôi rất muốn sau này tìm được các nhà tài trợ, nhưng tôi tự tin hơn. Nhờ thành công của bộ phim trước, tôi ngày càng được mọi người biết đến tôi và tôi hy vọng tìm được một nhà phát hành ở Pháp, có thể là kênh TV5 Monde hay một kênh nào đó. Các nhà báo ở Việt Nam, những người có đầu óc rất cởi mở, sẽ giúp tôi tiếp cận những thứ mà trước đây tôi có thể không có. Thêm vào đó, tôi đã định cư ở Việt Nam trong thời gian dài, trong khi trước đây tôi làm phim trong thời kỳ đại dịch. Vì vậy, bây giờ bối cảnh vẫn thuận lợi hơn.” François Bibonne cho biết: "Tôi đã quay được hai phần ba, gần ba phần tư, những gì tôi muốn. Vì vậy, tôi nghĩ có thể hoàn tất việc quay mọi thứ tôi cần vào khoảng tháng 9 và có thể hoàn thành việc biên tập phim vào khoảng tháng 11. Và biết đâu có thể kịp để gởi nó đến Liên hoan điện ảnh châu Á Vesoul!" Bộ phim đầu tay "Once Upon a Bridge in Vietnam" của Bibonne đã từng được trình chiếu tại Liên hoan Vesoul năm 2023, tranh giải trong hạng mục Phim tài liệu. Tuy không nhận được giải nào, nhưng qua Liên hoan này mà chàng đạo diễn trẻ mang hai giòng máu Pháp-Việt được công chúng quốc tế biết đến nhiều hơn. "Once Upon a Bridge in Vietnam" đã từng đoạt giải Phim tài liệu ngắn hay nhất tại Liên hoan Phim Los Angeles 2022. Phim còn đã được trình chiếu ở rất nhiều nơi tại Việt Nam, Pháp, Anh và Hoa Kỳ. "Once Upon a Bridge in Vietnam" đã được phát trên hai nền tảng phát trực tuyến lớn tại Việt Nam FPT Play và Galaxy Play. Anh hy vọng là bộ phim thứ hai cũng sẽ được chiếu trên hai nền tảng đó. Nhưng François Bibonne cho biết ở Pháp, anh vẫn chưa tìm được nhà phân phối cho bộ phim đầu tiên, vì phải đáp ứng rất nhiều yêu cầu. Tuy nhiên, nhà đạo diễn trẻ vẫn không nản chí, tin tưởng là sẽ làm được.
Lãnh đạo của Phật giáo Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma đã mừng thọ 90 tuổi hôm 06/07 vừa qua và tuyên bố sẽ tái sinh, tiếp nối truyền thống hàng ngàn năm ở Tây Tạng trong một thế giới tự do, xoá bỏ những nghi ngờ rằng ngài sẽ là vị Đạt Lai Lạt Ma cuối cùng. Việc chọn người tiếp nối Đạt Lai Lạt Ma, một vấn đề tâm linh trong Phật Giáo Tây Tạng, đã trở thành vấn đề chính trị khi Trung Quốc “phi tôn giáo” muốn can thiệp, tự chọn người kế vị. Với tên khai sinh là Tenzin Gyatso, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là vị lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng hưởng thọ lâu nhất từ 600 năm qua, qua các đời Đạt Lai Lạt Ma. Tự mô tả mình là một “nhà tu hành đơn thuần,” Đạt Lai Lạt Ma được hàng triệu tín đồ tin theo, tôn thờ ông như là một vị Phật sống, là người bảo hộ cho vùng đất thiêng. Ông đã phải sống lưu vong, rời khỏi quê hương vào những năm 1950, khi Trung Quốc tiến hành cuộc đàn áp quân sự, nhằm kiểm soát khu vực này. Đạt Lai Lạt Ma trở thành biểu tượng của khát vọng tự do, của hòa bình, dù bị Bắc Kinh coi là kẻ ly khai. Vài ngày trước khi bước sang tuổi 90, ông đã dập tắt những đồn đoán cho rằng mình là vị Đạt Lai Lạt Ma cuối cùng, tuyên bố sẽ có người kế nhiệm khi ông qua đời. Văn phòng của Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ đạo việc tìm kiếm và công nhận người kế nhiệm theo truyền thống lâu đời trong Phật giáo Tây Tạng. Trong Phật Giáo Tây Tạng, tái sinh những tulku là những cao tăng giác ngộ, và họ lựa chọn quyết định tái sinh để tiếp tục phụng sự chúng sinh. Sau khi chết, tâm thức sẽ chuyển sang một thân xác mới. Đối với Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma (Panchen Lama), hai cao tăng có chức vị cao nhất, việc tái sinh của họ được quy định rõ ràng. Để tìm ra người được tái sinh, đầu tiên phải dựa trên những dấu hiệu, những điều đã được tiên tri, những điềm báo và một loạt bài kiểm tra, ví dụ như xem đứa trẻ có phản ứng với những vật dụng của người tiền nhiệm hay không. Liên quan đến sự can thiệp của Trung Quốc, cách nay 30 năm, vào năm 1995, Đạt Lai Lạt Ma đã công nhận Gedhun Choekyi Nyima là hiện thân của Ban Thiền Lạt Ma thứ 11. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, hiện thân của cao tăng này, lúc đó 6 tuổi, đã bị bắt cóc, và từ đó cho đến nay vẫn chưa rõ tung tích. Vụ việc được cho là do chính phủ Cộng Sản Trung Quốc đứng đằng sau. Bởi vài tháng sau vụ "bắt cóc" này, Bắc Kinh đã "tìm ra" hiện thân của Panchen Lama, Gyaltsen Norbu, qua một quá trình được cho là không minh bạch, và về phe chính phủ Trung Quốc. Vị Lạt Ma này không được phía Tây Tạng và Đạt Lai Lạt Ma hiện tại công nhận. Nếu như tuyên bố sẽ tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma được tín đồ hoan nghênh thì, nhiều người lo sợ rằng khi Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 qua đời, Bắc Kinh sẽ tận dụng này để "kiểm soát đức tin", dẫn đến nguy cơ xảy ra kịch bản : một Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 được chỉ định theo phương cách truyền thống của Tây Tạng và một người khác được Trung Quốc chỉ định. Để tìm hiểu về truyền thống tái sinh này, cũng như những vấn đề địa chính trị trước sự can thiệp của Trung Quốc, trong mục tạp chí xã hội tuần này, RFI Tiếng Việt đã mời các chuyên gia về Tây Tạng, bà Katia Buffetrille, nhà nhân chủng học, tại trường École Pratique des Hautes Études, và Nicola Schneider, nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Văn Minh Á Đông (Centre de recherche sur les civilisations de l'Asie orientale). Cả hai đã nghiên cứu về Tây Tạng từ hơn hai chục năm qua, với nhiều công trình nghiên cứu về nhân chủng học, cũng như tôn giáo. RFI : Đạt Lai Lạt Ma chiếm vị trí như thế nào trong phật giáo Tây Tạng, và tầm quan trọng của tuyên bố về việc ngài sẽ tái sinh được đánh giá như thế nào ? Nicola Schneider : Vào năm 2011, khi người dân Tây Tạng bầu chọn người đứng đầu chính phủ lưu vong và Đạt Lai Lạt Ma quyết định rút khỏi chính trường, trao toàn bộ quyền cho chính phủ này. Trước đó, ông vừa là lãnh tụ tinh thần, vừa là lãnh đạo về mặt chính trị. Năm đó, ông cũng đã tuyên bố khi 90 tuổi sẽ quyết định liệu có tái sinh hay không. Trong suốt thời gian này, hầu hết người Tây Tạng và các tín đồ đều mong muốn ông tái sinh. Đó chính là điều mà ông đã tuyên bố. Katia Bufetrille : Đối với người dân Tây Tạng, Đạt Lai Lạt Ma được coi là hiện thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, của lòng từ bi. Có thể nói, Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã minh chứng cho lòng từ bi, nhân ái đó trong suốt cuộc đời mình. Vấn đề tái sinh của ngài không chỉ liên quan đến người dân Tây Tạng, đến Phật tử nói chung, hay liên quan đến tín ngưỡng, bởi vấn đề thuần tuý về tôn giáo đang trở trành vấn đề chính trị do sự can dự của Trung Quốc vào việc chọn người kế nhiệm. Dù đã từ bỏ chính trị, sức hút của Đạt Lai Lạt Mai, đã đi nhiều nơi và gặp nhiều lãnh đạo các nước, dù muốn hay không vẫn bị đặt trên bàn cờ chính trị. Nicola Schneider : Có thể nói Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 là một trường hợp đặc biệt. Không phải tất cả các đời Đạt Lai Lạt Ma đều có tầm ảnh hưởng quốc tế như ông, dĩ nhiên là vì trước đây thế giới chưa toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay. Riêng ảnh hưởng vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, thông qua việc lên tiếng vì hòa bình, lòng từ bi, các giá trị đạo đức mang tính phổ quát, đã vượt ra ngoài phạm vi cộng đồng người Tây Tạng. Ngày nay, hào quang của ông không chỉ trong thế giới Phật giáo, bao gồm cả các quốc gia như Việt Nam, mà còn lan rộng hơn thế nữa. Có thể nói ông là một nhân vật mang tính toàn cầu, thậm chí vượt ra ngoài khuôn khổ của riêng Phật giáo. RFI : Việc Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 rút khỏi chính trường, ủy quyền cho chính phủ Tây Tạng lưu vong liệu có phải là cách để dần tách tôn giáo khỏi chính trị ? Katia Buffetrille : Đó là một quyết định có chủ đích, nhằm xây dựng một nền dân chủ cho người Tây Tạng. Ông cho rằng mô hình cũ không còn phù hợp, đặc biệt trong hoàn cảnh lưu vong. Điều đáng nói là ông không hề được giáo dục theo tư tưởng dân chủ phương Tây, nhưng lại là người chủ động thúc đẩy dân chủ. Dù ngay từ đầu ông đã phải đối mặt với nhiều chống đối trong nội bộ, nhưng ông vẫn kiên định. Nicola Schneider : Dù chính quyền Tây Tạng lưu vong đã trải qua quá trình thế tục hóa, yếu tố tôn giáo vẫn còn hiện diện trong cơ cấu chính trị. Quốc Hội Tây Tạng không giống mô hình nghị viện kiểu phương Tây, như ở Pháp, nơi đại biểu được bầu theo đảng phái hoặc khu vực bầu cử thông thường. Tại đây, Quốc Hội gồm cả đại biểu thế tục, được bầu theo ba vùng văn hóa lớn của Tây Tạng: Ü-Tsang (Tây Tạng trung tâm), Kham và Amdo (Tây Tạng phía đông), và 10 đại biểu đến từ các trường phái Phật giáo lớn, phần lớn là tăng sĩ. Trong tổng số 45 nghị sĩ, đây là một thiểu số. Một số người cho rằng điều này cho thấy ảnh hưởng tôn giáo vẫn tồn tại, thậm chí chỉ trích đó là tàn dư của chế độ thần quyền. Nhưng quan điểm này không phổ biến. Nhiều người Tây Tạng lập luận rằng việc có các tăng sĩ trong Quốc Hội là cần thiết: họ không vướng bận đời sống gia đình, có thể dốc toàn tâm toàn lực cho Tây Tạng. Đọc thêmTìm người kế vị Đạt Lai Lạt Ma: Cuộc đấu sinh tử với Bắc Kinh vì "tự do cho Tây Tạng" RFI : Trung Quốc, đã nhiều lần nhấn mạnh sự tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma phải được Bắc Kinh chấp thuận và người tái sinh phải ở trên lãnh thổ Trung Quốc, cho rằng việc tái sinh là vấn đề chủ quyền của nhà nước, việc nội bộ của Bắc Kinh. Vào năm 1995, chính phủ Trung Quốc đã bổ nhiệm một Đức Ban Thiền Lạt Ma trái ngược với Đức Đạt Lai Lạt Ma được công nhận hiện nay. Cụ thể, Bắc Kinh đã tìm cách biến việc tái sinh thành công cụ chính trị, kiểm soát tâm linh Tây Tạng như thế nào ? Nicola Schneider : Trung Quốc tin rằng nếu kiểm soát được người kế nhiệm Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ gia tăng ảnh hưởng. Nhưng đó là điều phi lý, bởi Trung Quốc là một chính quyền Cộng sản, vốn theo chủ nghĩa vô thần. Một nhà nước vô thần sao lại đặt ra luật lệ về tái sinh, tức là những quy định tôn giáo, và áp đặt chúng lên một dân tộc không phải người Trung Hoa, có văn hóa và tín ngưỡng riêng biệt? Trung Quốc ngày nay đã tự tạo ra một bộ quy tắc riêng để xác định hóa thân tiếp theo của Đạt Lai Lạt Ma. Họ biện minh điều này dựa trên tiền lệ lịch sử. Đúng là từng có một số trường hợp trong quá khứ, nhưng đó không phải là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa như ngày nay. Đó là thời nhà Thanh, triều đại của người Mãn, vốn không phải người Trung Quốc. Người dân Tây Tạng vẫn luôn nhấn mạnh, cũng như Đạt Lai Lạt Ma đang cố gắng truyền đạt trên trường quốc tế rằng quyền quyết định tái sinh phải thuộc về người Tây Tạng, bởi đây là Phật giáo của họ, là văn hóa và bản sắc của họ. Không ai từ bên ngoài có thể áp đặt điều đó. Katia Buffetrille : Chính quyền Trung Quốc đã sử dụng “Chiếc bình vàng”, một nghi thức do hoàng đế Mãn Thanh Càn Long thiết lập vào thế kỷ 18 để chọn ra một ứng viên Đạt Lai Lạt Ma thông qua hình thức bốc thăm. Tuy nhiên, theo một nhân chứng từng có mặt tại đền Jokhang vào thời điểm đó và sau này đã trốn thoát, việc bốc thăm không hề minh bạch, vì một trong các thẻ bốc có gắn que dài hơn, giúp dễ dàng nhận ra. Điều này đặt ra nghi vấn nghiêm trọng về tính công bằng và hợp pháp của nghi thức. Sự can thiệp của Trung Quốc rất mạnh mẽ, như việc Bảo tàng Guimet (Paris), bảo tàng nghệ thuật châu Á lớn nhất châu Âu, đã loại bỏ từ “Tây Tạng” khỏi các triển lãm, thay bằng cụm mơ hồ như “Himalaya và vùng đất Tuyết” trong một cuộc trưng bày về nhà Đường. Nhiều người cho rằng việc này nhằm chiều theo yêu cầu của Bắc Kinh. Đây là điều nghiêm trọng, vì nó cho thấy Trung Quốc đang ảnh hưởng đến cách kể lại lịch sử và văn hóa, ngay cả tại các bảo tàng quốc gia. Chiến lược này không chỉ giới hạn ở châu Âu : tại Việt Nam, Nepal và Bhutan, Bắc Kinh cũng gây áp lực để các nước này dùng từ “Xizang”(phiên âm Hán ngữ của “Tây Tạng”) thay vì “Tibet”, giống như thể ta gọi “France” là “Faguo” theo cách Trung Quốc, trong khi rõ ràng đó không phải là cách gọi của người bản địa. RFI : Tại một thế giới ngày càng bị chia rẽ, các nước tranh nhau giành ảnh hưởng, vai trò của người kế nhiệm Đạt Lai Lạt Ma sẽ ra sao ? Truyền thống tái sinh và vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 15 có thể được duy trì, hay sẽ chấm dứt vòng luân hồi ? Nicola Schneider : Việc tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống người Tây Tạng. Tuy nhiên, sau khi một Đạt Lai Lạt Ma qua đời, quá trình tìm hóa thân mới phải mất ít nhất 2 đến 3 năm. Ngay cả sau đó, người được công nhận là hóa thân của ngài, vốn chỉ là một đứa trẻ, cũng không thể đảm đương vai trò lãnh đạo tinh thần cho đến khi trưởng thành. Theo truyền thống, giai đoạn này được điều hành bởi một nhiếp chính (Gyälpo) không được bầu chọn, nắm quyền thay mặt Đạt Lai Lạt Ma cho đến khi hóa thân đủ tuổi (khoảng 18 tuổi). Nhưng ngày nay, như đã khẳng định trong cuộc họp báo gần đây, không còn cần đến nhiếp chính nữa, vì chính quyền Tây Tạng lưu vong đã là một thể chế dân chủ có đầy đủ quyền lực. Nếu sau này có một vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 15, ông sẽ không có sức ảnh hưởng về mặt chính trị, mà chỉ đảm nhiệm vai trò lãnh đạo tinh thần. Đây là điều mà Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã tiên liệu từ rất sớm : Ngay từ năm 1969, ông đã công khai quan điểm tách biệt tôn giáo và chính trị trong tương lai Tây Tạng. Katia Buffetrille : Đạt Lai Lạt Ma tương lai sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc kế vị, bởi vì vị thứ 14 đã thực sự để lại dấu ấn sâu đậm trong thời đại của mình. Người kế vị sẽ phải nỗ lực rất nhiều để đạt đến tầm vóc đó. Vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6, giống như vị thứ 4, sinh ra bên ngoài Tây Tạng, vị thứ 4 sinh ở Mông Cổ, còn vị thứ 6 sinh tại Tawang, Arunachal Pradesh, một vùng thuộc Ấn Độ nhưng có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc. Vị thứ 6 không hề yêu thích cuộc sống của một Đạt Lai Lạt Ma; ông thích thơ ca và phụ nữ hơn. Dù vậy, ông vẫn được người Tây Tạng hết mực tôn kính. Ông không phải là một hành giả trên con đường giác ngộ, nhưng đã để lại nhiều bài thơ hay và luôn là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 trong lòng người Tây Tạng. Chức vị này không phải là một tước hiệu có thể nhận hoặc từ bỏ như Giáo hoàng. Khi đã là Đạt Lai Lạt Ma thì suốt đời đều là như vậy. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn chuyên gia về Tây Tạng, Katia Buffetrille, nhà nhân chủng học, tại trường École Pratique des Hautes Études, và Nicola Schneider, nhà nghiên cứu tại VCentre de recherche sur les civilisations de l'Asie orientale, tại Pháp.
“Ngày 01/07/2025 sẽ đi vào lịch sử cải cách bộ máy nhà nước Việt Nam như một dấu mốc mang tính đột phá và kiến tạo, cũng như lịch sử xây dựng và phát triển đất nước”. Tuyên bố được đăng trên trang web Cải cách Hành chính vì Việt Nam chính thức có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 28 tỉnh và 6 thành phố, giảm gần một nửa so với trước đây. Đề án sáp nhập là do tổng bí thư Tô Lâm chủ trương và Quốc Hội biểu quyết thông qua ngày 12/06. Tinh giản bộ máy nhà nước được coi là điều vô cùng cần thiết để Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Thực hiện thành công công cuộc cải cách lần này, tổng bí thứ Tô Lâm còn cho thấy quyền lực cá nhân và những chiến lược tập trung quyền lực đằng sau. Đây là nhận định của giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 04/07/2025. RFI : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính đã diễn ra nhiều lần trong lịch sử Việt Nam và lần gần đây nhất có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2025. Mục tiêu của cuộc cải cách này là gì ? Benoît de Tréglodé : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính, cụ thể là giảm từ 63 tỉnh, thành xuống còn 34, bao gồm 28 tỉnh và 6 thành phố do chính quyền trung ương quản lý. Đây là một bước vô cùng quan trọng trong công cuộc cải cách đất nước, theo mong muốn của tổng bí thư Tô Lâm, với mục tiêu đầy tham vọng : thúc đẩy phát triển để đưa Việt Nam thành nước phát triển có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Vì vậy, cải cách bộ máy Nhà nước là một chặng, việc sáp nhập tỉnh cũng rất quan trọng, bởi vì qua đó người ta thấy một quyết tâm kỹ trị, một mong muốn kinh doanh và cả kinh tế, trong khi người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng luôn đặt trọng tâm vào sự trong sạch thuần túy về mặt tư tưởng và kỷ luật của đảng. Điều mà tổng bí thư Tô Lâm thúc đẩy trong cuộc cải cách lần này là tạo ra những thực thể hành chính mới có khả năng cạnh tranh từ góc độ kinh tế. Tôi muốn nói đó là điều rất cụ thể, chứ không chỉ là lý thuyết. Có hai lưu ý sơ bộ để hiểu về cuộc cải cách này. Điều đáng chú ý trước tiên là ý muốn của một người, ở đây là ông Tô Lâm. Những địa giới hành chính mới của các tỉnh cũng là cách cho thấy quyết định được đưa từ trên xuống. Việc này đưa Đảng, và cuối cùng là tổng bí thư, vào trung tâm của quá trình ra quyết định mang tính quốc gia. Quốc Hội không thảo luận về dự án này mà chỉ phê duyệt. Chúng ta đang quay trở lại với một logic khá cũ, bị quên trong hơn một thập niên, là các đại biểu Quốc Hội tranh luận về các dự án lớn của bộ máy. Ở đây, ông Tô Lâm áp đặt cải cách mà Quốc Hội sẽ thông qua. Điểm này rất quan trọng mà tôi sẽ đề cập sau. Lưu ý thứ hai, đó là ông Tô Lâm gọi “cuộc cách mạng chống quan liêu” để tăng thêm hiệu quả. Có một điều không thể phủ nhận mà bất kỳ ai theo dõi hoặc quan sát các vấn đề chính trị, hành chính, cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam đều không thể nói ngược lại : Hết thập niên này sang thập niên khác, một bộ máy quan liêu ngày càng phình to được lập ở nhiều cấp độ, từ xã, huyện đến tỉnh và trung ương, cho nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động. Khi tổng bí thư nói đến việc tinh gọn, làm cho bộ máy hành chính chặt chẽ, mạnh mẽ, hiệu quả, hiệu suất hơn (về mặt giấy tờ), người ta có thể nói rằng ông ấy có lẽ đúng. Quá trình hiện đại hóa kinh tế của đất nước chắc chắn sẽ liên quan đến cuộc đổi mới này, bởi vì một bộ máy hành chính kém hiệu quả, cồng kềnh là rất tốn kém và chỉ tạo thêm “cửa” cho các nhà đầu tư muốn làm việc với Việt Nam. Đọc thêmTô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bản Ngoài ra, còn phải kể đến 3 lý do chính đằng sau việc tái cấu trúc hành chính và sáp nhập tỉnh. Thứ nhất, việc tinh giản bộ máy hành chính địa phương làm giảm các điểm tiếp xúc, các cấp ra quyết định và các tuyến chỉ huy, cho nên giảm được gánh nặng hành chính cho những người muốn làm việc với một địa phương. Có nghĩa là ít “cửa” hơn, ít tham nhũng hơn một chút, bởi vì có ít người để “làm việc” hơn. Lý do chính thứ hai, cải tổ ở cấp độ các vùng lãnh thổ Việt Nam sẽ tạo nên các không gian thúc đẩy động lực kinh tế và hạn chế chủ nghĩa địa phương. Cho nên cần nhắc lại, tinh giản là để hiệu quả hơn. Điểm thứ ba, được nhiều chuyên gia nêu lên : Cuộc cải cách lần này là nhằm giảm bớt ngân sách nhà nước, hiện dành tới 70% cho chi phí vận hành định kỳ của các cơ quan hành chính. Mục tiêu mang tính kinh tế, rất cụ thể. Nhưng đó không phải là những lý do duy nhất mà chúng ta sẽ nói đến sau. RFI : Ở Pháp, việc phân chia đơn vị hành chính đôi khi cũng được thực hiện vì mục đích bầu cử. Liệu trường hợp này có diễn ra ở Việt Nam không vì Đại hội Đảng cũng đang đến gần, trong khi lợi ích tài chính, đơn giản hóa hành chính… vẫn được nhấn mạnh khi sáp nhập tỉnh, như ông nhắc đến ở trên ? Benoît de Tréglodé : Tôi nói ngay là có. Đó là điều hiển nhiên. Tôi đã nhấn mạnh đến khía cạnh mục tiêu và tổ chức, rất cơ bản của cuộc cách mạng chống quan liêu. Đừng quên rằng chúng ta đang ở Việt Nam, Đại hội Đảng sẽ diễn ra trong chưa đầy một năm. Vì vậy, cuộc cách mạng mang hai mục tiêu, vừa về kinh tế, và đối với ông Tô Lâm, chắc chắn là còn mang tính chính trị. Sự tập trung chính trị này có nghĩa là gì ? Đây chỉ là một vấn đề đơn giản về số học. Cuộc cải cách sẽ củng cố sự tập trung chính trị. Ít tỉnh hơn, sẽ có ít người tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương hơn, và như vậy sẽ tạo thuận lợi cho bộ Chính trị hoặc ban bí thư, chỉ phải kiểm soát ít hơn. Việc giảm số lượng tỉnh cũng dẫn đến việc giảm số lượng đại biểu được cử vào Ban Chấp hành Trung ương. Điều này rất quan trọng, bởi vì Ban Chấp hành Trung ương và các ban chính trị của đảng sẽ được bầu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 14 của đảng vào đầu năm 2026. Với việc ít tỉnh hơn, ít đại diện hơn, rõ ràng việc này sẽ giúp tập trung ảnh hưởng nhiều hơn vào tay ông Tô Lâm và các đồng minh của ông. Không cần phải che giấu, cuộc cải cách này còn có mục đích tập trung quyền lực xung quanh lãnh đạo quyền lực của hệ thống chính trị Việt Nam, trong trường hợp này là tổng bí thư. Theo logic của Tô Lâm hiện nay, tập trung quyền lực cũng là bảo đảm thêm sự ổn định chính trị cho đất nước, cho đội ngũ lãnh đạo đất nước. Lập luận này xuất phát từ nhận định là cần phải phát triển Việt Nam về kinh tế để đạt được mục tiêu phát triển đầy tham vọng năm 2045 và để chống lại những bất ổn trên chính trường khu vực và quốc tế, cũng tác động đến Việt Nam. Nói tóm lại, mục đích chính trị cũng đi kèm với mục tiêu hành chính và kinh tế trong đợt cải cách quy mô lớn này. RFI : Làm thế nào có thể tiến hành cuộc cải cách vào thời điểm này và nhanh đến như vậy ? Benoît de Tréglodé : Quả thực, rất nhiều người thắc mắc về vấn đề này. Đã thành thông lệ là mỗi năm trước kỳ Đại hội đảng vẫn có những chiến dịch chống tham nhũng lớn (tiếp tục hoặc tái khởi động) để phân loại trong số những người thân cận hoặc đối thủ của những nhân vật chuẩn bị cho đại hội sau đó. Năm nay, không nhất thiết phải là một chiến dịch chống tham nhũng mới khiến toàn bộ môi trường chính trị ngưng đọng hoàn toàn, mà là cuộc đại cải cách đầy tham vọng hệ thống hành chính Việt Nam, theo mong muốn của ông Tô Lâm. Điều có thể nghĩ tới ngay lập tức, nếu một cuộc cải cách đầy tham vọng như vậy được thực hiện bởi một người duy nhất thì đó là do ông ấy không cảm thấy bị bất kỳ ai đe dọa và điều này nằm trong quyền lực to lớn của ông trong bộ máy chính trị Việt Nam. Vào đúng năm trước Đại hội Đảng, với cuộc tinh giản bộ máy hành chính ở cấp địa phương, nhưng cũng có thể nói là ở cấp trung ương, ở cấp bộ, không ai chắc chắn là giữ được vị trí của mình, kể cả trong Ban Chấp hành Trung ương. Số người may mắn được chọn sẽ ít hơn vào năm 2026. Có thể nói rằng chiến dịch kiểm soát khổng lồ này thậm chí còn hiệu quả hơn các chiến dịch chống tham nhũng thông thường. Bởi vì chúng khiến mọi người run sợ, ai cũng muốn giữ lấy chỗ và có thể theo đuổi sự nghiệp trong một bộ máy hành chính bị thu hẹp lại. Đọc thêmViệt Nam : Chủ tịch nước bị cách chức, tổng bí thư bị tiếm quyền ? Cuối cùng, chỉ một người thắng cuộc lớn nhất, đó là ông Tô Lâm, người tổ chức công cuộc này cùng với ban lãnh đạo của ông hiện tại hoặc trước đây trong bộ Công An. Có một bầu không khí chung, có thể nói là lo lắng, về sự chuyển đổi xã hội này, cho dù nhiều người hoan nghênh, đánh giá dự án là “cao cả”, để bộ máy hành chính cồng kềnh trở nên hiệu quả hơn, sáp nhập các đơn vị hành chính chồng chéo để giúp đất nước giàu mạnh hơn, các địa phương hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài hơn. Nhưng thường thì ở Việt Nam, người ta vẫn làm “một công đôi việc”. Người ta mang đến cho người dân một cuộc cải cách được hoan nghênh với những mục tiêu rất tham vọng, cao cả. Nhưng đồng thời, công cuộc này lại được thực hiện bởi một chính trị gia đang tận dụng nó để trụ vững ở trung tâm và thể hiện toàn bộ quyền lực của mình trong trung tâm bộ máy. RFI : Những tỉnh mới, từ giờ rộng lớn hơn rất nhiều, có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức nào trong tương lai ? Benoît de Tréglodé : Đây là cả một vấn đề. Đúng là có thể có những tác động tích cực, đúng đắn. Việc thành lập các siêu tỉnh để thu hút đầu tư nước ngoài có thể giúp địa phương phát triển hiệu quả hơn, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài qua việc “giảm hai, ba lần” số “cửa” tham nhũng. Trước đây, các nhà đầu tư nước ngoài đôi khi phải gõ cửa các ủy ban tỉnh, ủy ban huyện, xã, địa phương liên quan… càng nhiều cửa thì càng có nhiều công chức tham nhũng và càng khiến hoạt động thêm phức tạp. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các chính quyền mới sẽ đơn giản hơn và minh bạch hơn trong việc hợp tác sau khi cải cách sáp nhập tỉnh có hiệu lực từ ngày 01/07/2025. Đọc thêmChủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam Mặt khác, có thể là còn quá sớm để nói hoặc hình dung cụ thể hoạt động sẽ như thế nào, nhưng việc thành lập những tỉnh lớn như vậy có thể tạo nên sự bất ổn lâu dài nếu các nhà lãnh đạo tỉnh tương lai dần trở nên quyền lực hơn, một ngày nào đó không hoàn toàn chia sẻ năng lực hoặc tầm nhìn với ông Tô Lâm và bắt đầu tập trung quyền lực cho các mục đích cá nhân. Họ sẽ ít hơn về số lượng, họ sẽ quản lý các khu vực rộng hơn, giàu có hơn, phát triển hơn, họ có thể có tham vọng chính trị lớn hơn. Điều rủi ro là sự xuất hiện của các sếp lớn hoặc “lãnh chúa” lớn, đầy sức mạnh. Tôi nghĩ rằng ở cấp trung ương, trong vòng thân cận của tổng bí thư, mọi chuyện đã được xem xét rất chặt chẽ, bởi vì phải nhắc lại rằng mặt trái của việc sáp nhập tỉnh là các lãnh đạo tỉnh sẽ ít hơn nhưng có thể sẽ quyền lực hơn vì tỉnh của họ lớn hơn, đa dạng hơn, nhưng cũng có thể là họ sẽ bị cấp trung ương kiểm soát nhiều hơn vì họ không đông. Vì vậy, tương lai của mối liên kết giữa quyền tự chủ khu vực, phi tập trung nhưng dưới sự kiểm soát là cả một câu hỏi, là cả sự đánh cược mà ông Tô Lâm đang thực hiện để hiện đại hóa đất nước, thâu tóm và tập trung quyền lực tốt hơn trong 20 năm tới, giai đoạn mang tính quyết định trong việc đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2045. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược - IRSEM, Trường Quân sự Pháp.
“Ngày 01/07/2025 sẽ đi vào lịch sử cải cách bộ máy nhà nước Việt Nam như một dấu mốc mang tính đột phá và kiến tạo, cũng như lịch sử xây dựng và phát triển đất nước”. Tuyên bố được đăng trên trang web Cải cách Hành chính vì Việt Nam chính thức có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 28 tỉnh và 6 thành phố, giảm gần một nửa so với trước đây. Đề án sáp nhập là do tổng bí thư Tô Lâm chủ trương và Quốc Hội biểu quyết thông qua ngày 12/06. Tinh giản bộ máy nhà nước được coi là điều vô cùng cần thiết để Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Thực hiện thành công công cuộc cải cách lần này, tổng bí thứ Tô Lâm còn cho thấy quyền lực cá nhân và những chiến lược tập trung quyền lực đằng sau. Đây là nhận định của giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 04/07/2025. RFI : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính đã diễn ra nhiều lần trong lịch sử Việt Nam và lần gần đây nhất có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2025. Mục tiêu của cuộc cải cách này là gì ? Benoît de Tréglodé : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính, cụ thể là giảm từ 63 tỉnh, thành xuống còn 34, bao gồm 28 tỉnh và 6 thành phố do chính quyền trung ương quản lý. Đây là một bước vô cùng quan trọng trong công cuộc cải cách đất nước, theo mong muốn của tổng bí thư Tô Lâm, với mục tiêu đầy tham vọng : thúc đẩy phát triển để đưa Việt Nam thành nước phát triển có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Vì vậy, cải cách bộ máy Nhà nước là một chặng, việc sáp nhập tỉnh cũng rất quan trọng, bởi vì qua đó người ta thấy một quyết tâm kỹ trị, một mong muốn kinh doanh và cả kinh tế, trong khi người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng luôn đặt trọng tâm vào sự trong sạch thuần túy về mặt tư tưởng và kỷ luật của đảng. Điều mà tổng bí thư Tô Lâm thúc đẩy trong cuộc cải cách lần này là tạo ra những thực thể hành chính mới có khả năng cạnh tranh từ góc độ kinh tế. Tôi muốn nói đó là điều rất cụ thể, chứ không chỉ là lý thuyết. Có hai lưu ý sơ bộ để hiểu về cuộc cải cách này. Điều đáng chú ý trước tiên là ý muốn của một người, ở đây là ông Tô Lâm. Những địa giới hành chính mới của các tỉnh cũng là cách cho thấy quyết định được đưa từ trên xuống. Việc này đưa Đảng, và cuối cùng là tổng bí thư, vào trung tâm của quá trình ra quyết định mang tính quốc gia. Quốc Hội không thảo luận về dự án này mà chỉ phê duyệt. Chúng ta đang quay trở lại với một logic khá cũ, bị quên trong hơn một thập niên, là các đại biểu Quốc Hội tranh luận về các dự án lớn của bộ máy. Ở đây, ông Tô Lâm áp đặt cải cách mà Quốc Hội sẽ thông qua. Điểm này rất quan trọng mà tôi sẽ đề cập sau. Lưu ý thứ hai, đó là ông Tô Lâm gọi “cuộc cách mạng chống quan liêu” để tăng thêm hiệu quả. Có một điều không thể phủ nhận mà bất kỳ ai theo dõi hoặc quan sát các vấn đề chính trị, hành chính, cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam đều không thể nói ngược lại : Hết thập niên này sang thập niên khác, một bộ máy quan liêu ngày càng phình to được lập ở nhiều cấp độ, từ xã, huyện đến tỉnh và trung ương, cho nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động. Khi tổng bí thư nói đến việc tinh gọn, làm cho bộ máy hành chính chặt chẽ, mạnh mẽ, hiệu quả, hiệu suất hơn (về mặt giấy tờ), người ta có thể nói rằng ông ấy có lẽ đúng. Quá trình hiện đại hóa kinh tế của đất nước chắc chắn sẽ liên quan đến cuộc đổi mới này, bởi vì một bộ máy hành chính kém hiệu quả, cồng kềnh là rất tốn kém và chỉ tạo thêm “cửa” cho các nhà đầu tư muốn làm việc với Việt Nam. Đọc thêmTô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bản Ngoài ra, còn phải kể đến 3 lý do chính đằng sau việc tái cấu trúc hành chính và sáp nhập tỉnh. Thứ nhất, việc tinh giản bộ máy hành chính địa phương làm giảm các điểm tiếp xúc, các cấp ra quyết định và các tuyến chỉ huy, cho nên giảm được gánh nặng hành chính cho những người muốn làm việc với một địa phương. Có nghĩa là ít “cửa” hơn, ít tham nhũng hơn một chút, bởi vì có ít người để “làm việc” hơn. Lý do chính thứ hai, cải tổ ở cấp độ các vùng lãnh thổ Việt Nam sẽ tạo nên các không gian thúc đẩy động lực kinh tế và hạn chế chủ nghĩa địa phương. Cho nên cần nhắc lại, tinh giản là để hiệu quả hơn. Điểm thứ ba, được nhiều chuyên gia nêu lên : Cuộc cải cách lần này là nhằm giảm bớt ngân sách nhà nước, hiện dành tới 70% cho chi phí vận hành định kỳ của các cơ quan hành chính. Mục tiêu mang tính kinh tế, rất cụ thể. Nhưng đó không phải là những lý do duy nhất mà chúng ta sẽ nói đến sau. RFI : Ở Pháp, việc phân chia đơn vị hành chính đôi khi cũng được thực hiện vì mục đích bầu cử. Liệu trường hợp này có diễn ra ở Việt Nam không vì Đại hội Đảng cũng đang đến gần, trong khi lợi ích tài chính, đơn giản hóa hành chính… vẫn được nhấn mạnh khi sáp nhập tỉnh, như ông nhắc đến ở trên ? Benoît de Tréglodé : Tôi nói ngay là có. Đó là điều hiển nhiên. Tôi đã nhấn mạnh đến khía cạnh mục tiêu và tổ chức, rất cơ bản của cuộc cách mạng chống quan liêu. Đừng quên rằng chúng ta đang ở Việt Nam, Đại hội Đảng sẽ diễn ra trong chưa đầy một năm. Vì vậy, cuộc cách mạng mang hai mục tiêu, vừa về kinh tế, và đối với ông Tô Lâm, chắc chắn là còn mang tính chính trị. Sự tập trung chính trị này có nghĩa là gì ? Đây chỉ là một vấn đề đơn giản về số học. Cuộc cải cách sẽ củng cố sự tập trung chính trị. Ít tỉnh hơn, sẽ có ít người tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương hơn, và như vậy sẽ tạo thuận lợi cho bộ Chính trị hoặc ban bí thư, chỉ phải kiểm soát ít hơn. Việc giảm số lượng tỉnh cũng dẫn đến việc giảm số lượng đại biểu được cử vào Ban Chấp hành Trung ương. Điều này rất quan trọng, bởi vì Ban Chấp hành Trung ương và các ban chính trị của đảng sẽ được bầu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 14 của đảng vào đầu năm 2026. Với việc ít tỉnh hơn, ít đại diện hơn, rõ ràng việc này sẽ giúp tập trung ảnh hưởng nhiều hơn vào tay ông Tô Lâm và các đồng minh của ông. Không cần phải che giấu, cuộc cải cách này còn có mục đích tập trung quyền lực xung quanh lãnh đạo quyền lực của hệ thống chính trị Việt Nam, trong trường hợp này là tổng bí thư. Theo logic của Tô Lâm hiện nay, tập trung quyền lực cũng là bảo đảm thêm sự ổn định chính trị cho đất nước, cho đội ngũ lãnh đạo đất nước. Lập luận này xuất phát từ nhận định là cần phải phát triển Việt Nam về kinh tế để đạt được mục tiêu phát triển đầy tham vọng năm 2045 và để chống lại những bất ổn trên chính trường khu vực và quốc tế, cũng tác động đến Việt Nam. Nói tóm lại, mục đích chính trị cũng đi kèm với mục tiêu hành chính và kinh tế trong đợt cải cách quy mô lớn này. RFI : Làm thế nào có thể tiến hành cuộc cải cách vào thời điểm này và nhanh đến như vậy ? Benoît de Tréglodé : Quả thực, rất nhiều người thắc mắc về vấn đề này. Đã thành thông lệ là mỗi năm trước kỳ Đại hội đảng vẫn có những chiến dịch chống tham nhũng lớn (tiếp tục hoặc tái khởi động) để phân loại trong số những người thân cận hoặc đối thủ của những nhân vật chuẩn bị cho đại hội sau đó. Năm nay, không nhất thiết phải là một chiến dịch chống tham nhũng mới khiến toàn bộ môi trường chính trị ngưng đọng hoàn toàn, mà là cuộc đại cải cách đầy tham vọng hệ thống hành chính Việt Nam, theo mong muốn của ông Tô Lâm. Điều có thể nghĩ tới ngay lập tức, nếu một cuộc cải cách đầy tham vọng như vậy được thực hiện bởi một người duy nhất thì đó là do ông ấy không cảm thấy bị bất kỳ ai đe dọa và điều này nằm trong quyền lực to lớn của ông trong bộ máy chính trị Việt Nam. Vào đúng năm trước Đại hội Đảng, với cuộc tinh giản bộ máy hành chính ở cấp địa phương, nhưng cũng có thể nói là ở cấp trung ương, ở cấp bộ, không ai chắc chắn là giữ được vị trí của mình, kể cả trong Ban Chấp hành Trung ương. Số người may mắn được chọn sẽ ít hơn vào năm 2026. Có thể nói rằng chiến dịch kiểm soát khổng lồ này thậm chí còn hiệu quả hơn các chiến dịch chống tham nhũng thông thường. Bởi vì chúng khiến mọi người run sợ, ai cũng muốn giữ lấy chỗ và có thể theo đuổi sự nghiệp trong một bộ máy hành chính bị thu hẹp lại. Đọc thêmViệt Nam : Chủ tịch nước bị cách chức, tổng bí thư bị tiếm quyền ? Cuối cùng, chỉ một người thắng cuộc lớn nhất, đó là ông Tô Lâm, người tổ chức công cuộc này cùng với ban lãnh đạo của ông hiện tại hoặc trước đây trong bộ Công An. Có một bầu không khí chung, có thể nói là lo lắng, về sự chuyển đổi xã hội này, cho dù nhiều người hoan nghênh, đánh giá dự án là “cao cả”, để bộ máy hành chính cồng kềnh trở nên hiệu quả hơn, sáp nhập các đơn vị hành chính chồng chéo để giúp đất nước giàu mạnh hơn, các địa phương hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài hơn. Nhưng thường thì ở Việt Nam, người ta vẫn làm “một công đôi việc”. Người ta mang đến cho người dân một cuộc cải cách được hoan nghênh với những mục tiêu rất tham vọng, cao cả. Nhưng đồng thời, công cuộc này lại được thực hiện bởi một chính trị gia đang tận dụng nó để trụ vững ở trung tâm và thể hiện toàn bộ quyền lực của mình trong trung tâm bộ máy. RFI : Những tỉnh mới, từ giờ rộng lớn hơn rất nhiều, có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức nào trong tương lai ? Benoît de Tréglodé : Đây là cả một vấn đề. Đúng là có thể có những tác động tích cực, đúng đắn. Việc thành lập các siêu tỉnh để thu hút đầu tư nước ngoài có thể giúp địa phương phát triển hiệu quả hơn, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài qua việc “giảm hai, ba lần” số “cửa” tham nhũng. Trước đây, các nhà đầu tư nước ngoài đôi khi phải gõ cửa các ủy ban tỉnh, ủy ban huyện, xã, địa phương liên quan… càng nhiều cửa thì càng có nhiều công chức tham nhũng và càng khiến hoạt động thêm phức tạp. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các chính quyền mới sẽ đơn giản hơn và minh bạch hơn trong việc hợp tác sau khi cải cách sáp nhập tỉnh có hiệu lực từ ngày 01/07/2025. Đọc thêmChủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam Mặt khác, có thể là còn quá sớm để nói hoặc hình dung cụ thể hoạt động sẽ như thế nào, nhưng việc thành lập những tỉnh lớn như vậy có thể tạo nên sự bất ổn lâu dài nếu các nhà lãnh đạo tỉnh tương lai dần trở nên quyền lực hơn, một ngày nào đó không hoàn toàn chia sẻ năng lực hoặc tầm nhìn với ông Tô Lâm và bắt đầu tập trung quyền lực cho các mục đích cá nhân. Họ sẽ ít hơn về số lượng, họ sẽ quản lý các khu vực rộng hơn, giàu có hơn, phát triển hơn, họ có thể có tham vọng chính trị lớn hơn. Điều rủi ro là sự xuất hiện của các sếp lớn hoặc “lãnh chúa” lớn, đầy sức mạnh. Tôi nghĩ rằng ở cấp trung ương, trong vòng thân cận của tổng bí thư, mọi chuyện đã được xem xét rất chặt chẽ, bởi vì phải nhắc lại rằng mặt trái của việc sáp nhập tỉnh là các lãnh đạo tỉnh sẽ ít hơn nhưng có thể sẽ quyền lực hơn vì tỉnh của họ lớn hơn, đa dạng hơn, nhưng cũng có thể là họ sẽ bị cấp trung ương kiểm soát nhiều hơn vì họ không đông. Vì vậy, tương lai của mối liên kết giữa quyền tự chủ khu vực, phi tập trung nhưng dưới sự kiểm soát là cả một câu hỏi, là cả sự đánh cược mà ông Tô Lâm đang thực hiện để hiện đại hóa đất nước, thâu tóm và tập trung quyền lực tốt hơn trong 20 năm tới, giai đoạn mang tính quyết định trong việc đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2045. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược - IRSEM, Trường Quân sự Pháp.
Để có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay, Việt Nam đã đề ra một kế hoạch đầy tham vọng với nhiều dự án cơ sở hạ tầng lớn. Nhưng để những dự án này có thể được thật sự có hiệu quả, phải làm sao giải quyết được những nguyên nhân dẫn đến hai vấn đề chính, đó là đội vốn và trễ hạn. Trong năm 2025, tổng vốn đầu tư công được phê duyệt dự kiến sẽ lên tới 875 nghìn tỷ đồng (35 tỷ đô la ), tăng 37,7% so với tổng số vốn được giải ngân vào năm 2024. Các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng đang được xây dựng bao gồm Đường cao tốc Bắc-Nam và Sân bay quốc tế Long Thành. Riêng dự án tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam, sẽ có chi phí hơn 67 tỷ đô la và dự kiến hoàn thành vào năm 2035, đang gây rất nhiều tranh cãi ở Việt Nam. Theo bộ Xây Dựng Việt Nam, hiện đã có 5 doanh nghiệp nộp đề xuất sơ bộ đầu tư vào dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, trong đó có Công ty Đầu tư và Phát triển Đường sắt tốc độ cao Vinspeed, thuộc tập đoàn tư nhân Vingroup của nhà tỷ phú Phạm Nhật Vượng. Theo phương án đề xuất, VinSpeed cam kết tự tìm 20% vốn (tương đương khoảng 12 tỷ đô la), phần còn lại họ đề nghị được vay từ nguồn vốn nhà nước với lãi suất 0% trong 35 năm. Thời gian thi công dự kiến 5 năm và khai thác trong 99 năm. Tương tự, Thaco (Tập đoàn Trường Hải) cũng đề xuất phương án đầu tư với 20% vốn tự có, phần còn lại huy động từ các nguồn trong và ngoài nước, thời gian thi công 7 năm, vận hành 70 năm. Nhưng các chuyên gia đang đặt nhiều nghi vấn về khả năng của những tập đoàn nói trên huy động được số vốn cần thiết, cũng như khả năng hoàn thành dự án đúng thời hạn cam kết. Vấn đề là các dự án cơ sở hạ tầng công ở Việt Nam cho tới nay thường bị chậm tiến độ, lãng phí và bị đội vốn. Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó? RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore. RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, Việt Nam đã thông qua rất nhiều dự án xây dựng cơ sở tầng lớn, đặc biệt là dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Đối với một dự án lớn kéo dài nhiều năm như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam, liệu Việt Nam có đủ khả năng để huy động nguồn vốn? Và nhất là nếu có sự tham gia của các tập đoàn tư nhân như Vinspeed, liệu họ có đủ khả năng để huy động vốn? Lê Hồng Hiệp: Năm nay Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP là 8% và các năm sau là ít nhất là 10%. Trong bối cảnh các trụ cột khác của tăng trưởng kinh tế như là xuất khẩu, tiêu dùng trong nước, đổi mới sáng tạo, còn đang gặp rất là nhiều khó khăn, việc tăng cường đầu tư cả tư nhân lẫn đầu tư công, đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trở thành một lựa chọn bắt buộc đối với Việt Nam để giúp tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cần một nguồn vốn khổng lồ. Gần đây, các chuyên gia của tập đoàn phát triển hạ tầng tư nhân có ước tính là từ giờ tới năm 2040, Việt Nam cần khoảng 570 tỷ đô la đầu tư vào cơ sở tầng cho các lĩnh vực như giao thông vận tải, năng lượng, viễn thông, hay các hạ tầng liên quan. Để mà huy động được nguồn vốn khổng lồ như vậy thì Việt Nam sẽ phải thông qua nhiều con đường phổ biến nhất. Thứ nhất là ngân sách nhà nước thông qua các thu xếp cho các khoản đầu tư phát triển, đầu tư cơ sở tầng. Thứ hai là vay nợ của nhà nước thông qua việc phát hành trái phiếu trong nước cũng như ở nước ngoài và vay nợ từ các cái đối tác phát triển, bao gồm các đối tác ODA, cũng như các tổ chức tín dụng phát triển quốc tế. Thứ ba là huy động vốn từ khu vực tư nhân, như VinGroup hay Thaco, để tham gia phát triển dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Thứ tư là hợp tác công tư, hình thức hợp tác giữa nhà nước và lĩnh vực tư nhân để có các giải pháp tài chính phục vụ cho những mục tiêu phát triển. Việt Nam phải phối hợp các cái nguồn vốn khác nhau. Có những dự án thì có thể phải huy động ngân sách nhà nước, đặc biệt là những dự án mà lĩnh vực tư nhân có thể không đủ năng lực hay là không có lợi ích nhiều khi tham gia. Tôi lấy ví dụ dự án phát triển điện hạt nhân: Hiện tại Việt Nam đang đề ra mục tiêu phát triển hai nhà máy điện hạt nhân. Nguồn vốn ước tính lên tới khoảng 22 tỷ đô la. Các doanh nghiệp tư nhân không đủ năng lực, cũng như không có lợi ích nhiều khi tham gia các dự án này. Trong những lĩnh vực như vậy thì nhà nước sẽ phải huy động vốn từ ngân sách nhà nước hay là vay nợ của nước ngoài. Tuy nhiên, những lĩnh vực khác như phát triển đường cao tốc, hay đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam thì có thể xem xét việc tạo nguồn vốn từ lĩnh vực tư nhân. Tuy nhiên, do lĩnh vực hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài và khả năng thua lỗ rất là cao, việc huy động từ lĩnh vực tư nhân cũng không hề đơn giản và đấy là lý do mà chúng ta sẽ thấy trong cái thời gian tới sẽ có các cuộc tranh luận, các cân nhắc liên quan tới dự án đường sắt tốc độ cao Bắc -Nam: Liệu có nên giao cho các tập đoàn tư nhân hay không và nếu giao cho họ thì các điều kiện, điều khoản liên quan tới các ưu đãi cho nhà đầu tư, để làm sao họ có thể thu hồi vốn trong quá trình tham gia phát triển các dự án đầu tư cơ sở tầng lớn như vậy thì sẽ được tiến hành như nào? RFI: Thưa anh, cho dù là vốn tư nhân hay vốn nhà nước, thì các vấn đề lớn cho tới nay ở Việt Nam, đó là những dự án cơ sở hạ tầng thường hay bị chậm tiến độ cũng như là hay bị đội vốn, tức là số vốn ban đầu ước tính như thế nhưng cuối cùng thì rất là cao, như dự án Metro ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây có phải là vấn đề sẽ đặt ra trong những năm tới đối với những cái dự án vừa nói ở trên? Lê Hồng Hiệp: Đội vốn hay là chậm tiến độ, trễ hạn là một vấn đề sẽ còn lặp lại ở nhiều dự án khác nhau. Đây không chỉ là vấn đề của riêng của Việt Nam, mà còn xảy ra với nhiều dự án ở các quốc gia khác, kể cả các nước phát triển, vì nhiều lý do khác nhau. Riêng ở Việt Nam thì chúng ta thấy vấn đề này diễn ra quá thường xuyên, những dự án càng lớn thì nguy cơ đội vốn hay trễ hạn thì càng cao hơn. Có một số nguyên nhân.Thứ nhất là việc lập kế hoạch thiếu thực tế, không có tính khả thi cao. Ví dụ như Việt Nam vừa rồi đề xuất mục tiêu phát triển hai nhà máy điện hạt nhân trong vòng 5 năm tới, năm 2030, 2031 là hoàn thành. Tôi nghĩ đấy là một mục tiêu không thực tế. Thực tiễn ở các quốc gia khác chỉ ra rằng phát triển những dự án điện hạt nhân lớn như vậy cần rất nhiều thời gian. Việc lập kế hoạch cũng phải kỹ càng hơn. Trong bối cảnh Việt Nam, việc phát triển trong vòng 5 năm hai nhà máy điện hạt nhân công suất lớn như vậy là hoàn toàn là không khả thi. Chưa kể là chúng ta chưa có một kế hoạch rõ ràng cụ thể chi tiết các công nghệ mà chúng ta sẽ sử dụng là gì và sẽ mua từ đâu. Thứ hai là năng lực quản lý, chúng ta thấy Việt Nam cũng thiếu kinh nghiệm quản lý các dự án, đặc biệt là các dự án quy mô lớn, do đó dẫn tới chậm trễ trong việc phối hợp giữa các bên và các biện pháp phê duyệt thủ tục. Các dự án nhỏ hơn rất nhiều như Metro Nhổn - Ga Hà Nội, hay Metro số 1 ở Sài Gòn quy mô không phải quá lớn, nhưng cũng trễ hạn rất nhiều và đội vốn rất nhiều. Lâu nay chúng ta cũng thường đổ lỗi là do các nhà thầu nước ngoài, nhưng rất nhiều nguyên nhân là xuất phát từ phía Việt Nam. Liên quan tới năng lực quản lý thì còn có vấn đề thủ tục hành chính phức tạp. Trong dự án metro Bến Thành - Suối Tiên chẳng hạn, có rất nhiều vướng mắc liên quan tới giải ngân của ODA từ Nhật Bản, do thủ tục pháp lý hành chính từ phía Việt Nam rất phức tạp về quy trình phê duyệt rồi quy trình thay đổi các chi tiết của dự án, dẫn tới chậm trễ trong việc giải ngân, dẫn tới định trệ của tiến độ dự án. Ở nhiều dự án của Việt Nam thì còn có vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới chậm trễ và đội vốn. Thứ tư là phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Nhập khẩu các công nghệ và thiết bị nước ngoài có thể khiến chi phí tăng cao, đặc biệt là khi tỷ giá biến động hoặc là khi nhà thầu ngoại quốc trì hoãn việc nhập khẩu thì có thể cũng dẫn tới tiến độ bị chậm trễ và chi phí gia tăng. Trong thời gian tới, khi Việt Nam tiến hành các dự án quy mô lớn hơn như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, nếu không có các biện pháp chuẩn bị kỹ lưỡng và các bước đi nhằm tháo gỡ các vướng mắc như tôi vừa nêu, chắc chắn dự án cũng sẽ gặp phải những vấn đề đội vốn và trễ hạn. RFI: Đối với những dự án quan trọng như đường sắt cao tốc Bắc - Nam thì liệu Việt Nam có đủ trình độ kỹ thuật để tự mình thực hiện, hay là chúng ta phải nhờ đến trợ giúp của những nước đã có những kinh nghiệm, trình độ về những dự án tương tự? Lê Hồng Hiệp: Trong lĩnh vực xây dựng các tuyến đường cao tốc chẳng hạn, tôi nghĩ là Việt Nam có thể hoàn toàn đủ trình độ để làm được. Còn đối với lĩnh vực đường sắt thì chắc chắn là Việt Nam sẽ không đủ năng lực về mặt kỹ thuật để tự mình thực hiện. Các dự án đơn giản hơn rất nhiều như các tuyến metro ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì cho tới lúc này chúng ta không tự chủ được về công nghệ mà phải dựa vào công nghệ nước ngoài. Tuyến Cát Linh - Hà Đông là dựa vào công nghệ Trung Quốc, hay tuyến Bến Thành - Suối Tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh là dựa vào công nghệ của Nhật. Ngay cả những dự án đường sắt đô thị như vậy mà chúng ta cũng phải dựa vào công nghệ nước ngoài, thì dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam chắc chắn cũng sẽ phải dựa vào công nghệ nước ngoài. Hiện tại Việt Nam chưa nêu rõ là sẽ nhập công nghệ từ nước nào, nhưng chúng ta có thể dễ dàng đoán được chắc chắn là sẽ tới từ những quốc gia có công nghệ đường sắt phát triển như là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc hay là Pháp, Đức ... Bên cạnh việc nhập về các công nghệ lõi, liên quan tới hệ thống động cơ, hệ thống đầu kéo, hay hệ thống điều khiển tín hiệu, vân vân, thì Việt Nam sẽ tự làm được những hạng mục nào và có thể nội địa hóa được bao nhiêu phần trăm các công đoạn các công nghệ liên quan tới cái dự án này? Vừa rồi tập đoàn Hòa Phát tuyên bố họ có khả năng cung cấp được thép làm đường ray của đường sắt tốc độ cao chẳng hạn. Ngoài Hòa Phát, còn có những công ty nào có thể cung cấp được các được các trang thiết bị đầu vào cho dự án này? Đấy là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm. Bao nhiêu phần trăm trong suất đầu tư lên lên tới 67 tỷ đô la Mỹ đấy sẽ ở lại Việt Nam và bao nhiêu sẽ chi trả cho đối tác nước ngoài? Tôi nghĩ đấy là vấn đề cần đặt ra. Vấn đề đặt ra tiếp theo là Việt Nam sẽ nhận chuyển giao công nghệ bao nhiêu từ các đối tác nước ngoài đó để có thể ít nhất là tự chủ được quá trình bảo trì bảo dưỡng dự án trong quá trình vận hành? Tại vì một khi chúng ta phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài về cả công tác bảo trì, bảo dưỡng, thì chắc chắn sẽ rất khó khăn trong việc vận hành. Thứ hai, sẽ có rất nhiều rủi ro dẫn tới việc gián đoạn dự án trong giai đoạn vận hành và chi phí để mà vận hành thì cũng sẽ đổi lên rất là nhiều. Tôi chắc chắn rằng là trong các điều khoản hợp tác với nước ngoài đó, Việt Nam sẽ nêu vấn đề này và sẽ coi nó như một điều kiện tiên quyết để có thể nhận chuyển giao các công nghệ và giao các gói thầu cho các đối tác nước ngoài thực hiện. RFI: Tóm lại, làm sao có thể khắc phục được những nguyên nhân đó để mà thật sự có được những công trình hạ tầng cơ sở hiệu quả và bền vững, có thể thật sự đóng góp cho phát triển kinh tế của Việt Nam? Lê Hồng Hiệp: Việt Nam phải áp dụng đồng loạt nhiều biện pháp khác nhau để làm sao bảo đảm rằng các dự án đó có thể được tiến hành một cách hiệu quả nhất, với chi phí tiết kiệm nhất và phát huy được hiệu quả cao nhất. Thứ nhất là về tính minh bạch, tiết kiệm và chống tham nhũng, Việt Nam phải có các biện pháp liên quan tới công nghệ, tới chính sách, vân vân, để minh bạch hóa quá trình đấu thầu và quản lý chi tiêu, để làm sao quá trình này được minh bạch, hay là xử lý nghiêm các trường hợp tham nhũng, lợi ích nhóm, giảm thiểu lãng phí và thất thoát trong quá trình đầu tư. Thứ hai là phải cải thiện việc lập kế hoạch và dự toán các dự án này để đánh giá được tính khả thi, hay là dự trù các cái rủi ro như là biến động giá hay giải phóng mặt bằng ngay từ giai đoạn lập giá, để làm sao giảm đến mức tối thiểu các vấn đề đội vốn, hay kéo dài thời gian thực hiện dự án. Thứ ba là phải nâng cao năng lực quản lý dự án: Đào tạo đội ngũ quản lý dự án chuyên nghiệp, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời phân quyền rõ ràng, giảm các thủ tục hành chính, vân vân, để làm sao rút ngắn được thời gian phê duyệt các dự án và đảm bảo có sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ ngành và địa phương, để làm sao các dự án này được thực hiện được một cách thông suốt nhất. Thứ tư là làm sao có thể giảm phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, đặc biệt là trong quá trình bảo trì bảo dưỡng. Công nghệ nước ngoài trong quá trình xây dựng thì chúng ta có lẽ là sẽ có ít lựa chọn, đặc biệt là đối với những lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi công nghệ cao, như đường sắt tốc độ cao, còn đối với các lĩnh vực như bảo trì bảo dưỡng, chúng ta phải có sự tự chủ ở một mức độ tối đa, để làm sao phát huy được hiệu quả của dự án trong quá trình vận hành. Thứ năm là làm sao huy động vốn một cách là hiệu quả và đa dạng hóa các nguồn lực. Chúng ta phải phát triển các thị trường vốn trong nước, thúc đẩy các mô hình hợp tác công tư chẳng hạn, với các cơ chế rõ ràng minh bạch để thu hút các nguồn lực từ lĩnh vực tư nhân, để làm sao giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước và đồng thời phát huy nguồn lực xã hội ở mức tốt nhất. Thứ sáu là làm sao đảm bảo hiệu quả bền vững về mặt kinh tế. Việt Nam hiện đang có rất nhiều dự án tham vọng.Tuy nhiên, không phải dự án nào cũng cần thiết hay là hiệu quả, mà Việt Nam phải tinh lọc để làm sao tập trung vào những dự án có tác động kinh tế lớn nhất và tránh dàn trải các nguồn vốn, dẫn tới cái sự lãng phí và kém hiệu quả. Và điều cuối cùng tôi nghĩ cũng rất là quan trọng, đó là tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan bộ ngành và các lãnh đạo của các bộ ngành, các bộ trưởng, vân vân, để họ phải chịu trách nhiệm giải trình trực tiếp về tiến độ cũng như chất lượng dự án. Trong quá trình này, Việt Nam cũng cần phải công khai các thông tin về tiến độ, về chi phí dự án, về năng lực của các nhà thầu, để người dân có thể giám sát.
Để có thể tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng như hiện nay, Việt Nam đã đề ra một kế hoạch đầy tham vọng với nhiều dự án cơ sở hạ tầng lớn. Nhưng để những dự án này có thể được thật sự có hiệu quả, phải làm sao giải quyết được những nguyên nhân dẫn đến hai vấn đề chính, đó là đội vốn và trễ hạn. Trong năm 2025, tổng vốn đầu tư công được phê duyệt dự kiến sẽ lên tới 875 nghìn tỷ đồng (35 tỷ đô la ), tăng 37,7% so với tổng số vốn được giải ngân vào năm 2024. Các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng đang được xây dựng bao gồm Đường cao tốc Bắc-Nam và Sân bay quốc tế Long Thành. Riêng dự án tuyến đường sắt cao tốc Bắc-Nam, sẽ có chi phí hơn 67 tỷ đô la và dự kiến hoàn thành vào năm 2035, đang gây rất nhiều tranh cãi ở Việt Nam. Theo bộ Xây Dựng Việt Nam, hiện đã có 5 doanh nghiệp nộp đề xuất sơ bộ đầu tư vào dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, trong đó có Công ty Đầu tư và Phát triển Đường sắt tốc độ cao Vinspeed, thuộc tập đoàn tư nhân Vingroup của nhà tỷ phú Phạm Nhật Vượng. Theo phương án đề xuất, VinSpeed cam kết tự tìm 20% vốn (tương đương khoảng 12 tỷ đô la), phần còn lại họ đề nghị được vay từ nguồn vốn nhà nước với lãi suất 0% trong 35 năm. Thời gian thi công dự kiến 5 năm và khai thác trong 99 năm. Tương tự, Thaco (Tập đoàn Trường Hải) cũng đề xuất phương án đầu tư với 20% vốn tự có, phần còn lại huy động từ các nguồn trong và ngoài nước, thời gian thi công 7 năm, vận hành 70 năm. Nhưng các chuyên gia đang đặt nhiều nghi vấn về khả năng của những tập đoàn nói trên huy động được số vốn cần thiết, cũng như khả năng hoàn thành dự án đúng thời hạn cam kết. Vấn đề là các dự án cơ sở hạ tầng công ở Việt Nam cho tới nay thường bị chậm tiến độ, lãng phí và bị đội vốn. Những nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng đó? RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore. RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, Việt Nam đã thông qua rất nhiều dự án xây dựng cơ sở tầng lớn, đặc biệt là dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Đối với một dự án lớn kéo dài nhiều năm như dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam, liệu Việt Nam có đủ khả năng để huy động nguồn vốn? Và nhất là nếu có sự tham gia của các tập đoàn tư nhân như Vinspeed, liệu họ có đủ khả năng để huy động vốn? Lê Hồng Hiệp: Năm nay Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng trưởng GDP là 8% và các năm sau là ít nhất là 10%. Trong bối cảnh các trụ cột khác của tăng trưởng kinh tế như là xuất khẩu, tiêu dùng trong nước, đổi mới sáng tạo, còn đang gặp rất là nhiều khó khăn, việc tăng cường đầu tư cả tư nhân lẫn đầu tư công, đặc biệt là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, trở thành một lựa chọn bắt buộc đối với Việt Nam để giúp tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cần một nguồn vốn khổng lồ. Gần đây, các chuyên gia của tập đoàn phát triển hạ tầng tư nhân có ước tính là từ giờ tới năm 2040, Việt Nam cần khoảng 570 tỷ đô la đầu tư vào cơ sở tầng cho các lĩnh vực như giao thông vận tải, năng lượng, viễn thông, hay các hạ tầng liên quan. Để mà huy động được nguồn vốn khổng lồ như vậy thì Việt Nam sẽ phải thông qua nhiều con đường phổ biến nhất. Thứ nhất là ngân sách nhà nước thông qua các thu xếp cho các khoản đầu tư phát triển, đầu tư cơ sở tầng. Thứ hai là vay nợ của nhà nước thông qua việc phát hành trái phiếu trong nước cũng như ở nước ngoài và vay nợ từ các cái đối tác phát triển, bao gồm các đối tác ODA, cũng như các tổ chức tín dụng phát triển quốc tế. Thứ ba là huy động vốn từ khu vực tư nhân, như VinGroup hay Thaco, để tham gia phát triển dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam. Thứ tư là hợp tác công tư, hình thức hợp tác giữa nhà nước và lĩnh vực tư nhân để có các giải pháp tài chính phục vụ cho những mục tiêu phát triển. Việt Nam phải phối hợp các cái nguồn vốn khác nhau. Có những dự án thì có thể phải huy động ngân sách nhà nước, đặc biệt là những dự án mà lĩnh vực tư nhân có thể không đủ năng lực hay là không có lợi ích nhiều khi tham gia. Tôi lấy ví dụ dự án phát triển điện hạt nhân: Hiện tại Việt Nam đang đề ra mục tiêu phát triển hai nhà máy điện hạt nhân. Nguồn vốn ước tính lên tới khoảng 22 tỷ đô la. Các doanh nghiệp tư nhân không đủ năng lực, cũng như không có lợi ích nhiều khi tham gia các dự án này. Trong những lĩnh vực như vậy thì nhà nước sẽ phải huy động vốn từ ngân sách nhà nước hay là vay nợ của nước ngoài. Tuy nhiên, những lĩnh vực khác như phát triển đường cao tốc, hay đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam thì có thể xem xét việc tạo nguồn vốn từ lĩnh vực tư nhân. Tuy nhiên, do lĩnh vực hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn kéo dài và khả năng thua lỗ rất là cao, việc huy động từ lĩnh vực tư nhân cũng không hề đơn giản và đấy là lý do mà chúng ta sẽ thấy trong cái thời gian tới sẽ có các cuộc tranh luận, các cân nhắc liên quan tới dự án đường sắt tốc độ cao Bắc -Nam: Liệu có nên giao cho các tập đoàn tư nhân hay không và nếu giao cho họ thì các điều kiện, điều khoản liên quan tới các ưu đãi cho nhà đầu tư, để làm sao họ có thể thu hồi vốn trong quá trình tham gia phát triển các dự án đầu tư cơ sở tầng lớn như vậy thì sẽ được tiến hành như nào? RFI: Thưa anh, cho dù là vốn tư nhân hay vốn nhà nước, thì các vấn đề lớn cho tới nay ở Việt Nam, đó là những dự án cơ sở hạ tầng thường hay bị chậm tiến độ cũng như là hay bị đội vốn, tức là số vốn ban đầu ước tính như thế nhưng cuối cùng thì rất là cao, như dự án Metro ở Thành phố Hồ Chí Minh. Đây có phải là vấn đề sẽ đặt ra trong những năm tới đối với những cái dự án vừa nói ở trên? Lê Hồng Hiệp: Đội vốn hay là chậm tiến độ, trễ hạn là một vấn đề sẽ còn lặp lại ở nhiều dự án khác nhau. Đây không chỉ là vấn đề của riêng của Việt Nam, mà còn xảy ra với nhiều dự án ở các quốc gia khác, kể cả các nước phát triển, vì nhiều lý do khác nhau. Riêng ở Việt Nam thì chúng ta thấy vấn đề này diễn ra quá thường xuyên, những dự án càng lớn thì nguy cơ đội vốn hay trễ hạn thì càng cao hơn. Có một số nguyên nhân.Thứ nhất là việc lập kế hoạch thiếu thực tế, không có tính khả thi cao. Ví dụ như Việt Nam vừa rồi đề xuất mục tiêu phát triển hai nhà máy điện hạt nhân trong vòng 5 năm tới, năm 2030, 2031 là hoàn thành. Tôi nghĩ đấy là một mục tiêu không thực tế. Thực tiễn ở các quốc gia khác chỉ ra rằng phát triển những dự án điện hạt nhân lớn như vậy cần rất nhiều thời gian. Việc lập kế hoạch cũng phải kỹ càng hơn. Trong bối cảnh Việt Nam, việc phát triển trong vòng 5 năm hai nhà máy điện hạt nhân công suất lớn như vậy là hoàn toàn là không khả thi. Chưa kể là chúng ta chưa có một kế hoạch rõ ràng cụ thể chi tiết các công nghệ mà chúng ta sẽ sử dụng là gì và sẽ mua từ đâu. Thứ hai là năng lực quản lý, chúng ta thấy Việt Nam cũng thiếu kinh nghiệm quản lý các dự án, đặc biệt là các dự án quy mô lớn, do đó dẫn tới chậm trễ trong việc phối hợp giữa các bên và các biện pháp phê duyệt thủ tục. Các dự án nhỏ hơn rất nhiều như Metro Nhổn - Ga Hà Nội, hay Metro số 1 ở Sài Gòn quy mô không phải quá lớn, nhưng cũng trễ hạn rất nhiều và đội vốn rất nhiều. Lâu nay chúng ta cũng thường đổ lỗi là do các nhà thầu nước ngoài, nhưng rất nhiều nguyên nhân là xuất phát từ phía Việt Nam. Liên quan tới năng lực quản lý thì còn có vấn đề thủ tục hành chính phức tạp. Trong dự án metro Bến Thành - Suối Tiên chẳng hạn, có rất nhiều vướng mắc liên quan tới giải ngân của ODA từ Nhật Bản, do thủ tục pháp lý hành chính từ phía Việt Nam rất phức tạp về quy trình phê duyệt rồi quy trình thay đổi các chi tiết của dự án, dẫn tới chậm trễ trong việc giải ngân, dẫn tới định trệ của tiến độ dự án. Ở nhiều dự án của Việt Nam thì còn có vướng mắc về giải phóng mặt bằng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn tới chậm trễ và đội vốn. Thứ tư là phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Nhập khẩu các công nghệ và thiết bị nước ngoài có thể khiến chi phí tăng cao, đặc biệt là khi tỷ giá biến động hoặc là khi nhà thầu ngoại quốc trì hoãn việc nhập khẩu thì có thể cũng dẫn tới tiến độ bị chậm trễ và chi phí gia tăng. Trong thời gian tới, khi Việt Nam tiến hành các dự án quy mô lớn hơn như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, nếu không có các biện pháp chuẩn bị kỹ lưỡng và các bước đi nhằm tháo gỡ các vướng mắc như tôi vừa nêu, chắc chắn dự án cũng sẽ gặp phải những vấn đề đội vốn và trễ hạn. RFI: Đối với những dự án quan trọng như đường sắt cao tốc Bắc - Nam thì liệu Việt Nam có đủ trình độ kỹ thuật để tự mình thực hiện, hay là chúng ta phải nhờ đến trợ giúp của những nước đã có những kinh nghiệm, trình độ về những dự án tương tự? Lê Hồng Hiệp: Trong lĩnh vực xây dựng các tuyến đường cao tốc chẳng hạn, tôi nghĩ là Việt Nam có thể hoàn toàn đủ trình độ để làm được. Còn đối với lĩnh vực đường sắt thì chắc chắn là Việt Nam sẽ không đủ năng lực về mặt kỹ thuật để tự mình thực hiện. Các dự án đơn giản hơn rất nhiều như các tuyến metro ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì cho tới lúc này chúng ta không tự chủ được về công nghệ mà phải dựa vào công nghệ nước ngoài. Tuyến Cát Linh - Hà Đông là dựa vào công nghệ Trung Quốc, hay tuyến Bến Thành - Suối Tiên ở Thành phố Hồ Chí Minh là dựa vào công nghệ của Nhật. Ngay cả những dự án đường sắt đô thị như vậy mà chúng ta cũng phải dựa vào công nghệ nước ngoài, thì dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam chắc chắn cũng sẽ phải dựa vào công nghệ nước ngoài. Hiện tại Việt Nam chưa nêu rõ là sẽ nhập công nghệ từ nước nào, nhưng chúng ta có thể dễ dàng đoán được chắc chắn là sẽ tới từ những quốc gia có công nghệ đường sắt phát triển như là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc hay là Pháp, Đức ... Bên cạnh việc nhập về các công nghệ lõi, liên quan tới hệ thống động cơ, hệ thống đầu kéo, hay hệ thống điều khiển tín hiệu, vân vân, thì Việt Nam sẽ tự làm được những hạng mục nào và có thể nội địa hóa được bao nhiêu phần trăm các công đoạn các công nghệ liên quan tới cái dự án này? Vừa rồi tập đoàn Hòa Phát tuyên bố họ có khả năng cung cấp được thép làm đường ray của đường sắt tốc độ cao chẳng hạn. Ngoài Hòa Phát, còn có những công ty nào có thể cung cấp được các được các trang thiết bị đầu vào cho dự án này? Đấy là vấn đề mà chúng ta cần quan tâm. Bao nhiêu phần trăm trong suất đầu tư lên lên tới 67 tỷ đô la Mỹ đấy sẽ ở lại Việt Nam và bao nhiêu sẽ chi trả cho đối tác nước ngoài? Tôi nghĩ đấy là vấn đề cần đặt ra. Vấn đề đặt ra tiếp theo là Việt Nam sẽ nhận chuyển giao công nghệ bao nhiêu từ các đối tác nước ngoài đó để có thể ít nhất là tự chủ được quá trình bảo trì bảo dưỡng dự án trong quá trình vận hành? Tại vì một khi chúng ta phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài về cả công tác bảo trì, bảo dưỡng, thì chắc chắn sẽ rất khó khăn trong việc vận hành. Thứ hai, sẽ có rất nhiều rủi ro dẫn tới việc gián đoạn dự án trong giai đoạn vận hành và chi phí để mà vận hành thì cũng sẽ đổi lên rất là nhiều. Tôi chắc chắn rằng là trong các điều khoản hợp tác với nước ngoài đó, Việt Nam sẽ nêu vấn đề này và sẽ coi nó như một điều kiện tiên quyết để có thể nhận chuyển giao các công nghệ và giao các gói thầu cho các đối tác nước ngoài thực hiện. RFI: Tóm lại, làm sao có thể khắc phục được những nguyên nhân đó để mà thật sự có được những công trình hạ tầng cơ sở hiệu quả và bền vững, có thể thật sự đóng góp cho phát triển kinh tế của Việt Nam? Lê Hồng Hiệp: Việt Nam phải áp dụng đồng loạt nhiều biện pháp khác nhau để làm sao bảo đảm rằng các dự án đó có thể được tiến hành một cách hiệu quả nhất, với chi phí tiết kiệm nhất và phát huy được hiệu quả cao nhất. Thứ nhất là về tính minh bạch, tiết kiệm và chống tham nhũng, Việt Nam phải có các biện pháp liên quan tới công nghệ, tới chính sách, vân vân, để minh bạch hóa quá trình đấu thầu và quản lý chi tiêu, để làm sao quá trình này được minh bạch, hay là xử lý nghiêm các trường hợp tham nhũng, lợi ích nhóm, giảm thiểu lãng phí và thất thoát trong quá trình đầu tư. Thứ hai là phải cải thiện việc lập kế hoạch và dự toán các dự án này để đánh giá được tính khả thi, hay là dự trù các cái rủi ro như là biến động giá hay giải phóng mặt bằng ngay từ giai đoạn lập giá, để làm sao giảm đến mức tối thiểu các vấn đề đội vốn, hay kéo dài thời gian thực hiện dự án. Thứ ba là phải nâng cao năng lực quản lý dự án: Đào tạo đội ngũ quản lý dự án chuyên nghiệp, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời phân quyền rõ ràng, giảm các thủ tục hành chính, vân vân, để làm sao rút ngắn được thời gian phê duyệt các dự án và đảm bảo có sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ ngành và địa phương, để làm sao các dự án này được thực hiện được một cách thông suốt nhất. Thứ tư là làm sao có thể giảm phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, đặc biệt là trong quá trình bảo trì bảo dưỡng. Công nghệ nước ngoài trong quá trình xây dựng thì chúng ta có lẽ là sẽ có ít lựa chọn, đặc biệt là đối với những lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi công nghệ cao, như đường sắt tốc độ cao, còn đối với các lĩnh vực như bảo trì bảo dưỡng, chúng ta phải có sự tự chủ ở một mức độ tối đa, để làm sao phát huy được hiệu quả của dự án trong quá trình vận hành. Thứ năm là làm sao huy động vốn một cách là hiệu quả và đa dạng hóa các nguồn lực. Chúng ta phải phát triển các thị trường vốn trong nước, thúc đẩy các mô hình hợp tác công tư chẳng hạn, với các cơ chế rõ ràng minh bạch để thu hút các nguồn lực từ lĩnh vực tư nhân, để làm sao giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước và đồng thời phát huy nguồn lực xã hội ở mức tốt nhất. Thứ sáu là làm sao đảm bảo hiệu quả bền vững về mặt kinh tế. Việt Nam hiện đang có rất nhiều dự án tham vọng.Tuy nhiên, không phải dự án nào cũng cần thiết hay là hiệu quả, mà Việt Nam phải tinh lọc để làm sao tập trung vào những dự án có tác động kinh tế lớn nhất và tránh dàn trải các nguồn vốn, dẫn tới cái sự lãng phí và kém hiệu quả. Và điều cuối cùng tôi nghĩ cũng rất là quan trọng, đó là tăng cường trách nhiệm giải trình của các cơ quan bộ ngành và các lãnh đạo của các bộ ngành, các bộ trưởng, vân vân, để họ phải chịu trách nhiệm giải trình trực tiếp về tiến độ cũng như chất lượng dự án. Trong quá trình này, Việt Nam cũng cần phải công khai các thông tin về tiến độ, về chi phí dự án, về năng lực của các nhà thầu, để người dân có thể giám sát.
Như nhiều nước Tây Âu khác, vì dân số lão hóa nhanh, Anh quốc cần có nguồn nhân công nhập cư để duy trì tăng trưởng kinh tế, đồng thời lại muốn hạn chế người có tay nghề thấp vào làm việc. Con số mới công bố hôm 22/05/2025 cho thấy dòng di cư ròng vào Vương quốc Anh chỉ còn 431.000 người trong năm 2024, giảm gần 50% so với tổng số trong năm 2023, khi con số nhập cư ròng lên tới 860 nghìn người. Thế nhưng, Cục Thống kê Quốc gia Anh cho biết sự sụt giảm nhanh này, chủ yếu vì số người đến lao động hợp pháp và du học cùng thân nhân của họ giảm nhanh chóng.Vậy chính sách thu hút nhân tài, người có kỹ năng, trình độ cao có bị ảnh hưởng bởi các quy định ngày càng siết chặt dòng người tới Anh ? Quan trọng hơn, cách thu hút nhân tài và nhóm “có tiềm năng tri thức cao” của Anh có gì mới mẻ, đặc biệt ? Thông tín viên Nguyễn Giang từ Luân Đôn : Điều đáng nói đầu tiên là số di cư ròng, tức là sự khác biệt giữa số người đến và rời khỏi Anh : cụ thể là trong năm 2024, có 948.000 người đến Vương quốc Anh và có 517.000 người rời đi, tạo ra con số chừng 430.000, thấp nhất từ 3 năm, cho thấy các chính sách di trú khắt khe hơn từ được đưa ra thời chính phủ tiền nhiệm của Đảng Bảo thủ đã phát huy tác dụng.Thế nhưng, Đảng Lao động cầm quyền vẫn muốn cắt giảm tiếp số người tới Anh, đồng thời khuyến khích người có “tiềm năng lớn về tri thức” và các “nhân tài toàn cầu” (global talent) tới Anh. Tức là Anh muốn nhận người tài giỏi, có bằng cấp, tay nghề cao, và giảm người tay nghề thấp. Còn người xin tỵ nạn thì sẽ bị thanh lọc mạnh tay, ngăn không cho họ định cư ở lại.RFI : Anh có thể giải thích thêm là chính sách ưu tiên nhập cư cho “các cá nhân có tiềm năng lớn” (HPI-High Potential Individuals) và ‘thị thực tài năng toàn cầu' (Global Talent Visa) mà Anh đưa ra nghĩa là gì ?TTV Nguyễn Giang : Đầu tiên là Global Talent Visa, tạm dịch là visa tài năng toàn cầu, còn trong hồ sơ bộ Nội Vụ có ký hiệu Tier 1 visa cho “exceptional talent' (tài năng vượt trội), dành cho bất cứ ai trên 18 tuổi, được công nhận thành danh trong các ngành khoa học, nghiên cứu, nghệ thuật, văn hóa và công nghệ kỹ thuật số (digital technology). Tiêu chuẩn là ai từng đoạt một giải thưởng có uy tín trong lĩnh vực tài năng của mình đều được xin visa này. Nếu không, họ phải có thư giới thiệu của nhân vật hàng đầu trong lĩnh vực đó. Họ có quyền khi sang Anh mới tìm việc và có thể xin được visa 5 năm. Tất nhiên là người vào Anh theo diện này không được nhận trợ cấp xã hội. Thực tế thì loại visa này đã có từ năm 2020 và từ đó đến này mới cấp cho khoảng 4000 trường hợp, đa số là công dân Mỹ và Canada. Nay chính phủ quảng bá mạnh hơn cho loại visa tài năng này để giúp kinh tế, khoa học, văn hóa Anh phát triển thêm.Loại thứ nhì là visa cho các cá nhân có tiềm năng cao. Visa này nhắm tới những ai, trong vòng 5 năm trở lại đây, đã tốt nghiệp một đại học nằm trong danh sách các trường top 50 thế giới mà Anh coi trọng nhất, ở Mỹ, Pháp, Canada, Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc và Úc. Tên các trường này được đăng và cập nhật hàng năm theo danh sách chính phủ Anh công bố. Trong giai đoạn 2024-10/2025 thì có 45 trường như vậy, gồm cả các đại học nổi tiếng ở Trung Quốc như Thanh Hoa, Bắc Kinh (Bắc Đại), Giao Thông (Thượng Hải)...Người có bằng đại học được 2 năm, có học vị tiến sĩ ở các trường trong top 50 này thì được luôn 3 năm thị thực làm việc ở Anh. Đặc biệt, visa này cho phép đem theo thân nhân, thời gian xử lý chỉ mất khoảng 3 tuần, nếu xin từ bên ngoài Anh. Ngoài ra, cần chứng chỉ tiếng Anh phù hợp.RFI : Việc mời gọi nhân tài hay các cá nhân có tiềm năng lớn này khác gì so với các nhóm lao động bình thường như giảng viên đại học, chuyên gia IT, doanh nhân muốn tới Anh làm việc và định cư?TTV Nguyễn Giang : Thực ra,Anh đã có chính sách visa thu hút khối lao động có tay nghề, gọi là “skilled worker visa” (Tier 2). Để nhận visa này chỉ cần có chủ lao động ở Anh, là công ty được bộ Nội Vụ chấp thuận, cho tuyển nhân công từ nước ngoài, mời làm bằng hợp đồng với lương tối thiểu là 38.700 bảng/năm.Nhưng nay, thông điệp là Anh ưu tiên đón nhận nhân tài hay chuyên gia ở ba nhóm ngành nghề : 1) công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI); 2) nghiên cứu hóa sinh và giải mã di truyền học (biosciences, genomics, dược phẩm cao cấp), và 3) công nghệ năng lượng sạch và bền vững.RFI : Bối cảnh Anh nhấn mạnh thông điệp “mời gọi nhân tài” vào lúc này có những lý do gì ngoài kinh tế hay không? TTV Nguyễn Giang : Chính sách này là để đối phó với áp lực chính trị từ các đảng cực hữu nhằm hạn chế nhập cư, đồng thời cũng phù hợp với mục tiêu phát triển dài hạn của nền kinh tế. Ngoài ra thì đây là việc phải làm vì giáo dục đại học, công nghệ, kỹ thuật ở Anh từ lâu nay vẫn dựa vào nguồn nhân lực quốc tế để duy trì hoạt động-phát triển. Thiếu họ thì nhiều trường đại học sẽ phải đóng cửa.Ví dụ, số liệu của trang UniversitiesUK.ac.uk về giáo dục đại học cho biết trong niên khóa 2022-2023, có 77.725 người làm trong ngành là nhân viên quốc tế, chiếm 32,7% tổng số, và đây là số tăng lên gần 5% từ niên khóa trước (cụ thể là 4,9%). Đó là số phần trăm tính trung bình toàn hệ thống giáo dục, còn trong các bộ môn kỹ thuật cơ khí, tự động thì 49,2% là người từ nước khác tới (49.2%).RFI : Cuối cùng, theo anh thì cách mà chính phủ Vương quốc Anh mời gọi nhân tài như thế có gì đáng nói và có đạt được mục tiêu thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao hay không?TTV Nguyễn Giang : Đầu tiên xin bình luận về việc Anh lập ra khá chủ quan, bảng danh sách 45-50 đại học mà Anh cho là hàng đầu thế giới và ưu tiên những người học ở đó ra được đặt cách nhập cư. Danh sách này chưa phản ánh đúng thực tế về giáo dục đại học toàn cầu. Ví dụ tôi thấy Đài Loan không có trường nào trong danh sách đó, nhưng Đài Loan lại là nơi có những trung tâm công nghệ bán dẫn nhất thế giới, hơn cả Anh, Mỹ và Nhật. Rất nhiều trường đại học châu Âu cũng không có tên. Vậy thì danh sách đó có đúng không? Ngoài ra, so sánh 45 trường đó và 24 đại học trong nhóm các trường ưu tú (Russel Group) ở Anh cũng không thể nói là bên nào hơn.Ví dụ một sinh viên học xong ĐH University College London - trường trong top 5 ở Anh về khoa học, đứng cao hơn nhiều trường về xếp hạng quốc tế trong danh sách 45-50 trường ĐH ‘hàng đầu thế giới' mà bộ Nội Vụ Anh lập ra để tuyển chuyên gia - chỉ nhận lương chừng 30 nghìn bảng/năm. Thế mà chính phủ muốn các công ty bỏ tiền ra tuyển người nước ngoài với lương tối thiểu gần 40 nghìn bảng, chịu thêm phí visa, bảo hiểm y tế vào Anh làm với visa chỉ cư trú 2 năm. Đó không phải là bài toán tốt về kinh tế cho các doanh nghiệp. Cho nên chính sách này xem ra chưa thỏa đáng.Quan trọng hơn, Anh cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi hơn về cư trú, về cơ hội việc làm và môi trường làm việc. Ví dụ theo một đánh giá của Pippa Ebel (12/2024) : về mức dưới tiến sĩ tức là học lấy bằng cử nhân thì sinh viên Trung Quốc đóng góp 2,3 tỷ bảng Anh cho kinh tế Anh một năm nhưng khả năng tìm được việc làm tại Anh sau khi tốt nghiệp rất thấp. Không ai giúp họ tìm việc cả, khiến nảy sinh cáo buộc Anh coi sinh viên Trung Quốc như “hầu bao để rút tiền”.Thái độ chỉ nhắm vào lợi ích kinh tế ngắn hạn (short-termism) bị các giáo sư như David Willett ở King's College London phê phán. Các điều tra về sinh viên quốc tế sau khi tốt nghiệp ở Anh 15 tháng cho thấy sự dịch chuyển cao (transient character) của dòng nhân lực sau đại học trên thế giới. Nói ngắn gọn thì học ở Anh xong họ sẽ đi tới chỗ nào có việc tốt chứ không phải cố mà ở lại Anh. Một nghiên cứu của trường ĐH Đông Luân Đôn (UEL-University of East London) thực hiện ở ba thành phố của Ấn Độ về các cựu sinh viên tốt nghiệp ở Anh về nước tham gia lực lượng lao động mang tính toàn cầu, sẵn sàng di chuyển tiếp sang nước khác và đổi ngành nghề. Việc đóng góp trở lại cho quan hệ Anh-Ấn là chuyện khó.Theo tôi thì mời gọi nhân tài là tốt nhưng muốn giữ chân họ bền vững thì Anh phải tạo ra môi trường làm việc tốt hơn các nước cùng đẳng cấp, có ưu đãi cụ thể và lâu dài và để họ phát huy tài năng thì người ta mới tới và tới rồi mới ở lại. Thu hút nhân tài thế giới là cuộc chạy đua khá mãnh liệt. Anh quốc đang đi đúng hướng nhưng cần phải làm tốt hơn nữa mới thành công.
Sau 12 năm đàm phán, Việt Nam và Indonesia đã đạt được thỏa thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế. Văn bản được công bố chính thức ngày 23/12/2022 trong chuyến thăm cấp Nhà nước Jakarta của chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Bước cuối cùng là Quốc Hội hai nước phê chuẩn văn bản để có chính thức có hiệu lực và giải quyết những căng thẳng, bất đồng và cùng phát triển khai thác tài nguyên theo đúng luật biển quốc tế. Trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 18/04/2025, nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), nhấn mạnh bối cảnh quan hệ song phương tốt đẹp là một trong những yếu tố giúp Việt Nam và Indonesia thiết lập được thỏa thuận. Năm 2025, hai nước kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ “đối tác chiến lược” có từ năm 2013 được nâng lên thành “đối tác chiến lược toàn diện” vào ngày 09/03/2025 nhân chuyến thăm cấp Nhà nước của tổng bí thư Tô Lâm tới Indonesia. Về kinh tế, trong ASEAN, Indonesia là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam và Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ tư của Indonesia. Mục tiêu của hai chính phủ là tăng kim ngạch thương mại song phương lên 18 tỷ đô la vào năm 2028. RFI : Việt Nam và Indonesia sớm phê chuẩn hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Việt Nam và Indonesia có những yêu sách cụ thể như nào ở Biển Đông ? Laurent Gédéon : Các cuộc đàm phán về pháp lý liên quan đến hiệp định tập trung vào việc giải quyết các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn mà Việt Nam và Indonesia đều đòi chủ quyền. Tôi muốn nhắc lại cả hai nước đều là thành viên của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, được Indonesia phê chuẩn ngày 03/02/1986 và Việt Nam phê chuẩn ngày 25/07/1994. Như vậy, cả hai nước đều công nhận luật biển quốc tế. Sự chồng lấn về chủ quyền giữa hai nước liên quan đến vùng biển xung quanh quần đảo Natuna ở phía nam Biển Đông. Đối với Việt Nam, đường phân định EEZ phải trùng với ranh giới thềm lục địa giữa Indonesia và Việt Nam. Hà Nội dựa vào thực tế là ranh giới này đã được xác định vào năm 2003 thông qua một thỏa thuận song phương. Ngược lại, Indonesia cho rằng ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế cần được đàm phán riêng biệt với ranh giới của thềm lục địa. Jakarta lập luận rằng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đây là hai vùng biển riêng biệt, cho nên phải được đàm phán riêng. Do đó, Indonesia muốn tính đến đường trung tuyến giữa quần đảo Natuna và Côn Đảo : Quần đảo Natuna cách đảo Kalimantan của Indonesia khoảng 300 km, còn Côn Đảo cách bờ biển Việt Nam khoảng 90 km. Nhưng đối với Hà Nội, việc sử dụng đường trung tuyến giữa các quần đảo là không công bằng vì có lợi cho Indonesia. Đọc thêmViệt Nam và Indonesia đạt đồng thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế Nhiều vấn đề pháp lý khác cũng đã được nêu lên trong quá trình đàm phán, đặc biệt là những khác biệt trong các đường cơ sở được sử dụng để đo khu vực phân định. Là một quốc gia quần đảo, Indonesia được phép sử dụng đường cơ sở quần đảo, tức là các đường thẳng, không nhất thiết phải chạy theo đường bờ biển, trong khi Việt Nam chỉ có thể sử dụng đường cơ sở thông thường chạy theo đường bờ biển. Hai phương pháp cơ bản khác nhau này làm phức tạp các cuộc đàm phán vì Hà Nội cho rằng điều này làm suy yếu vị thế của họ. Bất chấp những khác biệt, Indonesia và Việt Nam cuối cùng đã thống nhất về hai đường ranh giới phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, trong đó quy định rằng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là hai vùng biển riêng biệt cần được đàm phán riêng. Tuy nhiên, do tính chất bảo mật của các cuộc đàm phán song phương, cách thức hai bên áp dụng phương pháp đường trung tuyến để giải quyết tranh chấp của họ đã không được tiết lộ, nhưng không thể phủ nhận rằng đây là một sự thỏa hiệp mang tính sáng tạo, thể hiện bước tiến pháp lý đáng kể trong khi vẫn tuân thủ các nguyên tắc của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. RFI : Thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế là bước tiến quan trọng sau hơn một thập niên đàm phán. Triển vọng của cả hai nước sẽ thế nào, cũng như tương lai về mối quan hệ giữa hai nước với Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Như đã nói, Hiệp định về vùng đặc quyền kinh tế giữa Indonesia và Việt Nam là một bước tiến lớn không chỉ trong quan hệ song phương giữa hai nước mà còn cho toàn bộ môi trường khu vực. Hệ quả đầu tiên và rõ ràng nhất là thỏa thuận này sẽ chấm dứt căng thẳng giữa hai nước liên quan đến hoạt động đánh bắt cá của tàu thuyền Việt Nam trong vùng biển vẫn được Indonesia coi là vùng đặc quyền kinh tế của họ. Hệ quả thứ hai liên quan đến các nguồn năng lượng trong khu vực này, đặc biệt là khí đốt tự nhiên, một số mỏ nằm ở phần EEZ của Indonesia giáp với EEZ của Việt Nam. Việc làm rõ ranh giới giữa hai vùng đặc quyền kinh tế sẽ cho phép Indonesia tự do phát triển hoạt động thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên này. Hệ quả thứ ba mang tính chất pháp lý bởi vì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho các thỏa thuận tương tự có thể có giữa các nước khác trong khu vực, có nghĩa là có thể thấy trong việc áp dụng đường phân định kép (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế) một mô hình cho các cuộc đàm phán trong tương lai. Hệ quả cuối cùng ảnh hưởng đến Trung Quốc vì đường ranh giới chung do Việt Nam và Indonesia thiết lập chồng lấn một phần với đường chín đoạn đánh dấu yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông. Đọc thêmViệt Nam kêu gọi ASEAN đoàn kết vào lúc Bắc Kinh lấn lướt ở Biển Đông Tuy nhiên, có một thắc mắc về chính sách của Indonesia liên quan đến Trung Quốc. Nhân chuyến thăm Bắc Kinh ngày 09/11/2024 của tổng thống Indonesia Prabowo Subianto, nhiều thỏa thuận đã được ký kết, kể cả hợp tác công nghiệp và khai khoáng, hợp tác thương mại, với tổng giá trị lên tới 10 tỷ đô la. Ngoài ra còn có một thỏa thuận về hợp tác hàng hải, trong đó hai bên cam kết cùng nhau phát triển kinh tế hàng hải ở Biển Đông, bao gồm cả những khu vực có tranh chấp chồng lấn. Tuyên bố chung được đưa ra trong dịp này nêu rõ rằng hai nước đã “đạt được một thỏa thuận quan trọng về phát triển chung ở những khu vực có yêu sách chồng lấn”. Tuy nhiên cho đến nay, tất cả các nước có tranh chấp hàng hải với Bắc Kinh, như Indonesia, Philippines, Việt Nam, Brunei, Malaysia và Đài Loan, đều tránh tham gia vào thỏa thuận phát triển chung với Trung Quốc vì sợ rằng việc đó sẽ bị hiểu là công nhận chính thức các yêu sách của Trung Quốc. Mặc dù Indonesia đã thận trọng khẳng định lại rằng họ không công nhận các yêu sách quá đáng của Trung Quốc đối với Biển Đông, nhưng thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Jakarta đã đánh dấu sự phá vỡ lập luận trước đây và cho thấy rõ mâu thuẫn trong lập trường của Indonesia về luật hàng hải quốc tế. Về phần Việt Nam, quốc gia không bị ràng buộc bởi bất kỳ thỏa thuận chung nào với Trung Quốc về các khu vực tranh chấp, vẫn kiên định với lập trường của họ và trong phản đối các yêu sách hàng hải của Trung Quốc. Đối với Hà Nội, thỏa thuận này chắc chắn là một bước đột phá ngoại giao lớn và là tiền lệ pháp lý mà Hà Nội có thể khai thác ở cấp độ ngoại giao. Ngoài ra, thỏa thuận cũng có lợi thế là không đặt Hà Nội vào thế đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi vẫn khẳng định được cam kết của họ đối với luật pháp quốc tế. RFI : Sau thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia, liệu đã có thể nói đến một liên minh đối trọng Philippines, Indonesia, Việt Nam để đối phó với các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông không ? Laurent Gédéon : Có, trong bối cảnh Trung Quốc luôn chú ý đến việc không để một mặt trận chống Trung Quốc trỗi dậy giữa các quốc gia ven Biển Đông và rộng hơn là trong ASEAN, thì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho sự xuất hiện của các chiến lược tập thể đối phó với những tranh chấp hàng hải ở Biển Đông. Những chiến lược này đáng chú ý - và cũng gây vấn đề cho Trung Quốc - vì chúng được thực hiện theo cách tuân thủ chặt chẽ luật hàng hải quốc tế. Việc này càng giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và củng cố thêm sự cô lập của Trung Quốc đối với các yêu sách chủ quyền tối đa của nước này. Đọc thêmThỏa thuận Việt Nam - Indonesia: Một hướng giải quyết tranh chấp Biển Đông? Cho nên chúng ta có thể thấy những thỏa thuận kiểu này gia tăng trong tương lai, đặc biệt là liên quan đến Việt Nam, Philippines và Malaysia. Đó là một quá trình dài, trước hết đòi hỏi các đối tác tăng cường tin tưởng nhau, và sẽ ngày càng phức tạp hơn vì liên quan đến các vùng biển quanh quần đảo Trường Sa, nơi vẫn được biết đến là trung tâm của các vấn đề địa-chiến lược đặc biệt quan trọng. Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng việc ký kết các hiệp định quốc tế là sự kiện quan trọng nhưng việc thực hiện chúng cũng quan trọng không kém. Và về điểm này, sẽ cần phải phân tích cẩn thận những tác động thực địa của hiệp định Việt Nam-Indonesia để đưa ra kết luận và phát triển các phân tích triển vọng có thể diễn ra. Cho nên, ngoài một liên minh đối trọng giữa Philippines, Việt Nam và Indonesia, chúng ta có thể xem rằng các thỏa thuận kiểu này phù hợp với sự hội tụ lợi ích ngầm hoặc rõ ràng của ba nước vì chúng hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc khẳng định các yêu sách chủ quyền và dẫn đến việc Bắc Kinh ngày càng bị cô lập về pháp lý. Dĩ nhiên Trung Quốc có thể tìm cách đảo ngược để áp đặt quan điểm của họ, nhưng việc đó sẽ làm giảm thêm tính hợp pháp về mặt pháp lý của các hành động, yêu sách của Bắc Kinh. Do đó, thỏa thuận này có thể đóng vai trò là mô hình giải quyết các tranh chấp hàng hải khác ở Đông Nam Á và tạo thành đòn bẩy ngoại giao khôn khéo để thay đổi tình hình trong khu vực. RFI : Việt Nam đã bị Ủy Ban Châu Âu đưa ra “thẻ vàng” về tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp. Thỏa thuận với Indonesia được coi là dấu chấm hết cho tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp trong khu vực. Liệu đây có phải là một kiểu cam kết để cá Việt Nam có thể vào thị trường châu Âu không ? Laurent Gédéon : Vùng đặc quyền kinh tế cho phép một quốc gia tiếp cận độc quyền các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở vùng biển và đáy biển của nước đó. Việc phân định rõ ràng không gian này thường giúp tránh được những hiểu lầm và mâu thuẫn trong quản lý nguồn cá nếu các đối tác có thiện chí. Về mặt này, thỏa thuận giữa Việt Nam và Indonesia làm rõ quyền đánh bắt cá của cả hai bên ở Biển Đông và thể hiện sự cải thiện rõ rệt so với giai đoạn trước đây, khi cả hai nước đều có yêu sách riêng, khiến việc xác định tàu cá có vượt qua ranh giới hay không trở nên khó khăn. Do đó, việc làm rõ biên giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các quy định và trừng phạt những người vi phạm, đặc biệt là xung quanh quần đảo Natuna, nơi giàu tài nguyên thiên nhiên. Nhìn chung, kiểu thỏa thuận này có giá trị vì nó tăng cường năng lực hợp tác và quản lý lẫn nhau giữa hai bên. Tình hình này chỉ có thể có lợi cho Việt Nam khi chứng tỏ rằng đất nước đã trưởng thành về năng lực quản lý nguồn lợi thủy sản. Đọc thêmChồng lấn EEZ, nguyên nhân vụ va chạm giữa tàu Việt Nam và Indonesia Không chỉ riêng ở Biển Đông, đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) là một vấn đề toàn cầu đe dọa hệ sinh thái đại dương và “đánh bắt cá bền vững”. Đây là lý do tại sao chính quyền Liên Hiệp Châu Âu đã giám sát Việt Nam sau cảnh báo vào năm 2017. Xin nhắc lại, những nước xuất khẩu sang Liên Âu được phân loại và có thể chịu trừng phạt tương ứng với hệ thống mã màu : xanh lá cây, vàng, đỏ, các lệnh trừng phạt có thể lên tới mức dừng hoàn toàn hoạt động thương mại. Do đó, thỏa thuận giữa Việt Nam và Indonesia có thể được coi là một giải pháp đôi bên cùng có lợi vì nó củng cố quan hệ song phương, tránh leo thang giữa ngư dân và cơ quan thực thi pháp luật. Còn đối với Việt Nam, thỏa thuận này cho thấy quốc gia này nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế và là đối tác đáng tin cậy cho Liên Hiệp Châu Âu. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
Sau 12 năm đàm phán, Việt Nam và Indonesia đã đạt được thỏa thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế. Văn bản được công bố chính thức ngày 23/12/2022 trong chuyến thăm cấp Nhà nước Jakarta của chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Bước cuối cùng là Quốc Hội hai nước phê chuẩn văn bản để có chính thức có hiệu lực và giải quyết những căng thẳng, bất đồng và cùng phát triển khai thác tài nguyên theo đúng luật biển quốc tế. Trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 18/04/2025, nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), nhấn mạnh bối cảnh quan hệ song phương tốt đẹp là một trong những yếu tố giúp Việt Nam và Indonesia thiết lập được thỏa thuận. Năm 2025, hai nước kỷ niệm 70 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ “đối tác chiến lược” có từ năm 2013 được nâng lên thành “đối tác chiến lược toàn diện” vào ngày 09/03/2025 nhân chuyến thăm cấp Nhà nước của tổng bí thư Tô Lâm tới Indonesia. Về kinh tế, trong ASEAN, Indonesia là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam và Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ tư của Indonesia. Mục tiêu của hai chính phủ là tăng kim ngạch thương mại song phương lên 18 tỷ đô la vào năm 2028. RFI : Việt Nam và Indonesia sớm phê chuẩn hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ). Việt Nam và Indonesia có những yêu sách cụ thể như nào ở Biển Đông ? Laurent Gédéon : Các cuộc đàm phán về pháp lý liên quan đến hiệp định tập trung vào việc giải quyết các vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn mà Việt Nam và Indonesia đều đòi chủ quyền. Tôi muốn nhắc lại cả hai nước đều là thành viên của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, được Indonesia phê chuẩn ngày 03/02/1986 và Việt Nam phê chuẩn ngày 25/07/1994. Như vậy, cả hai nước đều công nhận luật biển quốc tế. Sự chồng lấn về chủ quyền giữa hai nước liên quan đến vùng biển xung quanh quần đảo Natuna ở phía nam Biển Đông. Đối với Việt Nam, đường phân định EEZ phải trùng với ranh giới thềm lục địa giữa Indonesia và Việt Nam. Hà Nội dựa vào thực tế là ranh giới này đã được xác định vào năm 2003 thông qua một thỏa thuận song phương. Ngược lại, Indonesia cho rằng ranh giới của vùng đặc quyền kinh tế cần được đàm phán riêng biệt với ranh giới của thềm lục địa. Jakarta lập luận rằng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), đây là hai vùng biển riêng biệt, cho nên phải được đàm phán riêng. Do đó, Indonesia muốn tính đến đường trung tuyến giữa quần đảo Natuna và Côn Đảo : Quần đảo Natuna cách đảo Kalimantan của Indonesia khoảng 300 km, còn Côn Đảo cách bờ biển Việt Nam khoảng 90 km. Nhưng đối với Hà Nội, việc sử dụng đường trung tuyến giữa các quần đảo là không công bằng vì có lợi cho Indonesia. Đọc thêmViệt Nam và Indonesia đạt đồng thuận về phân định vùng đặc quyền kinh tế Nhiều vấn đề pháp lý khác cũng đã được nêu lên trong quá trình đàm phán, đặc biệt là những khác biệt trong các đường cơ sở được sử dụng để đo khu vực phân định. Là một quốc gia quần đảo, Indonesia được phép sử dụng đường cơ sở quần đảo, tức là các đường thẳng, không nhất thiết phải chạy theo đường bờ biển, trong khi Việt Nam chỉ có thể sử dụng đường cơ sở thông thường chạy theo đường bờ biển. Hai phương pháp cơ bản khác nhau này làm phức tạp các cuộc đàm phán vì Hà Nội cho rằng điều này làm suy yếu vị thế của họ. Bất chấp những khác biệt, Indonesia và Việt Nam cuối cùng đã thống nhất về hai đường ranh giới phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, trong đó quy định rằng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là hai vùng biển riêng biệt cần được đàm phán riêng. Tuy nhiên, do tính chất bảo mật của các cuộc đàm phán song phương, cách thức hai bên áp dụng phương pháp đường trung tuyến để giải quyết tranh chấp của họ đã không được tiết lộ, nhưng không thể phủ nhận rằng đây là một sự thỏa hiệp mang tính sáng tạo, thể hiện bước tiến pháp lý đáng kể trong khi vẫn tuân thủ các nguyên tắc của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. RFI : Thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế là bước tiến quan trọng sau hơn một thập niên đàm phán. Triển vọng của cả hai nước sẽ thế nào, cũng như tương lai về mối quan hệ giữa hai nước với Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Như đã nói, Hiệp định về vùng đặc quyền kinh tế giữa Indonesia và Việt Nam là một bước tiến lớn không chỉ trong quan hệ song phương giữa hai nước mà còn cho toàn bộ môi trường khu vực. Hệ quả đầu tiên và rõ ràng nhất là thỏa thuận này sẽ chấm dứt căng thẳng giữa hai nước liên quan đến hoạt động đánh bắt cá của tàu thuyền Việt Nam trong vùng biển vẫn được Indonesia coi là vùng đặc quyền kinh tế của họ. Hệ quả thứ hai liên quan đến các nguồn năng lượng trong khu vực này, đặc biệt là khí đốt tự nhiên, một số mỏ nằm ở phần EEZ của Indonesia giáp với EEZ của Việt Nam. Việc làm rõ ranh giới giữa hai vùng đặc quyền kinh tế sẽ cho phép Indonesia tự do phát triển hoạt động thăm dò và khai thác nguồn tài nguyên này. Hệ quả thứ ba mang tính chất pháp lý bởi vì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho các thỏa thuận tương tự có thể có giữa các nước khác trong khu vực, có nghĩa là có thể thấy trong việc áp dụng đường phân định kép (thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế) một mô hình cho các cuộc đàm phán trong tương lai. Hệ quả cuối cùng ảnh hưởng đến Trung Quốc vì đường ranh giới chung do Việt Nam và Indonesia thiết lập chồng lấn một phần với đường chín đoạn đánh dấu yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông. Đọc thêmViệt Nam kêu gọi ASEAN đoàn kết vào lúc Bắc Kinh lấn lướt ở Biển Đông Tuy nhiên, có một thắc mắc về chính sách của Indonesia liên quan đến Trung Quốc. Nhân chuyến thăm Bắc Kinh ngày 09/11/2024 của tổng thống Indonesia Prabowo Subianto, nhiều thỏa thuận đã được ký kết, kể cả hợp tác công nghiệp và khai khoáng, hợp tác thương mại, với tổng giá trị lên tới 10 tỷ đô la. Ngoài ra còn có một thỏa thuận về hợp tác hàng hải, trong đó hai bên cam kết cùng nhau phát triển kinh tế hàng hải ở Biển Đông, bao gồm cả những khu vực có tranh chấp chồng lấn. Tuyên bố chung được đưa ra trong dịp này nêu rõ rằng hai nước đã “đạt được một thỏa thuận quan trọng về phát triển chung ở những khu vực có yêu sách chồng lấn”. Tuy nhiên cho đến nay, tất cả các nước có tranh chấp hàng hải với Bắc Kinh, như Indonesia, Philippines, Việt Nam, Brunei, Malaysia và Đài Loan, đều tránh tham gia vào thỏa thuận phát triển chung với Trung Quốc vì sợ rằng việc đó sẽ bị hiểu là công nhận chính thức các yêu sách của Trung Quốc. Mặc dù Indonesia đã thận trọng khẳng định lại rằng họ không công nhận các yêu sách quá đáng của Trung Quốc đối với Biển Đông, nhưng thỏa thuận giữa Bắc Kinh và Jakarta đã đánh dấu sự phá vỡ lập luận trước đây và cho thấy rõ mâu thuẫn trong lập trường của Indonesia về luật hàng hải quốc tế. Về phần Việt Nam, quốc gia không bị ràng buộc bởi bất kỳ thỏa thuận chung nào với Trung Quốc về các khu vực tranh chấp, vẫn kiên định với lập trường của họ và trong phản đối các yêu sách hàng hải của Trung Quốc. Đối với Hà Nội, thỏa thuận này chắc chắn là một bước đột phá ngoại giao lớn và là tiền lệ pháp lý mà Hà Nội có thể khai thác ở cấp độ ngoại giao. Ngoài ra, thỏa thuận cũng có lợi thế là không đặt Hà Nội vào thế đối đầu trực tiếp với Bắc Kinh trong khi vẫn khẳng định được cam kết của họ đối với luật pháp quốc tế. RFI : Sau thỏa thuận về vùng đặc quyền kinh tế giữa Việt Nam và Indonesia, liệu đã có thể nói đến một liên minh đối trọng Philippines, Indonesia, Việt Nam để đối phó với các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông không ? Laurent Gédéon : Có, trong bối cảnh Trung Quốc luôn chú ý đến việc không để một mặt trận chống Trung Quốc trỗi dậy giữa các quốc gia ven Biển Đông và rộng hơn là trong ASEAN, thì thỏa thuận Việt Nam-Indonesia mở đường cho sự xuất hiện của các chiến lược tập thể đối phó với những tranh chấp hàng hải ở Biển Đông. Những chiến lược này đáng chú ý - và cũng gây vấn đề cho Trung Quốc - vì chúng được thực hiện theo cách tuân thủ chặt chẽ luật hàng hải quốc tế. Việc này càng giành được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và củng cố thêm sự cô lập của Trung Quốc đối với các yêu sách chủ quyền tối đa của nước này. Đọc thêmThỏa thuận Việt Nam - Indonesia: Một hướng giải quyết tranh chấp Biển Đông? Cho nên chúng ta có thể thấy những thỏa thuận kiểu này gia tăng trong tương lai, đặc biệt là liên quan đến Việt Nam, Philippines và Malaysia. Đó là một quá trình dài, trước hết đòi hỏi các đối tác tăng cường tin tưởng nhau, và sẽ ngày càng phức tạp hơn vì liên quan đến các vùng biển quanh quần đảo Trường Sa, nơi vẫn được biết đến là trung tâm của các vấn đề địa-chiến lược đặc biệt quan trọng. Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng việc ký kết các hiệp định quốc tế là sự kiện quan trọng nhưng việc thực hiện chúng cũng quan trọng không kém. Và về điểm này, sẽ cần phải phân tích cẩn thận những tác động thực địa của hiệp định Việt Nam-Indonesia để đưa ra kết luận và phát triển các phân tích triển vọng có thể diễn ra. Cho nên, ngoài một liên minh đối trọng giữa Philippines, Việt Nam và Indonesia, chúng ta có thể xem rằng các thỏa thuận kiểu này phù hợp với sự hội tụ lợi ích ngầm hoặc rõ ràng của ba nước vì chúng hạn chế khả năng của Trung Quốc trong việc khẳng định các yêu sách chủ quyền và dẫn đến việc Bắc Kinh ngày càng bị cô lập về pháp lý. Dĩ nhiên Trung Quốc có thể tìm cách đảo ngược để áp đặt quan điểm của họ, nhưng việc đó sẽ làm giảm thêm tính hợp pháp về mặt pháp lý của các hành động, yêu sách của Bắc Kinh. Do đó, thỏa thuận này có thể đóng vai trò là mô hình giải quyết các tranh chấp hàng hải khác ở Đông Nam Á và tạo thành đòn bẩy ngoại giao khôn khéo để thay đổi tình hình trong khu vực. RFI : Việt Nam đã bị Ủy Ban Châu Âu đưa ra “thẻ vàng” về tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp. Thỏa thuận với Indonesia được coi là dấu chấm hết cho tình trạng đánh bắt cá bất hợp pháp trong khu vực. Liệu đây có phải là một kiểu cam kết để cá Việt Nam có thể vào thị trường châu Âu không ? Laurent Gédéon : Vùng đặc quyền kinh tế cho phép một quốc gia tiếp cận độc quyền các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở vùng biển và đáy biển của nước đó. Việc phân định rõ ràng không gian này thường giúp tránh được những hiểu lầm và mâu thuẫn trong quản lý nguồn cá nếu các đối tác có thiện chí. Về mặt này, thỏa thuận giữa Việt Nam và Indonesia làm rõ quyền đánh bắt cá của cả hai bên ở Biển Đông và thể hiện sự cải thiện rõ rệt so với giai đoạn trước đây, khi cả hai nước đều có yêu sách riêng, khiến việc xác định tàu cá có vượt qua ranh giới hay không trở nên khó khăn. Do đó, việc làm rõ biên giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các quy định và trừng phạt những người vi phạm, đặc biệt là xung quanh quần đảo Natuna, nơi giàu tài nguyên thiên nhiên. Nhìn chung, kiểu thỏa thuận này có giá trị vì nó tăng cường năng lực hợp tác và quản lý lẫn nhau giữa hai bên. Tình hình này chỉ có thể có lợi cho Việt Nam khi chứng tỏ rằng đất nước đã trưởng thành về năng lực quản lý nguồn lợi thủy sản. Đọc thêmChồng lấn EEZ, nguyên nhân vụ va chạm giữa tàu Việt Nam và Indonesia Không chỉ riêng ở Biển Đông, đánh bắt cá bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) là một vấn đề toàn cầu đe dọa hệ sinh thái đại dương và “đánh bắt cá bền vững”. Đây là lý do tại sao chính quyền Liên Hiệp Châu Âu đã giám sát Việt Nam sau cảnh báo vào năm 2017. Xin nhắc lại, những nước xuất khẩu sang Liên Âu được phân loại và có thể chịu trừng phạt tương ứng với hệ thống mã màu : xanh lá cây, vàng, đỏ, các lệnh trừng phạt có thể lên tới mức dừng hoàn toàn hoạt động thương mại. Do đó, thỏa thuận giữa Việt Nam và Indonesia có thể được coi là một giải pháp đôi bên cùng có lợi vì nó củng cố quan hệ song phương, tránh leo thang giữa ngư dân và cơ quan thực thi pháp luật. Còn đối với Việt Nam, thỏa thuận này cho thấy quốc gia này nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế và là đối tác đáng tin cậy cho Liên Hiệp Châu Âu. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.
Trong lĩnh vực pháp lý, hợp tác giữa Pháp với Việt Nam là hợp tác lâu đời nhất so với các nước phương Tây khác và hiện nay, một trong những tổ chức tham gia tích cực nhất vào hợp tác pháp lý Pháp - Việt, đó là Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu-Việt Nam ( ACJEV ), mà chủ tịch là nữ luật sư Thị Mỹ Hạnh Ngô Folliot. Bà Ngô Folliot cũng là chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Luật sư đoàn Paris, một ủy ban được thành lập vào năm 2013. Trả lời RFI Việt ngữ tại Paris ngày 09/05/2025, luật sư Ngô Folliot nhắc lại: “Hợp tác pháp lý giữa Pháp và Việt Nam là hợp tác lâu đời nhất trong số các nước phương Tây với Việt Nam. Hợp tác này bắt đầu từ năm 1993, với việc thành lập Nhà Pháp luật Việt-Pháp. Trung tâm này đã hoạt động rất tốt cho đến khi đóng cửa năm 2012, vì nhiều lý do. Luật sư đoàn Paris đã thành lập Ủy ban Việt Nam để tiếp nối hoạt động của Nhà Pháp luật, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo để hỗ trợ Việt Nam. Có thể nói là tôi hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực pháp lý gần như hằng ngày. Tôi thường xuyên phải trả lời những tham vấn, những câu hỏi của một sinh viên, một giáo sư hay một luật sư từ Việt Nam. Nhất là ở Pháp, với tư cách là chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Luật sư đoàn Paris, trong khuôn khổ chương trình thực tập quốc tế, tôi còn tiếp nhận các sinh viên ngành luật, các luật sư Việt Nam sang Pháp thực tập. Họ tham gia các khóa thực tập bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, từ 3 tuần học lý thuyết tại Luật sư đoàn Paris và 3 tuần đến 1 tháng thực tập trong văn phòng luật sư của tôi. ” Cùng với đà phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều và vì thế cần phải có những phương thức giải quyết tranh chấp, bao gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài và giải quyết tranh chấp bằng toà án. Hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, hoà giải đang dần dần trở thành phương thức giải quyết tranh chấp được các luật sư cũng như doanh nghiệp ưa chuộng. Các nhà hòa giải ở Việt Nam càng cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước, trong đó có Pháp. Dưới sự bảo trợ của đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, vào tháng 7 tới, Hội ACJEV sẽ phối hợp sẽ với Trung tâm Hòa giải Thương mại Quốc tế của Việt Nam và một số cơ quan khác, tổ chức những cuộc hội thảo ở ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Quy Nhơn về đề tài: “Hòa giải, hòa giải ở năm lục địa và vai trò của luật sư”. Luật sư Ngô Folliot cho biết: “Đây là lần thứ ba chúng tôi tổ chức hội thảo về vấn đề hòa giải. Dầu sao thì các chủ đề chính là do phía Việt Nam lựa chọn theo nhu cầu của họ. Gần đây nhất là vào năm 2023, chúng tôi đã trình bày về hòa giải tại Pháp và châu Âu. Điều mà những người bạn trong giới đại học Việt Nam, cũng như các hiệp hội luật sư và sinh viên quan tâm chính là các trung tâm hòa giải, mà đó cũng chính là hoạt động của chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi trao đổi rất nhiều về hoạt động chuyên môn của mình. Hoạt động hòa giải ở Việt Nam có nền tảng chung với hoạt động hòa giải ở Pháp và châu Âu. Ở Việt Nam hiện nay, hòa giải là bắt buộc, là điều kiện tiên quyết trước khi đưa vụ việc ra tòa, giống như ở Pháp, Ý và các nước khác ở châu Âu. Đó là hòa giải trong khuôn khổ của tòa án. Nhưng cũng có những hình thức hòa giải ngoài tòa án, như hòa giải cơ sở, được sử dụng để giải quyết các tranh chấp trong khu phố. Đây là hình thức hòa giải thành công nhất và vẫn luôn tồn tại ở Việt Nam. Còn hoạt động hòa giải thương mại tại Việt Nam ra đời từ nghị định năm 2017 khi các tranh chấp thương mại bùng nổ tại Việt Nam. Việc hòa giải là cần thiết và đặc điểm của nó là tính bảo mật. Người hòa giải cũng như các bên được yêu cầu không tiết lộ những gì đang diễn ra trong quá trình hòa giải, để có được sự tin tưởng của các bên liên quan khi sử dụng phương pháp giải quyết tranh chấp này. Tất nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng đến nay, với nghị định về hòa giải thương mại năm 2017, tức là 8 năm sau, hòa giải thương mại tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Tuy vậy, đây vẫn chưa phải là biện pháp thành công nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những cuộc hội thảo đầu tiên do hội ACJEV tổ chức cũng như trong các cuộc hội thảo sắp tới chính là dịp để hai bên trao đổi kinh nghiệm về các hoạt động hòa giải, đặc biệt là kinh nghiệm của phía Pháp về những nhà hòa giải chuyên trách, theo lời luật sư Ngô Folliot:“Ví dụ, có những tranh chấp chuyên biệt, tức là trong các lĩnh vực phân phối, xây dựng, năng lượng tái tạo, có những người hòa giải chuyên về các lĩnh vực này và họ sẽ can thiệp. Ngoài ra, ngay cả ở Việt Nam, ngày càng có nhiều tranh chấp với chính quyền có thể được giải quyết bằng phương pháp hòa giải. Trong lĩnh vực này, nhóm chúng tôi có hai chuyên gia, một cựu thẩm phán và một luật sư. Nói chung là các nhà hòa giải được chuyên môn hóa theo từng lĩnh vực. Ngoài những người làm công việc hòa giải cơ sở hoặc các hoạt động hòa giải khác, còn có các nhà hòa giải chuyên về một số lĩnh vực nhất định. Bằng chứng là trong hội thảo mà chúng tôi tổ chức, có một nhà hòa giải trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, một nhà hòa giải trong lĩnh vực xây dựng, một nhà hòa giải trong các tranh chấp giữa nhà phân phối và nhà cung cấp. Những kinh nghiệm của Pháp và châu Âu luôn được bạn bè Việt Nam quan tâm, vì chúng ta không hành động theo cùng một cách. Ngay cả khi về cơ bản luật của hai nước có những nét giống nhau, nhưng về thực tiễn chắc chắn có những khác biệt. Chúng tôi quan tâm đến các hoạt động của Việt Nam, cũng như Việt Nam quan tâm đến các hoạt động của Pháp và châu Âu. Các hội thảo sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 4 tháng 7, tại Đà Nẵng ngày 9 tháng 7 và sau đó là tại Quy Nhơn ngày 12 tháng 7. Tại sao lại phải tổ chức ở ba địa điểm khác nhau? Đó chính là để cho càng nhiều người Việt Nam càng tốt tham dự các hội thảo này và có thể trao đổi với chúng tôi. Ngoài các hội thảo, còn có các cuộc thảo luận. Trong suốt năm, vẫn có những trao đổi ý tưởng giữa luật sư Việt Nam và Pháp và chúng tôi liên tục trao đổi ý tưởng để cải thiện cả hoạt động thực hành và kiến thức của mình.”Chính là qua các cuộc hội thảo cũng như qua các trao đổi thường xuyên mà luật sư Ngô Folliot hiểu rõ hơn về hoạt động hòa giải ở Việt Nam, một lĩnh vực còn khá mới so với các lĩnh vực pháp lý khác:“Dĩ nhiên là luật lệ luôn cần được thay đổi để thích ứng với nhu cầu, với bối cảnh của đất nước, bối cảnh toàn cầu. Luôn có những điểm cần cải thiện, nhưng tôi thấy luật hòa giải của Việt Nam đã khá hoàn chỉnh mặc dù được ban hành những năm gần đây. Chắc chắn có những điểm cần hoàn thiện, nhưng không phải là về nội dung, mà chỉ là trong thực hành, chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa. Luật hòa giải thương mại đã có từ 8 năm trước, Luật hòa giải, đối thoại thì mới được soạn thảo từ năm 2020 và có hiệu lực từ năm 2021. Chúng ta đã ở giai đoạn đầu với tất cả 16 tỉnh đều đã thực hiện thử nghiệm, tình hình chỉ có thể được cải thiện hơn. Hòa giải người tiêu dùng là phương thức hòa giải cơ bản nhất, có từ lâu nhất. Ở Pháp, chúng tôi có những người hòa giải chuyên trách cho từng lĩnh vực, ví dụ, nếu bạn có tranh chấp với một tiệm giặt ủi, bạn nên liên hệ với tổ chức quản lý các tiệm này. Nếu bạn có vấn đề về năng lượng hoặc điện, bạn hãy liên hệ với một chuyên gia hòa giải, mỗi lĩnh vực đều phải có người trung gian hòa giải riêng. Ngay cả trong giới luật sư, khi có tranh chấp giữa chúng tôi thì cũng cần có người hòa giải, phải cố giải quyết vấn đề thông qua người hòa giải trước khi tiến hành tố tụng. Tôi không biết ở Việt Nam có người hòa giải nào cho luật sư hay không, nhưng ngày càng có nhiều người hòa giải chuyên trách và họ sẽ phải được đào tạo trong các lĩnh vực họ hành nghề. Những người hòa giải phải hành xử một cách độc lập, vô tư và phải xử lý vấn đề như thể họ không biết các bên. Ngoại trừ trong các tranh chấp láng giềng: Ở Việt Nam có một đặc thù là người hòa giải phải là người biết rõ các bên, vì xung đột thường xảy ra ở làng quê, hay ở các thành phố nơi mọi người đều biết nhau, gia đình rất quan trọng. Trong trường hợp này, người hòa giải biết rõ các bên và gia đình của họ. Điều này rõ ràng là giúp giải quyết vấn đề tốt hơn.”Cuộc hội thảo được tổ chức tại Đại học Ngoại thương ở Hà Nội ngày 04/07 sẽ là dịp để hai bên Pháp - Việt Nam trao đổi về hoạt động hòa giải trên khắp 5 châu, đặc biệt là tại Pháp, châu Âu và châu Phi cũng như tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Các diễn giả cũng sẽ trình bày về hòa giải cho những tranh chấp trong các lĩnh vực phân phối, xây dựng, năng lượng sạch và tranh chấp với cơ quan hành chính.
Trong lĩnh vực pháp lý, hợp tác giữa Pháp với Việt Nam là hợp tác lâu đời nhất so với các nước phương Tây khác và hiện nay, một trong những tổ chức tham gia tích cực nhất vào hợp tác pháp lý Pháp - Việt, đó là Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu-Việt Nam ( ACJEV ), mà chủ tịch là nữ luật sư Thị Mỹ Hạnh Ngô Folliot. Bà Ngô Folliot cũng là chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Luật sư đoàn Paris, một ủy ban được thành lập vào năm 2013. Trả lời RFI Việt ngữ tại Paris ngày 09/05/2025, luật sư Ngô Folliot nhắc lại: “Hợp tác pháp lý giữa Pháp và Việt Nam là hợp tác lâu đời nhất trong số các nước phương Tây với Việt Nam. Hợp tác này bắt đầu từ năm 1993, với việc thành lập Nhà Pháp luật Việt-Pháp. Trung tâm này đã hoạt động rất tốt cho đến khi đóng cửa năm 2012, vì nhiều lý do. Luật sư đoàn Paris đã thành lập Ủy ban Việt Nam để tiếp nối hoạt động của Nhà Pháp luật, thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo để hỗ trợ Việt Nam. Có thể nói là tôi hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực pháp lý gần như hằng ngày. Tôi thường xuyên phải trả lời những tham vấn, những câu hỏi của một sinh viên, một giáo sư hay một luật sư từ Việt Nam. Nhất là ở Pháp, với tư cách là chủ tịch Ủy ban Việt Nam của Luật sư đoàn Paris, trong khuôn khổ chương trình thực tập quốc tế, tôi còn tiếp nhận các sinh viên ngành luật, các luật sư Việt Nam sang Pháp thực tập. Họ tham gia các khóa thực tập bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, từ 3 tuần học lý thuyết tại Luật sư đoàn Paris và 3 tuần đến 1 tháng thực tập trong văn phòng luật sư của tôi. ” Cùng với đà phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, tranh chấp xảy ra ngày càng nhiều và vì thế cần phải có những phương thức giải quyết tranh chấp, bao gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài và giải quyết tranh chấp bằng toà án. Hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, hoà giải đang dần dần trở thành phương thức giải quyết tranh chấp được các luật sư cũng như doanh nghiệp ưa chuộng. Các nhà hòa giải ở Việt Nam càng cần phải học hỏi kinh nghiệm từ các nước, trong đó có Pháp. Dưới sự bảo trợ của đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, vào tháng 7 tới, Hội ACJEV sẽ phối hợp sẽ với Trung tâm Hòa giải Thương mại Quốc tế của Việt Nam và một số cơ quan khác, tổ chức những cuộc hội thảo ở ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Quy Nhơn về đề tài: “Hòa giải, hòa giải ở năm lục địa và vai trò của luật sư”. Luật sư Ngô Folliot cho biết: “Đây là lần thứ ba chúng tôi tổ chức hội thảo về vấn đề hòa giải. Dầu sao thì các chủ đề chính là do phía Việt Nam lựa chọn theo nhu cầu của họ. Gần đây nhất là vào năm 2023, chúng tôi đã trình bày về hòa giải tại Pháp và châu Âu. Điều mà những người bạn trong giới đại học Việt Nam, cũng như các hiệp hội luật sư và sinh viên quan tâm chính là các trung tâm hòa giải, mà đó cũng chính là hoạt động của chúng tôi. Vì vậy, chúng tôi trao đổi rất nhiều về hoạt động chuyên môn của mình. Hoạt động hòa giải ở Việt Nam có nền tảng chung với hoạt động hòa giải ở Pháp và châu Âu. Ở Việt Nam hiện nay, hòa giải là bắt buộc, là điều kiện tiên quyết trước khi đưa vụ việc ra tòa, giống như ở Pháp, Ý và các nước khác ở châu Âu. Đó là hòa giải trong khuôn khổ của tòa án. Nhưng cũng có những hình thức hòa giải ngoài tòa án, như hòa giải cơ sở, được sử dụng để giải quyết các tranh chấp trong khu phố. Đây là hình thức hòa giải thành công nhất và vẫn luôn tồn tại ở Việt Nam. Còn hoạt động hòa giải thương mại tại Việt Nam ra đời từ nghị định năm 2017 khi các tranh chấp thương mại bùng nổ tại Việt Nam. Việc hòa giải là cần thiết và đặc điểm của nó là tính bảo mật. Người hòa giải cũng như các bên được yêu cầu không tiết lộ những gì đang diễn ra trong quá trình hòa giải, để có được sự tin tưởng của các bên liên quan khi sử dụng phương pháp giải quyết tranh chấp này. Tất nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng đến nay, với nghị định về hòa giải thương mại năm 2017, tức là 8 năm sau, hòa giải thương mại tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Tuy vậy, đây vẫn chưa phải là biện pháp thành công nhất để giải quyết các tranh chấp thương mại. Những cuộc hội thảo đầu tiên do hội ACJEV tổ chức cũng như trong các cuộc hội thảo sắp tới chính là dịp để hai bên trao đổi kinh nghiệm về các hoạt động hòa giải, đặc biệt là kinh nghiệm của phía Pháp về những nhà hòa giải chuyên trách, theo lời luật sư Ngô Folliot:“Ví dụ, có những tranh chấp chuyên biệt, tức là trong các lĩnh vực phân phối, xây dựng, năng lượng tái tạo, có những người hòa giải chuyên về các lĩnh vực này và họ sẽ can thiệp. Ngoài ra, ngay cả ở Việt Nam, ngày càng có nhiều tranh chấp với chính quyền có thể được giải quyết bằng phương pháp hòa giải. Trong lĩnh vực này, nhóm chúng tôi có hai chuyên gia, một cựu thẩm phán và một luật sư. Nói chung là các nhà hòa giải được chuyên môn hóa theo từng lĩnh vực. Ngoài những người làm công việc hòa giải cơ sở hoặc các hoạt động hòa giải khác, còn có các nhà hòa giải chuyên về một số lĩnh vực nhất định. Bằng chứng là trong hội thảo mà chúng tôi tổ chức, có một nhà hòa giải trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, một nhà hòa giải trong lĩnh vực xây dựng, một nhà hòa giải trong các tranh chấp giữa nhà phân phối và nhà cung cấp. Những kinh nghiệm của Pháp và châu Âu luôn được bạn bè Việt Nam quan tâm, vì chúng ta không hành động theo cùng một cách. Ngay cả khi về cơ bản luật của hai nước có những nét giống nhau, nhưng về thực tiễn chắc chắn có những khác biệt. Chúng tôi quan tâm đến các hoạt động của Việt Nam, cũng như Việt Nam quan tâm đến các hoạt động của Pháp và châu Âu. Các hội thảo sẽ được tổ chức tại Hà Nội vào ngày 4 tháng 7, tại Đà Nẵng ngày 9 tháng 7 và sau đó là tại Quy Nhơn ngày 12 tháng 7. Tại sao lại phải tổ chức ở ba địa điểm khác nhau? Đó chính là để cho càng nhiều người Việt Nam càng tốt tham dự các hội thảo này và có thể trao đổi với chúng tôi. Ngoài các hội thảo, còn có các cuộc thảo luận. Trong suốt năm, vẫn có những trao đổi ý tưởng giữa luật sư Việt Nam và Pháp và chúng tôi liên tục trao đổi ý tưởng để cải thiện cả hoạt động thực hành và kiến thức của mình.”Chính là qua các cuộc hội thảo cũng như qua các trao đổi thường xuyên mà luật sư Ngô Folliot hiểu rõ hơn về hoạt động hòa giải ở Việt Nam, một lĩnh vực còn khá mới so với các lĩnh vực pháp lý khác:“Dĩ nhiên là luật lệ luôn cần được thay đổi để thích ứng với nhu cầu, với bối cảnh của đất nước, bối cảnh toàn cầu. Luôn có những điểm cần cải thiện, nhưng tôi thấy luật hòa giải của Việt Nam đã khá hoàn chỉnh mặc dù được ban hành những năm gần đây. Chắc chắn có những điểm cần hoàn thiện, nhưng không phải là về nội dung, mà chỉ là trong thực hành, chúng ta cần phải tiến xa hơn nữa. Luật hòa giải thương mại đã có từ 8 năm trước, Luật hòa giải, đối thoại thì mới được soạn thảo từ năm 2020 và có hiệu lực từ năm 2021. Chúng ta đã ở giai đoạn đầu với tất cả 16 tỉnh đều đã thực hiện thử nghiệm, tình hình chỉ có thể được cải thiện hơn. Hòa giải người tiêu dùng là phương thức hòa giải cơ bản nhất, có từ lâu nhất. Ở Pháp, chúng tôi có những người hòa giải chuyên trách cho từng lĩnh vực, ví dụ, nếu bạn có tranh chấp với một tiệm giặt ủi, bạn nên liên hệ với tổ chức quản lý các tiệm này. Nếu bạn có vấn đề về năng lượng hoặc điện, bạn hãy liên hệ với một chuyên gia hòa giải, mỗi lĩnh vực đều phải có người trung gian hòa giải riêng. Ngay cả trong giới luật sư, khi có tranh chấp giữa chúng tôi thì cũng cần có người hòa giải, phải cố giải quyết vấn đề thông qua người hòa giải trước khi tiến hành tố tụng. Tôi không biết ở Việt Nam có người hòa giải nào cho luật sư hay không, nhưng ngày càng có nhiều người hòa giải chuyên trách và họ sẽ phải được đào tạo trong các lĩnh vực họ hành nghề. Những người hòa giải phải hành xử một cách độc lập, vô tư và phải xử lý vấn đề như thể họ không biết các bên. Ngoại trừ trong các tranh chấp láng giềng: Ở Việt Nam có một đặc thù là người hòa giải phải là người biết rõ các bên, vì xung đột thường xảy ra ở làng quê, hay ở các thành phố nơi mọi người đều biết nhau, gia đình rất quan trọng. Trong trường hợp này, người hòa giải biết rõ các bên và gia đình của họ. Điều này rõ ràng là giúp giải quyết vấn đề tốt hơn.”Cuộc hội thảo được tổ chức tại Đại học Ngoại thương ở Hà Nội ngày 04/07 sẽ là dịp để hai bên Pháp - Việt Nam trao đổi về hoạt động hòa giải trên khắp 5 châu, đặc biệt là tại Pháp, châu Âu và châu Phi cũng như tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Các diễn giả cũng sẽ trình bày về hòa giải cho những tranh chấp trong các lĩnh vực phân phối, xây dựng, năng lượng sạch và tranh chấp với cơ quan hành chính.
Ngày 03/04/2025, 3 bộ phim tài liệu của các đạo diễn trẻ Việt Nam đã được trình chiếu tại Paris. Đây chính là thành quả mới nhất của tổ chức Ateliers Varan của Pháp mà từ 20 năm qua đã đóng góp rất nhiều vào việc đào tạo các nhà làm phim tài liệu Việt Nam. Ateliers Varan do đạo diễn phim tài liệu Jean Rouch thành lập vào năm 1981 với mục tiêu đào tạo các nhà làm phim dựa trên thực hành là chủ yếu. Ngay từ khi thành lập, Ateliers Varan đã tổ chức các trại sáng tác ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có trại sáng tác đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2004. Từ đó cho đến nay, rất nhiều trại sáng tác được tổ chức ở 3 thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn, đào tạo được rất nhiều nhà làm phim tài liệu thế hệ mới cho Việt Nam.Năm 2024, đúng vào dịp kỷ niệm 20 năm Varan Việt Nam đã tổ chức một trại sáng tác phim tài liệu về chủ đề y tế. Các học viên của chương trình này đã cho ra đời 8 phim ngắn và 3 trong số này đã được giới thiệu tại trụ sở của Ateliers Varan ở Paris hôm 03/04.Trong bộ phim được chiếu đầu tiên “Người Cất Mả” của đạo diễn Nguyễn Ánh, người xem theo chân hai anh em ông Bình và ông Ngọc để cảm thông với công việc nặng nhọc bất kể ngày đêm của những người chuyên làm công việc cải táng, một công việc mà về lâu dài sẽ tác hại nặng nề đến sức khỏe của họ do thường xuyên hít phải khí độc từ các tử thi đã thối rữa.Phim thứ hai, “Toàn ơi”, của Nguyễn Hồ Bảo Nghi đưa khán giả đến với thế giới của những người mắc Hội chứng Down ( Hội chứng đần Mông Cổ ), một bệnh do rối loạn di truyền, với nhân vật chính là Toàn, tuy đã hơn 30 tuổi nhưng đầu óc vẫn như trẻ con, sống trong những ảo tưởng, đến mức tự xem mình là một cảnh sát bảo vệ an ninh trật tự cho khu phố.Trong bộ phim thứ ba, “Gió mùa về” của đạo diễn Lê Thị Thắm, khán giả thâm nhập thực tế của một trung tâm chăm sóc bệnh nhân tâm thần Ba Vì, Hà Nội, để thấu hiểu tâm tư của những người sống trong đó, luôn khao khát được trở về với gia đình, về với cuộc sống bình thường.Trả lời RFI Việt ngữ trước buổi chiếu phim hôm đó, bà Sylvie Gadmer Tiên, phụ trách các khóa đào tạo của Varan Vietnam, cho biết:“Năm 2024, chúng tôi kỷ niệm 20 năm ra đời các trại sáng tác Varan Vietnam. Đây quả là một cuộc hành trình dài. Tôi tham gia vào năm 2002 và đã cùng với André Van In, một thành viên khác của Varan, phát triển nhóm Varan Vietnam mà ông đã điều hành trong 20 năm qua. Rất tiếc là ông đã qua đời. Tôi muốn tôn vinh ông, vì nếu không có ông thì chúng ta đã không có được như ngày nay. Cùng với Trần Phương Thảo, giảng viên chính của Varan Vietnam, chúng tôi cố làm hết sức để tiếp tục sự nghiệp của ông. Chúng tôi giống như là những cựu học sinh và nay đến lượt mình truyền tải cho những người khác, lần này là cho 8 nam, nữ đạo diễn trẻ Việt Nam, những kỹ năng làm phim tài liệu qua thực hành theo tinh thần của điện ảnh thực tế. Trong các trại sáng tác của Varan, chúng tôi giảng dạy điện ảnh thực tế, hay nói cách khác là thực hành trong thực tế, để từ đó mọi người tự định hướng cho mình là sẽ tiếp tục làm phim tài liệu, hay là chuyển sang làm phim truyện. Đó là cách tiếp cận theo kiểu lấy cảm hứng từ thực tế và thiết lập các mối liên hệ thân mật với các nhân vật trong phim. Các nhân vật của thực tế trở thành nhân vật của điện ảnh một khi những hành động của họ, cơ thể của họ, những lời nói của họ được thu vào ống kính.Varan giống như một ngôi trường mà từ đó mỗi học sinh, tùy theo cảm xúc, mong muốn, phát triển sang thể loại phim truyện hay vẫn theo con đường phim tài liệu, theo phong cách của Varan hay theo một phong cách khác. Varan là một nền tảng và là nền tảng rất vững chắc để mỗi người nhận thức rõ thế nào là phim tài liệu.” Trong số các học viên của Varan, một số người sau đó đã đoạt giải quốc tế, như Hà Lê Diễm đã đoạt giải “Đạo diễn xuất sắc nhất” hạng mục “Tranh giải quốc tế” (International Competition) với phim “Những đứa trẻ trong sương” (Children of the Mist) tại Liên hoan phim tài liệu quốc tế Amsterdam 2021.Điểm độc đáo của Ateliers Varan đó là có sự tiếp nối: thế hệ các học viên vẫn tiếp tục đồng hành để tham gia đào tạo thế hệ đạo diễn mới, theo lời bà Sylvie Gadmer: “Đó chính là đặc trưng của Varan. Mong muốn của chúng tôi là đào tạo để giúp mọi người lập ra các nhóm điện ảnh. Sứ mệnh của Varan không phải là chỉ đào tạo tại chỗ, mà là truyền bá những kiến thức. Chính trong tinh thần đó mà vào năm 2014, André Van In đã lập ra những lớp đào tạo giảng viên, đến tận nơi để dạy cho các học viên cũ cách truyền đạt những kiến thức của họ cho người khác.Hiện nay, chúng ta đã có nhóm Varan Vietnam chuyên đào tạo những học viên cũ. Tất cả những việc đó được tiến hành ở Việt Nam, ngoại trừ thời gian đại dịch Covid. Một nhóm thành viên người Pháp lẽ ra đã đi Việt Nam để làm việc cho các lớp ở Việt Nam, nhưng họ đã không thể đi được, nên đã phải tiến hành mọi thứ qua video, hậu kỳ cho các phim thì làm ở Paris. Rất khó khăn, nhưng đó cũng là tình hình chung lúc đó, tuy vậy, ngay trong thời kỳ Covid, chúng tôi đã cố gắng duy trì mối liên hệ dưới nhãn quan kép này để làm sâu sắc hơn các dự án.” Điều đáng chú ý, theo bà Sylvie Gadmer, đó là lần tuyển sinh năm ngoái đã có rất nhiều người dự tuyển vào trại sáng tác của Varan Vietnam : “Năm ngoái, Varan đã rất thành công khi tuyển sinh. Chúng tôi đã nhận được khoảng 150 đơn dự thi, một số lượng rất lớn. Trần Phương Thảo cùng với Lê Minh, Hà Lê Diễm, cũng là những đạo diễn của Varan, đã đóng góp rất nhiều vào việc tuyển chọn thí sinh, phỏng vấn, cứu xét hồ sơ. Việc tuyển chọn dựa trên nhiều tiêu chí, trước hết là phải có sự bình đẳng nam nữ trong số các học viên của trại sáng tác, rồi phải ưu tiên cho giới trẻ, đánh giá chất lượng và khát vọng của các học viên đó, cũng như khả năng của họ duy trì truyền thống của Varan.Chúng tôi không chỉ đào tạo các đạo diễn mà đào tạo những thành viên tương lai của Varan Vietnam. Ta có thể nêu ví dụ của Hà Lê Diễm, người đã thực hiện bộ phim “Những đứa trẻ trong sương”, sau khi dự khóa học của Varan năm 2016, nay vẫn tham gia vào việc tuyển chọn học viên, tham gia các hoạt động của trại sáng tác, nhưng vẫn bắt đầu tập trung để làm bộ phim truyện đầu tay của cô.”Toàn bộ 8 bộ phim được thực hiện nhân kỷ niệm 20 năm ra đời của Varan Vietnam đều có chủ đề về y tế. Bà Sylvie Gadmer Tiên giải thích: "Tại sao lại tổ chức theo chủ đề? Bởi vì chủ đề cũng đóng vai trò như chất kết dính cho trại sáng tác. Chủ đề sức khỏe được Thảo chọn vì đây là vấn đề đã được bàn luận từ lâu. Đây là một chủ đề rất quan trọng và thực sự phản ánh xã hội. Đó là vấn đề mà người Việt Nam ngày càng quan tâm, và thậm chí còn quan tâm nhiều hơn kể từ khi có Covid, Vấn đề này rất nhạy cảm ở Việt Nam vì có sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Sau đó, trong các dự án cá nhân, mỗi học viên sinh sẽ đề xuất một chủ đề riêng của mình. Nhưng những người hướng dẫn phải đánh giá liệu các chủ đề đó có thể làm được thành phim hay không và nếu được thì phim có thể có thể được thực hiện trong khuôn khổ thời gian của trại sáng tác hay không. Có một số chủ đề rất hay, nhưng trại sáng tác chỉ kéo dài 3 tháng, với thời gian quay phim khá ngắn, chỉ từ 4 đến 5 tuần. Cho nên, chính những giảng viên, với kinh nghiệm của mình, thông qua thảo luận với học viên, sẽ đánh giá liệu dự án đó có khả thi hay không. Nhưng đây là những lựa chọn cá nhân.Sau buổi chiếu tối 03/04, bà Sylvie Gadmer Tiên cho biết họ dự trù một buổi chiếu khác ban ngày vào một ngày cuối tuần để giới thiệu toàn bộ 8 bộ phim và thêm thời giờ cho khán giả trao đổi với các đạo diễn Việt Nam.
Ngày 03/04/2025, 3 bộ phim tài liệu của các đạo diễn trẻ Việt Nam đã được trình chiếu tại Paris. Đây chính là thành quả mới nhất của tổ chức Ateliers Varan của Pháp mà từ 20 năm qua đã đóng góp rất nhiều vào việc đào tạo các nhà làm phim tài liệu Việt Nam. Ateliers Varan do đạo diễn phim tài liệu Jean Rouch thành lập vào năm 1981 với mục tiêu đào tạo các nhà làm phim dựa trên thực hành là chủ yếu. Ngay từ khi thành lập, Ateliers Varan đã tổ chức các trại sáng tác ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có trại sáng tác đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2004. Từ đó cho đến nay, rất nhiều trại sáng tác được tổ chức ở 3 thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Sài Gòn, đào tạo được rất nhiều nhà làm phim tài liệu thế hệ mới cho Việt Nam.Năm 2024, đúng vào dịp kỷ niệm 20 năm Varan Việt Nam đã tổ chức một trại sáng tác phim tài liệu về chủ đề y tế. Các học viên của chương trình này đã cho ra đời 8 phim ngắn và 3 trong số này đã được giới thiệu tại trụ sở của Ateliers Varan ở Paris hôm 03/04.Trong bộ phim được chiếu đầu tiên “Người Cất Mả” của đạo diễn Nguyễn Ánh, người xem theo chân hai anh em ông Bình và ông Ngọc để cảm thông với công việc nặng nhọc bất kể ngày đêm của những người chuyên làm công việc cải táng, một công việc mà về lâu dài sẽ tác hại nặng nề đến sức khỏe của họ do thường xuyên hít phải khí độc từ các tử thi đã thối rữa.Phim thứ hai, “Toàn ơi”, của Nguyễn Hồ Bảo Nghi đưa khán giả đến với thế giới của những người mắc Hội chứng Down ( Hội chứng đần Mông Cổ ), một bệnh do rối loạn di truyền, với nhân vật chính là Toàn, tuy đã hơn 30 tuổi nhưng đầu óc vẫn như trẻ con, sống trong những ảo tưởng, đến mức tự xem mình là một cảnh sát bảo vệ an ninh trật tự cho khu phố.Trong bộ phim thứ ba, “Gió mùa về” của đạo diễn Lê Thị Thắm, khán giả thâm nhập thực tế của một trung tâm chăm sóc bệnh nhân tâm thần Ba Vì, Hà Nội, để thấu hiểu tâm tư của những người sống trong đó, luôn khao khát được trở về với gia đình, về với cuộc sống bình thường.Trả lời RFI Việt ngữ trước buổi chiếu phim hôm đó, bà Sylvie Gadmer Tiên, phụ trách các khóa đào tạo của Varan Vietnam, cho biết:“Năm 2024, chúng tôi kỷ niệm 20 năm ra đời các trại sáng tác Varan Vietnam. Đây quả là một cuộc hành trình dài. Tôi tham gia vào năm 2002 và đã cùng với André Van In, một thành viên khác của Varan, phát triển nhóm Varan Vietnam mà ông đã điều hành trong 20 năm qua. Rất tiếc là ông đã qua đời. Tôi muốn tôn vinh ông, vì nếu không có ông thì chúng ta đã không có được như ngày nay. Cùng với Trần Phương Thảo, giảng viên chính của Varan Vietnam, chúng tôi cố làm hết sức để tiếp tục sự nghiệp của ông. Chúng tôi giống như là những cựu học sinh và nay đến lượt mình truyền tải cho những người khác, lần này là cho 8 nam, nữ đạo diễn trẻ Việt Nam, những kỹ năng làm phim tài liệu qua thực hành theo tinh thần của điện ảnh thực tế. Trong các trại sáng tác của Varan, chúng tôi giảng dạy điện ảnh thực tế, hay nói cách khác là thực hành trong thực tế, để từ đó mọi người tự định hướng cho mình là sẽ tiếp tục làm phim tài liệu, hay là chuyển sang làm phim truyện. Đó là cách tiếp cận theo kiểu lấy cảm hứng từ thực tế và thiết lập các mối liên hệ thân mật với các nhân vật trong phim. Các nhân vật của thực tế trở thành nhân vật của điện ảnh một khi những hành động của họ, cơ thể của họ, những lời nói của họ được thu vào ống kính.Varan giống như một ngôi trường mà từ đó mỗi học sinh, tùy theo cảm xúc, mong muốn, phát triển sang thể loại phim truyện hay vẫn theo con đường phim tài liệu, theo phong cách của Varan hay theo một phong cách khác. Varan là một nền tảng và là nền tảng rất vững chắc để mỗi người nhận thức rõ thế nào là phim tài liệu.” Trong số các học viên của Varan, một số người sau đó đã đoạt giải quốc tế, như Hà Lê Diễm đã đoạt giải “Đạo diễn xuất sắc nhất” hạng mục “Tranh giải quốc tế” (International Competition) với phim “Những đứa trẻ trong sương” (Children of the Mist) tại Liên hoan phim tài liệu quốc tế Amsterdam 2021.Điểm độc đáo của Ateliers Varan đó là có sự tiếp nối: thế hệ các học viên vẫn tiếp tục đồng hành để tham gia đào tạo thế hệ đạo diễn mới, theo lời bà Sylvie Gadmer: “Đó chính là đặc trưng của Varan. Mong muốn của chúng tôi là đào tạo để giúp mọi người lập ra các nhóm điện ảnh. Sứ mệnh của Varan không phải là chỉ đào tạo tại chỗ, mà là truyền bá những kiến thức. Chính trong tinh thần đó mà vào năm 2014, André Van In đã lập ra những lớp đào tạo giảng viên, đến tận nơi để dạy cho các học viên cũ cách truyền đạt những kiến thức của họ cho người khác.Hiện nay, chúng ta đã có nhóm Varan Vietnam chuyên đào tạo những học viên cũ. Tất cả những việc đó được tiến hành ở Việt Nam, ngoại trừ thời gian đại dịch Covid. Một nhóm thành viên người Pháp lẽ ra đã đi Việt Nam để làm việc cho các lớp ở Việt Nam, nhưng họ đã không thể đi được, nên đã phải tiến hành mọi thứ qua video, hậu kỳ cho các phim thì làm ở Paris. Rất khó khăn, nhưng đó cũng là tình hình chung lúc đó, tuy vậy, ngay trong thời kỳ Covid, chúng tôi đã cố gắng duy trì mối liên hệ dưới nhãn quan kép này để làm sâu sắc hơn các dự án.” Điều đáng chú ý, theo bà Sylvie Gadmer, đó là lần tuyển sinh năm ngoái đã có rất nhiều người dự tuyển vào trại sáng tác của Varan Vietnam : “Năm ngoái, Varan đã rất thành công khi tuyển sinh. Chúng tôi đã nhận được khoảng 150 đơn dự thi, một số lượng rất lớn. Trần Phương Thảo cùng với Lê Minh, Hà Lê Diễm, cũng là những đạo diễn của Varan, đã đóng góp rất nhiều vào việc tuyển chọn thí sinh, phỏng vấn, cứu xét hồ sơ. Việc tuyển chọn dựa trên nhiều tiêu chí, trước hết là phải có sự bình đẳng nam nữ trong số các học viên của trại sáng tác, rồi phải ưu tiên cho giới trẻ, đánh giá chất lượng và khát vọng của các học viên đó, cũng như khả năng của họ duy trì truyền thống của Varan.Chúng tôi không chỉ đào tạo các đạo diễn mà đào tạo những thành viên tương lai của Varan Vietnam. Ta có thể nêu ví dụ của Hà Lê Diễm, người đã thực hiện bộ phim “Những đứa trẻ trong sương”, sau khi dự khóa học của Varan năm 2016, nay vẫn tham gia vào việc tuyển chọn học viên, tham gia các hoạt động của trại sáng tác, nhưng vẫn bắt đầu tập trung để làm bộ phim truyện đầu tay của cô.”Toàn bộ 8 bộ phim được thực hiện nhân kỷ niệm 20 năm ra đời của Varan Vietnam đều có chủ đề về y tế. Bà Sylvie Gadmer Tiên giải thích: "Tại sao lại tổ chức theo chủ đề? Bởi vì chủ đề cũng đóng vai trò như chất kết dính cho trại sáng tác. Chủ đề sức khỏe được Thảo chọn vì đây là vấn đề đã được bàn luận từ lâu. Đây là một chủ đề rất quan trọng và thực sự phản ánh xã hội. Đó là vấn đề mà người Việt Nam ngày càng quan tâm, và thậm chí còn quan tâm nhiều hơn kể từ khi có Covid, Vấn đề này rất nhạy cảm ở Việt Nam vì có sự chênh lệch giàu nghèo và bất bình đẳng trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Sau đó, trong các dự án cá nhân, mỗi học viên sinh sẽ đề xuất một chủ đề riêng của mình. Nhưng những người hướng dẫn phải đánh giá liệu các chủ đề đó có thể làm được thành phim hay không và nếu được thì phim có thể có thể được thực hiện trong khuôn khổ thời gian của trại sáng tác hay không. Có một số chủ đề rất hay, nhưng trại sáng tác chỉ kéo dài 3 tháng, với thời gian quay phim khá ngắn, chỉ từ 4 đến 5 tuần. Cho nên, chính những giảng viên, với kinh nghiệm của mình, thông qua thảo luận với học viên, sẽ đánh giá liệu dự án đó có khả thi hay không. Nhưng đây là những lựa chọn cá nhân.Sau buổi chiếu tối 03/04, bà Sylvie Gadmer Tiên cho biết họ dự trù một buổi chiếu khác ban ngày vào một ngày cuối tuần để giới thiệu toàn bộ 8 bộ phim và thêm thời giờ cho khán giả trao đổi với các đạo diễn Việt Nam.
Nhân kỷ niệm 50 năm ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam 30/04/2025, Hà Nội đã tổ chức một cuộc diễu binh rầm rộ tại Thành phố Hồ Chí Minh và đặc biệt, lần đầu tiên đã mời quân đội Trung Quốc tham gia cuộc diễu binh. Trước đó, vào giữa tháng 4, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến thăm Việt Nam và đã được tiếp đón rất trọng thể. Trong chuyến đi này, ông Tập Cận Bình đã kêu gọi Việt Nam hãy cùng với Trung Quốc "chống lại hành động hù dọa", ám chỉ Hoa Kỳ. Những sự kiện nói trên diễn ra đúng vào lúc căng thẳng thương mại Mỹ-Trung lên đến cao độ và Việt Nam đang đàm phán với Hoa Kỳ với hy vọng được giảm mức thuế "đối ứng" rất cao, lên đến 46%, mà tổng thống Donald Trump công bố ngày 02/04.Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung hiện tạm thời lắng xuống sau khi hai nước đạt được thỏa thuận về thuế quan trong cuộc gặp tại Genève hai ngày 10 và 11/05/2025, cụ thể là trong thời gian 90 ngày sẽ giảm mức thuế đối ứng xuống còn 30% ( đối với hàng Trung Quốc ) và 10% ( đối với hàng Mỹ ). Theo nhận định của hãng tin Reuters ngày 13/05, thỏa thuận thuế quan Mỹ - Trung làm gia tăng áp lực đối với những nước như Việt Nam, nơi cũng thu hút các nhà sản xuất Trung Quốc kể từ khi Trump áp thuế trong nhiệm kỳ đầu của ông. Như vậy là Việt Nam sẽ buộc phải cố gắng đạt được một thỏa thuận với Mỹ tốt hơn thỏa thuận Mỹ-Trung ở Genève. Vào lúc Việt Nam đang đàm phán với Mỹ thì Bắc Kinh lại cảnh cáo là các nước không nên đạt được một thỏa thuận thương mại nào "bất lợi" cho Trung Quốc, và nếu xẩy ra trường hợp này, Trung Quốc sẽ thi hành các biện pháp trả đũa kinh tế. Lời đe dọa này có liên hệ trực tiếp với Việt Nam, vì Việt Nam vẫn bị Hoa Kỳ xem là nơi sản xuất hàng hóa cho Trung Quốc để xuất sang thị trường Mỹ mà không bị đánh thuế nặng. Trong một bài viết đăng ngày 16/05/2025 trên trang mạng của Tổ chức Châu Á - Thái Bình Dương Canada (APF Canada), nhà nghiên cứu Sasha Lee cũng lưu ý "những nhượng bộ thương mại của Việt Nam (giám sát chặt chẽ hơn nguồn gốc xuất xứ hàng hóa được sử dụng trong sản xuất, khuyến khích mua thêm hàng giá trị cao của Mỹ...) có thể giúp xoa dịu Hoa Kỳ, nhưng có nguy cơ làm mất ổn định mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. Bất kỳ sự thỏa hiệp kinh tế đáng kể nào đối với Hoa Kỳ đều có thể bị Trung Quốc trả đũa."Bà Sasha Lee nhấn mạnh "Quan trọng hơn, do chuỗi cung ứng của Việt Nam liên kết quá chặt chẽ với Trung Quốc, phản ứng kinh tế từ Bắc Kinh, chẳng hạn như tăng thuế đối với hàng hóa Việt Nam hoặc giảm đầu tư của Trung Quốc, có thể làm gián đoạn đáng kể các ngành công nghiệp của Việt Nam. Do đó, Việt Nam đang đi trên dây, tìm cách khẳng định tầm quan trọng của mình như một trung tâm sản xuất thay thế cho Hoa Kỳ trong khi cẩn thận tránh các hành động bị xem là liên kết kinh tế hoặc chính trị với Washington."Cuộc chiến thuế quan của Mỹ tác động như thế nào đến quan hệ Việt-Trung? RFI Việt ngữ phỏng vấn tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ.RFI: Việt Nam lần đầu tiên đã cho quân đội Trung Quốc tham gia diễu binh ngày 30/04/2025 đúng vào lúc căng thẳng thương mại với Mỹ đang lên đến cao độ. Cộng thêm với việc chủ tịch Tập Cận Bình đã được đón tiếp một cách đặc biệt trọng thể, việc quân đội Trung Quốc tham gia diễu binh có phải là một thắng lợi có tính chất biểu tượng của Bắc Kinh trong cuộc tranh giành ảnh hưởng với Hoa Kỳ để thu phục Việt Nam?Vũ Xuân Khang: Việt Nam kể khi từ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1991 đã luôn đặt Trung Quốc làm đối tác quan trọng nhất về cả an ninh, chính trị, và kinh tế. Điều này có nguyên do từ việc Việt Nam đã bị Liên Xô bỏ rơi và phải giải quyết vấn đề Cam Bốt, cũng như xung đột biên giới Việt-Trung trên thế yếu với Trung Quốc. Việt Nam hiểu rằng họ cần tránh tái diễn một cuộc xung đột với Trung Quốc, nên kể từ khi bình thường hóa quan hệ, Việt Nam đã luôn luôn từ chối tham gia liên minh hay hợp tác với một quốc gia khác để chống Trung Quốc. Việt Nam luôn muốn tăng cường hợp tác quốc phòng với Mỹ, nhất là để hiện đại hóa năng lực của lực lượng hải quân và không quân, nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tuy vậy, Việt Nam rất muốn duy trì quan hệ hữu hảo với Trung Quốc và trong bài toán này thì Trung Quốc luôn luôn được đặt trên mối quan hệ với Hoa Kỳ, do Trung Quốc có thể làm tổn hại an ninh của Việt Nam về mọi mặt từ đất liền, hải đảo, cho đến kinh tế, lẫn chính trị. Chính vì thế việc Việt Nam lần đầu tiên cho quân đội Trung Quốc tham gia diễu binh ngày 30/04 là một tín hiệu với Trung Quốc, đó là Việt Nam có tăng cường quan hệ với Mỹ hay với bất kỳ quốc gia nào, bản chất quan hệ Việt - Trung từ trước đến nay vẫn luôn hữu hảo và Việt Nam muốn ghi nhận sự giúp đỡ của Trung Quốc trong quá khứ, cũng như hiện tại và tương lai. Có thể là lời mời quân đội Trung Quốc tham gia diễu binh ngày 30/04 đã có từ trước khi tổng thống Mỹ Donald Trump công bố các mức thuế quan, cho nên hai sự kiện này có thể không liên quan đến nhau. Nhưng có thể nói rõ là căng thẳng thương mại Việt-Mỹ hiện nay là một điều không đáng có trong quan hệ giữa hai nước và hai bên sẽ tiếp tục đàm phán để giảm thiểu các rào cản về thuế quan. RFI: Dầu sao thì phía Trung Quốc đã mô tả chuyến thăm vừa qua của Tập Cận Bình ở Việt Nam bằng những từ ngữ hiếm khi thấy trong thời gian gần đây, như “vừa là đồng chí vừa là anh em”, phải chăng họ muốn nhấn mạnh quan hệ giữa hai nước đã tăng thêm một nấc, trong lúc có vẻ như Hoa Kỳ đang đi bước lùi trong quan hệ với Việt Nam?Vũ Xuân Khang: Thật ra quan hệ Việt Nam - Trung Quốc kể từ 2023 mặc dù tên gọi vẫn là Đối tác chiến lược toàn diện, nhưng về bản chất thì Việt Nam đã nâng quan hệ lên mức cao hơn khi chấp nhận tham gia "Cộng đồng chung vận mệnh" của Trung Quốc. Gọi Việt Nam "vừa là đồng chí, vừa là anh em" cũng là một lời khẳng định, đó là Trung Quốc luôn coi trọng quan hệ giữa hai nước và Việt Nam không nên để các bất đồng khác trong quan hệ song phương làm ảnh hưởng đến đại cục, hay tạo điều kiện cho thế lực bên ngoài phá hoại quan hệ giữa hai bên.Rõ ràng là khi chính quan hệ Mỹ-Trung căng thẳng, Trung Quốc lại càng muốn thân thiện với Việt Nam để ngăn Hoa Kỳ sử dụng Việt Nam làm bàn đạp để làm tổn hại lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Việc Hoa Kỳ với Việt Nam có căng thẳng thương mại sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc thuyết phục Việt Nam là không nên tin tưởng vào Hoa Kỳ.RFI: Việt Nam đang đàm phán với Hoa Kỳ để được giảm mức thuế đối ứng, nhưng trong khi đó Trung Quốc đã cảnh cáo các nước không được ký các thỏa thuận thuế quan với Mỹ mà bất lợi cho Trung Quốc. Liệu Việt Nam có thể thoát ra được thế "gọng kìm" này?Vũ Xuân Khang: Có thể thấy Việt Nam đúng là đang bị kẹt vào thế khó khi cả hai đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam là Mỹ và Trung Quốc đều muốn Hà Nội ngả về phe mình. Tuy nhiên, may mắn cho Việt Nam, đây mới chỉ là xung đột về thương mại, nên bản chất của cuộc cạnh tranh không tổn hại đến an ninh của Việt Nam như một cuộc xung đột quân sự Mỹ-Trung. Hiện tại, Việt Nam đang cố thoát khỏi thế gọng kìm bằng cách mở rộng thị trường xuất khẩu ra các thị trường ngoài Mỹ, như là châu Âu, hay thuyết phục Trung Quốc mua thêm nhiều hàng hóa của Việt Nam. Tuy vậy, Mỹ là một thị trường xuất khẩu quá lớn của Việt Nam, do đó sẽ phải mất một thời gian để Việt Nam điều chỉnh thị trường xuất khẩu. Rõ ràng với khối lượng trao đổi hàng hóa rất lớn với Mỹ như vậy, trong ngắn hạn, Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi chính sách thuế quan của Mỹ chưa rõ ràng, nhưng về bản chất, Việt Nam sẽ tiếp tục điều chỉnh chính sách thương mại tuân theo chính sách ngoại giao đa phương hóa đa dạng hóa, để tránh làm mất lòng cả Mỹ và Trung Quốc.RFI: Nếu tổng thống Trump duy trì chính sách thuế quan bất lợi cho Việt Nam như vậy, về lâu dài liệu có nguy cơ là Việt Nam sẽ phụ thuộc Trung Quốc nhiều hơn về mặt kinh tế và như vậy sẽ dần dần lọt sâu vào quỹ đạo của Bắc Kinh?Vũ Xuân Khang: Thực ra Việt Nam đã nằm trong quỹ đạo của Bắc Kinh kể từ năm 1991. Đây không phải là một sự lựa chọn chủ động của Việt Nam, mà là do chính sách củaTrung Quốc sử dụng áp lực quân sự và kinh tế ép Việt Nam phải tôn trọng vị thế của Trung Quốc, khi Việt Nam trong giai đoạn 1970-1980 dùng liên minh với Liên Xô để khẳng định vị thế của mình và làm phật lòng Trung Quốc. Có thể hiểu đơn giản là Việt Nam đang quay trở lại một quỹ đạo mà từ ngàn xưa đến nay các hoàng đế Việt Nam đã phải tuân thủ: sau khi chiến thắng các cuộc xâm lược từ phương Bắc, họ đều phải triều cống và thuần phục Bắc Kinh nhằm tránh các cuộc chiến tranh không cần thiết với láng giềng phương Bắc. Trong hoàn cảnh hiện nay, Việt Nam chỉ có thể phát triển hòa bình ổn định khi quan hệ Việt-Trung ổn định. Tổng thống Mỹ duy trì chính sách thuế quan bất lợi cho Việt Nam sẽ là một bước lùi trong quan hệ Việt-Mỹ, và một sự phát triển rất có lợi cho Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ cố gắng giữ một nền ngoại giao độc lập, tự chủ, luôn mong muốn tìm kiếm các đối tác kinh tế mới, hay mở rộng quan hệ kinh tế với các đối tác hiện tại, bao gồm cả Trung Quốc và Mỹ, để làm giảm tổn thất đến phát triển kinh tế. Cần phải nói lại là mặc dù nằm trong quỹ đạo của Trung Quốc,Việt Nam có một lợi ích kinh tế rất lớn khi duy trì quan hệ hữu hảo với Hoa Kỳ, nhất là trong trường hợp Việt Nam cần hiện đại hóa quân đội để bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình.
Nhân kỷ niệm 50 năm ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam 30/04/2025, Hà Nội đã tổ chức một cuộc diễu binh rầm rộ tại Thành phố Hồ Chí Minh và đặc biệt, lần đầu tiên đã mời quân đội Trung Quốc tham gia cuộc diễu binh. Trước đó, vào giữa tháng 4, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến thăm Việt Nam và đã được tiếp đón rất trọng thể. Trong chuyến đi này, ông Tập Cận Bình đã kêu gọi Việt Nam hãy cùng với Trung Quốc "chống lại hành động hù dọa", ám chỉ Hoa Kỳ. Những sự kiện nói trên diễn ra đúng vào lúc căng thẳng thương mại Mỹ-Trung lên đến cao độ và Việt Nam đang đàm phán với Hoa Kỳ với hy vọng được giảm mức thuế "đối ứng" rất cao, lên đến 46%, mà tổng thống Donald Trump công bố ngày 02/04.Căng thẳng thương mại Mỹ-Trung hiện tạm thời lắng xuống sau khi hai nước đạt được thỏa thuận về thuế quan trong cuộc gặp tại Genève hai ngày 10 và 11/05/2025, cụ thể là trong thời gian 90 ngày sẽ giảm mức thuế đối ứng xuống còn 30% ( đối với hàng Trung Quốc ) và 10% ( đối với hàng Mỹ ). Theo nhận định của hãng tin Reuters ngày 13/05, thỏa thuận thuế quan Mỹ - Trung làm gia tăng áp lực đối với những nước như Việt Nam, nơi cũng thu hút các nhà sản xuất Trung Quốc kể từ khi Trump áp thuế trong nhiệm kỳ đầu của ông. Như vậy là Việt Nam sẽ buộc phải cố gắng đạt được một thỏa thuận với Mỹ tốt hơn thỏa thuận Mỹ-Trung ở Genève. Vào lúc Việt Nam đang đàm phán với Mỹ thì Bắc Kinh lại cảnh cáo là các nước không nên đạt được một thỏa thuận thương mại nào "bất lợi" cho Trung Quốc, và nếu xẩy ra trường hợp này, Trung Quốc sẽ thi hành các biện pháp trả đũa kinh tế. Lời đe dọa này có liên hệ trực tiếp với Việt Nam, vì Việt Nam vẫn bị Hoa Kỳ xem là nơi sản xuất hàng hóa cho Trung Quốc để xuất sang thị trường Mỹ mà không bị đánh thuế nặng. Trong một bài viết đăng ngày 16/05/2025 trên trang mạng của Tổ chức Châu Á - Thái Bình Dương Canada (APF Canada), nhà nghiên cứu Sasha Lee cũng lưu ý "những nhượng bộ thương mại của Việt Nam (giám sát chặt chẽ hơn nguồn gốc xuất xứ hàng hóa được sử dụng trong sản xuất, khuyến khích mua thêm hàng giá trị cao của Mỹ...) có thể giúp xoa dịu Hoa Kỳ, nhưng có nguy cơ làm mất ổn định mối quan hệ của Việt Nam với Trung Quốc. Bất kỳ sự thỏa hiệp kinh tế đáng kể nào đối với Hoa Kỳ đều có thể bị Trung Quốc trả đũa."Bà Sasha Lee nhấn mạnh "Quan trọng hơn, do chuỗi cung ứng của Việt Nam liên kết quá chặt chẽ với Trung Quốc, phản ứng kinh tế từ Bắc Kinh, chẳng hạn như tăng thuế đối với hàng hóa Việt Nam hoặc giảm đầu tư của Trung Quốc, có thể làm gián đoạn đáng kể các ngành công nghiệp của Việt Nam. Do đó, Việt Nam đang đi trên dây, tìm cách khẳng định tầm quan trọng của mình như một trung tâm sản xuất thay thế cho Hoa Kỳ trong khi cẩn thận tránh các hành động bị xem là liên kết kinh tế hoặc chính trị với Washington."Cuộc chiến thuế quan của Mỹ tác động như thế nào đến quan hệ Việt-Trung? RFI Việt ngữ phỏng vấn tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ.RFI: Việt Nam lần đầu tiên đã cho quân đội Trung Quốc tham gia diễu binh ngày 30/04/2025 đúng vào lúc căng thẳng thương mại với Mỹ đang lên đến cao độ. Cộng thêm với việc chủ tịch Tập Cận Bình đã được đón tiếp một cách đặc biệt trọng thể, việc quân đội Trung Quốc tham gia diễu binh có phải là một thắng lợi có tính chất biểu tượng của Bắc Kinh trong cuộc tranh giành ảnh hưởng với Hoa Kỳ để thu phục Việt Nam?Vũ Xuân Khang: Việt Nam kể khi từ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1991 đã luôn đặt Trung Quốc làm đối tác quan trọng nhất về cả an ninh, chính trị, và kinh tế. Điều này có nguyên do từ việc Việt Nam đã bị Liên Xô bỏ rơi và phải giải quyết vấn đề Cam Bốt, cũng như xung đột biên giới Việt-Trung trên thế yếu với Trung Quốc. Việt Nam hiểu rằng họ cần tránh tái diễn một cuộc xung đột với Trung Quốc, nên kể từ khi bình thường hóa quan hệ, Việt Nam đã luôn luôn từ chối tham gia liên minh hay hợp tác với một quốc gia khác để chống Trung Quốc. Việt Nam luôn muốn tăng cường hợp tác quốc phòng với Mỹ, nhất là để hiện đại hóa năng lực của lực lượng hải quân và không quân, nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tuy vậy, Việt Nam rất muốn duy trì quan hệ hữu hảo với Trung Quốc và trong bài toán này thì Trung Quốc luôn luôn được đặt trên mối quan hệ với Hoa Kỳ, do Trung Quốc có thể làm tổn hại an ninh của Việt Nam về mọi mặt từ đất liền, hải đảo, cho đến kinh tế, lẫn chính trị. Chính vì thế việc Việt Nam lần đầu tiên cho quân đội Trung Quốc tham gia diễu binh ngày 30/04 là một tín hiệu với Trung Quốc, đó là Việt Nam có tăng cường quan hệ với Mỹ hay với bất kỳ quốc gia nào, bản chất quan hệ Việt - Trung từ trước đến nay vẫn luôn hữu hảo và Việt Nam muốn ghi nhận sự giúp đỡ của Trung Quốc trong quá khứ, cũng như hiện tại và tương lai. Có thể là lời mời quân đội Trung Quốc tham gia diễu binh ngày 30/04 đã có từ trước khi tổng thống Mỹ Donald Trump công bố các mức thuế quan, cho nên hai sự kiện này có thể không liên quan đến nhau. Nhưng có thể nói rõ là căng thẳng thương mại Việt-Mỹ hiện nay là một điều không đáng có trong quan hệ giữa hai nước và hai bên sẽ tiếp tục đàm phán để giảm thiểu các rào cản về thuế quan. RFI: Dầu sao thì phía Trung Quốc đã mô tả chuyến thăm vừa qua của Tập Cận Bình ở Việt Nam bằng những từ ngữ hiếm khi thấy trong thời gian gần đây, như “vừa là đồng chí vừa là anh em”, phải chăng họ muốn nhấn mạnh quan hệ giữa hai nước đã tăng thêm một nấc, trong lúc có vẻ như Hoa Kỳ đang đi bước lùi trong quan hệ với Việt Nam?Vũ Xuân Khang: Thật ra quan hệ Việt Nam - Trung Quốc kể từ 2023 mặc dù tên gọi vẫn là Đối tác chiến lược toàn diện, nhưng về bản chất thì Việt Nam đã nâng quan hệ lên mức cao hơn khi chấp nhận tham gia "Cộng đồng chung vận mệnh" của Trung Quốc. Gọi Việt Nam "vừa là đồng chí, vừa là anh em" cũng là một lời khẳng định, đó là Trung Quốc luôn coi trọng quan hệ giữa hai nước và Việt Nam không nên để các bất đồng khác trong quan hệ song phương làm ảnh hưởng đến đại cục, hay tạo điều kiện cho thế lực bên ngoài phá hoại quan hệ giữa hai bên.Rõ ràng là khi chính quan hệ Mỹ-Trung căng thẳng, Trung Quốc lại càng muốn thân thiện với Việt Nam để ngăn Hoa Kỳ sử dụng Việt Nam làm bàn đạp để làm tổn hại lợi ích quốc gia của Trung Quốc. Việc Hoa Kỳ với Việt Nam có căng thẳng thương mại sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc thuyết phục Việt Nam là không nên tin tưởng vào Hoa Kỳ.RFI: Việt Nam đang đàm phán với Hoa Kỳ để được giảm mức thuế đối ứng, nhưng trong khi đó Trung Quốc đã cảnh cáo các nước không được ký các thỏa thuận thuế quan với Mỹ mà bất lợi cho Trung Quốc. Liệu Việt Nam có thể thoát ra được thế "gọng kìm" này?Vũ Xuân Khang: Có thể thấy Việt Nam đúng là đang bị kẹt vào thế khó khi cả hai đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam là Mỹ và Trung Quốc đều muốn Hà Nội ngả về phe mình. Tuy nhiên, may mắn cho Việt Nam, đây mới chỉ là xung đột về thương mại, nên bản chất của cuộc cạnh tranh không tổn hại đến an ninh của Việt Nam như một cuộc xung đột quân sự Mỹ-Trung. Hiện tại, Việt Nam đang cố thoát khỏi thế gọng kìm bằng cách mở rộng thị trường xuất khẩu ra các thị trường ngoài Mỹ, như là châu Âu, hay thuyết phục Trung Quốc mua thêm nhiều hàng hóa của Việt Nam. Tuy vậy, Mỹ là một thị trường xuất khẩu quá lớn của Việt Nam, do đó sẽ phải mất một thời gian để Việt Nam điều chỉnh thị trường xuất khẩu. Rõ ràng với khối lượng trao đổi hàng hóa rất lớn với Mỹ như vậy, trong ngắn hạn, Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi chính sách thuế quan của Mỹ chưa rõ ràng, nhưng về bản chất, Việt Nam sẽ tiếp tục điều chỉnh chính sách thương mại tuân theo chính sách ngoại giao đa phương hóa đa dạng hóa, để tránh làm mất lòng cả Mỹ và Trung Quốc.RFI: Nếu tổng thống Trump duy trì chính sách thuế quan bất lợi cho Việt Nam như vậy, về lâu dài liệu có nguy cơ là Việt Nam sẽ phụ thuộc Trung Quốc nhiều hơn về mặt kinh tế và như vậy sẽ dần dần lọt sâu vào quỹ đạo của Bắc Kinh?Vũ Xuân Khang: Thực ra Việt Nam đã nằm trong quỹ đạo của Bắc Kinh kể từ năm 1991. Đây không phải là một sự lựa chọn chủ động của Việt Nam, mà là do chính sách củaTrung Quốc sử dụng áp lực quân sự và kinh tế ép Việt Nam phải tôn trọng vị thế của Trung Quốc, khi Việt Nam trong giai đoạn 1970-1980 dùng liên minh với Liên Xô để khẳng định vị thế của mình và làm phật lòng Trung Quốc. Có thể hiểu đơn giản là Việt Nam đang quay trở lại một quỹ đạo mà từ ngàn xưa đến nay các hoàng đế Việt Nam đã phải tuân thủ: sau khi chiến thắng các cuộc xâm lược từ phương Bắc, họ đều phải triều cống và thuần phục Bắc Kinh nhằm tránh các cuộc chiến tranh không cần thiết với láng giềng phương Bắc. Trong hoàn cảnh hiện nay, Việt Nam chỉ có thể phát triển hòa bình ổn định khi quan hệ Việt-Trung ổn định. Tổng thống Mỹ duy trì chính sách thuế quan bất lợi cho Việt Nam sẽ là một bước lùi trong quan hệ Việt-Mỹ, và một sự phát triển rất có lợi cho Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ cố gắng giữ một nền ngoại giao độc lập, tự chủ, luôn mong muốn tìm kiếm các đối tác kinh tế mới, hay mở rộng quan hệ kinh tế với các đối tác hiện tại, bao gồm cả Trung Quốc và Mỹ, để làm giảm tổn thất đến phát triển kinh tế. Cần phải nói lại là mặc dù nằm trong quỹ đạo của Trung Quốc,Việt Nam có một lợi ích kinh tế rất lớn khi duy trì quan hệ hữu hảo với Hoa Kỳ, nhất là trong trường hợp Việt Nam cần hiện đại hóa quân đội để bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình.
Nếu như người xưa tin rằng chuyện gặp gỡ, yêu đương rồi nên vợ nên chồng đều là do “số”, thì đặt trong bối cảnh hiện nay, có lẽ ta phải tự hỏi “số” giờ đây là “số phận” hay là “số hoá” ? Lướt một vòng trên các trang mạng xã hội, không khó để tìm thấy những bài báo, những chia sẻ của người trong và ngoài cuộc về việc sử dụng các ứng dụng hẹn hò, với đủ những ý kiến khen chê, những cái nhìn từ lạc quan đến bi quan. Tuy nhiên, có thể tóm gọn các quan điểm này trong ba từ khoá chính, bao gồm : “giới trẻ”, “tình yêu” và “lừa đảo”. Vậy hôm nay, xin mời quý vị hãy cùng RFI tìm hiểu về những ứng dụng hẹn hò cùng những định kiến về ngành công nghiệp “tình yêu” này.Bùng nổ ngành công nghiệp “tình yêu” 381 triệu người đã và đang sử dụng các dịch vụ hẹn hò qua mạng, theo số liệu năm 2024 của nền tảng thống kê dữ liệu Statista. Các ứng dụng gặp gỡ như Tinder, Bumble hay Badoo cũng thu về số lượt tải khổng lồ, từ khoảng 3 đến 5 triệu lượt mỗi tháng, và đem lại cho ngành công nghiệp này khoảng 3 tỷ đô la trong năm ngoái. Một vài con số trên đây hẳn đã cho thấy cái nhìn tổng quan về sự phát triển của các ứng dụng hẹn hò qua mạng. Về cách thức hoạt động, các ứng dụng này sẽ hiển thị lần lượt các hồ sơ người dùng dựa trên nhiều tiêu chí, nhưng chủ yếu dựa trên mức độ “đồng điệu” giả định được xác định bởi một thuật toán, xét theo giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, sắc tộc, thu nhập, v.v. Nhờ vậy, người dùng có thể dễ tìm được người tương đồng với mình hơn. Nếu cảm thấy có hứng thú muốn tìm hiểu, người dùng có thể quẹt sang phải còn nếu không họ sẽ quẹt sang trái. Khi cả hai bên cùng quẹt phải, ứng dụng sẽ hiển thị thông báo “match”, và hai người dùng sẽ được kết nối để có thể nhắn tin trò chuyện.Đương nhiên cũng cần nhớ rằng điều mà các chủ doanh nghiệp mong muốn không phải tình yêu cho bạn mà là lợi nhuận cho họ. Ở phiên bản miễn phí, các ứng dụng sẽ chỉ cho người dùng số lần quẹt giới hạn trong 24 giờ, nếu đã hết số lần, hoặc người dùng phải chờ đến hôm sau hoặc phải nạp tiền. Ứng dụng cũng ẩn đi những hồ sơ đã “thích” bạn, hay những hồ sơ được coi là “đẹp”, nằm trong “top 10 tuyển chọn” phù hợp với bạn. Để xem được những hồ sơ này, người dùng phải nâng cấp tài khoản.Trước sự bùng nổ của các ứng dụng hẹn hò qua mạng, có không ít các quan điểm, thậm chí là định kiến được lan truyền rộng rãi nhưng câu hỏi đặt ra là liệu chúng có chính xác? Chỉ người trẻ mới dùng các ứng dụng hẹn hò ? Quan điểm đầu tiên và cũng là phổ biến nhất có thể thấy trên các bài báo hay các bài chia sẻ trên mạng xã hội về việc sử dụng các ứng dụng hẹn hò liên quan đến tuổi tác. Nhiều người tin rằng chỉ có những người trẻ mới tìm tới các ứng dụng này. Tuy nhiên, không chỉ những người trẻ, cả những người đã bước vào tuổi trung niên cũng là một nhóm khách hàng chiếm tỷ lệ không nhỏ trên các nền tảng gặp gỡ. Chẳng hạn trên Tinder, mức tuổi người dùng dao động từ 17 cho tới 84. Để tìm hiểu về sự đa dạng tuổi tác này, RFI Việt ngữ đã có cuộc phỏng vấn với bà Aurore Malet Karas, bác sĩ khoa học thần kinh, chuyên gia tình dục học, tác giả cuốn “Não bộ, tình dục và tình yêu”. Bà Malet Karas cho biết : “Trước hết ta cần biết rằng có hai kiểu ứng dụng. Một là những ứng dụng hướng tới tất cả các đối tượng, hai là những ứng dụng chỉ hướng tới một số nhóm đối tượng cụ thể, dựa theo tuổi tác, cộng đồng hoặc thậm chí là tôn giáo. Trong số các ứng dụng phổ thông, nhiều cái chẳng hạn như Tinder được tạo trong bối cảnh trường đại học nên đa phần người ta nghĩ rằng chúng đều dành cho người trẻ. Tuy nhiên trên thực tế thì trên các ứng dụng này có không ít những người đã khá lớn tuổi, và đặc biệt những người đã ly hôn. Họ tìm tới các ứng dụng này để kết nối với người mới.”Ngoài ra, cũng có những người vì quá bận rộn với cuộc sống cá nhân, có người khác thì mới thay đổi chỗ ở nên không quen ai sống quanh khu của mình. Nhiều người lâu rồi không đi làm quen tìm hiểu ai nên không biết phải bắt đầu như thế nào. Họ lựa chọn các ứng dụng vì nó trực tiếp và nhắm thẳng vào mục tiêu.Chỉ người ngây thơ mới bị lừa ? Theo thống kê của công ty Norton của Mỹ, trung bình khoảng 25% người sử dụng các ứng dụng hẹn hò ở Pháp, Úc, Anh Quốc, Đức, v.v cho biết đã bị lừa đảo tình cảm. Con số này ở Ấn Độ thậm chí còn lên tới 66%. Vẫn theo thống kê này, đối tượng bị lừa đảo tình cảm nhiều nhất là phụ nữ trên 50 tuổi. Không chỉ bị lừa tình, nhiều người còn bị lừa tiền. Ở Việt Nam, báo chí trong nước đã đưa tin về những nạn nhân bị lừa số tiền từ vài trăm triệu, và có trường hợp lên tới hơn 5 tỷ đồng. Còn ở Pháp, một người phụ nữ thậm chí đã mất tới 850.000 đô la vào tay một kẻ mạo danh tài tử Hollywood Brad Pitt. Những vụ lừa đảo như vậy khiến nhiều người tự hỏi tại sao người ta lại có thể tin và chuyển tiền cho những người mình thậm chí còn chưa từng một lần gặp mặt ? Liệu có phải rằng họ quá ngây thơ và cả tin ? Bà Malet Karas chia sẻ : “Lừa đảo là một vấn đề rất phức tạp và ai cũng có thể gặp phải. Thật vậy, ai cũng có thể bị lừa chứ không chỉ những người ngây thơ. Có những người do không quen sử dụng các ứng dụng gặp gỡ nên không nhận ra được những dấu hiệu lừa đảo, chẳng hạn từ cái nhỏ nhất là không phân biệt được những tài khoản ảo với tài khoản thật. Nhưng quan trọng hơn là những hành vi lừa đảo đang ngày càng tinh vi, những kẻ lừa đảo cũng ngày càng chuyên nghiệp hơn.”Giờ đây, những đối tượng lừa đảo không chỉ làm việc một mình mà có khi còn có cả một hệ thống đằng sau để trợ giúp. Các nhóm lừa đảo đã soạn những kịch bản chi tiết, ghi cụ thể ngày, giờ, nội dung tin nhắn cần gửi cho “khách hàng”, với các hình ảnh được hệ thống hoá để chứng minh rằng kẻ lừa đảo làm việc trong các công ty liên doanh, thường xuyên đi công tác nước ngoài, là những doanh nhân thành đạt. Sau đó, nhóm lừa đảo có thể đưa ra nhiều lý do để khiến nạn nhân chuyển tiền cho chúng, như đầu tư vào các sàn tiền ảo, góp vốn làm ăn, hoặc cho vay vì chúng đang cần tiền gấp để thực hiện một dự án đầu tư.Nhưng cũng có khi những kẻ lừa đảo chỉ nhờ nạn nhân đơn giản là nhấp vào một đường liên kết để bình chọn cho một cuộc thi hay tải một ứng dụng trên điện thoại để tiện liên lạc. Với một yêu cầu đơn giản như vậy từ “người yêu”, những người đa nghi nhất hẳn cũng có lúc mất cảnh giác và làm theo, nhất là khi họ đang trong một mối quan hệ gần gũi và tin tưởng. Ngoài ra, theo bác sĩ tâm lý Sébastien Garnero, trả lời trên tạp chí Santé Magazine, nạn nhân còn dễ bị rơi vào bẫy vì những kẻ lừa đảo hay nhắm vào các đối tượng “đang tìm kiếm sự công nhận, tình yêu hoặc đơn giản là một người nào đó ở bên cạnh.” Theo ông, nhiều nạn nhân đang trong tình trạng tâm lý dễ tổn thương như vừa mới ly hôn và vì vậy cần có một điểm tựa tinh thần. Chỉ người “ế” mới tìm tới các ứng dụng này ?Theo kết quả cuộc khảo sát của trường đại học Stanford, trong số 1387 người sử dụng Tinder được hỏi, thì có tới 65,3% khẳng định họ đang có người yêu hoặc thậm chí là đã kết hôn. Điều này hẳn sẽ khiến nhiều người phải ngạc nhiên. Nếu đã có đôi có cặp, vậy họ lên ứng dụng hẹn hò để làm gì ? Thực tế thì người dùng tìm kiếm nhiều thứ hơn là tình yêu. Các ứng dụng đương nhiên hiểu được điều này và họ cũng “không muốn giới hạn khả năng của mình chỉ cho mục đích tìm kiếm nửa kia của mình”, theo nhận định của chuyên gia Malet Karas. Bà giải thích với RFI Việt ngữ :“Trong khoảng thời gian Covid chẳng hạn, nhiều người dùng các ứng dụng hẹn hò chỉ đơn giản để được làm quen, kết bạn với người mới. Điều này có thể thấy thông qua các nghiên cứu, khảo sát được thực hiện trong giai đoạn này. Nói chung là mỗi người lại có một cách sử dụng riêng. Có những người tìm một người bạn đồng hành để xây dựng gia đình. Có những người tìm một người bạn tâm giao. Và bên cạnh đó cũng có nhiều người sử dụng các ứng dụng này để tìm kiếm các mối quan hệ tình dục, tình một đêm. Về phần các ứng dụng, họ rõ ràng cũng không muốn giới hạn khả năng của mình chỉ cho mục đích tìm kiếm nửa kia của người dùng. Họ tạo ra các ứng dụng phổ thông để phục vụ tất cả các mục đích mà người dùng muốn nhắm tới. Người dùng khi đó sẽ phải tự lọc xem mình muốn làm quen với ai, cho mục đích gì. Nhưng cũng có các ứng dụng chỉ tập trung vào từng mục đích chuyên biệt.”Vậy các mục đích chuyên biệt này có thể là gì ? Với những người sinh từ những năm 80 trở về trước, các thể loại mối quan hệ có thể ít đa dạng, cũng như ít phức tạp hơn. Nhưng với Gen Z, thế hệ những người sinh trong khoảng từ năm 1995-2010, thì suy nghĩ của họ về các mối quan hệ rất cởi mở. Hai người ở cạnh nhau có thể là người yêu, có thể là bạn và cũng có thể là “trên tình bạn dưới tình yêu”.Theo nghiên cứu do ứng dụng hẹn hò Happn công bố hồi cuối năm 2024, gần một nửa những người trẻ được hỏi cho biết tình yêu không phải là ưu tiên mà họ tìm kiếm, trong khi 21% sử dụng chúng chủ yếu để kết bạn. Do đó, khi đặt câu hỏi “Bạn mong muốn tìm kiếm điều gì ?” cho người dùng, ứng dụng này đã gợi ý thêm nhiều lựa chọn đa dạng, như : mối quan hệ lâu dài, mối quan hệ ngắn hạn, bạn bè, mối quan hệ mở, mối quan hệ mập mờ, hay quan hệ thể xác, v.v. Để từ đó tìm kiếm các hồ sơ phù hợp cho mục đích của mỗi người dùng.Và thậm chí có người dùng các ứng dụng hẹn hò để kiếm việc. Kênh France Info cho biết từ năm 2021, công ty môi giới việc làm tạm thời Proman đã đi đầu trong phong trào này. Người dùng khi lướt Tinder có thể bắt gặp một hồ sơ với dòng giới thiệu bản thân như : “Anh đã phải lòng em. Scanette đang tìm một nhân viên điều hành sẵn sàng cam kết lâu dài” hay “Bưu kiện cô đơn đang tìm người chuẩn bị đơn và đóng gói”. Khi đó, nếu người dùng quẹt phải, họ sẽ được chuyển hướng đến trang web của công ty tuyển dụng và tất cả những gì bạn cần làm là nộp đơn. Nhờ có tính năng định vị địa lý, một tính năng chủ chốt của Tinder, các công ty tuyển dụng có thể dễ dàng tìm thấy người dùng gần mình. Tóm lại, có thể thấy những định kiến lan truyền rộng rãi ngày nay về các ứng dụng hẹn hò không phải lúc nào cũng chính xác. Không phải chỉ có người trẻ, mà cả những người 40,50 thậm chí ngoài 70 cũng có thể được nhìn thấy trên các ứng dụng. Cũng không phải chỉ có người cô đơn mới lên tìm tình yêu ở đây, bạn có thể bắt gặp cả những người đã có người yêu, thậm chí đã có gia đình. Và cuối cùng, bất kỳ ai cũng có thể trở thành nạn nhân của các vụ lừa đảo trên các ứng dụng gặp gỡ, chứ không chỉ những người ngây thơ. Luôn giữ thái độ tỉnh táo và thận trọng sẽ phần nào giúp chúng ta tránh được các cạm bẫy này.
Nguyên là đại sứ Pháp tại Việt Nam từ 1989 đến 1993, ông Claude Blanchemaison vừa cho ra mắt độc giả ở Pháp một cuốn sách gần như là hồi ký của một nhà ngoại giao. Tác giả đặt tựa cho quyển sách là “Fragments d'un parcours aventureux” ( tạm dịch là “Những phân đoạn của một hành trình kỳ thú” ). Ngoài Việt Nam, ông Blanchemaison đã từng là đại sứ ở các nước Ấn Độ, Nga, Tadjikistan và Tây Ban Nha và cũng đã từng giữ nhiều chức vụ cao cấp trong bộ Ngoại Giao Pháp. Hiện là một chuyên gia về châu Âu và châu Á, ông vẫn thường xuyên bình luận về thời sự quốc tế trên các kênh truyền hình và truyền thanh của Pháp. Cuốn sách của ông “Sống với Putin” đã nhận được giải Jacques Fouchier của Viện Hàn lâm Pháp năm 2020. Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ, cựu đại sứ Blanchemaison kể lại, vào ngày 24/02/2022 (đúng vào ngày Putin xua quân xâm lăng Ukraina !), khi đang ở một nhà hàng ở Paris ông đã bước hụt và bị ngã, vỡ cả hai đầu gối, nên phải được phẫu thuật và phải nằm viện một thời gian dài do chấn thương đầu gối khá nghiêm trọng. Chính trong thời gian đó mà Claude Blanchemaison nảy ra ý định viết một cuốn sách kể lại đời mình từ thuở thiếu niên cho đến ngày nay, nhưng phần lớn tác phẩm này được dành cho sự nghiệp rất dài của một nhà ngoại giao kỳ cựu, mà một trong những chặng đường mà ông đã đi qua là Việt Nam: Rồi một ngày đầu năm 1989, tôi được thông báo: "Họ đang suy tính bổ nhiệm ông làm đại sứ tại Việt Nam". Một khả năng khá là chắc chắn và tôi thậm chí còn được mời tham gia một phái đoàn của bộ trưởng Nông Nghiệp Pháp đến thăm Việt Nam vào tháng 2/1989. Thế là tôi đã đến đó cùng với ông và đã khám phá Việt Nam với những cảnh quan tuyệt đẹp. Tháp tùng bộ trưởng Nông Nghiệp Henri Nallet, chúng tôi đã đến Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nơi chúng tôi gặp các giám đốc của các viện nông học đã từng du học ở Pháp và về cơ bản đã duy trì được mạng lưới hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, hợp tác với các kỹ sư nông nghiệp Việt Nam và Pháp. Đây gần như là lĩnh vực duy nhất thực sự có sự hợp tác, ngoài lĩnh vực ngôn ngữ, nghĩa là giảng dạy tiếng Pháp và duy trì đội ngũ giáo viên dạy tiếng Pháp. Tôi nhận thấy rằng người Việt Nam luôn có thông tin đầy đủ: Một trong những phiên dịch viên nói với tôi: “ Có tin đồn rằng ngài sẽ đến Việt Nam với tư cách là đại sứ, vậy khi nào ngài sẽ đến?” Vị đại sứ trẻ Claude Blanchemaison đã nhậm chức đại sứ Pháp tại Việt Nam năm 1989, vào một thời điểm rất đặc biệt: Việt Nam vẫn còn bị Mỹ cấm vận, nhưng bắt đầu mở cửa với thế giới và cải cách kinh tế, trong khi đó cuộc chiến ở Cam Bốt vẫn chưa kết thúc hoàn toàn. Blanchemaison kể lại những ngày đầu tiên ông đại diện cho nước Pháp ở Việt Nam: Đối với tôi, đó quả là một thách thức, vì chỉ thị mà tôi nhận được từ tổng thống và ngoại trưởng là nối lại quan hệ với Việt Nam, nối lại hợp tác bất cứ khi nào có thể và giúp đỡ Việt Nam. Vào thời điểm đó, Việt Nam còn nghèo đói sau hơn 30 năm chiến tranh với Pháp, với Mỹ và sau đó Việt Nam đánh đuổi Khmer Đỏ ra khỏi Cam Bốt, khiến Trung Quốc tức giận và đã đánh sang miền bắc Việt Nam. Và như ông có nói, lệnh cấm vận của Mỹ rất nghiêm ngặt và thực tế là tình trạng kinh tế của đất nước rất khó khăn. Khi tôi đến thì Việt Nam đã quyết định thi hành chính sách Đổi Mới, tức là cải cách kinh tế. hơi giống với những gì Trung Quốc đã và đang là từ trước đó một thời gian, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường mang màu sắc Việt Nam. Nhưng vấn đề là chưa có một khuôn khổ pháp lý. Chỉ có quyết tâm chuyển sang nền kinh tế thị trường không thì chưa đủ, mà cần có những luật lệ, quy định, thể chế phù hợp với nền kinh tế thị trường. Và đó là nhiệm vụ đầu tiên của tôi. Phía Việt Nam hỏi tôi liệu có thể tìm được người trợ giúp họ, tư vấn cho họ về việc soạn thảo bộ Luật Thương mại không?Thật tình cờ là khi đó có một luật gia người Pháp rất nổi tiếng, là một trong những chánh án Tòa Phúc thẩm Paris, ông Pierre Bizard, sinh ra tại Việt Nam. Cha ông làm việc trong chính quyền Pháp và từng công tác ở Việt Nam. Ông Pierre Bizard đã tình nguyện đến Việt Nam rất thường xuyên, trong các chuyến đi 8 ngày hoặc 15 ngày để làm việc với nhóm của bộ trưởng Tư Pháp Việt Nam về bộ Luật Thương mại Việt Nam, vì ưu tiên là phải có khuôn khổ pháp lý để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, khi đó bộ Tài chính Pháp cũng có một cơ quan hợp tác với nước ngoài, đứng đầu là một thanh tra tài chính rất nổi tiếng vào thời điểm đó, ông Jacques de Chalendar. Ông de Chalendar nói: "Chúng ta có thể huy động chuyên môn của các công chức, phó giám đốc, giám đốc của chúng ta tại bộ Tài Chính". Và ông đã tổ chức hợp tác với bộ Tài Chính Việt Nam để Việt Nam có một kho bạc thực sự và một tổng cục thuế thực sự. Có nghĩa là, giống như bất kỳ Nhà nước hiện đại nào, thuế phải được thu theo đúng luật, theo các quy định pháp lý, và tiền thuế được đưa về trung ương, tức là về Hà Nội, về bộ Tài Chính, rồi sau đó việc phân bổ ngân sách phải thực hiện dựa trên ngân sách do Quốc Hội biểu quyết. Trong hệ thống trước đó ở Việt Nam, lãnh đạo các vùng có thể giữ lại một phần tiền thuế để phục vụ nhu cầu của địa phương và gửi phần còn lại về Hà Nội. Vì vậy, cần phải cải cách toàn diện và cơ bản. Các quan chức Việt Nam và Pháp đã hợp tác để thiết lập hệ thống giúp hình thành một nền kinh tế thị trường thay thế cho nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa kiểu Liên Xô. Chúng tôi thực sự đã mất khá nhiều thời gian.” Trong cuốn sách, ông Blanchemaison có kể lại chuyện tướng Võ Nguyên Giáp đã bất ngờ đến dự lễ kỷ niệm 200 năm Cách mạng Pháp, được tổ chức tại đại sứ quán Pháp ngày 14/07/1989. Cho tới lúc đó, tướng Giáp chưa bao giờ đến đại sứ quán Pháp và đối với đại sứ Blanchemaison, sự tham dự của vị tướng này một dấu hiệu của sự hòa giải, mà sứ mệnh của ông Blanchemaison cũng chính là mang lại sự hòa giải và xây dựng lòng tin giữa người Việt Nam và người Pháp. Tiến trình hòa giải giữa hai nước còn được đánh dấu bằng chuyến thăm lịch sử của tổng thống François Mitterrand 4 năm sau đó, năm 1993: “Chưa từng có chuyến thăm cấp Nhà nước của một tổng thống phương Tây tới Hà Nội và cũng chưa từng có một chuyến thăm của một tổng thống Pháp đến Việt Nam. Chuyến đi này thực sự đánh dấu kết quả của một quá trình hòa giải. Tổng thống Mitterrand cũng đã gặp tướng Giáp. Ông nhất quyết muốn đến Điện Biên Phủ để được Pierre Schoendorfer, một nhà làm phim trong quân đội ở Điện Biên Phủ, giải thích cho ông về trận chiến, do Schoendorfer hiểu rõ trận chiến, thậm chí sau đó đã bị bắt làm tù binh tại đây. Mọi chuyện diễn ra rất tốt đẹp và đó là biểu hiện to lớn của hòa giải ” Ngay cả sau khi hết nhiệm kỳ đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông Blanchemaison tiếp tục giữ liên lạc với Việt Nam thông qua những hoạt động khác: “Sau đó tôi trở về Paris, vì chúng tôi phải luân phiên đảm nhiệm các vị trí ở nước ngoài và ở Paris. Rồi trở thành tôi trở thành vụ trưởng vụ Châu Á và Châu Đại Dương và vì thế, tôi luôn để mắt đến Việt Nam và tôi đã tiếp tất cả những vị khách quan trọng của Việt Nam đến Paris, những người mà tôi đã quen biết khi ở Việt Nam. Chúng tôi đã cùng nhau ăn trưa, trò chuyện và tôi cũng có cơ hội quay lại Việt Nam vào thời điểm đó. Sau đó, vẫn hướng châu Á, tôi đi nhận nhiệm vụ ở Ấn Độ. Sau khi rời Ấn Độ, tôi đã đi làm việc ở Nga, vào thời điểm Putin lên nắm quyền, tức là năm 2000. Sau nước Nga, tôi trở về Paris, được giao đặc trách mọi vấn đề hợp tác của Pháp với các nước thứ ba và như vậy tôi có dịp trở lại Việt Nam khi Hà Nội đăng cai hội nghị thượng đỉnh ASEM, tức là thượng đỉnh giữa châu Âu và châu Á. Do tổng thống Jacques Chirac phải tiếp tục chuyến công du của ông nên giữa chừng phải rời cuộc họp. Ông nói với tôi: "Ông thay tôi nhé, vì họ biết ông rất rõ, ông giữ dùm ghế đại diện cho nước Pháp trong nửa sau của cuộc họp. Thật là thú vị, bởi vì tôi biết rất rõ thủ tướng Việt Nam, người chủ trì hội nghị. Vì vậy, chúng tôi đã trao đổi rất nhiều ý kiến và cả những chuyện đùa nữa.” Vẫn theo dõi sát tình hình Việt Nam, Claude Blanchemaison đưa ra đánh giá của ông về tiến triển của Việt Nam kể từ thời ông làm đại sứ Pháp cho đến ngày nay, tức là trong hơn 30 năm qua: Khi tôi đến Việt Nam vào năm 89, lúc đầu chúng tôi đã phải cử những người trẻ trong đại sứ quán đi mua các thứ cần thiết ở Bangkok. Nhưng tình hình đã diễn biến rất nhanh chóng, vì Việt Nam đã mở cửa rất nhanh và hiện nay rõ ràng Việt Nam là một trong những con hổ châu Á, đã phát triển toàn diện và hội nhập hoàn toàn vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), điều mà chúng tôi đã thúc đẩy vào lúc đó. Ngoài ra, Việt Nam cũng như các nước khác trong khu vực đều cho rằng liên minh quân sự là một điều hơi nguy hiểm và mong muốn có quan hệ với tất cả các nước muốn có quan hệ tốt với mình và do đó hợp tác chiến lược với rất nhiều nước, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau tùy thuộc vào những gì quốc gia đó có thể mang lại cho Việt Nam và tùy thuộc vào những gì có thể thực hiện được trong các hợp tác hai chiều này. Rõ ràng nhất là hợp tác với Liên Hiệp Châu Âu. Khi tôi còn tại nhiệm, chúng tôi đã nhấn mạnh Việt Nam phải ký kết các hiệp định kinh tế với Liên Hiệp Châu Âu. Và hai bên đã ký hiệp định. Tôi thấy bà Ursula von der Leyen sẽ đến Việt Nam để tăng cường quan hệ và nâng quan hệ lên một nấc cao hơn. Điều này rất quan trọng, đặc biệt là vào thời điểm ông Trump đang làm đảo lộn hoàn toàn nền kinh tế thế giới. Chúng ta phải có những biện pháp phòng ngừa và thực sự những biện pháp phòng ngừa còn mang tính chiến lược trong lĩnh vực kinh tế giữa Pháp và Việt Nam, giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam.”Kết thúc phần nói về Việt Nam trong cuốn sách của ông, cựu đại sứ Blanchemaison đặt câu hỏi: "Nước Pháp có thể phát triển được quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam trong các lãnh vực nhạy cảm công nghệ lưỡng dụng, thậm chí thuần túy quân sự?" Tác giả nhắc lại trong chuyến thăm cấp Nhà nước ở Pháp hai ngày 6 và 7/10/2024, tổng bí thư Tô Lâm ( lúc đó còn kiêm nhiệm chức chủ tịch nước ) và tổng thống Emmanuel Macron đã nâng quan hệ Pháp-Việt lên thành Đối tác chiến lược toàn diện. Ông Blanchemaison ghi nhận: "Hợp tác giữa Pháp và Việt Nam đã phát triển đều đặn trong một bầu không khí tin cậy. Chúng ta có một lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh tại một quốc gia nay có đến 100 triệu dân và có một mức tăng trưởng hàng năm hơn 7%."
Nguyên là đại sứ Pháp tại Việt Nam từ 1989 đến 1993, ông Claude Blanchemaison vừa cho ra mắt độc giả ở Pháp một cuốn sách gần như là hồi ký của một nhà ngoại giao. Tác giả đặt tựa cho quyển sách là “Fragments d'un parcours aventureux” ( tạm dịch là “Những phân đoạn của một hành trình kỳ thú” ). Ngoài Việt Nam, ông Blanchemaison đã từng là đại sứ ở các nước Ấn Độ, Nga, Tadjikistan và Tây Ban Nha và cũng đã từng giữ nhiều chức vụ cao cấp trong bộ Ngoại Giao Pháp. Hiện là một chuyên gia về châu Âu và châu Á, ông vẫn thường xuyên bình luận về thời sự quốc tế trên các kênh truyền hình và truyền thanh của Pháp. Cuốn sách của ông “Sống với Putin” đã nhận được giải Jacques Fouchier của Viện Hàn lâm Pháp năm 2020. Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ, cựu đại sứ Blanchemaison kể lại, vào ngày 24/02/2022 (đúng vào ngày Putin xua quân xâm lăng Ukraina !), khi đang ở một nhà hàng ở Paris ông đã bước hụt và bị ngã, vỡ cả hai đầu gối, nên phải được phẫu thuật và phải nằm viện một thời gian dài do chấn thương đầu gối khá nghiêm trọng. Chính trong thời gian đó mà Claude Blanchemaison nảy ra ý định viết một cuốn sách kể lại đời mình từ thuở thiếu niên cho đến ngày nay, nhưng phần lớn tác phẩm này được dành cho sự nghiệp rất dài của một nhà ngoại giao kỳ cựu, mà một trong những chặng đường mà ông đã đi qua là Việt Nam: Rồi một ngày đầu năm 1989, tôi được thông báo: "Họ đang suy tính bổ nhiệm ông làm đại sứ tại Việt Nam". Một khả năng khá là chắc chắn và tôi thậm chí còn được mời tham gia một phái đoàn của bộ trưởng Nông Nghiệp Pháp đến thăm Việt Nam vào tháng 2/1989. Thế là tôi đã đến đó cùng với ông và đã khám phá Việt Nam với những cảnh quan tuyệt đẹp. Tháp tùng bộ trưởng Nông Nghiệp Henri Nallet, chúng tôi đã đến Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nơi chúng tôi gặp các giám đốc của các viện nông học đã từng du học ở Pháp và về cơ bản đã duy trì được mạng lưới hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, hợp tác với các kỹ sư nông nghiệp Việt Nam và Pháp. Đây gần như là lĩnh vực duy nhất thực sự có sự hợp tác, ngoài lĩnh vực ngôn ngữ, nghĩa là giảng dạy tiếng Pháp và duy trì đội ngũ giáo viên dạy tiếng Pháp. Tôi nhận thấy rằng người Việt Nam luôn có thông tin đầy đủ: Một trong những phiên dịch viên nói với tôi: “ Có tin đồn rằng ngài sẽ đến Việt Nam với tư cách là đại sứ, vậy khi nào ngài sẽ đến?” Vị đại sứ trẻ Claude Blanchemaison đã nhậm chức đại sứ Pháp tại Việt Nam năm 1989, vào một thời điểm rất đặc biệt: Việt Nam vẫn còn bị Mỹ cấm vận, nhưng bắt đầu mở cửa với thế giới và cải cách kinh tế, trong khi đó cuộc chiến ở Cam Bốt vẫn chưa kết thúc hoàn toàn. Blanchemaison kể lại những ngày đầu tiên ông đại diện cho nước Pháp ở Việt Nam: Đối với tôi, đó quả là một thách thức, vì chỉ thị mà tôi nhận được từ tổng thống và ngoại trưởng là nối lại quan hệ với Việt Nam, nối lại hợp tác bất cứ khi nào có thể và giúp đỡ Việt Nam. Vào thời điểm đó, Việt Nam còn nghèo đói sau hơn 30 năm chiến tranh với Pháp, với Mỹ và sau đó Việt Nam đánh đuổi Khmer Đỏ ra khỏi Cam Bốt, khiến Trung Quốc tức giận và đã đánh sang miền bắc Việt Nam. Và như ông có nói, lệnh cấm vận của Mỹ rất nghiêm ngặt và thực tế là tình trạng kinh tế của đất nước rất khó khăn. Khi tôi đến thì Việt Nam đã quyết định thi hành chính sách Đổi Mới, tức là cải cách kinh tế. hơi giống với những gì Trung Quốc đã và đang là từ trước đó một thời gian, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường mang màu sắc Việt Nam. Nhưng vấn đề là chưa có một khuôn khổ pháp lý. Chỉ có quyết tâm chuyển sang nền kinh tế thị trường không thì chưa đủ, mà cần có những luật lệ, quy định, thể chế phù hợp với nền kinh tế thị trường. Và đó là nhiệm vụ đầu tiên của tôi. Phía Việt Nam hỏi tôi liệu có thể tìm được người trợ giúp họ, tư vấn cho họ về việc soạn thảo bộ Luật Thương mại không?Thật tình cờ là khi đó có một luật gia người Pháp rất nổi tiếng, là một trong những chánh án Tòa Phúc thẩm Paris, ông Pierre Bizard, sinh ra tại Việt Nam. Cha ông làm việc trong chính quyền Pháp và từng công tác ở Việt Nam. Ông Pierre Bizard đã tình nguyện đến Việt Nam rất thường xuyên, trong các chuyến đi 8 ngày hoặc 15 ngày để làm việc với nhóm của bộ trưởng Tư Pháp Việt Nam về bộ Luật Thương mại Việt Nam, vì ưu tiên là phải có khuôn khổ pháp lý để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, khi đó bộ Tài chính Pháp cũng có một cơ quan hợp tác với nước ngoài, đứng đầu là một thanh tra tài chính rất nổi tiếng vào thời điểm đó, ông Jacques de Chalendar. Ông de Chalendar nói: "Chúng ta có thể huy động chuyên môn của các công chức, phó giám đốc, giám đốc của chúng ta tại bộ Tài Chính". Và ông đã tổ chức hợp tác với bộ Tài Chính Việt Nam để Việt Nam có một kho bạc thực sự và một tổng cục thuế thực sự. Có nghĩa là, giống như bất kỳ Nhà nước hiện đại nào, thuế phải được thu theo đúng luật, theo các quy định pháp lý, và tiền thuế được đưa về trung ương, tức là về Hà Nội, về bộ Tài Chính, rồi sau đó việc phân bổ ngân sách phải thực hiện dựa trên ngân sách do Quốc Hội biểu quyết. Trong hệ thống trước đó ở Việt Nam, lãnh đạo các vùng có thể giữ lại một phần tiền thuế để phục vụ nhu cầu của địa phương và gửi phần còn lại về Hà Nội. Vì vậy, cần phải cải cách toàn diện và cơ bản. Các quan chức Việt Nam và Pháp đã hợp tác để thiết lập hệ thống giúp hình thành một nền kinh tế thị trường thay thế cho nền kinh tế tập trung, kế hoạch hóa kiểu Liên Xô. Chúng tôi thực sự đã mất khá nhiều thời gian.” Trong cuốn sách, ông Blanchemaison có kể lại chuyện tướng Võ Nguyên Giáp đã bất ngờ đến dự lễ kỷ niệm 200 năm Cách mạng Pháp, được tổ chức tại đại sứ quán Pháp ngày 14/07/1989. Cho tới lúc đó, tướng Giáp chưa bao giờ đến đại sứ quán Pháp và đối với đại sứ Blanchemaison, sự tham dự của vị tướng này một dấu hiệu của sự hòa giải, mà sứ mệnh của ông Blanchemaison cũng chính là mang lại sự hòa giải và xây dựng lòng tin giữa người Việt Nam và người Pháp. Tiến trình hòa giải giữa hai nước còn được đánh dấu bằng chuyến thăm lịch sử của tổng thống François Mitterrand 4 năm sau đó, năm 1993: “Chưa từng có chuyến thăm cấp Nhà nước của một tổng thống phương Tây tới Hà Nội và cũng chưa từng có một chuyến thăm của một tổng thống Pháp đến Việt Nam. Chuyến đi này thực sự đánh dấu kết quả của một quá trình hòa giải. Tổng thống Mitterrand cũng đã gặp tướng Giáp. Ông nhất quyết muốn đến Điện Biên Phủ để được Pierre Schoendorfer, một nhà làm phim trong quân đội ở Điện Biên Phủ, giải thích cho ông về trận chiến, do Schoendorfer hiểu rõ trận chiến, thậm chí sau đó đã bị bắt làm tù binh tại đây. Mọi chuyện diễn ra rất tốt đẹp và đó là biểu hiện to lớn của hòa giải ” Ngay cả sau khi hết nhiệm kỳ đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông Blanchemaison tiếp tục giữ liên lạc với Việt Nam thông qua những hoạt động khác: “Sau đó tôi trở về Paris, vì chúng tôi phải luân phiên đảm nhiệm các vị trí ở nước ngoài và ở Paris. Rồi trở thành tôi trở thành vụ trưởng vụ Châu Á và Châu Đại Dương và vì thế, tôi luôn để mắt đến Việt Nam và tôi đã tiếp tất cả những vị khách quan trọng của Việt Nam đến Paris, những người mà tôi đã quen biết khi ở Việt Nam. Chúng tôi đã cùng nhau ăn trưa, trò chuyện và tôi cũng có cơ hội quay lại Việt Nam vào thời điểm đó. Sau đó, vẫn hướng châu Á, tôi đi nhận nhiệm vụ ở Ấn Độ. Sau khi rời Ấn Độ, tôi đã đi làm việc ở Nga, vào thời điểm Putin lên nắm quyền, tức là năm 2000. Sau nước Nga, tôi trở về Paris, được giao đặc trách mọi vấn đề hợp tác của Pháp với các nước thứ ba và như vậy tôi có dịp trở lại Việt Nam khi Hà Nội đăng cai hội nghị thượng đỉnh ASEM, tức là thượng đỉnh giữa châu Âu và châu Á. Do tổng thống Jacques Chirac phải tiếp tục chuyến công du của ông nên giữa chừng phải rời cuộc họp. Ông nói với tôi: "Ông thay tôi nhé, vì họ biết ông rất rõ, ông giữ dùm ghế đại diện cho nước Pháp trong nửa sau của cuộc họp. Thật là thú vị, bởi vì tôi biết rất rõ thủ tướng Việt Nam, người chủ trì hội nghị. Vì vậy, chúng tôi đã trao đổi rất nhiều ý kiến và cả những chuyện đùa nữa.” Vẫn theo dõi sát tình hình Việt Nam, Claude Blanchemaison đưa ra đánh giá của ông về tiến triển của Việt Nam kể từ thời ông làm đại sứ Pháp cho đến ngày nay, tức là trong hơn 30 năm qua: Khi tôi đến Việt Nam vào năm 89, lúc đầu chúng tôi đã phải cử những người trẻ trong đại sứ quán đi mua các thứ cần thiết ở Bangkok. Nhưng tình hình đã diễn biến rất nhanh chóng, vì Việt Nam đã mở cửa rất nhanh và hiện nay rõ ràng Việt Nam là một trong những con hổ châu Á, đã phát triển toàn diện và hội nhập hoàn toàn vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), điều mà chúng tôi đã thúc đẩy vào lúc đó. Ngoài ra, Việt Nam cũng như các nước khác trong khu vực đều cho rằng liên minh quân sự là một điều hơi nguy hiểm và mong muốn có quan hệ với tất cả các nước muốn có quan hệ tốt với mình và do đó hợp tác chiến lược với rất nhiều nước, bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau tùy thuộc vào những gì quốc gia đó có thể mang lại cho Việt Nam và tùy thuộc vào những gì có thể thực hiện được trong các hợp tác hai chiều này. Rõ ràng nhất là hợp tác với Liên Hiệp Châu Âu. Khi tôi còn tại nhiệm, chúng tôi đã nhấn mạnh Việt Nam phải ký kết các hiệp định kinh tế với Liên Hiệp Châu Âu. Và hai bên đã ký hiệp định. Tôi thấy bà Ursula von der Leyen sẽ đến Việt Nam để tăng cường quan hệ và nâng quan hệ lên một nấc cao hơn. Điều này rất quan trọng, đặc biệt là vào thời điểm ông Trump đang làm đảo lộn hoàn toàn nền kinh tế thế giới. Chúng ta phải có những biện pháp phòng ngừa và thực sự những biện pháp phòng ngừa còn mang tính chiến lược trong lĩnh vực kinh tế giữa Pháp và Việt Nam, giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam.”Kết thúc phần nói về Việt Nam trong cuốn sách của ông, cựu đại sứ Blanchemaison đặt câu hỏi: "Nước Pháp có thể phát triển được quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam trong các lãnh vực nhạy cảm công nghệ lưỡng dụng, thậm chí thuần túy quân sự?" Tác giả nhắc lại trong chuyến thăm cấp Nhà nước ở Pháp hai ngày 6 và 7/10/2024, tổng bí thư Tô Lâm ( lúc đó còn kiêm nhiệm chức chủ tịch nước ) và tổng thống Emmanuel Macron đã nâng quan hệ Pháp-Việt lên thành Đối tác chiến lược toàn diện. Ông Blanchemaison ghi nhận: "Hợp tác giữa Pháp và Việt Nam đã phát triển đều đặn trong một bầu không khí tin cậy. Chúng ta có một lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh tại một quốc gia nay có đến 100 triệu dân và có một mức tăng trưởng hàng năm hơn 7%."
Trong tuần lễ từ ngày 07-13/2025 thị trường chứng khoán toàn cầu trồi sụt thất thường và bị chấn động vi « trận bão thương mại » xuất phát từ thủ đô Washington. Công luận thế giới tập trung vào chiến tranh thương mại không hồi kết giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng « đó mới chỉ là tiền đề cho một chiến lược quy mô hơn, nguy hiểm hơn ». Mang nợ nhiều nhất trên thế giới, Hoa Kỳ muốn hình thành một trật tự mới về tiền tệ và tài chính. RFI mời giáo sư Eric Monnet, trường kinh tế Paris School of Economics giải thích về « chiến thuật nguy hiểm » đó của chính quyền Trump mà mục tiêu sau cùng là « tái cơ cấu núi nợ » 30.000 tỷ đô la của Hoa Kỳ.Mỹ lấn cấn vì núi nợ 30.000 tỷ đô la Đầu tuần trước, lãi suất tín dụng mà Hoa Kỳ phải đi vay đã đột ngột tăng mạnh : lãi suất tín dụng 10 năm « tăng gần nửa điểm » trong vài giờ đồng hồ trong đêm 9-10/04, làm dấy lên viễn cảnh quốc gia mang nợ lớn nhất thế giới phải đối mặt với một « cuộc khủng hoảng niềm tin », thiếu hụt thanh khoản. Nhiều tờ báo tài chính quốc tế nói đến « một làn gió hoảng loạn » đã thổi đến Nhà Trắng trong vài giờ và chính điểm này đã buộc tổng thống Donald Trump phải tạm hoãn cuộc chiến thương mại với toàn cầu (ngoại trừ với Trung Quốc).Hãng tin Mỹ Bloomberg xác nhận hiện tượng một số chủ nợ của Washington « ồ ạt bán đi Treasuries - công trái phiếu » của Hoa Kỳ mà họ đang nắm giữ. Mãi tận Singapore, cơ quan môi giới Lombard Odier cũng nói đến « một cuộc đình công từ phía các chủ nợ cho Hoa Kỳ vay mượn tiền ». Tại Nhà Trắng, các cộng tác viên và cố vấn tài chính, tiền tệ của tổng thống Donal Trump ghi nhận « nhiều hoạt động bất thường, bán đi công trái phiếu của Mỹ ». Hiện tượng này « xuất phát từ châu Á » vào lúc mà Nhật Bản và Trung Quốc là hai chủ nợ nước ngoài lớn nhất của Hoa KỳCùng lúc tỷ giá hối đoái của đô la Mỹ sụt giảm. Tổng thống Donald Trump muốn giữ giá đô la ở mức thấp để thúc đẩy xuất khẩu, hay chính xác hơn là để thu hẹp thâm hụt mậu dịch của nền kinh tế số 1 toàn cầu với rất nhiều các bạn hàng trên thế giới - đứng đầu là Trung Quốc.Vậy thì tại sao Nhà Trắng đã vội lùi bước trên vấn đề thuế quan khi chiến dịch « Ngày Giải Phóng » nước Mỹ của ông Trump mới chỉ vừa có hiệu lực lúc 00 giờ ngày 09/04 ?Trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Eric Monnet, giảng dậy tại trường kinh tế Paris School of Economics, trước hết trở lại với mục tiêu chính của cuộc chiến thương mại Mỹ đang khơi mào với quá nhiều những thông báo ồn ào để rồi cũng Nhà Trắng lại đính chính sau đó hay thay đổi ý kiến vào giờ chót. Eric Monnet : « Thật khó để biết Hoa Kỳ thực sự đang tính toán những gì, nhưng ít nhất chúng ta có thể suy luận mục tiêu chính : Họ muốn có một cán cân thương mại thặng dư. Tức là xuất khẩu nhiều hơn là nhập khẩu. Điều đã được chứng minh trong các phát biểu của Trump, cũng như trong các thống kê ông đã trình bày. Hoa Kỳ muốn chấm dứt tình trạng nhập siêu, chinh phục lại vị trí của một cường quốc thương mại. Thế nhưng Washington tuyệt đối không khuyến khích dân chúng hạn chế mua hàng của nước ngoài mà lại chọn giải pháp trừng phạt các bạn hàng của Mỹ, để cộng đồng quốc tế giảm xuất khẩu vào Mỹ.Có hai vũ khí để giảm tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới vào Hoa Kỳ : một là các hàng rào quan thuế như đã được đề cập đến rất nhiều. Biện pháp thứ hai là phá giá đồng tiền Mỹ so với các đơn vị ngoại tệ khác. Nhưng đến nay biện pháp này chưa được sử dụng cho dù đã được chính quyền Trump nói tới khá nhiều ».Tăng sức hấp dẫn của hàng Mỹ, « dìm hàng ngoại »Việc làm yếu đi đồng đô la đơn giản chỉ làm cho hàng Mỹ rẻ hơn so với hàng của những nơi khác bán sang Hoa Kỳ. Chính quyền Washington qua đó kỳ vọng hàng Mỹ có sức thu hút cao hơn, để có thể xuất khẩu dễ hơn, đồng thời thì hàng nhập vào Hoa Kỳ trở nên đắt đỏ hơn, nên dân Mỹ sẽ chuộng đồ nội địa. Mục tiêu phá giá đồng tiền, hay ít ra là giữ giá đồng đô la ở mức thấp để kích thích xuất khẩu của Mỹ, được coi là « giai đoạn 2 » của một chiến lược « rộng lớn » và nguy hiểm đối với thế giới. Kế hoạch đó do 2 nhân vật chủ xướng. Người thứ nhất là bộ trưởng Tài Chính Scott Bessent và Stephen Miran cố vấn cho ông Trump. Miran hoạt động trong hậu trường. Tháng 11/2024 đã công bố một cặn kẽ những bước để thực hiện điều mà « chiến lược gia » về tiền tệ và tài chính này báo trước sẽ là một « cuộc Big bang ».3 giai đoạn của một cuộc cách mạng tiền tệ Kế hoạch mang tên ông Miran gồm : Ở giai đoạn 1, Mỹ mở một cuộc thương chiến « tàn khốc » đến nỗi, tất cả các đối thủ phải cầu cạnh Washington. Khi đó ở giai đoạn 2, Hoa Kỳ đồng ý nhượng bộ với điều kiện các « chủ nợ » phải bán bớt đồng đô la, qua đó giảm tỷ giá hối đoái của đồng tiền Mỹ. Ở giai đoạn cuối cùng Washington đòi các chủ nợ thay thế công trái phiếu của Mỹ họ đang nắm giữ để bằng những « công trái có giá trị cả trăm năm ».Giai đoạn 3 này mới là mục tiêu sau cùng chiến lược gia tài chính của Donald Trump, Stephen Miran nhắm tới : Đây là giải pháp cho phép « giảm nhẹ gánh nặng nợ nần » của nước Mỹ, giảm bớt lãi suất tín dụng mà hàng năm chính quyền Liên Bang vẫn phải thanh toán cho các chủ nợ nước ngoài mà đứng đầu là Nhật Bản, Trung Quốc và Liên Hiệp Châu Âu.Giáo sư kinh tế Eric Monnet, trường Paris School of Economics phân tích tiếp :Eric Monnet : « Có hai cách để làm giảm giá trị đồng đô la : đầu tiên là nới lỏng chính sách tiền tệ, đòi Ngân Hàng Trung Ương giảm lãi suất chỉ đạo. Và chúng ta đã thấy rằng Trump đang gây áp lực, đặc biệt là qua những phát biểu trên mạng xã hội để Cục Dự Trữ Liên Bang Fed, giảm lãi suất. Cách thứ nhì để giảm giá đồng tiền và đây là kế hoạch thực sự của Stephen Miran. Ông này chủ trương Mỹ đàm phán với những quốc gia đang nắm giữ nhiều đô la, như Châu Âu, Trung Quốc hay Nhật Bản để đạt được một thỏa thuận dẫn đến việc giảm giá trị đồng đô la so với các đồng tiền lớn khác ».Thuế hải quan : vũ khí để mặc cảĐòi các quốc gia khác đến thảo luận với Hoa Kỳ, nhưng đổi lại Mỹ cũng phải nhượng bộ : tức là khi các quốc gia khác đồng ý duy trì một « đồng đô la yếu », họ được lợi gì ?Eric Monnet : « Chính xác là như vậy và cũng vì thế mà chiến lược của Mỹ trước hết là phải dùng đòn thuế hải quan để áp đặt với thế giới luật chơi. Bắt mọi người phải thương thuyết, để rồi sau đó, trong một giai đoạn thứ hai, Hoa Kỳ dùng đòn thuế quan như công cụ đòi các quốc gia khác chấp nhận việc giảm giá trị tỷ giá hối đoái, tức là giảm giá trị đồng đô la.Và đó là điều mà họ gọi là Thỏa Thuận Mar A Lago (dinh thự riêng của Donald Trump ở bang Florida). Cho tới nay thỏa thuận Mar A Lago chưa hiện hữu, đây mới chỉ là một kế hoạch. Ý tưởng ở đây là Trump cũng thực hiện một thỏa thuận, đàm phán về tỷ giá hối đoái tương tự như Thỏa Thuận Plaza hồi năm 1985 đạt được dưới chính quyền của tổng thống Ronald Reagan. Plaza là tên một khách sạn ở New York và cũng chính tại đây Washington và các đối tác đã đồng ý giảm tỷ giá hối đoái của đô la ». Vẫn trong cuộc trả lời dành cho RFI Tiếng Việt hôm 10/04/205 vừa qua, giáo sư Monnet nói đến tính khả thi của kế hoạch mà tổng thống Trump và các cộng tác viên của ông gọi là « Thỏa thuận Mar A Lago ».Eric Monnet : « Kế hoạch này có khả thi hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình thế giới đến lúc đó, tức là liệu rằng chiến tranh thương mại Mỹ gây nên sẽ làm rối loạn toàn cầu tới mức nào, kinh tế của thế giới có nguy cơ bị xuống dốc quá hay không… Nếu tình hình quá tồi tệ, thì điều đình hạ giá đô la có thể là cánh cửa duy nhất để khôi phục một chút mô hình đa phương trong một thế giới ngày càng hỗn loạn trước mắt, đây là điều có thể xảy ra nhưng không phải là vào thời điểm hiện tại và chắc chắn là không phải theo các điều khoản mà Mỹ đang áp đặt với thế giới như hiện nay. Đương nhiên thỏa thuận quốc để giảm giá đồng đô la sẽ bất lợi cho các quốc gia khác trên thế giới ».Nguy cơ Mỹ không còn làm chủ tình hình Điều khó hiểu ở đây là vào lúc chính quyền Mỹ tìm cách giữ giá đồng đô la thấp so với các ngoại tế khác trên thế giới (euro, franc Thụy Sĩ, yen hay nhân dân tệ…) thế nhưng Nhà Trắng bị đẩy vào thế bất an, khi đồng đô la trượt giá và trước tin dường như Trung Quốc -và có thể là cả Nhật Bản, đang mạnh tay bán ra công trái phiếu của Hoa Kỳ.Giáo sư Eric Monnet thận trọng phân tích về hiện tượng đó :Eric Monnet : « Thực ra hiện tại rất khó để nói chính xác liệu Trung Quốc có bán trái phiếu kho bạc Mỹ hay không. Các dữ liệu trước mắt chưa cho phép tôi khẳng định điều đó. Trái lại, mối đe dọa đó là có thật. Tức là Trung Quốc, cũng như nhiều ngân hàng trung ương khác trên thế giới đang nắm giữ rất nhiều trái phiếu nợ của Mỹ như một khoản dự trữ ngoại tệ. Những quốc gia này hoàn toàn có thể bán ra những công trái đó của Hoa Kỳ, giới hạn dự trữ bằng đô la để đi mua các ngoại tệ khác, có thể là euro chẳng hạn.Đây là kịch bản từ lâu nay Hoa Kỳ đã lo sợ và cũng là lý do tại sao Donald Trump từng dọa nạt thế giới, kể cả Bắc Kinh là nếu mà các quốc gia này bán trái phiếu kho bạc Mỹ thì ông Trump sẽ lại càng tăng thuế hải quan. Nhưng một khi Nhà Trắng đã ấn định những mức thuế hải quan quá cao đi mất rồi, chúng ta tự hỏi điều gì thực sự có thể ngăn cản các quốc gia này bán đô la.Trong đêm 9 rạng sáng 10 tháng 4/2025 (theo giờ Paris) một khối lượng lớn công trái phiếu của Mỹ được bán ra, đô la mất giá. Cùng lúc lãi suất ngân hàng Mỹ phải đi vay tăng mạnh, làm tăng chi phí nợ của Hoa Kỳ. Tuy nhiên đây là con dao hai lưỡi vì trong trường hợp của Trung Quốc, ồ ạt bán đi đô la, tiền Mỹ mất giá, tức là đồng tiền Trung Quốc bị đẩy lên cao. Điều này bất lợi cho xuất khẩu của Trung Quốc do vậy Ngân hàng trung ương đã phải can thiệp tìm cách giữu tỷ giá hối đoái ở mức thấp so với đồng tiền của Hoa Kỳ. Nước cờ đó không có lợi gì cho Bắc Kinh. Nhưng những giao động trong tuần qua cho thấy chúng ta đã bước vào một thế giới mà ở các bên luôn chủ trương dùng sức mạnh để áp đặt chính sách kinh tế ».Mục tiêu của Mỹ : Phá giá đồng đô la Theo quan niệm của ông trùm tiền tệ đứng trong bóng tối cố vấn cho tổng thống Trump là do quy chế của đơn vị đồng tiền dự trữ và là thước đo lường các luồng thương mại cho toàn cầu mà đô la của Mỹ bị nâng giá một cách « bất công, cướp đi hàng triệu công việc làm của người lao động Hoa Kỳ », thành thử điều đơn giản là Mỹ cần « bắt các nền kinh tế khác trên thế giới đóng góp hay đúng hơn là trả giá khi họ sử dụng đô la như một đơn vị tiền tệ dự trữ ».Một đồng đô la mềm giá tăng sức cạnh tranh của hàng công nghiệp made in USA và sẽ bóp ngạt các đối thủ cạnh tranh của Hoa Kỳ. Trước mắt Thỏa thuận tiền tệ Mar A Lago của chiến lược gia kinh tế Miran vẫn còn là một « kế hoạch » còn đang được hình thành, nhưng đã để lộ rõ những điều như sau : Thứ nhất, chính quyền Trump có khuynh hướng « mặc cả với thế giới bằng sức mạnh » nhưng không chắc sẽ đem lại những kết quả như mong muốn.Thứ hai, như kinh tế gia Nicolas Véron được báo Les Echos (17/03/2025) trích dẫn đã nhận định, chủ trương kết hợp các đòn thuế quan mạnh tay và hù dọa của chính quyền Trump, mới chỉ chưa đầy 100 ngày ở Nhà Trắng, đã hủy hoại hết các mối liên minh gắn chặt siêu cường thương mại và nền kinh tế số 1 toàn cầu với những nước bạn thân thiết nhất như Canada, Mêhicô, Liên Âu và cả nhiều đồng minh của Mỹ ở Châu Á. Chưa biết sẽ có Thỏa Thuận Mar A Lago nào hay không để thay thế Thỏa Thuận Plaza chỉ biết rằng trước mắt, nước Mỹ của Donald Trump không còn nhiều đồng minh.Điểm thứ ba là Hoa Kỳ sẵn sàng thay đổi luật chơi về tài chính và thương mại, khai tử mô hình do chính Washington đã tạo ra, miễn là làm sao có lợi cho nước Mỹ.
Mức thuế “đối ứng” 46% đối với Việt Nam là một trong những mức thuế cao nhất mà tổng thống Mỹ Donald Trump ban hành ngày 02/04/2025. Đòn thuế quan này, trên nguyên tắc có hiệu lực từ ngày 09/04 nhưng được tạm hoãn áp dụng trong 90 ngày, có thể sẽ gây tổn hại nặng nề cho tăng trưởng của Việt Nam, vì kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào xuất khẩu, trong đó Hoa Kỳ là một trong những thị trường chính. Theo chuyên gia Chu Thanh Tuấn, Đại học RMIT Việt Nam, trong bài viết tên trang web của đại học này ngày 04/04, "các ngành xuất khẩu chủ lực, bao gồm dệt may, điện tử, da giày, thủy sản và đồ gỗ, đều phụ thuộc nặng nề vào thị trường Mỹ. Gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hướng đến người tiêu dùng Mỹ. Việc chính quyền Trump áp thuế cao như vậy có thể làm xói mòn lợi thế cạnh tranh về giá, dẫn đến nguy cơ bị hủy đơn hàng và buộc doanh nghiệp hoặc phải chấp nhận giảm biên lợi nhuận, hoặc phải chuyển hoạt động sản xuất sang khu vực khác".Chuyên gia Chu Thanh Tuấn nhấn mạnh, hệ quả không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, vì thuế quan nhắm vào hàng Việt Nam xuất đi Mỹ “có thể gây gián đoạn trên toàn bộ chuỗi cung ứng, làm tăng chi phí đầu vào và làm giảm nhu cầu trên nhiều lĩnh vực trong nước; ảnh hưởng dây chuyền tới các lĩnh vực trong nước như logistics, tài chính, đóng gói và tuân thủ quy chuẩn”.Nhưng trả lời RFI Việt ngữ ngày 09/04/2025, ông Francesco Trần Văn Liêng, Chủ tịch kiêm sáng lập viên Công ty cổ phần Ca cao Việt Nam VINACACAO, đưa ra một nhận định khác về tác động của thuế quan Mỹ: “Thứ nhất, thuế này không phải là thuế song phương, mà mang tính đa biên rất rõ, tức là ít nhiều cả thế giới này đều bị ảnh hưởng và cả thế giới sẽ bị đẩy lên một mặt bằng lạm phát mới. Các mức giá cả sẽ cao hơn rất nhiều. Ngay cả ở Hoa Kỳ, các mức giá từ điện tử, xe hơi, xăng dầu, thực phẩm sẽ đều tăng từ 15 đến 20%. Riêng trứng gà đã tăng 56%. Điều này tạo ra một “khung kháng thể mới” cho người tiêu dùng Mỹ, có nghĩa là việc tăng giá này sẽ làm cho họ quen dần với mức giá mới cho tất cả các mặt hàng, trong đó có hàng Việt Nam. Thứ hai, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ chiếm 35% tổng lượng xuất khẩu của quốc gia, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI chiếm tới 70%. Các mặt hàng của họ thường là điện tử, điện thoại, những mặt hàng mà người ta lắp ráp ở Việt Nam để tận dụng các ưu thế về nhân công. Còn lại thì ngành dệt may bị ảnh hưởng, vì “tạm nhập tái xuất” nhiều, tức là trị giá gia tăng không cao. Ngành bị ảnh hưởng khá nhiều đó là nông sản, hải sản, như tôm, đồ gỗ, cà phê, gạo...Nếu nhìn tổng quát thì kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế mở. Điều này có nghĩa là những “con đại bàng” lớn, như Nike, hoặc Intel, hoặc Samsung bị “trúng tên”. Mức thuế này có thể làm chùn bước một số doanh nghiệp mà từ trước đến giờ vẫn tận hưởng ưu thế về lao động.Còn lại các mặt hàng, chủ yếu là nông sản, thì bán theo hình thức FOB ( giá tại cửa khẩu bên nước của người bán ), tức là giá xuất khẩu. Giá xuất khẩu có thể không đổi, nhưng giá vào Hoa Kỳ thì sẽ tăng. Trách nhiệm này thuộc về nhà nhập khẩu Mỹ. Họ sẽ điều chỉnh, tái phân bố chi phí mới này để trung hòa vào chuỗi cung ứng của họ, để người Mỹ, vốn đã có sức đề kháng mới về giá cả, sẽ không bị tác động nhiều bởi mức giá mới này.Sắp tới nền kinh tế Mỹ có thể bị suy thoái, lạm phát sẽ tăng, người Mỹ sẽ phải đối phó với rất nhiều hướng, chứ không chỉ có những mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu qua. Những nhà nhập khẩu Mỹ có thể quay lại thương lượng với người bán hàng Việt Nam. Cũng có thể là hai bên sẽ thương lượng để tìm ra một mức giá hợp lý để người xuất khẩu FOB có thể gánh một phần chi phí. Còn về phía các doanh nghiệp Việt Nam thì rõ ràng nếu họ bán giá FOB với mức như từ trước đến nay cũng được. Có thể sức mua sẽ giảm, nhưng có những mặt hàng thì Mỹ có thể không có chọn lựa nào khác, ví dụ như cà phê của Việt Nam thì quá tốt, họ không thể chuyển qua chọn cà phê Brazil, vì nếu chọn thì họ đã chọn từ lâu rồi. Tôm của Việt Nam thì rất ngon, nhưng họ có thể chọn của Thái Lan, có điều tôm của Thái Lan thì cũng bị tăng giá.Chính phủ đã mạnh dạn thương lượng song phương để tìm ra một con đường chung cho cả hai bên. Chính phủ cũng sẽ tiếp cận với các doanh nghiệp lớn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi mức thuế này ( hầu hết các doanh nghiệp như Samsung, Intel, Nike, sang Việt Nam đầu tư thì tìm những thị trường như thị trường Mỹ ), để có những đối sách cần thiết, giúp họ giảm bớt chi phí của thuế 46% này." ” Trước những tác động của mức thuế 46%, Việt Nam không thể làm gì khác hơn là “năn nỉ” Hoa Kỳ nhẹ tay một chút. Hôm thứ năm tuần trước, 10/04/2025, chính phủ Việt Nam thông báo là hai nước sẽ tiến hành đàm phán về một "thỏa thuận thương mại đối ứng". Thông báo này được đưa ra sau cuộc gặp hôm trước tại Washington giữa phó thủ tướng Hồ Đức Phớc, đặc phái viên của tổng bí thư Tô Lâm, với Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Jamieson Greer. Ban đầu, ông Tô Lâm đề nghị Mỹ tạm hoãn áp thuế trong 45 ngày, nhưng rốt cuộc coi như sẽ có đến 90 ngày để đàm phán.Trước đó, Hà Nội đã tuyên bố sẵn sàng đàm phán để hai bên giảm thuế nhập khẩu đối với nhau xuống còn 0%, đồng thời cam kết sẽ “tiếp tục mua thêm các mặt hàng Hoa Kỳ có thế mạnh mà Việt Nam có nhu cầu, kể cả các mặt hàng liên quan an ninh - quốc phòng”.Nhưng không chắc là những cam kết giảm nói trên sẽ đủ để Hoa Kỳ nương tay. Chiến lược gia tiền tệ kỳ cựu Bilal Hafeez, hiện là giám đốc nghiên cứu tại Macro Hive, cho biết để đưa cán cân thương mại của Hoa Kỳ từ thâm hụt xuống mức 0, các quốc gia sẽ phải tăng cường tiền tệ, kích thích nhu cầu tiêu thụ nội địa trong nước, để họ có thể mua nhiều hàng hóa của Hoa Kỳ hơn và xuất khẩu ít hơn nhiều. Vấn đề là Việt Nam khó có thể làm những điều đó trong một thời gian ngắn. Trên trên tờ The Economist ngày 07/04/2025, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Giang ghi nhận, theo các dữ liệu mới nhất, trong 12 tháng tính đến cuối tháng 3, Việt Nam đã chỉ nhập khẩu hàng hóa trị giá 16 tỷ đô la từ Hoa Kỳ, những hàng hóa được áp dụng mức thuế trung bình là 3%. Tuy nhiên, theo ông Francesco Trần Văn Liêng, cân bằng lại trao đổi mậu dịch với Mỹ không phải là quá khó đối với Việt Nam :“Nếu chỉ có thâm hụt mậu dịch thì dễ giải quyết, tại vì hiện nay dư địa về hàng hóa của Mỹ cho Việt Nam còn rất lớn, như là đậu tương, gia súc, lúa mì. Lúa mì thì trước đây mình mua của Mỹ, Canada, Úc, thậm chí của Ấn Độ, thì bây giờ mình có thể ưu tiên mua của Mỹ, giảm mua từ các nước kia, đồng thời mua thêm khí hóa lỏng. Hiện nay, ô tô cũng có thể là một mặt hàng mà người Việt Nam rất là thích, nhất là ô tô Mỹ hay ô tô sản xuất tại Mỹ. Giả sử Toyota, Mercedes hay Volvo sản xuất tại Mỹ và nếu mức thuế tiêu thụ đặc biệt giảm hay thuế nhập khẩu giảm bớt, người Việt Nam sẽ thích mua những ô tô đó. Nói chung, dư địa để cân bằng cán cân thương mại là không có gì khó.”Nhưng vấn đề là đối với Peter Navarro, cố vấn thương mại của Trump, cho dù Hoa Kỳ và Việt Nam cùng xóa bỏ thuế quan, thì thâm hụt thương mại 120 tỷ đô la vẫn còn nguyên do những "gian lận phi thuế quan". Ông Navarro cáo buộc Việt Nam trợ cấp cho hàng xuất khẩu của mình và hoạt động như một "thuộc địa" ( colony ) sản xuất hàng hóa Trung Quốc. Tuy vậy, theo The Economist, trong một bài viết đăng trên mạng ngày 07/04, nếu không thể sớm đạt được thỏa thuận, vẫn có thể có một số tia hy vọng cho Việt Nam. Một là các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp khó có thể rời bỏ Việt Nam ngay lập tức. Các dự án của họ có chi phí cố định cao và sẽ mất nhiều năm để di dời. Họ sẽ không bỏ những dự án đó cho đến khi có một số thông tin rõ ràng về điểm đến nào có thể tốt hơn. Mặt khác, theo ông Francesco Trần Văn Liêng, Chủ tịch VINACACAO, Việt Nam có thể thích ứng với thuế quan mới của Hoa Kỳ, vì là một nền kinh tế "mở":“Việt Nam đã làm từ mười mấy, hai chục năm nay, tức là Việt Nam được biết là một nền kinh tế mở, có nhiều đối tác international trade ( mậu dịch quốc tế ). Như tôi nói ở trên, 35% xuất khẩu là sang Mỹ, đúng là đủ lớn, nhưng rõ ràng không phải là tất cả xuất khẩu của Việt Nam. Chẳng hạn như với đối tác châu Âu chúng ta đã có free trade agreement FTA ( hiệp định thương mại tự do ). Đó là một đối tác thương mại rất lớn. Với nhiều nước khác như Nhật Bản và Hàn Quốc, mình cũng có FTA.Việc cải tổ kinh tế hoặc tăng độ mở của nền kinh tế thì Việt Nam đã làm từ lâu và nay có thể làm cho nó sâu sắc hơn hoặc rộng mở hơn thôi. Bản thân các công ty Việt Nam cũng hiểu là hiện nay không nên xuất khẩu thô, mà sẽ xuất khẩu hàng thương hiệu ( brand ), bởi vì người tiêu dùng sẽ trung thành với thương hiệu, chứ không trung thành với giá cả, chẳng hạn như Mercedes đã tăng giá không biết bao nhiêu lần, nhưng người ta vẫn thích Mercedes thì người ta phải chịu như thế thôi! TV cũng vậy, nếu bạn thích một nhãn hiệu TV nào thì bạn có thể trả giá cao hơn chút xít. Vấn đề này là nằm trong tầm tay của chính phủ và doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp vào Việt Nam để “tạm nhập tái xuất”, tức là chỉ sử dụng các nguồn lao động rẻ hoặc là đất đai, thì tôi nghĩ là chính phủ sẽ hành động nhanh và chính xác, tức là sẽ tiếp cận các doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thị trường xuất khẩu Hoa Kỳ, bởi mức thuế 46% này. Chính phủ Việt Nam sẽ tìm cách hỗ trợ họ, bằng cách giảm các chi phí đầu vào, thậm chí giảm thuế nhập khẩu hoặc là giảm giá đất cũng là một cách giảm chi phí đầu vào, hoặc là delay ( hoãn lại ), tức là chưa cần bắt trả ngay các khoản đối với các doanh nghiệp mà chịu ảnh hưởng trực tiếp, đồng hành với các doanh nghiệp để giảm cú sốc. Chính phủ ra tay giúp đỡ trong ngắn hạn thôi, trong hai năm 2025 và 2026, để chờ xem chính phủ Mỹ có vượt qua được midterm election ( bầu cử giữa kỳ ) 2026 hay không. Trong cuộc bầu cử đó, chính người Mỹ sẽ hiểu rằng cái gì vô lý thì phải dừng lại, chứ không thể mà “đơn đao phó hội”, tức là một mình nước Mỹ chống cả thế giới!”.Ấy là chưa kể một đòn mạnh vào tăng trưởng chủ yếu dựa trên xuất khẩu của Việt Nam có thể khiến đồng tiền Việt Nam giảm giá hơn nữa. Điều này sẽ thúc đẩy khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường thay thế, chẳng hạn như châu Âu. Theo chuyên gia Thang Nguyen của Oxford Economics, Ngân hàng trung ương Việt Nam thông thường vẫn quản lý đồng tiền Việt Nam sao cho giá trị của nó theo sát đồng đô la - một lựa chọn phổ biến của các nền kinh tế nhỏ hơn, phụ thuộc vào thương mại -, nhưng có lẽ họ sẽ phải để đồng tiền yếu đi để ứng phó với thuế quan của Mỹ. Nhưng trớ trêu thay, một hành động như vậy có thể khiến Việt Nam sẽ lại bị Mỹ cáo buộc là nước thao túng tiền tệ, như dưới chính quyền Trump nhiệm kỳ đầu tiên!
Mức thuế “đối ứng” 46% đối với Việt Nam là một trong những mức thuế cao nhất mà tổng thống Mỹ Donald Trump ban hành ngày 02/04/2025. Đòn thuế quan này, trên nguyên tắc có hiệu lực từ ngày 09/04 nhưng được tạm hoãn áp dụng trong 90 ngày, có thể sẽ gây tổn hại nặng nề cho tăng trưởng của Việt Nam, vì kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào xuất khẩu, trong đó Hoa Kỳ là một trong những thị trường chính. Theo chuyên gia Chu Thanh Tuấn, Đại học RMIT Việt Nam, trong bài viết tên trang web của đại học này ngày 04/04, "các ngành xuất khẩu chủ lực, bao gồm dệt may, điện tử, da giày, thủy sản và đồ gỗ, đều phụ thuộc nặng nề vào thị trường Mỹ. Gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hướng đến người tiêu dùng Mỹ. Việc chính quyền Trump áp thuế cao như vậy có thể làm xói mòn lợi thế cạnh tranh về giá, dẫn đến nguy cơ bị hủy đơn hàng và buộc doanh nghiệp hoặc phải chấp nhận giảm biên lợi nhuận, hoặc phải chuyển hoạt động sản xuất sang khu vực khác".Chuyên gia Chu Thanh Tuấn nhấn mạnh, hệ quả không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, vì thuế quan nhắm vào hàng Việt Nam xuất đi Mỹ “có thể gây gián đoạn trên toàn bộ chuỗi cung ứng, làm tăng chi phí đầu vào và làm giảm nhu cầu trên nhiều lĩnh vực trong nước; ảnh hưởng dây chuyền tới các lĩnh vực trong nước như logistics, tài chính, đóng gói và tuân thủ quy chuẩn”.Nhưng trả lời RFI Việt ngữ ngày 09/04/2025, ông Francesco Trần Văn Liêng, Chủ tịch kiêm sáng lập viên Công ty cổ phần Ca cao Việt Nam VINACACAO, đưa ra một nhận định khác về tác động của thuế quan Mỹ: “Thứ nhất, thuế này không phải là thuế song phương, mà mang tính đa biên rất rõ, tức là ít nhiều cả thế giới này đều bị ảnh hưởng và cả thế giới sẽ bị đẩy lên một mặt bằng lạm phát mới. Các mức giá cả sẽ cao hơn rất nhiều. Ngay cả ở Hoa Kỳ, các mức giá từ điện tử, xe hơi, xăng dầu, thực phẩm sẽ đều tăng từ 15 đến 20%. Riêng trứng gà đã tăng 56%. Điều này tạo ra một “khung kháng thể mới” cho người tiêu dùng Mỹ, có nghĩa là việc tăng giá này sẽ làm cho họ quen dần với mức giá mới cho tất cả các mặt hàng, trong đó có hàng Việt Nam. Thứ hai, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chỉ chiếm 35% tổng lượng xuất khẩu của quốc gia, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI chiếm tới 70%. Các mặt hàng của họ thường là điện tử, điện thoại, những mặt hàng mà người ta lắp ráp ở Việt Nam để tận dụng các ưu thế về nhân công. Còn lại thì ngành dệt may bị ảnh hưởng, vì “tạm nhập tái xuất” nhiều, tức là trị giá gia tăng không cao. Ngành bị ảnh hưởng khá nhiều đó là nông sản, hải sản, như tôm, đồ gỗ, cà phê, gạo...Nếu nhìn tổng quát thì kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế mở. Điều này có nghĩa là những “con đại bàng” lớn, như Nike, hoặc Intel, hoặc Samsung bị “trúng tên”. Mức thuế này có thể làm chùn bước một số doanh nghiệp mà từ trước đến giờ vẫn tận hưởng ưu thế về lao động.Còn lại các mặt hàng, chủ yếu là nông sản, thì bán theo hình thức FOB ( giá tại cửa khẩu bên nước của người bán ), tức là giá xuất khẩu. Giá xuất khẩu có thể không đổi, nhưng giá vào Hoa Kỳ thì sẽ tăng. Trách nhiệm này thuộc về nhà nhập khẩu Mỹ. Họ sẽ điều chỉnh, tái phân bố chi phí mới này để trung hòa vào chuỗi cung ứng của họ, để người Mỹ, vốn đã có sức đề kháng mới về giá cả, sẽ không bị tác động nhiều bởi mức giá mới này.Sắp tới nền kinh tế Mỹ có thể bị suy thoái, lạm phát sẽ tăng, người Mỹ sẽ phải đối phó với rất nhiều hướng, chứ không chỉ có những mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu qua. Những nhà nhập khẩu Mỹ có thể quay lại thương lượng với người bán hàng Việt Nam. Cũng có thể là hai bên sẽ thương lượng để tìm ra một mức giá hợp lý để người xuất khẩu FOB có thể gánh một phần chi phí. Còn về phía các doanh nghiệp Việt Nam thì rõ ràng nếu họ bán giá FOB với mức như từ trước đến nay cũng được. Có thể sức mua sẽ giảm, nhưng có những mặt hàng thì Mỹ có thể không có chọn lựa nào khác, ví dụ như cà phê của Việt Nam thì quá tốt, họ không thể chuyển qua chọn cà phê Brazil, vì nếu chọn thì họ đã chọn từ lâu rồi. Tôm của Việt Nam thì rất ngon, nhưng họ có thể chọn của Thái Lan, có điều tôm của Thái Lan thì cũng bị tăng giá.Chính phủ đã mạnh dạn thương lượng song phương để tìm ra một con đường chung cho cả hai bên. Chính phủ cũng sẽ tiếp cận với các doanh nghiệp lớn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi mức thuế này ( hầu hết các doanh nghiệp như Samsung, Intel, Nike, sang Việt Nam đầu tư thì tìm những thị trường như thị trường Mỹ ), để có những đối sách cần thiết, giúp họ giảm bớt chi phí của thuế 46% này." ” Trước những tác động của mức thuế 46%, Việt Nam không thể làm gì khác hơn là “năn nỉ” Hoa Kỳ nhẹ tay một chút. Hôm thứ năm tuần trước, 10/04/2025, chính phủ Việt Nam thông báo là hai nước sẽ tiến hành đàm phán về một "thỏa thuận thương mại đối ứng". Thông báo này được đưa ra sau cuộc gặp hôm trước tại Washington giữa phó thủ tướng Hồ Đức Phớc, đặc phái viên của tổng bí thư Tô Lâm, với Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Jamieson Greer. Ban đầu, ông Tô Lâm đề nghị Mỹ tạm hoãn áp thuế trong 45 ngày, nhưng rốt cuộc coi như sẽ có đến 90 ngày để đàm phán.Trước đó, Hà Nội đã tuyên bố sẵn sàng đàm phán để hai bên giảm thuế nhập khẩu đối với nhau xuống còn 0%, đồng thời cam kết sẽ “tiếp tục mua thêm các mặt hàng Hoa Kỳ có thế mạnh mà Việt Nam có nhu cầu, kể cả các mặt hàng liên quan an ninh - quốc phòng”.Nhưng không chắc là những cam kết giảm nói trên sẽ đủ để Hoa Kỳ nương tay. Chiến lược gia tiền tệ kỳ cựu Bilal Hafeez, hiện là giám đốc nghiên cứu tại Macro Hive, cho biết để đưa cán cân thương mại của Hoa Kỳ từ thâm hụt xuống mức 0, các quốc gia sẽ phải tăng cường tiền tệ, kích thích nhu cầu tiêu thụ nội địa trong nước, để họ có thể mua nhiều hàng hóa của Hoa Kỳ hơn và xuất khẩu ít hơn nhiều. Vấn đề là Việt Nam khó có thể làm những điều đó trong một thời gian ngắn. Trên trên tờ The Economist ngày 07/04/2025, nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Giang ghi nhận, theo các dữ liệu mới nhất, trong 12 tháng tính đến cuối tháng 3, Việt Nam đã chỉ nhập khẩu hàng hóa trị giá 16 tỷ đô la từ Hoa Kỳ, những hàng hóa được áp dụng mức thuế trung bình là 3%. Tuy nhiên, theo ông Francesco Trần Văn Liêng, cân bằng lại trao đổi mậu dịch với Mỹ không phải là quá khó đối với Việt Nam :“Nếu chỉ có thâm hụt mậu dịch thì dễ giải quyết, tại vì hiện nay dư địa về hàng hóa của Mỹ cho Việt Nam còn rất lớn, như là đậu tương, gia súc, lúa mì. Lúa mì thì trước đây mình mua của Mỹ, Canada, Úc, thậm chí của Ấn Độ, thì bây giờ mình có thể ưu tiên mua của Mỹ, giảm mua từ các nước kia, đồng thời mua thêm khí hóa lỏng. Hiện nay, ô tô cũng có thể là một mặt hàng mà người Việt Nam rất là thích, nhất là ô tô Mỹ hay ô tô sản xuất tại Mỹ. Giả sử Toyota, Mercedes hay Volvo sản xuất tại Mỹ và nếu mức thuế tiêu thụ đặc biệt giảm hay thuế nhập khẩu giảm bớt, người Việt Nam sẽ thích mua những ô tô đó. Nói chung, dư địa để cân bằng cán cân thương mại là không có gì khó.”Nhưng vấn đề là đối với Peter Navarro, cố vấn thương mại của Trump, cho dù Hoa Kỳ và Việt Nam cùng xóa bỏ thuế quan, thì thâm hụt thương mại 120 tỷ đô la vẫn còn nguyên do những "gian lận phi thuế quan". Ông Navarro cáo buộc Việt Nam trợ cấp cho hàng xuất khẩu của mình và hoạt động như một "thuộc địa" ( colony ) sản xuất hàng hóa Trung Quốc. Tuy vậy, theo The Economist, trong một bài viết đăng trên mạng ngày 07/04, nếu không thể sớm đạt được thỏa thuận, vẫn có thể có một số tia hy vọng cho Việt Nam. Một là các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp khó có thể rời bỏ Việt Nam ngay lập tức. Các dự án của họ có chi phí cố định cao và sẽ mất nhiều năm để di dời. Họ sẽ không bỏ những dự án đó cho đến khi có một số thông tin rõ ràng về điểm đến nào có thể tốt hơn. Mặt khác, theo ông Francesco Trần Văn Liêng, Chủ tịch VINACACAO, Việt Nam có thể thích ứng với thuế quan mới của Hoa Kỳ, vì là một nền kinh tế "mở":“Việt Nam đã làm từ mười mấy, hai chục năm nay, tức là Việt Nam được biết là một nền kinh tế mở, có nhiều đối tác international trade ( mậu dịch quốc tế ). Như tôi nói ở trên, 35% xuất khẩu là sang Mỹ, đúng là đủ lớn, nhưng rõ ràng không phải là tất cả xuất khẩu của Việt Nam. Chẳng hạn như với đối tác châu Âu chúng ta đã có free trade agreement FTA ( hiệp định thương mại tự do ). Đó là một đối tác thương mại rất lớn. Với nhiều nước khác như Nhật Bản và Hàn Quốc, mình cũng có FTA.Việc cải tổ kinh tế hoặc tăng độ mở của nền kinh tế thì Việt Nam đã làm từ lâu và nay có thể làm cho nó sâu sắc hơn hoặc rộng mở hơn thôi. Bản thân các công ty Việt Nam cũng hiểu là hiện nay không nên xuất khẩu thô, mà sẽ xuất khẩu hàng thương hiệu ( brand ), bởi vì người tiêu dùng sẽ trung thành với thương hiệu, chứ không trung thành với giá cả, chẳng hạn như Mercedes đã tăng giá không biết bao nhiêu lần, nhưng người ta vẫn thích Mercedes thì người ta phải chịu như thế thôi! TV cũng vậy, nếu bạn thích một nhãn hiệu TV nào thì bạn có thể trả giá cao hơn chút xít. Vấn đề này là nằm trong tầm tay của chính phủ và doanh nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp vào Việt Nam để “tạm nhập tái xuất”, tức là chỉ sử dụng các nguồn lao động rẻ hoặc là đất đai, thì tôi nghĩ là chính phủ sẽ hành động nhanh và chính xác, tức là sẽ tiếp cận các doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thị trường xuất khẩu Hoa Kỳ, bởi mức thuế 46% này. Chính phủ Việt Nam sẽ tìm cách hỗ trợ họ, bằng cách giảm các chi phí đầu vào, thậm chí giảm thuế nhập khẩu hoặc là giảm giá đất cũng là một cách giảm chi phí đầu vào, hoặc là delay ( hoãn lại ), tức là chưa cần bắt trả ngay các khoản đối với các doanh nghiệp mà chịu ảnh hưởng trực tiếp, đồng hành với các doanh nghiệp để giảm cú sốc. Chính phủ ra tay giúp đỡ trong ngắn hạn thôi, trong hai năm 2025 và 2026, để chờ xem chính phủ Mỹ có vượt qua được midterm election ( bầu cử giữa kỳ ) 2026 hay không. Trong cuộc bầu cử đó, chính người Mỹ sẽ hiểu rằng cái gì vô lý thì phải dừng lại, chứ không thể mà “đơn đao phó hội”, tức là một mình nước Mỹ chống cả thế giới!”.Ấy là chưa kể một đòn mạnh vào tăng trưởng chủ yếu dựa trên xuất khẩu của Việt Nam có thể khiến đồng tiền Việt Nam giảm giá hơn nữa. Điều này sẽ thúc đẩy khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường thay thế, chẳng hạn như châu Âu. Theo chuyên gia Thang Nguyen của Oxford Economics, Ngân hàng trung ương Việt Nam thông thường vẫn quản lý đồng tiền Việt Nam sao cho giá trị của nó theo sát đồng đô la - một lựa chọn phổ biến của các nền kinh tế nhỏ hơn, phụ thuộc vào thương mại -, nhưng có lẽ họ sẽ phải để đồng tiền yếu đi để ứng phó với thuế quan của Mỹ. Nhưng trớ trêu thay, một hành động như vậy có thể khiến Việt Nam sẽ lại bị Mỹ cáo buộc là nước thao túng tiền tệ, như dưới chính quyền Trump nhiệm kỳ đầu tiên!
Hôm 17/03/2025, báo chí chính thức ở Việt Nam đã đồng loạt đăng một bài viết của tổng bí thư đảng Cộng sản Tô Lâm. Việc truyền thông nhà nước phổ biến quan điểm của lãnh đạo đảng là chuyện bình thường ở Việt Nam, nhưng bài viết này đáng chú ý vì ông Tô Lâm đã không hết lời ca ngợi khu vực kinh tế tư nhân tại một đất nước mà về mặt chính thức kinh tế nhà nước vẫn nắm vai trò chủ đạo “trong một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngay từ năm 1986, khi bắt đầu “đổi mới”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã công nhận “kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế”. Đến năm 2001, đảng cầm quyền ở Việt Nam tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân “trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.” Nhưng thực ra thì đến năm 2011, tại Đại hội Đảng lần thứ 11, cụm từ "kinh tế tư nhân" mới lần đầu tiên được sử dụng chính thức, với chủ trương "hoàn thiện cơ chế, chính sách để kinh tế tư nhân trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế". Năm 2017, Đảng ra nghị quyết nhấn mạnh cần "phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Nghị quyết này lần đầu tiên đưa ra các chỉ tiêu cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân, như đến năm 2025 sẽ có 1,5 triệu doanh nghiệp, đóng góp khoảng 55% GDP. Tuy nhiên, những mục tiêu này đến nay vẫn chưa đạt được.Trong bài viết mang tựa đề "Phát triển kinh tế tư nhân: Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", tổng bí thư Tô Lâm ghi nhận: “Với gần 1 triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP.” Nói chung, theo ông Tô Lâm, khu vực tư nhân “ngày càng thể hiện là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.”Quan điểm của ông Tô Lâm là: “Một nền kinh tế cường thịnh không thể chỉ dựa vào khu vực nhà nước hay FDI, mà phải dựa vào nội lực là khu vực tư nhân vững mạnh, đóng vai trò tiên phong trong đổi mới và phát triển đất nước.”Nhưng ông Tô Lâm nhìn nhận rằng kinh tế tư nhân ở Việt Nam “vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển và năng lực cạnh tranh.” Cụ thể, theo lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam doanh nghiệp tư nhân “còn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn tín dụng, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các ngành công nghệ, kỹ thuật và tài chính. Trong khi đó, một số doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nhiều tài nguyên, đất đai, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng nhưng lại chưa khai thác hiệu quả, thậm chí còn để lãng phí.”Ấy là chưa kể “hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, chồng chéo, môi trường kinh doanh nhiều trở ngại, thủ tục hành chính phức tạp, tốn nhiều thời gian, chi phí và tiềm ẩn rủi ro. Nhiều trường hợp quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản vẫn bị xâm hại bởi sự yếu kém hoặc lạm quyền của một số cán bộ, công chức trong thực thi công vụ.”Trong bản đánh giá về hiện trạng của khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam, đăng vào tháng 09/2021, Tổ chức Tài chính Quốc tế (International Finance Corporation - IFC), thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới, cũng đã từng nêu bật sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam :“Quy mô và ảnh hưởng lớn của doanh nghiệp nhà nước có thể cản trở cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và mới hoạt động. Doanh nghiệp tư nhân khó tham gia và cạnh tranh đầy đủ ở nhiều thị trường do các ưu đãi dành cho doanh nghiệp nhà nước. Các ngân hàng thương mại tiếp tục cho những doanh nghiệp nhà nước có kết quả hoạt động yếu kém được vay tiền trên cơ sở phi thương mại, do đó làm tăng chi phí vay trong nước của các công ty làm ăn có lợi nhuận tốt. Các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn về tài chính có thể nhận được hỗ trợ của nhà nước bằng việc xóa nợ và kéo dài thời gian trả nợ, hạn chế các nguồn lực lẽ ra có thể được chuyển đến các công ty tư nhân. Trong khi luật lệ, quy định hiện hành về giao đất và cho thuê đất kinh doanh, sản xuất không phân biệt doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ 70% đất đai dành cho sản xuất và kinh doanh”.Trong bài viết nói trên, ông Tô Lâm còn nhìn nhận: “ Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài nhận được nhiều ưu đãi hơn so với khu vực tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước thường thuận lợi hơn trong tiếp cận đất đai, vốn, tín dụng; còn doanh nghiệp nước ngoài thường được hỗ trợ về thuế, thủ tục hải quan, tiếp cận đất đai.” Trả lời RFI Việt ngữ ngày 18/03/2025, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho rằng chính phủ phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận đất đai và tiếp cận các ưu đãi như là với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài: “Ví dụ như là một tập đoàn lớn của Hàn Quốc mà đầu tư vào một tỉnh thì tỉnh đó sẵn sàng cấp thêm đất và giảm giá đất vượt khỏi khung pháp luật của Việt Nam để giữ tập đoàn đó ở địa phương đó. Bây giờ nên áp dụng ưu đãi đó cho doanh nghiệp trong nước.Hiện nay, vì nhiều lý do, cho nên một số địa phương ưu đãi rất lớn đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, bởi vì doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có tiềm lực lớn, có thể, trong một thời gian ngắn, phù hợp với thời gian cầm quyền của ông bí thư hay chủ tịch tỉnh, có thể đầu tư và nhanh chóng nâng cao thu nhập về thuế hay GDP, nhưng thực chất giá trị gia tăng được tạo ra ở Việt Nam thì lại không cao. Và tôi muốn nhấn mạnh rằng doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp dân tộc, còn doanh nghiệp nước ngoài thì mang thương hiệu nước ngoài và sẽ chuyển lợi nhuận cũng như vốn đầu tư về nước họ. Doanh nghiệp tư nhân thì mang thương hiệu Việt Nam, sẽ đóng thuế và ở lại với đất nước Việt Nam.”Một hướng phát triển khác để tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân, theo chuyên gia Lê Đăng Doanh, đó là phải đẩy mạnh việc chuyển sang chính phủ điện tử và thực hiện công khai, minh bạch.“Luật doanh nghiệp năm 1999 đã thực hiện sự thay đổi quan trọng đó và bây giờ cần phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa. Tôi nghĩ rằng để làm việc đó thì phải chuyển mạnh sang kinh tế, chính phủ điện tử, thực hiện công khai minh bạch và tinh giản tối đa các giấy phép, các thủ tục hành chính, công khai trên mạng cho mọi người biết là việc này là do ai xử lý và xử lý đến bao giờ.Cũng về công khai minh bạch, nếu nhìn vào niên giám thống kê của Việt Nam thì phần lớn chỉ có thu, chi, tức là không nói rõ chi cho những gì, thu thì từ đâu. Trong khi đó, nếu đọc niên giám thống kê của Thụy Điển thì họ nói rất rõ, tức là nhà vua chi như thế nào, có đi chuyên cơ hay là đi máy bay thương mại. Thậm chí bữa cơm mà nhà vua tiếp khách nước ngoài thì gồm có 3 món nào, đãi rượu vang gì.Trên cơ sở đó, tôi hy vọng là môi trường kinh doanh của Việt Nam sẽ được và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ mạnh hơn. Hiện nay thì trước hết là con số giấy phép con hiện nay đã tăng rất nhiều.Theo báo cáo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp thì con số giấy phép con đã vượt hơn 5.000.Rất cần lập lại một lần nữa bài học của thủ tướng Phan Văn Khải, người đã ký và bãi bỏ 258 giấy phép vào năm 2001. Tôi nghĩ là bây giờ bên cạnh việc vận dụng chính phủ điện tử và công khai minh bạch, việc giảm bớt các thủ tục hành chính, các giấy tờ là điều hoàn toàn có thể thực hiện được.Việt Nam đã có những tiến bộ như ta đã thấy, tức là có những hãng hàng không tư nhân như Vietjet, có quy mô và hoạt động về mặt trình độ chuyên môn có thể cạnh tranh được với. Với tầm nhìn như vậy, tôi nghĩ là nên mở rộng hơn nữa sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân vào chính phủ điện tử, vào công nghệ thông tin.”Bên cạnh đó, chuyên gia Lê Đăng Doanh còn lưu ý về chính sách thu hút nhân tài để đóng góp cho việc phát triển nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam: “Còn rất nhiều vấn đề mà chúng ta cần cải cách và phát triển lên. Một là chiến lược về nhân lực và chính sách đối với nhân tài, làm sao cho các nhân tài từ nước ngoài về được sử dụng ở Việt Nam sẽ được đối xử một cách tương xứng. Tôi không muốn nói là thu nhập của họ phải bằng như ở Pháp hay ở Mỹ, nhưng cũng phải là thu nhập cao đáng kể so với thu nhập bình thường ở Việt Nam, để họ có thể sống một cách thoải mái."Trong bài viết nói trên, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm cũng đã đề ra một số giải pháp để « tạo ra một động lực đột phá » cho các doanh nghiệp tư nhân, trong đó có việc tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, thứ hai, bảo vệ hữu hiệu quyền tài sản, quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, ưu tiên xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, , tạo cơ hội cho khu vực tư nhân tiếp cận hiệu quả, công bằng các nguồn vốn, đất đai, nhân lực, công nghệ.
Hôm 17/03/2025, báo chí chính thức ở Việt Nam đã đồng loạt đăng một bài viết của tổng bí thư đảng Cộng sản Tô Lâm. Việc truyền thông nhà nước phổ biến quan điểm của lãnh đạo đảng là chuyện bình thường ở Việt Nam, nhưng bài viết này đáng chú ý vì ông Tô Lâm đã không hết lời ca ngợi khu vực kinh tế tư nhân tại một đất nước mà về mặt chính thức kinh tế nhà nước vẫn nắm vai trò chủ đạo “trong một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngay từ năm 1986, khi bắt đầu “đổi mới”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã công nhận “kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế”. Đến năm 2001, đảng cầm quyền ở Việt Nam tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân “trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.” Nhưng thực ra thì đến năm 2011, tại Đại hội Đảng lần thứ 11, cụm từ "kinh tế tư nhân" mới lần đầu tiên được sử dụng chính thức, với chủ trương "hoàn thiện cơ chế, chính sách để kinh tế tư nhân trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế". Năm 2017, Đảng ra nghị quyết nhấn mạnh cần "phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". Nghị quyết này lần đầu tiên đưa ra các chỉ tiêu cụ thể về phát triển kinh tế tư nhân, như đến năm 2025 sẽ có 1,5 triệu doanh nghiệp, đóng góp khoảng 55% GDP. Tuy nhiên, những mục tiêu này đến nay vẫn chưa đạt được.Trong bài viết mang tựa đề "Phát triển kinh tế tư nhân: Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng", tổng bí thư Tô Lâm ghi nhận: “Với gần 1 triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp khoảng 51% GDP.” Nói chung, theo ông Tô Lâm, khu vực tư nhân “ngày càng thể hiện là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.”Quan điểm của ông Tô Lâm là: “Một nền kinh tế cường thịnh không thể chỉ dựa vào khu vực nhà nước hay FDI, mà phải dựa vào nội lực là khu vực tư nhân vững mạnh, đóng vai trò tiên phong trong đổi mới và phát triển đất nước.”Nhưng ông Tô Lâm nhìn nhận rằng kinh tế tư nhân ở Việt Nam “vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển và năng lực cạnh tranh.” Cụ thể, theo lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam doanh nghiệp tư nhân “còn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn tín dụng, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các ngành công nghệ, kỹ thuật và tài chính. Trong khi đó, một số doanh nghiệp nhà nước nắm giữ nhiều tài nguyên, đất đai, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng nhưng lại chưa khai thác hiệu quả, thậm chí còn để lãng phí.”Ấy là chưa kể “hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, chồng chéo, môi trường kinh doanh nhiều trở ngại, thủ tục hành chính phức tạp, tốn nhiều thời gian, chi phí và tiềm ẩn rủi ro. Nhiều trường hợp quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản vẫn bị xâm hại bởi sự yếu kém hoặc lạm quyền của một số cán bộ, công chức trong thực thi công vụ.”Trong bản đánh giá về hiện trạng của khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam, đăng vào tháng 09/2021, Tổ chức Tài chính Quốc tế (International Finance Corporation - IFC), thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới, cũng đã từng nêu bật sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam :“Quy mô và ảnh hưởng lớn của doanh nghiệp nhà nước có thể cản trở cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và mới hoạt động. Doanh nghiệp tư nhân khó tham gia và cạnh tranh đầy đủ ở nhiều thị trường do các ưu đãi dành cho doanh nghiệp nhà nước. Các ngân hàng thương mại tiếp tục cho những doanh nghiệp nhà nước có kết quả hoạt động yếu kém được vay tiền trên cơ sở phi thương mại, do đó làm tăng chi phí vay trong nước của các công ty làm ăn có lợi nhuận tốt. Các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn về tài chính có thể nhận được hỗ trợ của nhà nước bằng việc xóa nợ và kéo dài thời gian trả nợ, hạn chế các nguồn lực lẽ ra có thể được chuyển đến các công ty tư nhân. Trong khi luật lệ, quy định hiện hành về giao đất và cho thuê đất kinh doanh, sản xuất không phân biệt doanh nghiệp nhà nước hay tư nhân, doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ 70% đất đai dành cho sản xuất và kinh doanh”.Trong bài viết nói trên, ông Tô Lâm còn nhìn nhận: “ Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài nhận được nhiều ưu đãi hơn so với khu vực tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước thường thuận lợi hơn trong tiếp cận đất đai, vốn, tín dụng; còn doanh nghiệp nước ngoài thường được hỗ trợ về thuế, thủ tục hải quan, tiếp cận đất đai.” Trả lời RFI Việt ngữ ngày 18/03/2025, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho rằng chính phủ phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp cận đất đai và tiếp cận các ưu đãi như là với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài: “Ví dụ như là một tập đoàn lớn của Hàn Quốc mà đầu tư vào một tỉnh thì tỉnh đó sẵn sàng cấp thêm đất và giảm giá đất vượt khỏi khung pháp luật của Việt Nam để giữ tập đoàn đó ở địa phương đó. Bây giờ nên áp dụng ưu đãi đó cho doanh nghiệp trong nước.Hiện nay, vì nhiều lý do, cho nên một số địa phương ưu đãi rất lớn đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, bởi vì doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có tiềm lực lớn, có thể, trong một thời gian ngắn, phù hợp với thời gian cầm quyền của ông bí thư hay chủ tịch tỉnh, có thể đầu tư và nhanh chóng nâng cao thu nhập về thuế hay GDP, nhưng thực chất giá trị gia tăng được tạo ra ở Việt Nam thì lại không cao. Và tôi muốn nhấn mạnh rằng doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp dân tộc, còn doanh nghiệp nước ngoài thì mang thương hiệu nước ngoài và sẽ chuyển lợi nhuận cũng như vốn đầu tư về nước họ. Doanh nghiệp tư nhân thì mang thương hiệu Việt Nam, sẽ đóng thuế và ở lại với đất nước Việt Nam.”Một hướng phát triển khác để tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân, theo chuyên gia Lê Đăng Doanh, đó là phải đẩy mạnh việc chuyển sang chính phủ điện tử và thực hiện công khai, minh bạch.“Luật doanh nghiệp năm 1999 đã thực hiện sự thay đổi quan trọng đó và bây giờ cần phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa. Tôi nghĩ rằng để làm việc đó thì phải chuyển mạnh sang kinh tế, chính phủ điện tử, thực hiện công khai minh bạch và tinh giản tối đa các giấy phép, các thủ tục hành chính, công khai trên mạng cho mọi người biết là việc này là do ai xử lý và xử lý đến bao giờ.Cũng về công khai minh bạch, nếu nhìn vào niên giám thống kê của Việt Nam thì phần lớn chỉ có thu, chi, tức là không nói rõ chi cho những gì, thu thì từ đâu. Trong khi đó, nếu đọc niên giám thống kê của Thụy Điển thì họ nói rất rõ, tức là nhà vua chi như thế nào, có đi chuyên cơ hay là đi máy bay thương mại. Thậm chí bữa cơm mà nhà vua tiếp khách nước ngoài thì gồm có 3 món nào, đãi rượu vang gì.Trên cơ sở đó, tôi hy vọng là môi trường kinh doanh của Việt Nam sẽ được và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ mạnh hơn. Hiện nay thì trước hết là con số giấy phép con hiện nay đã tăng rất nhiều.Theo báo cáo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp thì con số giấy phép con đã vượt hơn 5.000.Rất cần lập lại một lần nữa bài học của thủ tướng Phan Văn Khải, người đã ký và bãi bỏ 258 giấy phép vào năm 2001. Tôi nghĩ là bây giờ bên cạnh việc vận dụng chính phủ điện tử và công khai minh bạch, việc giảm bớt các thủ tục hành chính, các giấy tờ là điều hoàn toàn có thể thực hiện được.Việt Nam đã có những tiến bộ như ta đã thấy, tức là có những hãng hàng không tư nhân như Vietjet, có quy mô và hoạt động về mặt trình độ chuyên môn có thể cạnh tranh được với. Với tầm nhìn như vậy, tôi nghĩ là nên mở rộng hơn nữa sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân vào chính phủ điện tử, vào công nghệ thông tin.”Bên cạnh đó, chuyên gia Lê Đăng Doanh còn lưu ý về chính sách thu hút nhân tài để đóng góp cho việc phát triển nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam: “Còn rất nhiều vấn đề mà chúng ta cần cải cách và phát triển lên. Một là chiến lược về nhân lực và chính sách đối với nhân tài, làm sao cho các nhân tài từ nước ngoài về được sử dụng ở Việt Nam sẽ được đối xử một cách tương xứng. Tôi không muốn nói là thu nhập của họ phải bằng như ở Pháp hay ở Mỹ, nhưng cũng phải là thu nhập cao đáng kể so với thu nhập bình thường ở Việt Nam, để họ có thể sống một cách thoải mái."Trong bài viết nói trên, tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Tô Lâm cũng đã đề ra một số giải pháp để « tạo ra một động lực đột phá » cho các doanh nghiệp tư nhân, trong đó có việc tiếp tục đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, thứ hai, bảo vệ hữu hiệu quyền tài sản, quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, ưu tiên xây dựng các tập đoàn kinh tế tư nhân tầm cỡ khu vực và toàn cầu, , tạo cơ hội cho khu vực tư nhân tiếp cận hiệu quả, công bằng các nguồn vốn, đất đai, nhân lực, công nghệ.
Ngày 19/02/2025, Việt Nam tinh giản bộ máy Nhà nước, từ 18 bộ xuống còn 14 bộ và từ 4 cơ quan ngang bộ xuống 3. Tiếp theo là sáp nhập tỉnh thành, sẽ phải hoàn tất trước ngày 30/08 và đi vào hoạt động từ tháng 09. “Cuộc cách mạng” hành chính cho phép Việt Nam nâng vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu trong bối cảnh từ năm 2018, Việt Nam được coi là nước hưởng lợi chính từ việc dịch chuyển chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc. Việc tinh gọn bộ máy được Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu - EuroCham, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, đánh giá là tiền đề để Việt Nam thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó khẳng định vị thế là trung tâm đầu tư của Đông Nam Á. Hoạt động từ năm 1998, EuroCham hiện là một trong những hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với hơn 1.400 thành viên sử dụng hơn 150.000 lao động.Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 06/03/2025, phó chủ tịch Jean-Jacques Bouflet phụ trách Chính sách EuroCham đề cao quyết tâm của chính quyền Việt Nam nhưng ông cũng lưu ý cần phải khẩn trương và tiến hành một cách hiệu quả.RFI : Việt Nam tiến hành tinh giản bộ máy Nhà nước, được coi là "cuộc cách mạng lần thứ hai". Phòng Thương mại Châu Âu (EuroCham) và các thành viên đánh giá biện pháp cải cách này như thế nào ? EuroCham và các thành viên được thông tin như thế nào về những thay đổi mà quá trình này mang lại ?Phó chủ tịch EuroCham Jean-Jacques Bouflet : Các doanh nghiệp tiếp đón thông tin tương đối tích cực. Chúng tôi cũng tiến hành một cuộc điều tra, được gọi là “chỉ số tin tưởng” của các doanh nghiệp (BCI), và nhìn chung cam kết của chính phủ được coi là một bước theo hướng tốt. 43% trên tổng số các doanh nghiệp thuộc Liên Hiệp Châu Âu cho rằng về lâu dài thủ tục hành chính sẽ được đơn giản hóa, trong đó có việc thông qua các nền tảng kỹ thuật số và nhất là qua việc tinh giản bộ máy hành chính đang diễn ra. Tuy nhiên, 36% thành viên trong EuroCham vẫn bày tỏ quan ngại về những chậm trễ có thể xảy ra trong quá trình chuyển tiếp. Nhưng chúng ta cứ giữ lạc quan xem sao !Chúng tôi được thông tin như nào ư ? Chúng tôi có được ưu ái là có một buổi làm việc với thủ tướng Việt Nam ngày 02/03. Có hơn 50 người tham gia, trong đó có đại sứ Liên Hiệp Châu Âu, cũng như đại sứ nhiều nước thành viên. Chúng tôi đối thoại với thủ tướng Phạm Minh Chính cùng hai phó thủ tướng và rất nhiều bộ ngành liên quan. Ông Chính đã trình bày về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính để kích thích đầu tư vì đây là mục tiêu chính của cuộc cải cách. Sau buổi họp đó, EuroCham đã tổ chức nhiều sự kiện để thông tin đến các thành viên. Có thể thấy là cho đến nay đã có nhiều ý tưởng. Dĩ nhiên là sẽ còn phải chờ xem thực tế liệu những chủ trương đó có biến thành những cải cách cụ thể hay không. Nhưng dù sao cũng đã có ý tưởng.RFI : Sau khi cải cách được thông báo, cũng như sau cuộc họp với thủ tướng Việt Nam thì EuroCham trông đợi cụ thể điều gì ?Ông Jean-Jacques Bouflet : Điểm chính của cuộc cải cách là giảm đáng kể số lượng bộ. Nhiều bộ đã được hợp nhất, ví dụ bộ Nông Nghiệp và Môi Trường, điều này cho thấy một bước đi và mong muốn đi theo hướng quá độ và chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam, hoặc ví dụ bộ Kế Hoạch Đầu Tư được gộp vào bộ Tài Chính. Tôi nhớ không nhầm là từ 18 bộ xuống còn 14 bộ. Có thể thấy mong muốn tinh giản bộ máy Nhà nước và mặt khác chính phủ cũng tìm cách phi tập trung hóa, có nghĩa là một phần các thủ tục hành chính sẽ được áp dụng ở cấp địa phương, tại các tỉnh với khoảng 60 tỉnh ở Việt Nam, và điều này sẽ cho phép chúng tôi tiếp cận gần với các nhà ra quyết định hơn.Nói tóm lại, mục đích của đợt tinh giản bộ máy Nhà nước là giảm bớt thủ tục hành chính, khoảng 30% toàn bộ thủ tục, và thúc đẩy việc áp dụng để đẩy nhanh chính những thủ tục đó. 30% là con số ấn tượng nên chúng tôi đầy hy vọng. RFI : Cuộc cải cách này là một điều kiện tiên quyết để Việt Nam thu hút đầu từ nước ngoài. Nhìn từ các nhà đầu tư nước ngoài, ví dụ các thành viên của EuroCham, cần phải có những điều kiện nào khác để Việt Nam có thể khẳng định vị trí trung tâm đầu tư ở Đông Nam Á như tham vọng của chính phủ Việt Nam ?Ông Jean-Jacques Bouflet : Như tôi đề cập ở trên, điều mà EuroCham trông đợi, cũng là điều kiện chính đối với chúng tôi, để kích thích đầu tư của châu Âu vào Việt Nam, vẫn là giảm thủ tục hành chính, chấm dứt những phức tạp, chồng chéo và phân chia rải rác giữa các bộ ngành, cơ quan ở cấp trung ương cũng như địa phương. Nhiều khi cứ như lạc vào rừng rậm, thủ tục tích tụ, chồng chéo và phải vượt qua một số ngưỡng. Vì vậy cuộc cải cách này thực sự là cần thiết.Ngoài ra, như chúng ta đã biết, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu đã ký Hiệp định Tự do Thương mại và đang trong giai đoạn triển khai. Chúng tôi cũng mong giai đoạn này triển khai này giúp giải phóng thực sự điều kiện thâm nhập thị trường, cũng như hoạt động của các doanh nghiệp châu Âu được kết trái từ đầu tư vào Việt Nam. Về điểm này, tiếc là chúng tôi vẫn chưa nhận được sự phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư vì hiệp định này phải qua hai vòng phê chuẩn của Liên Hiệp Châu Âu và của các nước thành viên. Hiện giờ vẫn còn khoảng 10 nước thành viên chưa phê chuẩn.Còn về bản thân Hiệp định Tự do Thương mại, điều quan trọng là hiệp định phải được áp dụng triệt để và theo đúng tinh thần. Có nghĩa là cần phải tránh để việc giảm thuế quan bị vi phạm hoặc bị bù lại bằng cách tăng thuế ở trong nước đối với sản phẩm đó hoặc bằng các rào cản kỹ thuật cho trao đổi thương mại.RFI : Các thành viên EuroCham đầu tư vào những lĩnh vực nào ở Việt Nam hiện nay, cũng như xu hướng đầu tư trong tương lai ? Ông Jean-Jacques Bouflet : EuroCham đại diện cho toàn bộ các doanh nghiệp châu Âu, ở cấp độ Liên Hiệp Châu Âu, do đó, lĩnh vực hoạt động của chúng tôi rất rộng. Chỉ riêng nội bộ EuroCham đã có khoảng 20 ủy ban chuyên ngành, từ dược phẩm, nông nghiệp, đến rượu vang, rượu mạnh hoặc điện tử cho nên mảng hoạt động rất rộng, trong lĩnh vực nhập khẩu bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sang Việt Nam, cũng như sản xuất, chiếm một phần quan trọng bởi vì chúng tôi cũng có rất nhiều thành viên sản xuất ở Việt Nam, sau đó tái xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu hoặc sang các thị trường thứ ba.Liên quan đến việc sản xuất ở Việt Nam, lĩnh vực chủ đạo vẫn là đồ điện tử. Việt Nam đang giữ vị trí quan trọng về điểm này, dường như là điện tử giữ vị trí thứ nhất về xuất khẩu, vượt qua cả nông nghiệp. Cho dù châu Âu có thể ít mạnh hơn trong lĩnh vực này ở Việt Nam nhưng còn rất nhiều cơ hội đầu tư.Ngoài ra còn có cả quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tôn trọng môi trường hơn, vẫn được gọi là “Green Deal” và chúng tôi muốn thể hiện và khẳng định ở Việt Nam. Tôi phải nói là về điểm này, Việt Nam đã nắm được phần nào vị trí đầu tầu so với các nước đang phát triển khác trong vùng. Đó là những lĩnh vực mà chúng tôi đầu tư đặc biệt hơn. Chúng tôi có một ủy ban đặc trách “Green Growth” - tăng trưởng xanh - rất năng động. Chúng tôi đối thoại rất nhiều với chính quyền Việt Nam. Việt Nam đang hiện đại hóa lĩnh vực năng lượng bằng cách thúc đẩy các loại hình năng lượng tái tạo, cho dù chúng ta khởi động từ mức khá thấp, và tất cả các doanh nghiệp của chúng tôi tập trung, điều phối với nhau về những lĩnh vực đầy hứa hẹn như này. RFI : Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen dự kiến thăm Việt Nam. Ông có nghĩ là chuyến công du sẽ sớm diễn ra không ? Ông Jean-Jacques Bouflet : Chúng tôi hy vọng bà Ursula von der Leyen sớm đến thăm chúng tôi. Tôi nghĩ Việt Nam là một nhân tố quan trọng cho thương mại quốc tế và cho hợp tác đối tác giữa các nước phát triển như Liên Hiệp Châu Âu và những nền kinh tế mới đang trỗi dậy mạnh mẽ như Việt Nam. Tôi nghĩ là trong thời điểm phần nào xáo trộn như hiện nay, cần phải nhắc lại sự gắn bó vào hệ thống thương mại quốc tế dựa trên khuôn khổ luật pháp rõ ràng, dự đoán được và đa phương, các quy định của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) cũng như Hiệp định Tự do Thương mại như tôi đề cập ở trên. Điều này rất quan trọng ! Đúng là chuyến thăm của bà Ursula von der Leyen sẽ tượng trưng phần nào cho điểm trên. Ngoài ra, cũng đừng quên rằng Việt Nam là thị trường có 100 triệu dân, đó là đất nước có tiềm năng rất lớn và là một nhân tố chủ đạo cho việc phân bổ lao động quốc tế.Ngoài chuyến thăm của chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, chúng tôi cũng mong ủy viên thương mại châu Âu Maroš Šefčovič đến thăm để phát hành "Sách Trắng" mà chúng tôi vẫn soạn thảo hàng năm để trình bày những đề xuất với chính quyền Việt Nam nhằm cải thiện trao đổi và đầu tư giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam. Chúng tôi hy vọng năm nay ông Maroš Šefčovič đứng ra chủ trì buổi lễ này. Có thể thấy là mọi chuyện đang đi vào quy củ với Việt Nam theo chiều hướng năng động được hình thành từ Hiệp định Tự do Thương mại ký vào năm 2019 và phê chuẩn năm 2020 và vẫn đang tiếp tục cho kết quả dù chậm nhưng chắc. Dĩ nhiên cũng phải chú ý đến bối cảnh quốc tế khó khăn hiện nay nhưng tôi tin Liên Hiệp Châu Âu phải tái khẳng định gắn kết với khuôn khổ đa phương dựa trên quy định luật pháp rõ ràng và tin cậy. Bởi vì, đối với các doanh nghiệp châu Âu chúng tôi, ở rất xa châu Âu, điều quan trọng là phải có được khuôn khổ ổn định, rõ ràng, dự đoán được chứ không phải chịu ảnh hưởng từ những sự kiện, những “rối loạn” gây bất ổn. Khi người ta đầu tư, nhất là ở nước ngoài, đó là những khoản tiền khá lớn, cần nhiều năm mới khấu hao được đầu tư, vì thế có được niềm tin như vậy là điều rất quan trọng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch phụ trách Chính sách tại Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam EuroCham.
Ngày 19/02/2025, Việt Nam tinh giản bộ máy Nhà nước, từ 18 bộ xuống còn 14 bộ và từ 4 cơ quan ngang bộ xuống 3. Tiếp theo là sáp nhập tỉnh thành, sẽ phải hoàn tất trước ngày 30/08 và đi vào hoạt động từ tháng 09. “Cuộc cách mạng” hành chính cho phép Việt Nam nâng vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu trong bối cảnh từ năm 2018, Việt Nam được coi là nước hưởng lợi chính từ việc dịch chuyển chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc. Việc tinh gọn bộ máy được Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu - EuroCham, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, đánh giá là tiền đề để Việt Nam thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó khẳng định vị thế là trung tâm đầu tư của Đông Nam Á. Hoạt động từ năm 1998, EuroCham hiện là một trong những hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với hơn 1.400 thành viên sử dụng hơn 150.000 lao động.Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 06/03/2025, phó chủ tịch Jean-Jacques Bouflet phụ trách Chính sách EuroCham đề cao quyết tâm của chính quyền Việt Nam nhưng ông cũng lưu ý cần phải khẩn trương và tiến hành một cách hiệu quả.RFI : Việt Nam tiến hành tinh giản bộ máy Nhà nước, được coi là "cuộc cách mạng lần thứ hai". Phòng Thương mại Châu Âu (EuroCham) và các thành viên đánh giá biện pháp cải cách này như thế nào ? EuroCham và các thành viên được thông tin như thế nào về những thay đổi mà quá trình này mang lại ?Phó chủ tịch EuroCham Jean-Jacques Bouflet : Các doanh nghiệp tiếp đón thông tin tương đối tích cực. Chúng tôi cũng tiến hành một cuộc điều tra, được gọi là “chỉ số tin tưởng” của các doanh nghiệp (BCI), và nhìn chung cam kết của chính phủ được coi là một bước theo hướng tốt. 43% trên tổng số các doanh nghiệp thuộc Liên Hiệp Châu Âu cho rằng về lâu dài thủ tục hành chính sẽ được đơn giản hóa, trong đó có việc thông qua các nền tảng kỹ thuật số và nhất là qua việc tinh giản bộ máy hành chính đang diễn ra. Tuy nhiên, 36% thành viên trong EuroCham vẫn bày tỏ quan ngại về những chậm trễ có thể xảy ra trong quá trình chuyển tiếp. Nhưng chúng ta cứ giữ lạc quan xem sao !Chúng tôi được thông tin như nào ư ? Chúng tôi có được ưu ái là có một buổi làm việc với thủ tướng Việt Nam ngày 02/03. Có hơn 50 người tham gia, trong đó có đại sứ Liên Hiệp Châu Âu, cũng như đại sứ nhiều nước thành viên. Chúng tôi đối thoại với thủ tướng Phạm Minh Chính cùng hai phó thủ tướng và rất nhiều bộ ngành liên quan. Ông Chính đã trình bày về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính để kích thích đầu tư vì đây là mục tiêu chính của cuộc cải cách. Sau buổi họp đó, EuroCham đã tổ chức nhiều sự kiện để thông tin đến các thành viên. Có thể thấy là cho đến nay đã có nhiều ý tưởng. Dĩ nhiên là sẽ còn phải chờ xem thực tế liệu những chủ trương đó có biến thành những cải cách cụ thể hay không. Nhưng dù sao cũng đã có ý tưởng.RFI : Sau khi cải cách được thông báo, cũng như sau cuộc họp với thủ tướng Việt Nam thì EuroCham trông đợi cụ thể điều gì ?Ông Jean-Jacques Bouflet : Điểm chính của cuộc cải cách là giảm đáng kể số lượng bộ. Nhiều bộ đã được hợp nhất, ví dụ bộ Nông Nghiệp và Môi Trường, điều này cho thấy một bước đi và mong muốn đi theo hướng quá độ và chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam, hoặc ví dụ bộ Kế Hoạch Đầu Tư được gộp vào bộ Tài Chính. Tôi nhớ không nhầm là từ 18 bộ xuống còn 14 bộ. Có thể thấy mong muốn tinh giản bộ máy Nhà nước và mặt khác chính phủ cũng tìm cách phi tập trung hóa, có nghĩa là một phần các thủ tục hành chính sẽ được áp dụng ở cấp địa phương, tại các tỉnh với khoảng 60 tỉnh ở Việt Nam, và điều này sẽ cho phép chúng tôi tiếp cận gần với các nhà ra quyết định hơn.Nói tóm lại, mục đích của đợt tinh giản bộ máy Nhà nước là giảm bớt thủ tục hành chính, khoảng 30% toàn bộ thủ tục, và thúc đẩy việc áp dụng để đẩy nhanh chính những thủ tục đó. 30% là con số ấn tượng nên chúng tôi đầy hy vọng. RFI : Cuộc cải cách này là một điều kiện tiên quyết để Việt Nam thu hút đầu từ nước ngoài. Nhìn từ các nhà đầu tư nước ngoài, ví dụ các thành viên của EuroCham, cần phải có những điều kiện nào khác để Việt Nam có thể khẳng định vị trí trung tâm đầu tư ở Đông Nam Á như tham vọng của chính phủ Việt Nam ?Ông Jean-Jacques Bouflet : Như tôi đề cập ở trên, điều mà EuroCham trông đợi, cũng là điều kiện chính đối với chúng tôi, để kích thích đầu tư của châu Âu vào Việt Nam, vẫn là giảm thủ tục hành chính, chấm dứt những phức tạp, chồng chéo và phân chia rải rác giữa các bộ ngành, cơ quan ở cấp trung ương cũng như địa phương. Nhiều khi cứ như lạc vào rừng rậm, thủ tục tích tụ, chồng chéo và phải vượt qua một số ngưỡng. Vì vậy cuộc cải cách này thực sự là cần thiết.Ngoài ra, như chúng ta đã biết, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu đã ký Hiệp định Tự do Thương mại và đang trong giai đoạn triển khai. Chúng tôi cũng mong giai đoạn này triển khai này giúp giải phóng thực sự điều kiện thâm nhập thị trường, cũng như hoạt động của các doanh nghiệp châu Âu được kết trái từ đầu tư vào Việt Nam. Về điểm này, tiếc là chúng tôi vẫn chưa nhận được sự phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư vì hiệp định này phải qua hai vòng phê chuẩn của Liên Hiệp Châu Âu và của các nước thành viên. Hiện giờ vẫn còn khoảng 10 nước thành viên chưa phê chuẩn.Còn về bản thân Hiệp định Tự do Thương mại, điều quan trọng là hiệp định phải được áp dụng triệt để và theo đúng tinh thần. Có nghĩa là cần phải tránh để việc giảm thuế quan bị vi phạm hoặc bị bù lại bằng cách tăng thuế ở trong nước đối với sản phẩm đó hoặc bằng các rào cản kỹ thuật cho trao đổi thương mại.RFI : Các thành viên EuroCham đầu tư vào những lĩnh vực nào ở Việt Nam hiện nay, cũng như xu hướng đầu tư trong tương lai ? Ông Jean-Jacques Bouflet : EuroCham đại diện cho toàn bộ các doanh nghiệp châu Âu, ở cấp độ Liên Hiệp Châu Âu, do đó, lĩnh vực hoạt động của chúng tôi rất rộng. Chỉ riêng nội bộ EuroCham đã có khoảng 20 ủy ban chuyên ngành, từ dược phẩm, nông nghiệp, đến rượu vang, rượu mạnh hoặc điện tử cho nên mảng hoạt động rất rộng, trong lĩnh vực nhập khẩu bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sang Việt Nam, cũng như sản xuất, chiếm một phần quan trọng bởi vì chúng tôi cũng có rất nhiều thành viên sản xuất ở Việt Nam, sau đó tái xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu hoặc sang các thị trường thứ ba.Liên quan đến việc sản xuất ở Việt Nam, lĩnh vực chủ đạo vẫn là đồ điện tử. Việt Nam đang giữ vị trí quan trọng về điểm này, dường như là điện tử giữ vị trí thứ nhất về xuất khẩu, vượt qua cả nông nghiệp. Cho dù châu Âu có thể ít mạnh hơn trong lĩnh vực này ở Việt Nam nhưng còn rất nhiều cơ hội đầu tư.Ngoài ra còn có cả quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tôn trọng môi trường hơn, vẫn được gọi là “Green Deal” và chúng tôi muốn thể hiện và khẳng định ở Việt Nam. Tôi phải nói là về điểm này, Việt Nam đã nắm được phần nào vị trí đầu tầu so với các nước đang phát triển khác trong vùng. Đó là những lĩnh vực mà chúng tôi đầu tư đặc biệt hơn. Chúng tôi có một ủy ban đặc trách “Green Growth” - tăng trưởng xanh - rất năng động. Chúng tôi đối thoại rất nhiều với chính quyền Việt Nam. Việt Nam đang hiện đại hóa lĩnh vực năng lượng bằng cách thúc đẩy các loại hình năng lượng tái tạo, cho dù chúng ta khởi động từ mức khá thấp, và tất cả các doanh nghiệp của chúng tôi tập trung, điều phối với nhau về những lĩnh vực đầy hứa hẹn như này. RFI : Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen dự kiến thăm Việt Nam. Ông có nghĩ là chuyến công du sẽ sớm diễn ra không ? Ông Jean-Jacques Bouflet : Chúng tôi hy vọng bà Ursula von der Leyen sớm đến thăm chúng tôi. Tôi nghĩ Việt Nam là một nhân tố quan trọng cho thương mại quốc tế và cho hợp tác đối tác giữa các nước phát triển như Liên Hiệp Châu Âu và những nền kinh tế mới đang trỗi dậy mạnh mẽ như Việt Nam. Tôi nghĩ là trong thời điểm phần nào xáo trộn như hiện nay, cần phải nhắc lại sự gắn bó vào hệ thống thương mại quốc tế dựa trên khuôn khổ luật pháp rõ ràng, dự đoán được và đa phương, các quy định của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) cũng như Hiệp định Tự do Thương mại như tôi đề cập ở trên. Điều này rất quan trọng ! Đúng là chuyến thăm của bà Ursula von der Leyen sẽ tượng trưng phần nào cho điểm trên. Ngoài ra, cũng đừng quên rằng Việt Nam là thị trường có 100 triệu dân, đó là đất nước có tiềm năng rất lớn và là một nhân tố chủ đạo cho việc phân bổ lao động quốc tế.Ngoài chuyến thăm của chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, chúng tôi cũng mong ủy viên thương mại châu Âu Maroš Šefčovič đến thăm để phát hành "Sách Trắng" mà chúng tôi vẫn soạn thảo hàng năm để trình bày những đề xuất với chính quyền Việt Nam nhằm cải thiện trao đổi và đầu tư giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam. Chúng tôi hy vọng năm nay ông Maroš Šefčovič đứng ra chủ trì buổi lễ này. Có thể thấy là mọi chuyện đang đi vào quy củ với Việt Nam theo chiều hướng năng động được hình thành từ Hiệp định Tự do Thương mại ký vào năm 2019 và phê chuẩn năm 2020 và vẫn đang tiếp tục cho kết quả dù chậm nhưng chắc. Dĩ nhiên cũng phải chú ý đến bối cảnh quốc tế khó khăn hiện nay nhưng tôi tin Liên Hiệp Châu Âu phải tái khẳng định gắn kết với khuôn khổ đa phương dựa trên quy định luật pháp rõ ràng và tin cậy. Bởi vì, đối với các doanh nghiệp châu Âu chúng tôi, ở rất xa châu Âu, điều quan trọng là phải có được khuôn khổ ổn định, rõ ràng, dự đoán được chứ không phải chịu ảnh hưởng từ những sự kiện, những “rối loạn” gây bất ổn. Khi người ta đầu tư, nhất là ở nước ngoài, đó là những khoản tiền khá lớn, cần nhiều năm mới khấu hao được đầu tư, vì thế có được niềm tin như vậy là điều rất quan trọng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch phụ trách Chính sách tại Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam EuroCham.
Chính sách bảo hộ của chính quyền Trump, khiêu chiến với gần như toàn cầu, liệu có đe dọa vị thế của một đơn vị tiền tế quốc tế mà đồng đô la đã chinh phục được từ 80 năm qua? Theo giáo sư Jérôme Héricourt, đại học Evry-Paris Saclay, trước mắt, kể cả đồng euro hay nhân dân tệ, chưa một đơn vị tiền tệ nào sẵn sàng đảm nhiệm vai trò ngoại tê dự trữ cho thế giới. Ngay từ đầu nhiệm kỳ 2, tổng thống Trump liên tục dùng thuế hải quan để uy hiếp các đối thủ và đối tác thương mại. Trung Quốc, Canada và Mêhicô là ba mục tiêu đầu tiên đã bị nhắm tới. Liên Hiệp Châu Âu, Brazil là những nạn nhân tiếp theo trong danh sách đen của Nhà Trắng.Trên nguyên tắc, đến ngày 01/04/2025, các cơ quan của chính phủ liên bang, các bộ phải đệ trình lên tổng thống « kết quả điều tra về các mối quan hệ và hiệp định thương mại của Hoa Kỳ với phần còn lại trên thế giới ». Đây là cơ sở để chính quyền Washington áp dụng chính sách thương mại « chính xác và hiệu quả ». Mỹ cần thu hẹp thâm thủng mậu dịch đã lên tới gần 1.000 tỷ đô la năm ngoái.Nhiều lý do để quốc tế xa lánh đô laTổng thống Trump đã khẳng định « thuế quan » là từ ngữ đẹp nhất trong tự điển và xem đây là vũ khí lợi hại nhất để đánh gục kẻ thù, là công cụ đàm phán hiệu quả nhất để giải quyết mọi vấn đề, kể cả những hồ sơ về địa chính trị hay quân sự. Quan điểm này có khuynh hướng khiến cộng đồng quốc tế « xa lánh đô la ».Thứ nhất là tấm gương của Nga. Do tổng thống Vladimir Putin đưa quân xâm chiếm Ukraina từ 2022, hàng trăm tỷ đô la dự trữ ngoại tệ của Nga bằng đô la ở hải ngoại bị phong tỏa. Trao đổi mậu dịch với Nga bằng đô la đã trở nên vô cùng khó khăn.Lý do thứ hai: chính nhờ đô la là một đơn vị dự tiền tệ dự trữ quốc tế mà Hoa Kỳ có nhiều lợi thế và cả quyền « sinh sát » trong tay. Thí dụ như hồi 2018, trong nhiệm kỳ đầu, tổng thống Trump rút Mỹ ra khỏi hiệp định hạt nhân Iran, tái lập các biện pháp trừng phạt Teheran và cấm tất cả những ai giao thương với Iran làm ăn với Mỹ. Lập tức các tập đoàn của châu Âu vừa bắt đầu hợp tác trở lại với Iran vội vã rút khỏi quốc gia Hồi Giáo này vì biết rằng Washington có thể áp dụng nguyên tắc « ngoài lãnh thổ » cho phép tư pháp Hoa Kỳ truy tố bất kỳ một doanh nghiệp nào trên thế giới không tuân thủ luật pháp của Hoa Kỳ, trong đó có việc sử dụng đô la. Cũng chính vì thế mà lãnh đạo điện Kremlin năm ngoái đã lên án Hoa Kỳ « sử dụng đô la như một vũ khí quân sự ».TT Putin : "Đô la là một vũ khí quân sự của Mỹ"Lý do thứ ba là ngày càng có nhiều tiếng nói trong hàng ngũ các nền kinh tế đang trỗi dậy phản đối thế bá chủ của đô la trên trường quốc tế, đứng đầu là Trung Quốc. Mùa thu năm 2024, trước bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, khối BRICS ( gồm 5 nước thành viên ban đầu là Brazil, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và Nam Phi và nay đã chính thức kết nạp thêm nhiều thành viên mới) « nghiêm túc nghiên cứu khả năng phi đô la hóa ».Mỹ không thể mất quyền sinh sát nhờ đô laLập tức ứng viên tổng thống Cộng Hòa Donald Trump đòi « áp thuế quan 100 % nhắm vào những quốc gia nào dám tách rời khỏi đồng đô la ».Trên thực tế, từ nhiệm kỳ trước của ông Trump và những năm dưới thời chính quyền Biden, Nga, Trung Quốc bắt đầu đi tìm những « giải pháp thay thế đồng đô la » trong các giao dịch song phương với các bạn hàng quốc tế. Ả Rập Xê Út chẳng hạn đã cam kết mở rộng cac khoản giao dịch với Bắc Kinh bằng đồng nhân dân tệ khi xuất khẩu năng lượng cho Trung Quốc.Nguy cơ bất ổn tài chính Ngoài yếu tố căng thằng về địa chính trị, viễn cảnh chính sách thương mại của Donald Trump gây bất ổn cho toàn cầu cũng khiến một phần của thế giới thận trọng hơn với đồng đô la Mỹ.Trả lời RFI Việt ngữ, giáo sư Jérôme Héricourt, thuộc đại học Evry-Paris Saclay, cố vấn khoa học trung tâm nghiên cứu Pháp CEPII, phân tích : « Donald Trump nhậm chức hôm 20/01/2025 trong sự hứng khởi. Mọi người chờ đợi chính quyền mới sẽ giảm thuế, tạo lực đẩy cho các công ty của Mỹ. Hoa Kỳ đứng trước nhiều hứa hẹn tươi sáng về kinh tế. Nhờ vậy, chỉ số chứng khoán đã tăng mạnh, đồng đô la lên giá. Đặc biệt là khi so sánh với Liên Hiệp Châu Âu thì viễn cảnh của khối 27 nước thành viên có nhiều dấu hiệu lo ngại : tăng trưởng đình đốn, xung đột Ukraina ngay sát cạnh kéo dài… Thế rồi ở Nhà Trắng, ông Trump loan báo một loạt các đòn thuế quan, kèm theo đó là sắc lệnh trục xuất người nhập cư bất hợp pháp. Cả hai biện pháp này có khuynh hướng đẩy lạm phát ở Hoa Kỳ lên cao. Giới tài chính dự trù Mỹ bị lạm phát và trong trường hợp đó, Ngân Hàng Trung Ương sẽ phải tăng lãi suất chỉ đạo. Hậu quả kèm theo là đô la lại càng có giá hơn nữa so với ngoại tệ khác.Thực tế cho thấy là từ gần hai tháng qua, chính quyền Trump tuyên chiến với hết nước này đến nước khác để rồi lại tạm ngưng áp dụng các biện pháp mạnh tay đó trong một vài tuần… Những tuyên bố gần như hàng ngày của lãnh đạo Nhà Trắng về thuế quan gây bất ổn cho thương mại toàn cầu và ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế Mỹ. Chỉ số S&P500 trượt giá hơn 5 %. Donald Trump đổi ý như chong chóng và chính sách của ông rất khó lường. Đó là điều giới đầu tư chứng khoán tối kỵ. Thị trường tài chính cũng như đô la mất giá. Đô la mất giá so với đồng euro của châu Âu chẳng hạnChi nhánh của Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ ở Atlanta vừa hạ dự báo tăng trưởng cho quý 1 năm 2025 và thậm chí chờ đợi là GDP của Hoa Kỳ trong ba tháng đầu năm bị sụt giảm. Đây là một sự điều chỉnh quá đột ngột vì cách nay không lâu, cũng định chế này dự báo GDP của Mỹ trong quý 1 tăng hơn 2 %. Hai yếu tố giải thích cho sự thay đổi nói trên : cán cân thương mại của Hoa Kỳ trong thời gian qua bị thâm hụt nặng hơn, tiêu thụ nội địa sụt giảm. Một chính sách kinh tế bất định cộng thêm với các chỉ số không mấy khả quan về tình trạng kinh tế của Hoa Kỳ khiến đô la bị mất giá. Trong khi đó thì châu Âu lại có những thông báo chuẩn bị ồ ạt đầu tư thêm hàng trăm tỷ euro để tái vũ trang… ».Cơ hội lớn cho nhân dân tệ của Trung Quốc ?Chính sách thuế quan của Washington liệu có thể làm suy yếu uy tín của đồng đô la và qua đó tăng thêm cơ hội cho đồng nhân dân tệ của Trung Quốc trở thành một đơn vị dự trữ của thế giới hay không ?Chuyên gia về tiền tệ đại học Evry-Paris Saclay Jérôme Héricourt trả lời là không: « Phi đô la hóa đơn giản là khi vị trí của đồng đô la trong hệ thống kinh tế, tài chính quốc tế bị thu hẹp lại. Đô la hiện tại là đơn vị tiền tệ quốc tế và đã chinh phục được vị trí này từ sau Thế Chiến Thứ Hai nhờ Hoa Kỳ trở thành nền kinh tế số 1 toàn cầu. Hiện tại đô la Mỹ thống lĩnh kinh tế, thương mại và tài chính trên thế giới. Nếu bị mất ưu thế này, đồng tiền của Mỹ sẽ không còn là một phương tiện dự trữ giá trị, không còn là đơn vị thanh toán phổ biến nhất trong các hoạt động giao thương quốc tế. Trở lại câu hỏi, chính sách của Donald Trump có khiến mọi người xa lánh đô la, và liệu rằng một đơn vị tiền tệ nào khác có thể soán ngôi của đồng tiền Mỹ hay không ? Tôi cho là trong ngắn hạn, câu trả lời là không. Chỉ cần nhìn vào cấc thống kê về kinh tế vĩ mô trong hai thập niên đầu thế kỷ 21, chúng ta thấy ngay vị thế áp đảo của đô la. Tại Châu Mỹ, 87 % giao thương được thanh toán bằng đô la ; tỷ lệ này là 75 % tại khu vực Châu Á -Thái Bình Dương và là 80 % tại phần còn lại trên thế giới. Riêng Liên Âu nhờ có đồng euro nên 2/3 giao thương của châu lục này được thành toán bằng đồng tiên chung châu Âu. Trong lĩnh vực ngân hàng, 60 % các khoản tín dụng được cấp bằng đô la và khi mà một quốc gia nào đó phat hành công trái phiếu bằng ngoại tệ, thì 70 % là công trái phiếu được phát hành bằng đô la. Cần nói thêm là 88 % các khoản giao dịch ngoại tệ sử dụng đô la. Cho tới nay, đông tiền Mỹ chiếm 58 % dự trữ ngoại tệ trên toàn cầu ».Cơ hội lớn cho nhân dân tệ của Trung Quốc ?Giáo sư Héricourt không tin đây là cơ hội để đồng tiền Trung Quốc thay thế vai trò của đô la : « Thành thử câu hỏi đặt ra là trong hoàn cảnh đó, liệu có đơn vị tiền tệ nào đủ sức cạnh tranh để thay thế đồng đô la ? Thử hỏi hiện tại có đơn vị tiền tệ nào hội đủ các điều kiện của một đồng tiền quốc tế, có nghĩa vừa là một phương tiện trao đổi được chấp nhận rộng rãi trong các khoản giao dịch quốc tế, vừa là một thước đo để tính toán giá trị của hàng hóa- dịch vụ, vừa là một phương tiện dự trữ giá trị. Đồng tiền chung châu Âu được sử dụng từ 25 năm nay vẫn không đủ sức đảm nhiệm vai trò này – euro thành công trên nhiều phương diện khác, nhưng để trở thành một đồng tiền quốc tế như đô la thì không. Chúng ta có thể nghĩ đến đồng nhân dân tệ Trung Quốc hay không ? Cũng có thể, bởi vì Trung Quốc hiện nay là một cường quốc kinh tế của thế giới. Dù vậy đồng tiền của Trung Quốc không phải là một phương tiện được trao đổi tự do trên trường quốc tế. Bắc Kinh muốn kiểm soát các luồng vốn thanh toán bằng nhân dân tệ. Ngày nào mà Trung Quốc còn chưa sẵn sàng để đồng tiền quốc gia được tự do trao đổi trên trường quốc tế, thì chưa thể nói là đồng nhân dân tệ sẽ lấp vào chỗ trống của đô la. Tôi không tin là Trung Quốc sẽ chóng thay đổi để nhân dân tệ được sử dụng như một phương tiện thanh toán trong các hoạt động thương mại, tài chính… Trong ngắn hạn tôi không tin đồng tiền Trung Quốc là một đối thủ có thể cạnh tranh với đô la Mỹ ». Với hơn một chục nhà tỷ phú Mỹ đang cố vấn cho Nhà Trắng trên hồ sơ kinh tế hoặc trực tiếp tham gia nội các Donald Trump (bản thân tổng thống Hoa Kỳ cũng là một nhà tỷ phú dù đã 6 lần suýt phá sản), khó có thể tin rằng Washington dễ chấp nhận để mất đi các lợi thế của đô la trên bàn cờ quốc tế cả về mặt tài chính lẫn thương mại.Không có đồng đô la, Mỹ không thể nào có thể ngồi trên một núi nợ công 36.000 tỷ đô la mà gần ¼ là do các chủ nợ ngoại quốc nắm giữ. Không có đô la, Hoa Kỳ cũng sẽ không thể giữ được ổn định tài chính, tiếp tục thống trị hệ thống tiền tệ quốc tế.
Cuộc chiến tại sườn đông châu Âu kéo dài từ ba năm qua, khiến những trẻ em mồ côi cha mẹ, những thường dân phải đối mặt với tiếng bom đạn hàng ngày, khiến hàng triệu người phải bỏ nhà bỏ cửa, rời khỏi Ukraina đi lánh nạn, gây ra những vết thương tâm lý, dù là những binh lính trên chiến tuyến hay những người tị nạn xa xứ. Nhiều người đã tìm đến trị liệu bằng nghệ thuật, để “chữa lành” những thương tổn tâm lý đó. Tại Ukraina, có một “cơn lốc tội lỗi”, theo nhận định của nhà làm phim Iryna Tsilyk, được báo Anh The Guardian trích dẫn: “Mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy tội lỗi. Những người rời khỏi đất nước cảm thấy tội lỗi với những người ở lại. Những người ở lại nhưng sống ở hậu phương, cảm thấy tội lỗi với quân đội. Quân đội có tội lỗi riêng, họ cảm thấy tội lỗi với những người anh em của họ, những người có những cấp độ kinh nghiệm khác nhau.” Những người sống sót cảm thấy tội lỗi khi đồng đội bị giết nhưng mình thoát chết, không hề hấn gì. Có những người cảm thấy tội lỗi vì không “làm đủ” để giúp nỗ lực chiến tranh.20 % dân số Ukraina có nguy cơ gặp vấn đề về sức khỏe tinh thầnTheo Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO), trong số những người trải qua chiến tranh hoặc xung đột, thì 22 % sẽ mắc chứng trầm cảm, lo âu, rối loạn căng thẳng sau chấn thương, rối loạn lưỡng cực hoặc tâm thần phân liệt. WHO ước tính có khoảng 9,6 triệu người ở Ukraina (gần một phần tư dân số Ukraine) có thể có vấn đề về tình trạng sức khỏe tâm thần.Theo bộ Giáo dục và Khoa học Ukraina, được Reuters trích dẫn, nếu trong những ngày đầu cuộc chiến, thách thức lớn nhất là làm sao bảo đảm an toàn cho người dân trước những đợt tấn công của Nga, thì nhu cầu hỗ trợ tâm lý cho giáo viên và học sinh dần tăng mạnh vào năm 2023. Hơn 50.000 trẻ em Ukraina đã tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp về các vấn đề sức khỏe tâm thần.Tại một số bệnh viện ở Ukraina, hay trong các trung tâm tiếp đón những người phải di tản vì chiến tranh, hiệp hội ART THERAPY FORCE, sử dụng các liệu pháp nghệ thuật để hỗ trợ sức khoẻ tinh thần, tâm lý và cảm xúc, cho những cựu chiến binh.Tổ chức phi chính phủ DTCare cũng đã triển khai chương trình trị liệu nghệ thuật tại Odesa, Ukraina, cùng với Quỹ từ thiện của Hải quân Ukraina dành cho cựu chiến binh và gia đình của họ, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ.Nhiều sáng kiến chữa trị, hỗ trợ tâm lý khác cũng đã được khởi xướng. Tại Kiev, theo tường trình của RFI tiếng Ukraina, dự án "Support Paw" hỗ trợ cho trẻ em bị tổn thương do chiến tranh, với phương pháp trị liệu bằng thú cưng giúp trẻ em thích nghi và giao lưu thông qua trò chơi và đọc sách, bên cạnh sự đồng hành thú cưng, biến những chú chó thành bác sĩ tâm lý (canisterapy). Sunny là tên của một chú chó berger Úc, đã “hành nghề” trị liệu tâm lý cho trẻ em từ hơn sáu tháng qua. Để đảm nhận vị trí này, Sunny trước đó phải tham gia các khoá đào đạo đặc biệt. Hiện Sunny, chơi đùa, đọc sách cùng trẻ trong một hiệu sách ở thủ đô Ukraina. Bà Maryna Prokopenko, lãnh đạo của trung tâm trị liệu bằng thú cưng InNikos cho biết : “Ban đầu, những đứa trẻ này vui đùa với chú chó, cùng làm các động tác khác nhau, ra lệnh, huấn luyện chúng, và ngồi xuống đọc sách với chúng.” Một buổi trị liệu bằng thú cưng kéo dài vài giờ. Trẻ em, lần lượt đọc sách cùng những chú chó. Sách loại nào không quan trọng, mà quá trình mới quan trọng. Theo những người tổ chức, việc đọc to giúp trẻ em thư giãn. Sự kiện như vậy, lần đầu tiên được tổ chức ở hiệu sách này vào ngày 4/02. Ban tổ chức cho biết sẽ duy trì hoạt động này vào mỗi thứ Ba hàng tuần, mở cửa miễn phí cho tất cả mọi người.Đọc sách với chó cũng giúp những đứa trẻ phải di tản vì chiến tranh, có thể tìm bạn mới, và cảm thấy là thành viên của cộng đồng. Bà Hanna Khomenko, đồng sáng lập tổ chức « Children of Heroes », cho biết : “Đó là những đứa trẻ mồ côi cha hoặc mẹ, hoặc cả hai do chiến tranh. Tại Ukraina, hiện chúng tôi phụ trách hỗ trợ khoảng 13 000 đứa trẻ. Gần 9 000 gia đình đã mất ít nhất một người thân”.Rối loạn tâm lý do chiến tranhTrong khi trẻ em tại Kiev, thường xuyên phải nghe tiếng còi báo động phòng không, thì gần chiến tuyến, hầu hết các trường học đóng cửa vì lo ngại về an toàn, theo Reuters, có nghĩa là từ ba năm qua, lũ trẻ hiếm khi được gặp bạn bè của chúng. Bà Katerina Timakina, sáng lập tổ chức Sane Ukraine hỗ trợ giáo viên về mặt tâm lý, cho rằng “đây là một vấn đề lớn mà chúng ta sẽ phải đối mặt trong tương lai vì thế hệ trẻ em này đã không có các tương tác với bên ngoài, nghĩa là giao tiếp, giao lưu, thích nghi với thói quen trong 3 năm, phải đối mặt với chứng rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý và rối loạn phát triển hậu chấn thương tâm lý vì chiến tranh”.Vào năm 2022, bộ Y Tế Ukraina ước tính hơn 90% người dân Ukraina có ít nhất một trong các triệu chứng của chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD). Vào năm 2023, bộ này cho biết có tới 4 triệu trẻ em có thể cần được hỗ trợ tâm lý để đối phó với những chấn thương của cuộc xâm lược do Nga tiến hành.Tổ chức DTCare nêu ra vấn đề chăm sóc sức khoẻ tâm thần tại nước Liên Xô cũ. Dưới sự kiểm soát của Matxcơva trước khi Liên Xô sụp đổ, những người phản đối chế độ bị gắn mác là 'bệnh tâm thần' và bị giam giữ trong các bệnh viện tâm thần. Hệ thống chăm sóc y tế tại Ukraina cũng tồn tại nhiều bất cập do thiếu lòng tin, thiếu hiểu biết và nhận thức về vấn đề sức khoẻ tâm ký, sợ kỳ thị và xấu hổ, khiến mọi người ngại ngần tìm sự giúp đỡ y tế.Neil Greenberg, giáo sư sức khỏe tâm thần quốc phòng tại trường đại học King's College ở London, được AP trích dẫn, đã đào tạo trực tuyến cho quân đội Ukraina về cách xử lý các dấu hiệu tổn thương tâm lý. Theo ông Greenberg, “không giống như những người lính đã chiến đấu ở Afghanistan hoặc cho quân đội Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam, những người lính Ukraina đang chiến đấu tại quê hương của họ, với sự ủng hộ rõ ràng của công chúng, một kẻ thù rõ ràng và các mục tiêu và lý do chính đáng vững chắc, và điều này có thể giúp giảm bớt hậu quả về sức khỏe tinh thần cho các cựu chiến binh Ukraina.”Trị liệu bằng nghệ thuật dưới góc nhìn từ những người tị nạnĐối với những người Ukraina phải xa xứ vì chiến tranh, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em và người cao tuổi,( ước tính lên đến 6 triệu người kể từ đầu cuộc xung đột), liệu pháp nghệ thuật cũng được coi là một biện pháp hỗ trợ tâm lý, khi phải xa xa gia đình, để lại người thân ở Ukraina, mà chồng của một số người phải ở lại, gia nhập quân đội chống Nga. Cô Angela Itskovych cùng con trai rời Ukraina đến lánh nạn tại Pháp từ năm 2022, và nhận được quy chế bảo hộ tạm thời của châu Âu. Cho đến nay, ký ức về ngày đầu cuộc chiến nổ ra như thế nào, phải rời khỏi Ukraina trên chiếc xe chật ních người, sang đến Đức rồi đến Pháp ra sao, vẫn hiện rõ trong tâm trí cô. Cùng với một nhóm phụ nữ Ukraina khác tại Pháp, vào tháng 12/2022, cô đã mở một lớp nhảy, hỗ trợ tâm lý cho những phụ nữ Ukraina khác có cùng hoàn cảnh.Trả lời RFI Việt ngữ, Angela cho biết : "Lúc đầu, hoạt động này giúp chúng tôi tạo một cộng đồng của riêng mình. Khi nhảy cùng nhau, chúng tôi cảm thấy gần gũi hơn, trải qua nhiều thời gian cùng nhau, và dần dần coi nhau như gia đình. Điều quan trọng nhất với chúng tôi là làm sao thích ứng được cuộc sống ở đây, để hiểu hoàn cảnh của chính mình, để hiểu cách những người khác, nhìn thấy chúng tôi ra sao, và cho phép chúng tôi chia sẻ những câu chuyện ẩn giấu sâu bên trong.Tại sao lại nhảy ? Vì có những chủ đề không thể nói ra, vì những phụ nữ này đến từ những thành phố khác nhau của Ukraina, một số đã phải chứng kiến những cảnh không thể tưởng tượng được và rất khó để hiểu, để kể chuyện gì đã xảy ra. Hầu hết chúng tôi ai cũng mang theo trẻ con, đi tị nạn. Việc di chuyển trong các điệu nhảy khác nhau khiến chúng tôi dễ dàng bày tỏ bằng các chuyển động của cơ thể, và sau đó có thể giãi bày dễ dàng hơn, cởi mở hơn. Nhảy giúp chúng tôi chữa lành về mặt tâm lý, không cảm thấy bị đóng băng ở bên trong và cở mở hơn”. Lớp nhảy trị liệu - Dance Therapy, do cô Angela khởi xướng, ban đầu chỉ là một hoạt động tự phát, nhưng dần dần đã thu hút được hơn 200 phụ nữ Ukraina từ khắp nước Pháp tham gia, đủ mọi lứa tuổi. Đó là những phụ nữ di tản từ Kiev, Odessa, Dnirpo, Lviv, mỗi người có một hành trình câu chuyện riêng. Hiện cô Angela cũng đã đăng ký để lớp nhảy của mình trở thành một hiệp hội, không chỉ hỗ trợ cho cộng đồng tị nạn Ukraina tại Pháp, mà cả những người tị nạn quốc tịch khác khác tại Pháp và cũng mở cửa cho tất cả công chúng Pháp tại muốn thử.Cô Anastasia, một trong những người tham gia vào hoạt động này chia sẻ : “ Nếu là một người tị nạn, thì thường sẽ nghĩ rằng mình là nạn nhân và phải vượt qua hoàn cảnh đó. Việc kết nối với những người từ các nước khác trong lớp nhảy này , những người Pháp và những người khác, khiến tôi bắt đầu thấy họ như là những người bình đẳng chứ không phải những người đến giúp đỡ, cứu vớt chúng tôi, và chúng tôi là nạn nhân… Bởi trước kia, tôi từng nghĩ mình là nạn nhân và mắc trầm cảm vì suy nghĩ đó. Khi nhảy, lúc lăn bò xuống sàn, thực hiện những động tác kỳ lạ cùng với nhau, tôi cảm thấy cởi mở hơn với mọi người, và khi đi ra khỏi phòng nhảy, tôi có thể làm những thứ mà trước kia tôi rất sợ, ví dụ như là trả lời phỏng vấn từ nhà báo, kể câu chuyện của mình. Và tôi thấy rằng thế giới vẫn rộng mở với tôi, quan trọng là tôi vẫn còn sống”. Ban đầu lớp nhảy được tổ chức theo tuần, với sự hỗ trợ của một bác sĩ tâm lý và một giáo viên dạy nhảy, nhưng sau đó dần phát triển thành một dự án hỗ trợ tâm lý cho những phụ nữ Ukraina qua những khoá nhảy có chủ đề, với một dự án làm phim tài liệu.Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả của liệu pháp nghệ thuật trong việc giảm các triệu chứng lo âu, căng thẳng và trầm cảm lên đến 73% và xu hướng tự hủy hại bản thân ở thanh thiếu niên giảm xuống 54%. Đối với cựu chiến binh, liệu pháp nghệ thuật đã cho thấy sự cải thiện 50% đối với các triệu chứng của Rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD).
Ngày 15/01/2025, thủ tướng Phạm Minh Chính đã thông báo mục tiêu của Việt Nam là “hướng tới việc xây dựng xong Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận trong 5 năm”, tức là 2030. Theo ông Phạm Minh Chính, yêu cầu cấp bách này là “để hướng tới năm 2030 kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng”, Việt Nam sẽ có nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, “góp phần đáp ứng nhu cầu điện sạch”, nhất là với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 2 con số, tăng trưởng điện theo dự báo “phải tăng từ 15-18%”. Vào năm 2009, Quốc Hội Việt Nam đã từng phê duyệt kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận, với tổng cộng 4 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất 4.000 MW. Nhưng một phần do những quan ngại từ tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 và một phần do khó khăn về ngân sách vào thời gian đó, vào năm 2016, Việt Nam đã phải quyết định ngưng dự án này lại. Nay, để bảo đảm an ninh năng lượng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn thực hiện được cam kết về chống biến đổi khí hậu, Việt Nam phải quay trở lại với các dự án điện hạt nhân.Nhưng trong khoảng thời gian 5 năm, khá ngắn ngủi, liệu Việt Nam có đủ khả năng để hoàn thành việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên? Trả lời RFI Việt ngữ ngày 22/01/2025, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nguyên tử Đà Lạt, không tin vào khả năng đó:"Xây nhà máy điện hạt nhân, nhất là với các lò phản ứng cở trên 1.000 MW, là rất phức tạp, phải qua rất nhiều công đoạn, các cọc mốc. Đầu tiên là có đối tác đưa hợp đồng cho mình; gần như là nói rất rõ là lò phản ứng loại gì, công suất bao nhiêu, tác động đến môi trường như thế nào v.v…, nhất là kinh phí để xây dựng. Nếu ta đồng ý thì có thể ký hợp đồng để khởi công.Từ khi ký hợp đồng khởi công đó cho đến lúc nhà máy chạy, phát điện được thường phải mất từ 7 đến 10 năm. Trước khi có mốc đầu tiên đó thì phải có giai đoạn chuẩn bị. Giống như là xây một cao ốc, trước hết phải xây các cọc để chống đỡ. Theo tổng kết của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, phải có đủ 19 cọc, không thiếu cái nào. Cho nên, mọi việc ở đây là rất phức tạp, chứ không đơn giải như thế.Như hiện trạng của Việt Nam, cho đến lúc khởi công thì phải mất từ 3 đến 5 năm. Từ khởi công cho đến phát điện phải mất từ 7 đến 10 năm. Hiện nay, Rosatom của Nga đã xây dựng các nhà máy điện hạt nhân như thế ở rất nhiều nước. Ở châu Âu, họ xây cho Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, sang đến Ai Cập, ở châu Á thì có Bangladesh. Tình trạng tương đối giống Việt Nam chính là Bangladesh, tức là không giàu có gì lắm và nhân lực thì đại khái là như vậy.Bangladesh bắt đầu khởi công là cuối 2017, đến nay là 2025 , tức là 8 năm xây dựng, vẫn chưa phát điện được. Tương tự như thế ở Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ. Rosatom của Nga xây hết, công suất là trên 1.200 MW. Nga hiện nay là nước xuất khẩu điện hạt nhân lớn nhất thế giới và chất lượng lò phản ứng của Rosatom xây cho các nước đó rất là tốt. Phải đạt được một số cọc mốc đã, mà cọc mốc đầu tiên để từ đó khởi công công trình cho đến khi có điện thì phải mất ít nhất là 7 năm. Cơ sở hạ tầng là chính, rồi vấn đề quản trị kinh doanh, vấn đề môi trường của địa điểm xây nhà máy và nhất là hệ thống pháp quy. Chúng ta có hệ thống pháp quy hạt nhân để dùng cho các ứng dụng nhỏ, các ứng dụng chất phóng xạ và ion hóa thôi, nhưng chúng ta chưa có hệ thống pháp quy hạt nhân cho nhà máy điện hạt nhân. Có pháp quy ấy rồi, thì phải có những người đứng đầu pháp quy ấy. Cái đó còn khó khăn hơn nữa. Nói tóm lại, nói trong 5 năm nữa, tức năm 2030, sẽ có điện hạt nhân, theo tôi là phi lý."Về nhân lực, theo chính phủ, Việt Nam hiện đã có một đội ngũ khoảng 400 người trong lĩnh vực điện hạt nhân, nhưng dĩ nhiên là để có thể vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, phải gấp rút đào tạo thêm nhân lực. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các cơ quan xác định rõ nhu cầu đào tạo và báo cáo, đề xuất ngay cho chính phủ. Về điểm này, giáo sư Phạm Duy Hiển nhấn mạnh:"Nhân lực để vận hành nhà máy thì đối tác phải có trách nhiệm đào tạo. Trong quá trình xây dựng 7, 8 năm như thế, mỗi năm đào tạo vài chục thì như thế cũng đủ. Nhưng vấn đề chính của nhân lực, đó chính là những người đứng đầu các cơ quan pháp quy để xét duyệt những cái họ đưa ra cho mình, thì không có.Việt Nam trước đây cũng biết như thế, cho nên ngay từ năm 2011, Nga đã đề nghị với Việt Nam là muốn có một nguồn nhân lực chủ chốt như thế, thì phải xây một trung tâm hạt nhân, với một lò phản ứng công suất tương đối lớn. Chúng ta đã vào cuộc rồi, mười mấy năm nay, trung tâm ấy đã được chọn địa điểm ở Đồng Nai, nhưng cho tới nay vẫn chưa khởi công được. Nhân lực trình độ cao phải qua rèn luyện, đào tạo trong nước, còn nhân lực để vận hành nhà máy thì phía đối tác phải lo.Ở đây, vấn đề khác nhau ở chổ: ta xây dựng và vận hành nhà máy hạt nhân với tư cách gì? Với tư cách là một người chủ quản, chứ không phải với tư cách một người mà họ nói thế nào thì nghe thế ấy. Cái đó là rất nguy hiểm.Tôi nhấn mạnh một lần nữa: Phải vận hành với tư cách người chủ quản của nhà máy, tức là phải làm chủ hoàn toàn, mà muốn như thế thì phải có đủ hệ thống pháp quy và đồng thời phải có những người thật giỏi để điều hành hệ thống pháp quy đó."Về nhiệm vụ chuẩn bị cơ sở hạ tầng, thủ tướng Phạm Minh Chính giao cho tỉnh Ninh Thuận làm chủ đầu tư, kêu gọi hợp tác công tư, thu hút đầu tư để khai thác dân dụng sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận), đồng thời ông yêu cầu chính quyền tỉnh này thực hiện việc giải tỏa để lấy đất xây nhà máy điện hạt nhân..Địa điểm chọn đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 thuộc xã Vĩnh Hải và Phước Dinh (tỉnh Ninh Thuận) “trước đây đã được các đơn vị tư vấn trong và ngoài nước khảo sát, đánh giá kỹ”.Hiện chưa biết là Việt Nam sẽ xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên với sự trợ giúp của nước nào. Về hợp tác quốc tế thì thủ tướng Phạm Minh Chính hôm 15/01 chỉ cho biết là Việt Nam sẽ hợp tác với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA).Nhưng có một sự trùng hợp về thời điểm đáng chú ý, đó là, nhân chuyến thăm Việt Nam của thủ tướng Nga Mikhail Mishustin vào giữa tháng 1 vừa qua, Việt Nam và Nga vừa ký một thỏa thuận hợp tác về năng lượng hạt nhân Khi hội kiến thủ tướng Phạm Minh Chính, tại Hà Nội ngày 13/01/2025, tổng giám đốc tập đoàn năng lượng hạt nhân Rosatom của Nga, ông Alexey Likhachev, cho biết Rosatom sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy điện hạt nhân, thành lập trung tâm hạt nhân mới, chuyển giao công nghệ, nội địa hóa sản phẩm hạt nhân và phát triển khoa học cũng như công nghiệp hạt nhân “với tầm nhìn lâu dài lên đến hàng trăm năm.” Như vậy; phải chăng đối tác chính của Việt Nam trong dự án xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên sẽ là Nga? Giáo sư Phạm Duy Hiển ghi nhận:"Khi anh xây với một đối tác nào rồi, thì anh sẽ tiếp tục làm việc với đối tác đó. Vì Việt Nam sẽ tiếp tục thiếu điện và để có thể đạt được mục tiêu netzero năm 2050, nên ta sẽ phải xây không chỉ 1 lò 1.200 MW, mà phải xây nhiều lò. Đối tác đó phải là đối tác có thể giúp chuyển giao công nghệ cho Việt Nam. Cho nên việc chọn đối tác là rất quan trọng.Cả Nga và Nhật đều đã hứa làm nhà máy điện ở hai huyện của tỉnh Ninh Thuận. Gần đây, thông tin chủ yếu chỉ thấy từ phía Nga, bởi vì thủ tướng Nga và đại điện Rosatom đã sang Việt Nam. Còn phía Nhật thì chưa thấy nói đến chuyện tiếp tục như thế nào.Tôi nghĩ mình đã hứa trước với hai nước đó rồi, thì thế nào Nhật cũng sẽ xây và nếu Nhật xây thì họ cũng sẽ xây lò phản ứng thế hệ 3+ giống Nga."Chính phủ Hà Nội ngày 04/02/205 đã thông báo trong tháng 2 này sẽ thảo luận với các đối tác ngoại quốc về dự án phát triển hai nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam. Các đối tác đó bao gồm Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Mỹ. Theo thông báo của chính phủ, tập đoàn điện lực Việt Nam EVN và tập đoàn dầu khí PetroVietnam đã được chỉ định là các nhà đầu tư cho hai nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Trước đây, nhiều người nghĩ rằng đối với những nước như Việt Nam, xây các lò phản ứng công suất thấp là khả thi hơn, nhưng theo giáo sư Phạm Duy Hiển, do nhu cầu về điện của Việt Nam nay quá lớn và quá cấp bách, Việt Nam bắt buộc phải hướng tới các lò phản ứng thế hệ 3+.
Ngày 15/01/2025, thủ tướng Phạm Minh Chính đã thông báo mục tiêu của Việt Nam là “hướng tới việc xây dựng xong Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận trong 5 năm”, tức là 2030. Theo ông Phạm Minh Chính, yêu cầu cấp bách này là “để hướng tới năm 2030 kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng”, Việt Nam sẽ có nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, “góp phần đáp ứng nhu cầu điện sạch”, nhất là với mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 2 con số, tăng trưởng điện theo dự báo “phải tăng từ 15-18%”. Vào năm 2009, Quốc Hội Việt Nam đã từng phê duyệt kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận, với tổng cộng 4 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất 4.000 MW. Nhưng một phần do những quan ngại từ tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 và một phần do khó khăn về ngân sách vào thời gian đó, vào năm 2016, Việt Nam đã phải quyết định ngưng dự án này lại. Nay, để bảo đảm an ninh năng lượng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn thực hiện được cam kết về chống biến đổi khí hậu, Việt Nam phải quay trở lại với các dự án điện hạt nhân.Nhưng trong khoảng thời gian 5 năm, khá ngắn ngủi, liệu Việt Nam có đủ khả năng để hoàn thành việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên? Trả lời RFI Việt ngữ ngày 22/01/2025, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nguyên tử Đà Lạt, không tin vào khả năng đó:"Xây nhà máy điện hạt nhân, nhất là với các lò phản ứng cở trên 1.000 MW, là rất phức tạp, phải qua rất nhiều công đoạn, các cọc mốc. Đầu tiên là có đối tác đưa hợp đồng cho mình; gần như là nói rất rõ là lò phản ứng loại gì, công suất bao nhiêu, tác động đến môi trường như thế nào v.v…, nhất là kinh phí để xây dựng. Nếu ta đồng ý thì có thể ký hợp đồng để khởi công.Từ khi ký hợp đồng khởi công đó cho đến lúc nhà máy chạy, phát điện được thường phải mất từ 7 đến 10 năm. Trước khi có mốc đầu tiên đó thì phải có giai đoạn chuẩn bị. Giống như là xây một cao ốc, trước hết phải xây các cọc để chống đỡ. Theo tổng kết của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, phải có đủ 19 cọc, không thiếu cái nào. Cho nên, mọi việc ở đây là rất phức tạp, chứ không đơn giải như thế.Như hiện trạng của Việt Nam, cho đến lúc khởi công thì phải mất từ 3 đến 5 năm. Từ khởi công cho đến phát điện phải mất từ 7 đến 10 năm. Hiện nay, Rosatom của Nga đã xây dựng các nhà máy điện hạt nhân như thế ở rất nhiều nước. Ở châu Âu, họ xây cho Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, sang đến Ai Cập, ở châu Á thì có Bangladesh. Tình trạng tương đối giống Việt Nam chính là Bangladesh, tức là không giàu có gì lắm và nhân lực thì đại khái là như vậy.Bangladesh bắt đầu khởi công là cuối 2017, đến nay là 2025 , tức là 8 năm xây dựng, vẫn chưa phát điện được. Tương tự như thế ở Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ. Rosatom của Nga xây hết, công suất là trên 1.200 MW. Nga hiện nay là nước xuất khẩu điện hạt nhân lớn nhất thế giới và chất lượng lò phản ứng của Rosatom xây cho các nước đó rất là tốt. Phải đạt được một số cọc mốc đã, mà cọc mốc đầu tiên để từ đó khởi công công trình cho đến khi có điện thì phải mất ít nhất là 7 năm. Cơ sở hạ tầng là chính, rồi vấn đề quản trị kinh doanh, vấn đề môi trường của địa điểm xây nhà máy và nhất là hệ thống pháp quy. Chúng ta có hệ thống pháp quy hạt nhân để dùng cho các ứng dụng nhỏ, các ứng dụng chất phóng xạ và ion hóa thôi, nhưng chúng ta chưa có hệ thống pháp quy hạt nhân cho nhà máy điện hạt nhân. Có pháp quy ấy rồi, thì phải có những người đứng đầu pháp quy ấy. Cái đó còn khó khăn hơn nữa. Nói tóm lại, nói trong 5 năm nữa, tức năm 2030, sẽ có điện hạt nhân, theo tôi là phi lý."Về nhân lực, theo chính phủ, Việt Nam hiện đã có một đội ngũ khoảng 400 người trong lĩnh vực điện hạt nhân, nhưng dĩ nhiên là để có thể vận hành nhà máy điện hạt nhân đầu tiên, phải gấp rút đào tạo thêm nhân lực. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã yêu cầu Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và các cơ quan xác định rõ nhu cầu đào tạo và báo cáo, đề xuất ngay cho chính phủ. Về điểm này, giáo sư Phạm Duy Hiển nhấn mạnh:"Nhân lực để vận hành nhà máy thì đối tác phải có trách nhiệm đào tạo. Trong quá trình xây dựng 7, 8 năm như thế, mỗi năm đào tạo vài chục thì như thế cũng đủ. Nhưng vấn đề chính của nhân lực, đó chính là những người đứng đầu các cơ quan pháp quy để xét duyệt những cái họ đưa ra cho mình, thì không có.Việt Nam trước đây cũng biết như thế, cho nên ngay từ năm 2011, Nga đã đề nghị với Việt Nam là muốn có một nguồn nhân lực chủ chốt như thế, thì phải xây một trung tâm hạt nhân, với một lò phản ứng công suất tương đối lớn. Chúng ta đã vào cuộc rồi, mười mấy năm nay, trung tâm ấy đã được chọn địa điểm ở Đồng Nai, nhưng cho tới nay vẫn chưa khởi công được. Nhân lực trình độ cao phải qua rèn luyện, đào tạo trong nước, còn nhân lực để vận hành nhà máy thì phía đối tác phải lo.Ở đây, vấn đề khác nhau ở chổ: ta xây dựng và vận hành nhà máy hạt nhân với tư cách gì? Với tư cách là một người chủ quản, chứ không phải với tư cách một người mà họ nói thế nào thì nghe thế ấy. Cái đó là rất nguy hiểm.Tôi nhấn mạnh một lần nữa: Phải vận hành với tư cách người chủ quản của nhà máy, tức là phải làm chủ hoàn toàn, mà muốn như thế thì phải có đủ hệ thống pháp quy và đồng thời phải có những người thật giỏi để điều hành hệ thống pháp quy đó."Về nhiệm vụ chuẩn bị cơ sở hạ tầng, thủ tướng Phạm Minh Chính giao cho tỉnh Ninh Thuận làm chủ đầu tư, kêu gọi hợp tác công tư, thu hút đầu tư để khai thác dân dụng sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận), đồng thời ông yêu cầu chính quyền tỉnh này thực hiện việc giải tỏa để lấy đất xây nhà máy điện hạt nhân..Địa điểm chọn đầu tư dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2 thuộc xã Vĩnh Hải và Phước Dinh (tỉnh Ninh Thuận) “trước đây đã được các đơn vị tư vấn trong và ngoài nước khảo sát, đánh giá kỹ”.Hiện chưa biết là Việt Nam sẽ xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên với sự trợ giúp của nước nào. Về hợp tác quốc tế thì thủ tướng Phạm Minh Chính hôm 15/01 chỉ cho biết là Việt Nam sẽ hợp tác với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA).Nhưng có một sự trùng hợp về thời điểm đáng chú ý, đó là, nhân chuyến thăm Việt Nam của thủ tướng Nga Mikhail Mishustin vào giữa tháng 1 vừa qua, Việt Nam và Nga vừa ký một thỏa thuận hợp tác về năng lượng hạt nhân Khi hội kiến thủ tướng Phạm Minh Chính, tại Hà Nội ngày 13/01/2025, tổng giám đốc tập đoàn năng lượng hạt nhân Rosatom của Nga, ông Alexey Likhachev, cho biết Rosatom sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy điện hạt nhân, thành lập trung tâm hạt nhân mới, chuyển giao công nghệ, nội địa hóa sản phẩm hạt nhân và phát triển khoa học cũng như công nghiệp hạt nhân “với tầm nhìn lâu dài lên đến hàng trăm năm.” Như vậy; phải chăng đối tác chính của Việt Nam trong dự án xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên sẽ là Nga? Giáo sư Phạm Duy Hiển ghi nhận:"Khi anh xây với một đối tác nào rồi, thì anh sẽ tiếp tục làm việc với đối tác đó. Vì Việt Nam sẽ tiếp tục thiếu điện và để có thể đạt được mục tiêu netzero năm 2050, nên ta sẽ phải xây không chỉ 1 lò 1.200 MW, mà phải xây nhiều lò. Đối tác đó phải là đối tác có thể giúp chuyển giao công nghệ cho Việt Nam. Cho nên việc chọn đối tác là rất quan trọng.Cả Nga và Nhật đều đã hứa làm nhà máy điện ở hai huyện của tỉnh Ninh Thuận. Gần đây, thông tin chủ yếu chỉ thấy từ phía Nga, bởi vì thủ tướng Nga và đại điện Rosatom đã sang Việt Nam. Còn phía Nhật thì chưa thấy nói đến chuyện tiếp tục như thế nào.Tôi nghĩ mình đã hứa trước với hai nước đó rồi, thì thế nào Nhật cũng sẽ xây và nếu Nhật xây thì họ cũng sẽ xây lò phản ứng thế hệ 3+ giống Nga."Chính phủ Hà Nội ngày 04/02/205 đã thông báo trong tháng 2 này sẽ thảo luận với các đối tác ngoại quốc về dự án phát triển hai nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam. Các đối tác đó bao gồm Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp và Mỹ. Theo thông báo của chính phủ, tập đoàn điện lực Việt Nam EVN và tập đoàn dầu khí PetroVietnam đã được chỉ định là các nhà đầu tư cho hai nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Trước đây, nhiều người nghĩ rằng đối với những nước như Việt Nam, xây các lò phản ứng công suất thấp là khả thi hơn, nhưng theo giáo sư Phạm Duy Hiển, do nhu cầu về điện của Việt Nam nay quá lớn và quá cấp bách, Việt Nam bắt buộc phải hướng tới các lò phản ứng thế hệ 3+.
Ngày 13/02/2025, tổng thống Mỹ Donald Trump ký kế hoạch thuế nhập khẩu đối ứng : tăng thuế quan phù hợp với mức thuế mà các nước khác áp dụng đối với hàng nhập khẩu Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Mỹ để ngỏ khả năng điều chỉnh mức thuế này cho từng quốc gia nhằm tiến hành các cuộc đàm phán mới. Ba ngày trước đó là sắc lệnh áp thuế 25% đối với toàn bộ nhôm, thép nhập khẩu vào Mỹ. Cả hai biện pháp này đều tác động lớn đến Việt Nam. Ngày 14/02, Việt Nam khẳng định sẽ nhập khẩu thêm nông sản của Mỹ và sẵn sàng thảo luận với Washington để tránh các chính sách thuế quan mới mà ông Trump đưa ra. Việt Nam từng bị tổng thống Donald Trump chỉ đích danh là “học sinh tồi” trong nhiệm kỳ đầu. Ông sẽ không hài lòng về thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam lên đến hơn 116 tỉ đô la trong năm 2024. Theo Reuters, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, Mêhicô về quy mô mất cân bằng thương mại với Mỹ.Theo thống kê hải quan Mỹ, được ông Đỗ Ngọc Hưng, tham tán thương mại, trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, trích dẫn khi trả lời truyền thông trong nước, năm 2024 Việt Nam xuất khẩu khoảng 983 triệu đô la thép và sản phẩm thép, tăng gần 159% so với năm 2023 ; mặt hàng nhôm có kim ngạch là 479 triệu đô la, tăng 9,5%. Đọc thêm : Kinh tế Việt Nam trong tầm ngắm của chính quyền Trump 2.0?Mặt hàng nhôm và thép của Việt Nam đang chịu mức thuế lần lượt là 10% và 25% mà Mỹ áp dụng từ năm 2018 với hầu hết các nước. Cho dù Mỹ áp dụng thuế 25% với toàn bộ hàng nhập khẩu, sản phẩm thép Việt Nam vẫn có cơ hội tiếp tục xuất khẩu khi năng lực của các nhà sản xuất thép, nhôm của Mỹ chưa thể đáp ứng ngay và Mỹ vẫn cần nhập khẩu thép từ 12-15% và nhôm từ 40-45%. Dù vậy, theo ông Đỗ Ngọc Hưng, “biên độ lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giảm xuống”.Ngoài ra, sản phẩm nhôm, thép của Việt Nam là đối tượng thường xuyên trong các vụ kiện phòng vệ thương mại. Với sản phẩm thép, Mỹ đã điều tra hơn 34 vụ, chiếm hơn 50% tổng số vụ kiện mà Mỹ điều tra phòng vệ thương mại với Việt Nam còn với sản phẩm nhôm là 2 vụ việc.Các biện pháp thuế nhập khẩu mới của Mỹ tác động như thế nào đến Việt Nam ? Hà Nội có thể có đối sách như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với ông Hubert Testard, chuyên gia về châu Á và các thách thức kinh tế quốc tế, giảng dạy tại khoa Quan hệ Quốc tế, trường Sciences Po, tổng biên tập trang Asialyst chuyên về châu Á.RFI : Năm 2023, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chiếm 25,3% GDP của Việt Nam. Hà Nội sẽ phải đối mặt với những rủi ro nào nếu Washington thực hiện các biện pháp thuế quan, bao gồm cả việc tăng thuế hải quan đối với nhôm, thép mới được công bố, trong khi Việt Nam vẫn xuất khẩu nhôm, thép sang Hoa Kỳ ?Hubert Testard : Vấn đề mà Việt Nam gặp phải, thực ra vừa là lợi thế vừa là khó khăn. Lợi thế của Việt Nam là một quốc gia có tính quốc tế hóa cao, vì vậy xuất - nhập khẩu chiếm một phần rất quan trọng trong GDP của Việt Nam, cao hơn cả tỉ lệ của Trung Quốc chẳng hạn. Có nghĩa là nếu xét đến kim ngạch xuất khẩu, con số này tương đương khoảng 90% GDP của Việt Nam, còn đối với Trung Quốc thì chưa đến 20%. Vì vậy, đối với Việt Nam, xuất khẩu chiếm thị phần lớn hơn rất nhiều so với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đây là quốc gia dễ bị ảnh hưởng nhất, ngoại trừ các thành phố cảng như Hồng Kông hay Singapore là những nơi quốc tế hơn Việt Nam. Đọc thêm : Việt Nam chuẩn bị “địa bàn” tránh để Trump lại coi là “kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất”Thứ hai, Hoa Kỳ là điểm đến hàng đầu của hàng xuất khẩu Việt Nam và chiếm 27% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Vì vậy, khi kết hợp tầm quan trọng chung của xuất khẩu đối với Việt Nam và việc Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, điều đó có nghĩa là Việt Nam rất dễ bị ảnh hưởng vì các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ. Điều này sẽ tác động hơn nhiều đến GDP của Việt Nam so với Trung Quốc. Tiếp theo, các lệnh trừng phạt mà Washington công bố gần đây, trong đó có các biện pháp tăng thuế đối với nhôm và thép, tác động thực sự đến Việt Nam, nhưng hiện tại đó không phải là số tiền quá lớn.Mặt khác, ngày 13/02, ông Trump công bố áp thuế nhập khẩu đối ứng (reciprocal tariff), có nghĩa là áp dụng mức thuế nhập khẩu với hàng hóa các nước tương đương mức họ áp với hàng hóa Mỹ. Thế nhưng Việt Nam là một nước đang phát triển, có mức thuế hải quan trung bình là cao hơn các nước phát triển, trong đó có Hoa Kỳ. Nếu lời đe dọa của Trump được áp dụng, chúng ta sẽ thấy mức tăng chung về thuế hải quan của hàng hóa Việt Nam vào thị trường Mỹ. Điều này còn nghiêm trọng hơn cả việc Mỹ tăng thuế đối với nhôm, thép nhập khẩu. Nếu tôi nhớ không nhầm, Việt Nam đang áp mức thuế nhập khẩu trung bình khoảng 10%, còn mức thuế quan của Hoa Kỳ là chưa tới 3% - tôi đang nói đến mức thuế quan thông thường, không phải về lệnh trừng phạt - điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ tăng thuế quan đối với hàng loạt sản phẩm mà mức thuế quan của Việt Nam tương đối cao. Ông Trump khẳng định thuế nhập khẩu đối ứng được áp dụng với tất cả các nước và chắc là cũng áp dụng đối với Việt Nam.RFI : Việt Nam bị Mỹ xếp vào nhóm “học sinh tồi”. Chính quyền tổng thống Donald Trump trách Việt Nam về những điểm gì ?Hubert Testard : Việt Nam có thặng dư thương mại rất lớn với Hoa Kỳ, hơn 100 tỷ đô la. Về giá trị tuyệt đối thì thấp hơn thâm hụt của Trung Quốc với Mỹ vào khoảng 300 tỷ nhưng về mức độ bao phủ, tức là nếu xét về tỷ lệ giữa xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ và nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ thì Hà Nội nhập khẩu rất ít từ thị trường Mỹ so với mức xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nhìn từ lập trường của Washington, tỷ lệ giữa xuất-nhập khẩu của Việt Nam với Mỹ thấp hơn nhiều so với trường hợp Trung Quốc. Ví dụ khi Trung Quốc bán 100 cho Hoa Kỳ, họ mua 30. Khi Việt Nam bán 100 cho Hoa Kỳ, họ chỉ mua 12 và đây là mức độ mất cân bằng thương mại cao nhất ở châu Á. Chúng ta có thể lo ngại rằng sẽ có những biện pháp đặc biệt liên quan đến Việt Nam. Đọc thêm : Thặng dư thương mại với Mỹ cao kỷ lục, Việt Nam có nguy cơ bị Trump áp thuế quan RFI : Vấn đề tái cân bằng thương mại đang nhanh chóng trở lại vấn đề hàng đầu, sau khi chính quyền Trump tạm thời giải quyết vấn đề di dân và fentanyl ? Liệu đây có phải là rủi ro đối với Việt Nam không ?Hubert Testard : Như tôi vừa nói, Việt Nam có quan hệ thương mại rất mất cân bằng với Mỹ. Thực ra là vì một lý do khá đơn giản, đó là Việt Nam phần nào là khâu cuối cùng trong dây chuyền lắp ráp các sản phẩm châu Á xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Vì thế, khi Việt Nam xuất khẩu 100 sang Hoa Kỳ, có lẽ có 2/3 hoặc 3/4 sản phẩm trung gian đến từ các nước châu Á khác, tất cả đều được lắp ráp ở Việt Nam và xuất khẩu sang Mỹ. Người ta có cảm giác là thặng dư của Việt Nam là rất lớn nhưng thực ra là còn có nhiều nước châu Á khác liên quan đằng sau. Đây là vấn đề của các chuỗi giá trị. Nhưng theo quan điểm của ông Donald Trump, người không coi trọng, không quan tâm đến chuỗi giá trị, ông chỉ tập trung vào thâm hụt song phương thì rõ ràng Việt Nam là một “học sinh tồi”. Dĩ nhiên là có xu hướng yêu cầu tái cân bằng.Việt Nam có thể tái cân bằng với Mỹ không ? Câu trả lời của tôi là không, bởi vì bản thân Việt Nam liên hệ chặt chẽ với phần còn lại của châu Á và những gì mà Việt Nam có thể nhập khẩu thêm từ Mỹ cũng không phải là quá lớn. Việt Nam có thể mua thêm một ít năng lượng, ví dụ như khí đốt tự nhiên vì Việt Nam cần còn Mỹ là nước xuất khẩu lớn. Có thể sẽ có nhiều khí đốt tự nhiên của Mỹ hơn ở Việt Nam, sắp tới sẽ có thêm máy bay. Nhưng các nước Châu Âu cũng bán máy bay cho Việt Nam và Châu Âu cũng chịu thâm hụt song phương đáng kể với Việt Nam. Vì vậy, Hà Nội không thể gây bất lợi quá lớn cho Châu Âu vì đó cũng là một thị trường rất quan trọng đối với Việt Nam. Nếu xét từng sản phẩm thì không hề dễ cho Việt Nam. Hà Nội có thể làm điều gì đó nhưng không thực sự đủ để tái cân bằng. Đọc thêm : Việt Nam sẵn sàng nhập thêm nông sản Mỹ để đối phó với chính sách thuế quan mới của TT TrumpRFI : Có vẻ như hầu hết các biện pháp thuế quan của Trump đều nhằm vào đích cuối là Trung Quốc, ví dụ gần đây Panama đã rút khỏi dự án Con đường tơ lụa mới. Liệu Việt Nam có thể thoát khỏi tình trạng này một thời gian nhờ chính sách chống Trung Quốc hiện nay của chính quyền Mỹ ?Hubert Testard : Đúng là Việt Nam dường như không phải là quốc gia thù địch với Mỹ, trong khi Trung Quốc lại là đối thủ lớn. Đó là điều tích cực cho Hà Nội. Nhưng khi nhìn vào chính sách thương mại của ông Trump, tổng thống Mỹ không coi trọng các liên minh, ví dụ, ông ấy muốn tấn công châu Âu hoặc Nhật Bản, Hàn Quốc ngang với Trung Quốc. Vì vậy, việc Việt Nam, không phải là đồng minh của Mỹ nhưng là một nước có quan hệ chiến lược quan trọng với Hoa Kỳ, thì theo tôi, điều đó vẫn chưa đủ. Đọc thêm : Tân ngoại trưởng Mỹ kêu gọi Việt Nam giải quyết tình trạng mất cân bằng thương mại với Hoa KỳĐiều duy nhất mà Việt Nam có thể dựa vào nhiều hơn một chút, đó là có rất nhiều nhà đầu tư ở Mỹ cần sản phẩm của Việt Nam, như Amazon và Walmart. Toàn bộ ngành công nghệ cao của Mỹ đều có mặt ở Việt Nam, nên họ không có lợi nếu sản phẩm của Việt Nam bị nhắm đến. Vì vậy, có thể sẽ có vận động hành lang ở Mỹ của những người có thể gây áp lực đối với ông Trump, như Elon Musk, người rất thân cận với tổng thống Mỹ, và tỉ phú này có các dự án đầu tư lớn ở Việt Nam, nên có lẽ ông ấy khá ủng hộ Việt Nam. Nhưng cũng đừng quên là tỉ phú Musk đầu tư rất nhiều vào Trung Quốc. Tesla hoạt động rất mạnh ở Trung Quốc và điều đó cũng không cấm cản chính sách rất cứng rắn của Mỹ đối với Trung Quốc. Không có gì bảo đảm nhưng đó là những biện pháp gây ảnh hưởng mà Việt Nam có thể sử dụng.Điểm cuối cùng, gia đình Trump cũng đang có dự án đầu tư lớn vào khách sạn hạng sang ở Việt Nam, trị giá khoảng 1,5 tỉ đô la. Điều đó có nghĩa là tập đoàn Trump Organization cũng quan tâm đến việc Việt Nam được ổn. Đó là những yếu tố có thể cân bằng một chút mọi thứ. Dù vậy khi nhìn vào cách ông Trump đang khởi động việc trừng phạt thương mại theo mọi hướng, tôi vẫn cho rằng Việt Nam sẽ khó có thể thoát khỏi được trừng phạt của Trump. Đọc thêm : Dự án tỷ đô tại quê nhà của tổng bí thư Tô Lâm, lá bài trói buộc Trump của Việt Nam ?RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn chuyên gia Hubert Testard, tổng biên tập trang Asialyst.
Ngày 13/02/2025, tổng thống Mỹ Donald Trump ký kế hoạch thuế nhập khẩu đối ứng : tăng thuế quan phù hợp với mức thuế mà các nước khác áp dụng đối với hàng nhập khẩu Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Mỹ để ngỏ khả năng điều chỉnh mức thuế này cho từng quốc gia nhằm tiến hành các cuộc đàm phán mới. Ba ngày trước đó là sắc lệnh áp thuế 25% đối với toàn bộ nhôm, thép nhập khẩu vào Mỹ. Cả hai biện pháp này đều tác động lớn đến Việt Nam. Ngày 14/02, Việt Nam khẳng định sẽ nhập khẩu thêm nông sản của Mỹ và sẵn sàng thảo luận với Washington để tránh các chính sách thuế quan mới mà ông Trump đưa ra. Việt Nam từng bị tổng thống Donald Trump chỉ đích danh là “học sinh tồi” trong nhiệm kỳ đầu. Ông sẽ không hài lòng về thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam lên đến hơn 116 tỉ đô la trong năm 2024. Theo Reuters, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, Mêhicô về quy mô mất cân bằng thương mại với Mỹ.Theo thống kê hải quan Mỹ, được ông Đỗ Ngọc Hưng, tham tán thương mại, trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Mỹ, trích dẫn khi trả lời truyền thông trong nước, năm 2024 Việt Nam xuất khẩu khoảng 983 triệu đô la thép và sản phẩm thép, tăng gần 159% so với năm 2023 ; mặt hàng nhôm có kim ngạch là 479 triệu đô la, tăng 9,5%. Đọc thêm : Kinh tế Việt Nam trong tầm ngắm của chính quyền Trump 2.0?Mặt hàng nhôm và thép của Việt Nam đang chịu mức thuế lần lượt là 10% và 25% mà Mỹ áp dụng từ năm 2018 với hầu hết các nước. Cho dù Mỹ áp dụng thuế 25% với toàn bộ hàng nhập khẩu, sản phẩm thép Việt Nam vẫn có cơ hội tiếp tục xuất khẩu khi năng lực của các nhà sản xuất thép, nhôm của Mỹ chưa thể đáp ứng ngay và Mỹ vẫn cần nhập khẩu thép từ 12-15% và nhôm từ 40-45%. Dù vậy, theo ông Đỗ Ngọc Hưng, “biên độ lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giảm xuống”.Ngoài ra, sản phẩm nhôm, thép của Việt Nam là đối tượng thường xuyên trong các vụ kiện phòng vệ thương mại. Với sản phẩm thép, Mỹ đã điều tra hơn 34 vụ, chiếm hơn 50% tổng số vụ kiện mà Mỹ điều tra phòng vệ thương mại với Việt Nam còn với sản phẩm nhôm là 2 vụ việc.Các biện pháp thuế nhập khẩu mới của Mỹ tác động như thế nào đến Việt Nam ? Hà Nội có thể có đối sách như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với ông Hubert Testard, chuyên gia về châu Á và các thách thức kinh tế quốc tế, giảng dạy tại khoa Quan hệ Quốc tế, trường Sciences Po, tổng biên tập trang Asialyst chuyên về châu Á.RFI : Năm 2023, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ chiếm 25,3% GDP của Việt Nam. Hà Nội sẽ phải đối mặt với những rủi ro nào nếu Washington thực hiện các biện pháp thuế quan, bao gồm cả việc tăng thuế hải quan đối với nhôm, thép mới được công bố, trong khi Việt Nam vẫn xuất khẩu nhôm, thép sang Hoa Kỳ ?Hubert Testard : Vấn đề mà Việt Nam gặp phải, thực ra vừa là lợi thế vừa là khó khăn. Lợi thế của Việt Nam là một quốc gia có tính quốc tế hóa cao, vì vậy xuất - nhập khẩu chiếm một phần rất quan trọng trong GDP của Việt Nam, cao hơn cả tỉ lệ của Trung Quốc chẳng hạn. Có nghĩa là nếu xét đến kim ngạch xuất khẩu, con số này tương đương khoảng 90% GDP của Việt Nam, còn đối với Trung Quốc thì chưa đến 20%. Vì vậy, đối với Việt Nam, xuất khẩu chiếm thị phần lớn hơn rất nhiều so với Trung Quốc và các nước khác trong khu vực. Đây là quốc gia dễ bị ảnh hưởng nhất, ngoại trừ các thành phố cảng như Hồng Kông hay Singapore là những nơi quốc tế hơn Việt Nam. Đọc thêm : Việt Nam chuẩn bị “địa bàn” tránh để Trump lại coi là “kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất”Thứ hai, Hoa Kỳ là điểm đến hàng đầu của hàng xuất khẩu Việt Nam và chiếm 27% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Vì vậy, khi kết hợp tầm quan trọng chung của xuất khẩu đối với Việt Nam và việc Hoa Kỳ là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam, điều đó có nghĩa là Việt Nam rất dễ bị ảnh hưởng vì các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ. Điều này sẽ tác động hơn nhiều đến GDP của Việt Nam so với Trung Quốc. Tiếp theo, các lệnh trừng phạt mà Washington công bố gần đây, trong đó có các biện pháp tăng thuế đối với nhôm và thép, tác động thực sự đến Việt Nam, nhưng hiện tại đó không phải là số tiền quá lớn.Mặt khác, ngày 13/02, ông Trump công bố áp thuế nhập khẩu đối ứng (reciprocal tariff), có nghĩa là áp dụng mức thuế nhập khẩu với hàng hóa các nước tương đương mức họ áp với hàng hóa Mỹ. Thế nhưng Việt Nam là một nước đang phát triển, có mức thuế hải quan trung bình là cao hơn các nước phát triển, trong đó có Hoa Kỳ. Nếu lời đe dọa của Trump được áp dụng, chúng ta sẽ thấy mức tăng chung về thuế hải quan của hàng hóa Việt Nam vào thị trường Mỹ. Điều này còn nghiêm trọng hơn cả việc Mỹ tăng thuế đối với nhôm, thép nhập khẩu. Nếu tôi nhớ không nhầm, Việt Nam đang áp mức thuế nhập khẩu trung bình khoảng 10%, còn mức thuế quan của Hoa Kỳ là chưa tới 3% - tôi đang nói đến mức thuế quan thông thường, không phải về lệnh trừng phạt - điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ tăng thuế quan đối với hàng loạt sản phẩm mà mức thuế quan của Việt Nam tương đối cao. Ông Trump khẳng định thuế nhập khẩu đối ứng được áp dụng với tất cả các nước và chắc là cũng áp dụng đối với Việt Nam.RFI : Việt Nam bị Mỹ xếp vào nhóm “học sinh tồi”. Chính quyền tổng thống Donald Trump trách Việt Nam về những điểm gì ?Hubert Testard : Việt Nam có thặng dư thương mại rất lớn với Hoa Kỳ, hơn 100 tỷ đô la. Về giá trị tuyệt đối thì thấp hơn thâm hụt của Trung Quốc với Mỹ vào khoảng 300 tỷ nhưng về mức độ bao phủ, tức là nếu xét về tỷ lệ giữa xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ và nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ thì Hà Nội nhập khẩu rất ít từ thị trường Mỹ so với mức xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nhìn từ lập trường của Washington, tỷ lệ giữa xuất-nhập khẩu của Việt Nam với Mỹ thấp hơn nhiều so với trường hợp Trung Quốc. Ví dụ khi Trung Quốc bán 100 cho Hoa Kỳ, họ mua 30. Khi Việt Nam bán 100 cho Hoa Kỳ, họ chỉ mua 12 và đây là mức độ mất cân bằng thương mại cao nhất ở châu Á. Chúng ta có thể lo ngại rằng sẽ có những biện pháp đặc biệt liên quan đến Việt Nam. Đọc thêm : Thặng dư thương mại với Mỹ cao kỷ lục, Việt Nam có nguy cơ bị Trump áp thuế quan RFI : Vấn đề tái cân bằng thương mại đang nhanh chóng trở lại vấn đề hàng đầu, sau khi chính quyền Trump tạm thời giải quyết vấn đề di dân và fentanyl ? Liệu đây có phải là rủi ro đối với Việt Nam không ?Hubert Testard : Như tôi vừa nói, Việt Nam có quan hệ thương mại rất mất cân bằng với Mỹ. Thực ra là vì một lý do khá đơn giản, đó là Việt Nam phần nào là khâu cuối cùng trong dây chuyền lắp ráp các sản phẩm châu Á xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Vì thế, khi Việt Nam xuất khẩu 100 sang Hoa Kỳ, có lẽ có 2/3 hoặc 3/4 sản phẩm trung gian đến từ các nước châu Á khác, tất cả đều được lắp ráp ở Việt Nam và xuất khẩu sang Mỹ. Người ta có cảm giác là thặng dư của Việt Nam là rất lớn nhưng thực ra là còn có nhiều nước châu Á khác liên quan đằng sau. Đây là vấn đề của các chuỗi giá trị. Nhưng theo quan điểm của ông Donald Trump, người không coi trọng, không quan tâm đến chuỗi giá trị, ông chỉ tập trung vào thâm hụt song phương thì rõ ràng Việt Nam là một “học sinh tồi”. Dĩ nhiên là có xu hướng yêu cầu tái cân bằng.Việt Nam có thể tái cân bằng với Mỹ không ? Câu trả lời của tôi là không, bởi vì bản thân Việt Nam liên hệ chặt chẽ với phần còn lại của châu Á và những gì mà Việt Nam có thể nhập khẩu thêm từ Mỹ cũng không phải là quá lớn. Việt Nam có thể mua thêm một ít năng lượng, ví dụ như khí đốt tự nhiên vì Việt Nam cần còn Mỹ là nước xuất khẩu lớn. Có thể sẽ có nhiều khí đốt tự nhiên của Mỹ hơn ở Việt Nam, sắp tới sẽ có thêm máy bay. Nhưng các nước Châu Âu cũng bán máy bay cho Việt Nam và Châu Âu cũng chịu thâm hụt song phương đáng kể với Việt Nam. Vì vậy, Hà Nội không thể gây bất lợi quá lớn cho Châu Âu vì đó cũng là một thị trường rất quan trọng đối với Việt Nam. Nếu xét từng sản phẩm thì không hề dễ cho Việt Nam. Hà Nội có thể làm điều gì đó nhưng không thực sự đủ để tái cân bằng. Đọc thêm : Việt Nam sẵn sàng nhập thêm nông sản Mỹ để đối phó với chính sách thuế quan mới của TT TrumpRFI : Có vẻ như hầu hết các biện pháp thuế quan của Trump đều nhằm vào đích cuối là Trung Quốc, ví dụ gần đây Panama đã rút khỏi dự án Con đường tơ lụa mới. Liệu Việt Nam có thể thoát khỏi tình trạng này một thời gian nhờ chính sách chống Trung Quốc hiện nay của chính quyền Mỹ ?Hubert Testard : Đúng là Việt Nam dường như không phải là quốc gia thù địch với Mỹ, trong khi Trung Quốc lại là đối thủ lớn. Đó là điều tích cực cho Hà Nội. Nhưng khi nhìn vào chính sách thương mại của ông Trump, tổng thống Mỹ không coi trọng các liên minh, ví dụ, ông ấy muốn tấn công châu Âu hoặc Nhật Bản, Hàn Quốc ngang với Trung Quốc. Vì vậy, việc Việt Nam, không phải là đồng minh của Mỹ nhưng là một nước có quan hệ chiến lược quan trọng với Hoa Kỳ, thì theo tôi, điều đó vẫn chưa đủ. Đọc thêm : Tân ngoại trưởng Mỹ kêu gọi Việt Nam giải quyết tình trạng mất cân bằng thương mại với Hoa KỳĐiều duy nhất mà Việt Nam có thể dựa vào nhiều hơn một chút, đó là có rất nhiều nhà đầu tư ở Mỹ cần sản phẩm của Việt Nam, như Amazon và Walmart. Toàn bộ ngành công nghệ cao của Mỹ đều có mặt ở Việt Nam, nên họ không có lợi nếu sản phẩm của Việt Nam bị nhắm đến. Vì vậy, có thể sẽ có vận động hành lang ở Mỹ của những người có thể gây áp lực đối với ông Trump, như Elon Musk, người rất thân cận với tổng thống Mỹ, và tỉ phú này có các dự án đầu tư lớn ở Việt Nam, nên có lẽ ông ấy khá ủng hộ Việt Nam. Nhưng cũng đừng quên là tỉ phú Musk đầu tư rất nhiều vào Trung Quốc. Tesla hoạt động rất mạnh ở Trung Quốc và điều đó cũng không cấm cản chính sách rất cứng rắn của Mỹ đối với Trung Quốc. Không có gì bảo đảm nhưng đó là những biện pháp gây ảnh hưởng mà Việt Nam có thể sử dụng.Điểm cuối cùng, gia đình Trump cũng đang có dự án đầu tư lớn vào khách sạn hạng sang ở Việt Nam, trị giá khoảng 1,5 tỉ đô la. Điều đó có nghĩa là tập đoàn Trump Organization cũng quan tâm đến việc Việt Nam được ổn. Đó là những yếu tố có thể cân bằng một chút mọi thứ. Dù vậy khi nhìn vào cách ông Trump đang khởi động việc trừng phạt thương mại theo mọi hướng, tôi vẫn cho rằng Việt Nam sẽ khó có thể thoát khỏi được trừng phạt của Trump. Đọc thêm : Dự án tỷ đô tại quê nhà của tổng bí thư Tô Lâm, lá bài trói buộc Trump của Việt Nam ?RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn chuyên gia Hubert Testard, tổng biên tập trang Asialyst.
Việt Nam và Trung Quốc vừa đánh dấu kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (18/1/1950-18/1/2025). Trong những ngày cuối năm ngoái, quan hệ quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc có vẻ ngày càng hữu hảo. Từ 23 đến 26/12/2024, tại thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), Hải quân Việt Nam và Chiến khu Nam Bộ của Quân đội Trung Quốc đã tổ chức Phiên họp thường niên lần thứ 17 về tuần tra liên hợp trên vùng biển vịnh Bắc Bộ. Trong thời gian đó, theo báo chính thức của Việt Nam, ngày 24/12, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và Hải cảnh Trung Quốc đã tổ chức chuyến tuần tra chung lần thứ 4 năm 2024 trên khu vực biển phía Bắc Vịnh Bắc Bộ, nhằm "tăng cường phối hợp trong việc chống tội phạm và vi phạm pháp luật trên biển, đặc biệt là trong giai đoạn cuối năm". Tiếp đến, hai chiến hạm của Hải quân Trung Quốc đã cập cảng Tiên Sa ngày 28/12/2024, bắt đầu chuyến thăm thông thường (neo đậu kỹ thuật) tại thành phố Đà Nẵng đến 31/12.Nhưng đáng chú ý hơn cả là vào đầu tháng 12, Trung Quốc và Việt Nam đã mở “đối thoại chiến lược 3+3” đầu tiên, một cơ chế chưa từng có trong ngoại giao của cả hai nước. Đối thoại song phương về quốc phòng, ngoại giao và an ninh công cộng đã được tổ chức ở cấp thứ trưởng ngay trước cuộc họp lần thứ 16 của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Trung Quốc-Việt Nam.Theo nhận định của hai nhà nghiên cứu Ấn Độ Rahul Mishra và Harshit Prajapati trên trang Asia Times ngày 31/12/2024, cuộc đối thoại mới này "thể hiện mối lo ngại của hai nước láng giềng, vốn đang vướng sâu vào các tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong bối cảnh địa chiến lược toàn cầu ngày càng thay đổi".Hà Nội đang lo ngại cuộc chiến thuế quan của Trump có thể chuyển trọng tâm từ Trung Quốc sang Việt Nam, bị nghi là điểm trung chuyển cho những hàng hóa thực sự do Trung Quốc sản xuất. Đồng thời Việt Nam cảnh giác với thái độ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông. Về phần mình, Bắc Kinh đang tìm cách ngăn chặn các tranh chấp ở Biển Đông vượt khỏi tầm kiểm soát của mình và đang hướng tới mục tiêu vô hiệu hóa trước khả năng Hoa Kỳ khai thác tình hình. Cũng theo hai tác giả nói trên, trái ngược với nhận định rằng đối thoại 3+3 cho thấy Việt Nam liên kết chặt chẽ hơn với Trung Quốc, những nhà quan sát dày dạn kinh nghiệm coi cơ chế này là phản ứng thực dụng của Hà Nội đối với các lợi ích chồng chéo hơn là sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chuyên gia về Việt Nam Carl Thayer đã mô tả chính xác đây là "kết quả tự nhiên", chứ không phải là dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang dịch chuyển vào quỹ đạo của Trung Quốc. Đối thoại 3+3 rõ ràng nhằm mục đích ổn định quan hệ song phương,Đây cũng là ý kiến của tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ, khi trả lời phỏng vấn RFI ngày 17/01/2025:"Cuộc họp theo hình thức 3+3 bao gồm đại diện từ bộ Ngoại Giao, bộ Quốc Phòng và bộ Công An. Lần đầu tiên hai nước Việt Nam Trung Quốc thực hiện đối thoại theo hình thức này. Đây là một chỉ dấu rõ ràng là hai nước vẫn coi nhau là đối tác ngoại giao ưu tiên. Đối thoại 3+3 cũng cho thấy cam kết giữa hai bên về hợp tác duy trì ổn định khu vực để tránh đối đầu quân sự, cũng như cam kết bảo vệ chế độ Cộng sản ở mỗi nước. Phải nói rõ là nếu có thay đổi chế độ ở Việt Nam hay Trung Quốc thì khả năng xung đột quân sự đều sẽ tăng cao. Việt Nam, Trung Quốc giữ được hòa bình khi hai nước giữ được ổn định chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khi quan hệ ngoại giao Việt-Trung nồng ấm, sức ép của Trung Quốc trên Biển Đông đối với Việt Nam sẽ dịu xuống và ngược lại, khi quan hệ hai nước xấu đi, Trung Quốc sẽ ra tăng sức ép lên Việt Nam ở Biển Đông." Ví dụ, vào ngày 02/10 năm ngoái, Việt Nam đã phản đối vụ Trung Quốc tấn công ngư dân Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa vào ngày 29/09, khiến họ bị thương nặng. Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã mạnh mẽ cáo buộc lực lượng thực thi pháp luật Trung Quốc cướp bóc sản lượng đánh bắt và thiết bị của ngư dân Việt Nam. Trung Quốc đã phủ nhận các cáo buộc đó, khẳng định ngư dân Việt Nam đã "xâm nhập trái phép" vào vùng biển của Trung Quốc và họ đã có phản ứng "chuyên nghiệp và kiềm chế" và không gây ra thương tích. Theo hai nhà nghiên cứu Ấn Độ Rahul Mishra và Harshit Prajapati trên trang Asia Times ngày 31/12/2024, các cuộc tấn công của Trung Quốc vào ngư dân Đông Nam Á “thể hiện một hình thức cưỡng ép nhẹ nhàng, với tiềm năng leo thang hạn chế, vì hành động này "liên quan đến thành phần dân sự, chứ không phải quân sự”. Các hành động của Trung Quốc chống lại các tàu cá Việt Nam phản ánh nỗ lực gây sức ép buộc Việt Nam duy trì chính sách đối ngoại trung lập, đồng thời nhằm mục đích gây chia rẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, nhưng không tác động trực tiếp đến các tranh chấp rộng lớn hơn. Trong một bài viết đăng ngày 02/01/2025 trên trang mạng Fulcrum, chuyên phân tích về tình hình Đông Nam Á, nhà nghiên cứu Ian Storey, thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, cũng dự báo qua hàng tựa: “ Biển Đông năm 2025: Còn hơn là như thế, có thể tồi tệ hơn”. Theo ông Storey, căng thẳng giữa Trung Quốc với Philippines về Biển Đông sẽ vẫn gia tăng vào năm 2025 và có thể tăng cao hơn nữa, đặc biệt là nếu chính quyền Marcos Jr. chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ cung cấp tàu hộ tống hải quân cho các nhiệm vụ tiếp tế cho Bãi Cỏ Mây. Những điểm có thể gây ra tranh chấp gia tăng khác giữa Philippines và Trung Quốc bao gồm Bãi Sa Bin, nơi tuần duyên Philippines sử dụng làm điểm trung chuyển cho các nhiệm vụ tiếp tế và Bãi cạn Scarborough, nơi mà hải cảnh Trung Quốc không còn cho phép ngư dân Philippines vào. Cũng theo nhà nghiên cứu Storey, một vấn đề cần theo dõi vào năm 2025 là liệu Trung Quốc có phản đối hoạt động bồi đắp đảo của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa hay không. Diện tích mà Việt Nam bồi đắp hiện chiếm gần một nửa diện tích mà chính Trung Quốc đã cải tạo để xây dựng thành 7 đảo nhân tạo trong giai đoạn 2013-16. Nếu xây dựng đường băng trên các thực thể đó, Việt Nam sẽ có thể triển khai sức mạnh không quân xa hơn nhiều vào Biển Đông.Ông Storey ghi nhận: "Cho đến nay, Trung Quốc vẫn giữ im lặng, ít ra là về mặt công khai, có thể là vì họ không muốn phá vỡ mối quan hệ chính trị với Việt Nam vốn đang phát triển khá thân thiện. Hoặc có thể là họ không muốn gây chiến với Việt Nam vào thời điểm đang phải tập trung đối phó với Philippines. Hoặc có thể là Việt Nam đã tránh được cơn thịnh nộ của Trung Quốc vì họ không phải là đồng minh của Hoa Kỳ. Thời gian sẽ trả lời liệu sự kiên nhẫn của Bắc Kinh với Hà Nội có kéo dài được lâu hay không".Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 17/01/2025, tiến sĩ Vũ Xuân Khang giải thích vì sao cho tới nay Trung Quốc chưa công khai phản đối Việt Nam về vấn đề này:"Đây là một trong những điểm chính trong chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam. Trung Quốc ghi nhận các nỗ lực ngoại giao của Việt Nam nhằm trấn an Trung Quốc, bất chấp Hà Nội tăng cường quan hệ với Mỹ và Nga. Chính sự mềm mỏng, hòa dịu của Trung Quốc đối với Việt Nam về việc bồi đắp đảo trên Biển Đông là chỉ dấu cho thấy Trung Quốc cũng không muốn đi tìm một xung đột, hay không muốn đẩy Việt Nam vào phe của Mỹ hay các đồng minh của Mỹ.Đây chính là một sự đáp lễ cho chính sách ngoại giao trung lập của Việt Nam. Trung Quốc cũng mong muốn giữ cho biên giới phía Nam của họ ổn định, nên cũng muốn quan hệ Việt-Trung được hòa hiếu và ổn định như hiện nay. Việc Trung Quốc đối xử với Philippines một cách cứng rắn trong khi với Việt Nam một cách mềm dẻo cũng là cách rất hiệu quả để Việt Nam thấy rằng nếu Việt Nam không thân Mỹ như Philippines, thì Trung Quốc sẽ không bắt nạt Việt Nam như với Philippines.Rõ ràng, từ góc nhìn của Việt Nam, nâng cấp quan hệ quốc phòng với Mỹ chưa chắc đã đủ để bảo vệ Việt Nam khỏi Trung Quốc, nhưng nếu giữ cho quan hệ với Trung Quốc hòa hảo, thì Việt Nam có thể tăng cường bồi đắp đảo mà không quá lo về việc Trung Quốc trả đũa.Vào cuối năm 2024, đã có những chỉ dấu là Trung Quốc lo ngại Việt Nam có thể cho Mỹ hay Nhật Bản sử dụng các đảo ở biển Đông nhằm kiềm chế Trung Quốc khi cần và các đảo bồi đắp của Việt Nam có thể giúp Hà Nội "bành trướng" trên biển. Tuy nhiên, đây mới chỉ là quan điểm của các học giả Trung Quốc, chứ vẫn chưa có phát ngôn chính thống nào từ truyền thông nhà nước Trung Quốc. Có thể Trung Quốc muốn đánh tiếng cho Việt Nam một cách tế nhị là việc họ im lặng trước các hành động bồi đắp của Việt Nam không có nghĩa là họ đồng tình. Tuy vậy, điểm mấu chốt vẫn là tình trạng tổng thể của quan hệ Việt-Trung hiện nay hữu hảo và ổn định. Chừng nào Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định Trung Quốc là ưu tiên ngoại giao cao nhất, hơn cả Mỹ và Nga, thì Trung Quốc sẽ duy trì chính sách hiện nay với Việt Nam, tức là sẽ không thúc ép Việt Nam hay gây áp lực lên Việt Nam quá lớn ở Biển Đông như là với Philippines. Chính sách Việt Nam của Trung Quốc rất nhất quán: Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy rằng Việt Nam đi với Mỹ thì chưa chắc bảo vệ được chủ quyền ở Biển Đông, nhưng nếu Việt Nam hữu hảo với Trung Quốc thì Trung Quốc sẽ nhượng bộ Việt Nam ở Việt Nam, khác trường hợp giữa Trung Quốc với Philippines."
Việt Nam và Trung Quốc vừa đánh dấu kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (18/1/1950-18/1/2025). Trong những ngày cuối năm ngoái, quan hệ quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc có vẻ ngày càng hữu hảo. Từ 23 đến 26/12/2024, tại thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc), Hải quân Việt Nam và Chiến khu Nam Bộ của Quân đội Trung Quốc đã tổ chức Phiên họp thường niên lần thứ 17 về tuần tra liên hợp trên vùng biển vịnh Bắc Bộ. Trong thời gian đó, theo báo chính thức của Việt Nam, ngày 24/12, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam và Hải cảnh Trung Quốc đã tổ chức chuyến tuần tra chung lần thứ 4 năm 2024 trên khu vực biển phía Bắc Vịnh Bắc Bộ, nhằm "tăng cường phối hợp trong việc chống tội phạm và vi phạm pháp luật trên biển, đặc biệt là trong giai đoạn cuối năm". Tiếp đến, hai chiến hạm của Hải quân Trung Quốc đã cập cảng Tiên Sa ngày 28/12/2024, bắt đầu chuyến thăm thông thường (neo đậu kỹ thuật) tại thành phố Đà Nẵng đến 31/12.Nhưng đáng chú ý hơn cả là vào đầu tháng 12, Trung Quốc và Việt Nam đã mở “đối thoại chiến lược 3+3” đầu tiên, một cơ chế chưa từng có trong ngoại giao của cả hai nước. Đối thoại song phương về quốc phòng, ngoại giao và an ninh công cộng đã được tổ chức ở cấp thứ trưởng ngay trước cuộc họp lần thứ 16 của Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Trung Quốc-Việt Nam.Theo nhận định của hai nhà nghiên cứu Ấn Độ Rahul Mishra và Harshit Prajapati trên trang Asia Times ngày 31/12/2024, cuộc đối thoại mới này "thể hiện mối lo ngại của hai nước láng giềng, vốn đang vướng sâu vào các tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong bối cảnh địa chiến lược toàn cầu ngày càng thay đổi".Hà Nội đang lo ngại cuộc chiến thuế quan của Trump có thể chuyển trọng tâm từ Trung Quốc sang Việt Nam, bị nghi là điểm trung chuyển cho những hàng hóa thực sự do Trung Quốc sản xuất. Đồng thời Việt Nam cảnh giác với thái độ ngày càng quyết đoán của Trung Quốc ở Biển Đông. Về phần mình, Bắc Kinh đang tìm cách ngăn chặn các tranh chấp ở Biển Đông vượt khỏi tầm kiểm soát của mình và đang hướng tới mục tiêu vô hiệu hóa trước khả năng Hoa Kỳ khai thác tình hình. Cũng theo hai tác giả nói trên, trái ngược với nhận định rằng đối thoại 3+3 cho thấy Việt Nam liên kết chặt chẽ hơn với Trung Quốc, những nhà quan sát dày dạn kinh nghiệm coi cơ chế này là phản ứng thực dụng của Hà Nội đối với các lợi ích chồng chéo hơn là sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chuyên gia về Việt Nam Carl Thayer đã mô tả chính xác đây là "kết quả tự nhiên", chứ không phải là dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang dịch chuyển vào quỹ đạo của Trung Quốc. Đối thoại 3+3 rõ ràng nhằm mục đích ổn định quan hệ song phương,Đây cũng là ý kiến của tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ, khi trả lời phỏng vấn RFI ngày 17/01/2025:"Cuộc họp theo hình thức 3+3 bao gồm đại diện từ bộ Ngoại Giao, bộ Quốc Phòng và bộ Công An. Lần đầu tiên hai nước Việt Nam Trung Quốc thực hiện đối thoại theo hình thức này. Đây là một chỉ dấu rõ ràng là hai nước vẫn coi nhau là đối tác ngoại giao ưu tiên. Đối thoại 3+3 cũng cho thấy cam kết giữa hai bên về hợp tác duy trì ổn định khu vực để tránh đối đầu quân sự, cũng như cam kết bảo vệ chế độ Cộng sản ở mỗi nước. Phải nói rõ là nếu có thay đổi chế độ ở Việt Nam hay Trung Quốc thì khả năng xung đột quân sự đều sẽ tăng cao. Việt Nam, Trung Quốc giữ được hòa bình khi hai nước giữ được ổn định chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khi quan hệ ngoại giao Việt-Trung nồng ấm, sức ép của Trung Quốc trên Biển Đông đối với Việt Nam sẽ dịu xuống và ngược lại, khi quan hệ hai nước xấu đi, Trung Quốc sẽ ra tăng sức ép lên Việt Nam ở Biển Đông." Ví dụ, vào ngày 02/10 năm ngoái, Việt Nam đã phản đối vụ Trung Quốc tấn công ngư dân Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa vào ngày 29/09, khiến họ bị thương nặng. Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã mạnh mẽ cáo buộc lực lượng thực thi pháp luật Trung Quốc cướp bóc sản lượng đánh bắt và thiết bị của ngư dân Việt Nam. Trung Quốc đã phủ nhận các cáo buộc đó, khẳng định ngư dân Việt Nam đã "xâm nhập trái phép" vào vùng biển của Trung Quốc và họ đã có phản ứng "chuyên nghiệp và kiềm chế" và không gây ra thương tích. Theo hai nhà nghiên cứu Ấn Độ Rahul Mishra và Harshit Prajapati trên trang Asia Times ngày 31/12/2024, các cuộc tấn công của Trung Quốc vào ngư dân Đông Nam Á “thể hiện một hình thức cưỡng ép nhẹ nhàng, với tiềm năng leo thang hạn chế, vì hành động này "liên quan đến thành phần dân sự, chứ không phải quân sự”. Các hành động của Trung Quốc chống lại các tàu cá Việt Nam phản ánh nỗ lực gây sức ép buộc Việt Nam duy trì chính sách đối ngoại trung lập, đồng thời nhằm mục đích gây chia rẽ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, nhưng không tác động trực tiếp đến các tranh chấp rộng lớn hơn. Trong một bài viết đăng ngày 02/01/2025 trên trang mạng Fulcrum, chuyên phân tích về tình hình Đông Nam Á, nhà nghiên cứu Ian Storey, thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, cũng dự báo qua hàng tựa: “ Biển Đông năm 2025: Còn hơn là như thế, có thể tồi tệ hơn”. Theo ông Storey, căng thẳng giữa Trung Quốc với Philippines về Biển Đông sẽ vẫn gia tăng vào năm 2025 và có thể tăng cao hơn nữa, đặc biệt là nếu chính quyền Marcos Jr. chấp nhận đề nghị của Hoa Kỳ cung cấp tàu hộ tống hải quân cho các nhiệm vụ tiếp tế cho Bãi Cỏ Mây. Những điểm có thể gây ra tranh chấp gia tăng khác giữa Philippines và Trung Quốc bao gồm Bãi Sa Bin, nơi tuần duyên Philippines sử dụng làm điểm trung chuyển cho các nhiệm vụ tiếp tế và Bãi cạn Scarborough, nơi mà hải cảnh Trung Quốc không còn cho phép ngư dân Philippines vào. Cũng theo nhà nghiên cứu Storey, một vấn đề cần theo dõi vào năm 2025 là liệu Trung Quốc có phản đối hoạt động bồi đắp đảo của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa hay không. Diện tích mà Việt Nam bồi đắp hiện chiếm gần một nửa diện tích mà chính Trung Quốc đã cải tạo để xây dựng thành 7 đảo nhân tạo trong giai đoạn 2013-16. Nếu xây dựng đường băng trên các thực thể đó, Việt Nam sẽ có thể triển khai sức mạnh không quân xa hơn nhiều vào Biển Đông.Ông Storey ghi nhận: "Cho đến nay, Trung Quốc vẫn giữ im lặng, ít ra là về mặt công khai, có thể là vì họ không muốn phá vỡ mối quan hệ chính trị với Việt Nam vốn đang phát triển khá thân thiện. Hoặc có thể là họ không muốn gây chiến với Việt Nam vào thời điểm đang phải tập trung đối phó với Philippines. Hoặc có thể là Việt Nam đã tránh được cơn thịnh nộ của Trung Quốc vì họ không phải là đồng minh của Hoa Kỳ. Thời gian sẽ trả lời liệu sự kiên nhẫn của Bắc Kinh với Hà Nội có kéo dài được lâu hay không".Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 17/01/2025, tiến sĩ Vũ Xuân Khang giải thích vì sao cho tới nay Trung Quốc chưa công khai phản đối Việt Nam về vấn đề này:"Đây là một trong những điểm chính trong chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam. Trung Quốc ghi nhận các nỗ lực ngoại giao của Việt Nam nhằm trấn an Trung Quốc, bất chấp Hà Nội tăng cường quan hệ với Mỹ và Nga. Chính sự mềm mỏng, hòa dịu của Trung Quốc đối với Việt Nam về việc bồi đắp đảo trên Biển Đông là chỉ dấu cho thấy Trung Quốc cũng không muốn đi tìm một xung đột, hay không muốn đẩy Việt Nam vào phe của Mỹ hay các đồng minh của Mỹ.Đây chính là một sự đáp lễ cho chính sách ngoại giao trung lập của Việt Nam. Trung Quốc cũng mong muốn giữ cho biên giới phía Nam của họ ổn định, nên cũng muốn quan hệ Việt-Trung được hòa hiếu và ổn định như hiện nay. Việc Trung Quốc đối xử với Philippines một cách cứng rắn trong khi với Việt Nam một cách mềm dẻo cũng là cách rất hiệu quả để Việt Nam thấy rằng nếu Việt Nam không thân Mỹ như Philippines, thì Trung Quốc sẽ không bắt nạt Việt Nam như với Philippines.Rõ ràng, từ góc nhìn của Việt Nam, nâng cấp quan hệ quốc phòng với Mỹ chưa chắc đã đủ để bảo vệ Việt Nam khỏi Trung Quốc, nhưng nếu giữ cho quan hệ với Trung Quốc hòa hảo, thì Việt Nam có thể tăng cường bồi đắp đảo mà không quá lo về việc Trung Quốc trả đũa.Vào cuối năm 2024, đã có những chỉ dấu là Trung Quốc lo ngại Việt Nam có thể cho Mỹ hay Nhật Bản sử dụng các đảo ở biển Đông nhằm kiềm chế Trung Quốc khi cần và các đảo bồi đắp của Việt Nam có thể giúp Hà Nội "bành trướng" trên biển. Tuy nhiên, đây mới chỉ là quan điểm của các học giả Trung Quốc, chứ vẫn chưa có phát ngôn chính thống nào từ truyền thông nhà nước Trung Quốc. Có thể Trung Quốc muốn đánh tiếng cho Việt Nam một cách tế nhị là việc họ im lặng trước các hành động bồi đắp của Việt Nam không có nghĩa là họ đồng tình. Tuy vậy, điểm mấu chốt vẫn là tình trạng tổng thể của quan hệ Việt-Trung hiện nay hữu hảo và ổn định. Chừng nào Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định Trung Quốc là ưu tiên ngoại giao cao nhất, hơn cả Mỹ và Nga, thì Trung Quốc sẽ duy trì chính sách hiện nay với Việt Nam, tức là sẽ không thúc ép Việt Nam hay gây áp lực lên Việt Nam quá lớn ở Biển Đông như là với Philippines. Chính sách Việt Nam của Trung Quốc rất nhất quán: Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy rằng Việt Nam đi với Mỹ thì chưa chắc bảo vệ được chủ quyền ở Biển Đông, nhưng nếu Việt Nam hữu hảo với Trung Quốc thì Trung Quốc sẽ nhượng bộ Việt Nam ở Việt Nam, khác trường hợp giữa Trung Quốc với Philippines."
Việt Nam đã là một trong những nước hưởng lợi lớn nhất từ cuộc chiến thương mại của Donald Trump với Trung Quốc trong nhiệm kỳ đầu của ông. Nhưng theo nhật báo Anh Financial Times 18/11/2024, các tổ chức doanh nghiệp và nhà phân tích đã cảnh báo Hà Nội có thể trở thành kẻ thua cuộc lớn nhất nếu tổng thống đắc cử thực hiện lời đe dọa về thuế quan khi ông trở lại Nhà Trắng. Nhưng mối lo ngại này thật sự có cơ sở? Hãy còn quá sớm để có câu trả lời xác đáng. Việt Nam đã đạt được thặng dư thương mại lớn thứ tư với Hoa Kỳ trong những năm gần đây, chỉ sau Trung Quốc, Mêhicô và Liên Hiệp Châu Âu, do nhiều nhà sản xuất đã chuyển các nhà máy khỏi Trung Quốc để tránh tác động của thuế quan mà Trump áp đặt. Nhưng theo Finnacial Times, thành công theo kiểu "Trung Quốc+1" đó đã khiến Việt Nam rơi vào thế dễ bị tổn thương. Nền kinh tế của Việt Nam đã trở nên phụ thuộc rất nhiều vào Hoa Kỳ, hiện chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Theo dự báo, trong năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ còn tăng thêm, dự kiến sẽ đạt khoảng từ 125 đến 130 tỷ đôla.Nhưng thách đố lớn nhất đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ là thuế quan. Trump đã tuyên bố sẽ áp thuế 60% đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và lên tới 20% đối với hàng hóa từ tất cả các quốc gia khác. Nhật báo Financial Times trích lời ông Marco Förster, giám đốc đặc trách ASEAN của hãng tư vấn đầu tư Dezan Shira & Associates tại Sài Gòn: "Việt Nam có thể sẽ bị giám sát chặt chẽ hơn, đặc biệt là đối với hàng quá cảnh qua Việt Nam để tránh thuế quan đối với Trung Quốc". Việt Nam, mục tiêu tiếp theo của Trump?Hãng tin Anh Reuters ngày 06/12/2024 cũng đã trích dẫn các giám đốc điều hành và nhà phân tích trong ngành công nghiệp nhận định: “Việt Nam dễ trở thành mục tiêu tiếp theo của chính quyền Trump về thuế quan do thặng dư thương mại của nước này với Hoa Kỳ đang tăng vọt”. Dữ liệu thương mại của Hoa Kỳ được công bố ngày 05/12 cho thấy thâm hụt của nước này với Việt Nam đã đạt 102 tỷ đô la trong mười tháng đầu năm 2024, tăng gần 20% so với cùng kỳ năm 2023. Deborah Elms, người đứng đầu chính sách thương mại tại Quỹ Hinrich, trụ sở tại Châu Á, cho biết: "Đối với Trump, thước đo chính là thâm hụt thương mại và con số của Việt Nam là rất tệ. Việt Nam là ứng viên lý tưởng cho (Trump) hành động sớm, bởi vì nước này không thể dễ dàng trả đũa".Cũng theo Reuters, tại một hội nghị do Phòng Thương mại Mỹ tổ chức ở Hà Nội, nhiều doanh nhân và đại diện hiệp hội thương mại đã bày tỏ lo ngại về khả năng Mỹ áp thuế đối với Việt Nam. Một dấu hiệu khác cho thấy Việt Nam có thể phải đối mặt với thuế quan mới của Mỹ, đó là Trump đã chọn ông Peter Navarro làm cố vấn cấp cao về thương mại và sản xuất. Trong các đề xuất của Dự án 2025, một tài liệu được nhiều nhà hoạch định chính sách ở Washington coi là kế hoạch hành động của chính quyền Trump 2.0, Navarro đã nói rằng áp thuế quan đối với Việt Nam sẽ rất hiệu quả trong việc cắt giảm thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ.Hãng tin Reuters trích lời ông Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về các chuỗi cung ứng tại Đại học RMIT Việt Nam, nhắc lại: " Dưới thời chính quyền Trump, Navarro là một chuyên gia nổi tiếng chủ trương tăng quy mô ngành sản xuất của Mỹ, áp thuế quan cao và đưa về nước chuỗi cung ứng toàn cầu". Xuất khẩu thành phẩm thì không sợ?Thật ra hãy còn quá sớm để dự đoán mức thuế quan mà tân tổng thống Trump sẽ áp đặt đối với hàng xuất khẩu Việt Nam. Hơn nữa, một số mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ dưới dạng thành phẩm (finished products) có thể sẽ không bị áp thuế quan mới. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/01/2025, ông Francesco Trần Văn Liêng, Chủ tịch kiêm sáng lập viên Công ty cổ phần Ca cao Việt Nam VINACACAO, ghi nhận: "Hiện nay đúng là có một sự lo ngại, nhưng chúng ta chưa biết chắc là Hoa Kỳ sẽ tăng bao nhiêu thuế: Hoa Kỳ tăng thuế theo kiểu chiến tranh mậu dịch hay tăng thuế theo kiểu ngăn cản hàng hóa trao đổi giữa hai quốc gia, hoặc như ông Trump nói, muốn đem job (việc làm) ở hải ngoại về Mỹ? Tuy nhiên, thứ nhất, tôi thấy đầu tư của Mỹ ở Việt Nam không nhiều, thứ hai là thuế quan sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những mặt hàng là nguyên liệu sản xuất, ví dụ như sắt thép. Hoặc là nếu theo sự điều tra của Mỹ mà thấy rằng Trung Quốc đưa hàng sang Việt Nam nhằm lấy lại chứng thư xuất xứ (Certificate of Origin - C/O) để xuất khẩu qua Mỹ với tư cách hàng Việt Nam, thì rõ ràng là chính phủ Mỹ sẽ nhắm vào những hàng hóa đó.Nếu như hàng Trung Quốc bị tăng thuế cho nên phải đưa sang Việt Nam để thay đổi nguồn gốc, thì ở Việt Nam cũng có luật về xuất xứ, có nghĩa là hàm lượng chế biến từ Việt Nam chiếm bao nhiêu phần trăm thì mới được coi là xuất xứ từ Việt Nam. Cho nên tôi nghĩ là còn nhiều ẩn số mà câu trả lời chưa xác đáng.Nhưng đối với những mặt hàng chế biến đã là thành phẩm xuất khẩu sang Hoa Kỳ thì có thể là không sợ bị áp thuế, do giá tốt, hoặc là do mình chỉ bán cho cộng đồng người Việt, hoặc do đó là những mặt hàng mà doanh nghiệp Mỹ không sản xuất được. Bằng chứng là nhiều hãng cà phê của Việt Nam đã có mặt ở Hoa Kỳ. Tóm lại, tùy theo mặt hàng mà việc tăng thuế có tác động gây phương hại nhiều hay ít.Chính vì vậy là những doanh nghiệp như VINACACAO hiện giờ cảm thấy an tâm theo lời ông Francesco Trần Văn Liêng: "Chúng tôi bán thành phẩm, tức là tới tay người tiêu dùng không phải là dưới dạng nguyên liệu, cho nên giá cả của chúng tôi cũng là giá cả ở mức độ phổ quát và dư địa cạnh tranh của chúng tôi còn nhiều đối với các mặt hàng ngoại quốc hay đối với ngay cả các mặt hàng nội địa của Hoa Kỳ. Ví dụ hàng của VINACACAO bán trên Amazon. Amazon là một nền tảng phổ quát, cho nên có thể chúng tôi phải lo ngại, nhưng cho đến bây giờ thì số liệu cụ thể chưa có và cũng có thể là không tăng thuế. Tôi nghĩ là thuế quan hiện nay không trực tiếp vào giá thành riêng đối với mặt hàng thành phẩm. Còn các mặt hàng nguyên liệu thì sẽ bị ảnh hưởng. Chỉ cần 2, 3 hay 5% tăng thuế thì cũng đủ làm cho giá cả của mặt hàng nguyên liệu này mất tính cạnh tranh. Cho nên VINACACAO cảm thấy tương đối an tâm, vì hàng của mình là thành phẩm" Theo chuyên gia Nguyễn Mạnh Hùng, với gần một phần ba lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là sang Hoa Kỳ, Hà Nội sẽ cần cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc hàng hóa và linh kiện để xua tan lo ngại về khả năng Việt Nam chỉ được sử dụng làm nơi lắp ráp cho các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc. Về điểm này, ông Francesco Trần Văn Liêng ghi nhận:" Việt Nam có luật về xuất xứ, có nghĩa là hàm lượng sản xuất tại Việt Nam phải chiếm X,Y,Z% thì mới được cấp Certificate of Origin - C/O. Luật này đã được thi hành từ vài chục năm rồi, thành ra việc đội lốt hàng nước ngoài để lấy origin Việt Nam thì tôi nghĩ là rất khó chứ không phải dễ. Nếu chuyện đó xảy ra thì cũng dễ tìm ra nguồn gốc thôi. Ví dụ như anh đem một tấn thép từ Trung Quốc sang Việt Nam rồi xuất khẩu thì quá lộ liễu, nhưng nếu anh dùng thép đó để sản xuất ra một cái thau, một cái muỗng, một cái chén.Hiện nay Mêhicô cũng làm như vậy. Kim ngạch xuất khẩu của Mêhicô sang Mỹ bình thường là 45 tỷ/năm tự nhiên tăng vọt lên đến gần 450 tỷ đôla. Dọc theo biên giới Mỹ có khá nhiều khu công nghiệp. Tại đây, Trung Quốc nay chế biến ra thành phẩm chứ không còn đưa vào Mêhicô nguyên liệu để xuất khẩu sang Mỹ."Việt Nam có thể bù đắp một phần thặng dư thương mại lớn của mình bằng cách tăng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, bao gồm cả khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG), dược phẩm và máy bay. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu chính quyền Việt Nam có ủng hộ các biện pháp đó hay không và các biện pháp đó có thể có tầm mức như thế nào. Deborah Elms, người đứng đầu chính sách thương mại tại Quỹ Hinrich , nhấn mạnh: "Tôi không nghĩ Việt Nam có thể mua nhanh và đủ để giảm đáng kể thặng dư của mình.”Financial Times trích lời ông Peter Mumford, giám đốc khu vực Đông Nam Á của Eurasia Group: "Thách thức lớn hơn là nền kinh tế tương đối nhỏ của Việt Nam chỉ có thể tăng nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Về mặt FDI, Hà Nội có thể thúc đẩy đầu tư khiêm tốn vào Hoa Kỳ, nhưng điều này sẽ không làm giảm bớt mối quan ngại về thương mại của Washington". Nhà đầu tư nước ngoài quan ngạiCác doanh nghiệp ngoại quốc tại Việt Nam cũng đang chờ xem chính sách thuế quan của Trump đối với Việt Nam sẽ như thế nào. Theo Financial Times, ông Hong Sun, chủ tịch Phòng Thương mại Hàn Quốc tại Việt Nam, cho biết: "Một số doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam lo ngại về khả năng áp thuế từ chính quyền Trump mới". Hàn Quốc từ lâu đã là một trong những nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng đầu của Việt Nam. Riêng tập đoàn điện tử Samsung là nhà đầu tư lớn nhất tại quốc gia này. Nếu Washington áp thuế đối với hàng hóa Việt Nam, các công ty Hàn Quốc có thể trì hoãn hoặc giảm đầu tư và sản xuất tại quốc gia này. Tương tự như các nhà đầu tư Hàn Quốc, các nhà cung cấp công nghệ Đài Loan đã xây dựng năng lực sản xuất tại Việt Nam như một phần trong chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng, nhưng họ cũng đang buộc phải tính đến việc chuyển sang phương án "Việt Nam + 1" trước khi ông Donald Trump trở lại làm tổng thống Hoa Kỳ. Tờ báo Nhật Bản Nikkei Asia, trích lời ông James Huang, chủ tịch Hội đồng Phát triển Ngoại thương Đài Loan (TAITRA), tại cuộc họp báo cuối năm của Hội đồng: "Tôi đã nói chuyện với nhiều giám đốc điều hành của các công ty lớn sau cuộc bầu cử Mỹ và họ nói với tôi rằng sau các yêu cầu 'Trung Quốc + 1' và 'Đài Loan + 1' trong nhiều năm qua, giờ đây họ được yêu cầu chuẩn bị cho kịch bản 'Việt Nam + 1' dưới thời Trump 2.0".Phương án "Trung Quốc + 1" và "Đài Loan + 1" có nghĩa là các nhà cung cấp xây dựng năng lực sản xuất bên ngoài hai trung tâm này để giảm thiểu rủi ro địa chính trị phát sinh từ căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng như căng thẳng ở vùng eo biển Đài Loan. Nhưng theo dự báo của ông James Huang, chính sách thương mại của Mỹ “sẽ thay đổi khi Trump trở lại Nhà Trắng, đặc biệt là khi thặng dư thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ đang tăng lên". Cho nên rất có thể các nhà đầu tư Đài Loan sẽ phải chuyển một phần cơ sở sản xuất từ Việt Nam sang một nước khác.
Việt Nam đã là một trong những nước hưởng lợi lớn nhất từ cuộc chiến thương mại của Donald Trump với Trung Quốc trong nhiệm kỳ đầu của ông. Nhưng theo nhật báo Anh Financial Times 18/11/2024, các tổ chức doanh nghiệp và nhà phân tích đã cảnh báo Hà Nội có thể trở thành kẻ thua cuộc lớn nhất nếu tổng thống đắc cử thực hiện lời đe dọa về thuế quan khi ông trở lại Nhà Trắng. Nhưng mối lo ngại này thật sự có cơ sở? Hãy còn quá sớm để có câu trả lời xác đáng. Việt Nam đã đạt được thặng dư thương mại lớn thứ tư với Hoa Kỳ trong những năm gần đây, chỉ sau Trung Quốc, Mêhicô và Liên Hiệp Châu Âu, do nhiều nhà sản xuất đã chuyển các nhà máy khỏi Trung Quốc để tránh tác động của thuế quan mà Trump áp đặt. Nhưng theo Finnacial Times, thành công theo kiểu "Trung Quốc+1" đó đã khiến Việt Nam rơi vào thế dễ bị tổn thương. Nền kinh tế của Việt Nam đã trở nên phụ thuộc rất nhiều vào Hoa Kỳ, hiện chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Theo dự báo, trong năm 2025, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ còn tăng thêm, dự kiến sẽ đạt khoảng từ 125 đến 130 tỷ đôla.Nhưng thách đố lớn nhất đối với xuất khẩu của Việt Nam sẽ là thuế quan. Trump đã tuyên bố sẽ áp thuế 60% đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và lên tới 20% đối với hàng hóa từ tất cả các quốc gia khác. Nhật báo Financial Times trích lời ông Marco Förster, giám đốc đặc trách ASEAN của hãng tư vấn đầu tư Dezan Shira & Associates tại Sài Gòn: "Việt Nam có thể sẽ bị giám sát chặt chẽ hơn, đặc biệt là đối với hàng quá cảnh qua Việt Nam để tránh thuế quan đối với Trung Quốc". Việt Nam, mục tiêu tiếp theo của Trump?Hãng tin Anh Reuters ngày 06/12/2024 cũng đã trích dẫn các giám đốc điều hành và nhà phân tích trong ngành công nghiệp nhận định: “Việt Nam dễ trở thành mục tiêu tiếp theo của chính quyền Trump về thuế quan do thặng dư thương mại của nước này với Hoa Kỳ đang tăng vọt”. Dữ liệu thương mại của Hoa Kỳ được công bố ngày 05/12 cho thấy thâm hụt của nước này với Việt Nam đã đạt 102 tỷ đô la trong mười tháng đầu năm 2024, tăng gần 20% so với cùng kỳ năm 2023. Deborah Elms, người đứng đầu chính sách thương mại tại Quỹ Hinrich, trụ sở tại Châu Á, cho biết: "Đối với Trump, thước đo chính là thâm hụt thương mại và con số của Việt Nam là rất tệ. Việt Nam là ứng viên lý tưởng cho (Trump) hành động sớm, bởi vì nước này không thể dễ dàng trả đũa".Cũng theo Reuters, tại một hội nghị do Phòng Thương mại Mỹ tổ chức ở Hà Nội, nhiều doanh nhân và đại diện hiệp hội thương mại đã bày tỏ lo ngại về khả năng Mỹ áp thuế đối với Việt Nam. Một dấu hiệu khác cho thấy Việt Nam có thể phải đối mặt với thuế quan mới của Mỹ, đó là Trump đã chọn ông Peter Navarro làm cố vấn cấp cao về thương mại và sản xuất. Trong các đề xuất của Dự án 2025, một tài liệu được nhiều nhà hoạch định chính sách ở Washington coi là kế hoạch hành động của chính quyền Trump 2.0, Navarro đã nói rằng áp thuế quan đối với Việt Nam sẽ rất hiệu quả trong việc cắt giảm thâm hụt thương mại của Hoa Kỳ.Hãng tin Reuters trích lời ông Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về các chuỗi cung ứng tại Đại học RMIT Việt Nam, nhắc lại: " Dưới thời chính quyền Trump, Navarro là một chuyên gia nổi tiếng chủ trương tăng quy mô ngành sản xuất của Mỹ, áp thuế quan cao và đưa về nước chuỗi cung ứng toàn cầu". Xuất khẩu thành phẩm thì không sợ?Thật ra hãy còn quá sớm để dự đoán mức thuế quan mà tân tổng thống Trump sẽ áp đặt đối với hàng xuất khẩu Việt Nam. Hơn nữa, một số mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ dưới dạng thành phẩm (finished products) có thể sẽ không bị áp thuế quan mới. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/01/2025, ông Francesco Trần Văn Liêng, Chủ tịch kiêm sáng lập viên Công ty cổ phần Ca cao Việt Nam VINACACAO, ghi nhận: "Hiện nay đúng là có một sự lo ngại, nhưng chúng ta chưa biết chắc là Hoa Kỳ sẽ tăng bao nhiêu thuế: Hoa Kỳ tăng thuế theo kiểu chiến tranh mậu dịch hay tăng thuế theo kiểu ngăn cản hàng hóa trao đổi giữa hai quốc gia, hoặc như ông Trump nói, muốn đem job (việc làm) ở hải ngoại về Mỹ? Tuy nhiên, thứ nhất, tôi thấy đầu tư của Mỹ ở Việt Nam không nhiều, thứ hai là thuế quan sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những mặt hàng là nguyên liệu sản xuất, ví dụ như sắt thép. Hoặc là nếu theo sự điều tra của Mỹ mà thấy rằng Trung Quốc đưa hàng sang Việt Nam nhằm lấy lại chứng thư xuất xứ (Certificate of Origin - C/O) để xuất khẩu qua Mỹ với tư cách hàng Việt Nam, thì rõ ràng là chính phủ Mỹ sẽ nhắm vào những hàng hóa đó.Nếu như hàng Trung Quốc bị tăng thuế cho nên phải đưa sang Việt Nam để thay đổi nguồn gốc, thì ở Việt Nam cũng có luật về xuất xứ, có nghĩa là hàm lượng chế biến từ Việt Nam chiếm bao nhiêu phần trăm thì mới được coi là xuất xứ từ Việt Nam. Cho nên tôi nghĩ là còn nhiều ẩn số mà câu trả lời chưa xác đáng.Nhưng đối với những mặt hàng chế biến đã là thành phẩm xuất khẩu sang Hoa Kỳ thì có thể là không sợ bị áp thuế, do giá tốt, hoặc là do mình chỉ bán cho cộng đồng người Việt, hoặc do đó là những mặt hàng mà doanh nghiệp Mỹ không sản xuất được. Bằng chứng là nhiều hãng cà phê của Việt Nam đã có mặt ở Hoa Kỳ. Tóm lại, tùy theo mặt hàng mà việc tăng thuế có tác động gây phương hại nhiều hay ít.Chính vì vậy là những doanh nghiệp như VINACACAO hiện giờ cảm thấy an tâm theo lời ông Francesco Trần Văn Liêng: "Chúng tôi bán thành phẩm, tức là tới tay người tiêu dùng không phải là dưới dạng nguyên liệu, cho nên giá cả của chúng tôi cũng là giá cả ở mức độ phổ quát và dư địa cạnh tranh của chúng tôi còn nhiều đối với các mặt hàng ngoại quốc hay đối với ngay cả các mặt hàng nội địa của Hoa Kỳ. Ví dụ hàng của VINACACAO bán trên Amazon. Amazon là một nền tảng phổ quát, cho nên có thể chúng tôi phải lo ngại, nhưng cho đến bây giờ thì số liệu cụ thể chưa có và cũng có thể là không tăng thuế. Tôi nghĩ là thuế quan hiện nay không trực tiếp vào giá thành riêng đối với mặt hàng thành phẩm. Còn các mặt hàng nguyên liệu thì sẽ bị ảnh hưởng. Chỉ cần 2, 3 hay 5% tăng thuế thì cũng đủ làm cho giá cả của mặt hàng nguyên liệu này mất tính cạnh tranh. Cho nên VINACACAO cảm thấy tương đối an tâm, vì hàng của mình là thành phẩm" Theo chuyên gia Nguyễn Mạnh Hùng, với gần một phần ba lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là sang Hoa Kỳ, Hà Nội sẽ cần cải thiện khả năng truy xuất nguồn gốc hàng hóa và linh kiện để xua tan lo ngại về khả năng Việt Nam chỉ được sử dụng làm nơi lắp ráp cho các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc. Về điểm này, ông Francesco Trần Văn Liêng ghi nhận:" Việt Nam có luật về xuất xứ, có nghĩa là hàm lượng sản xuất tại Việt Nam phải chiếm X,Y,Z% thì mới được cấp Certificate of Origin - C/O. Luật này đã được thi hành từ vài chục năm rồi, thành ra việc đội lốt hàng nước ngoài để lấy origin Việt Nam thì tôi nghĩ là rất khó chứ không phải dễ. Nếu chuyện đó xảy ra thì cũng dễ tìm ra nguồn gốc thôi. Ví dụ như anh đem một tấn thép từ Trung Quốc sang Việt Nam rồi xuất khẩu thì quá lộ liễu, nhưng nếu anh dùng thép đó để sản xuất ra một cái thau, một cái muỗng, một cái chén.Hiện nay Mêhicô cũng làm như vậy. Kim ngạch xuất khẩu của Mêhicô sang Mỹ bình thường là 45 tỷ/năm tự nhiên tăng vọt lên đến gần 450 tỷ đôla. Dọc theo biên giới Mỹ có khá nhiều khu công nghiệp. Tại đây, Trung Quốc nay chế biến ra thành phẩm chứ không còn đưa vào Mêhicô nguyên liệu để xuất khẩu sang Mỹ."Việt Nam có thể bù đắp một phần thặng dư thương mại lớn của mình bằng cách tăng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, bao gồm cả khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG), dược phẩm và máy bay. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu chính quyền Việt Nam có ủng hộ các biện pháp đó hay không và các biện pháp đó có thể có tầm mức như thế nào. Deborah Elms, người đứng đầu chính sách thương mại tại Quỹ Hinrich , nhấn mạnh: "Tôi không nghĩ Việt Nam có thể mua nhanh và đủ để giảm đáng kể thặng dư của mình.”Financial Times trích lời ông Peter Mumford, giám đốc khu vực Đông Nam Á của Eurasia Group: "Thách thức lớn hơn là nền kinh tế tương đối nhỏ của Việt Nam chỉ có thể tăng nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Về mặt FDI, Hà Nội có thể thúc đẩy đầu tư khiêm tốn vào Hoa Kỳ, nhưng điều này sẽ không làm giảm bớt mối quan ngại về thương mại của Washington". Nhà đầu tư nước ngoài quan ngạiCác doanh nghiệp ngoại quốc tại Việt Nam cũng đang chờ xem chính sách thuế quan của Trump đối với Việt Nam sẽ như thế nào. Theo Financial Times, ông Hong Sun, chủ tịch Phòng Thương mại Hàn Quốc tại Việt Nam, cho biết: "Một số doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam lo ngại về khả năng áp thuế từ chính quyền Trump mới". Hàn Quốc từ lâu đã là một trong những nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng đầu của Việt Nam. Riêng tập đoàn điện tử Samsung là nhà đầu tư lớn nhất tại quốc gia này. Nếu Washington áp thuế đối với hàng hóa Việt Nam, các công ty Hàn Quốc có thể trì hoãn hoặc giảm đầu tư và sản xuất tại quốc gia này. Tương tự như các nhà đầu tư Hàn Quốc, các nhà cung cấp công nghệ Đài Loan đã xây dựng năng lực sản xuất tại Việt Nam như một phần trong chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng, nhưng họ cũng đang buộc phải tính đến việc chuyển sang phương án "Việt Nam + 1" trước khi ông Donald Trump trở lại làm tổng thống Hoa Kỳ. Tờ báo Nhật Bản Nikkei Asia, trích lời ông James Huang, chủ tịch Hội đồng Phát triển Ngoại thương Đài Loan (TAITRA), tại cuộc họp báo cuối năm của Hội đồng: "Tôi đã nói chuyện với nhiều giám đốc điều hành của các công ty lớn sau cuộc bầu cử Mỹ và họ nói với tôi rằng sau các yêu cầu 'Trung Quốc + 1' và 'Đài Loan + 1' trong nhiều năm qua, giờ đây họ được yêu cầu chuẩn bị cho kịch bản 'Việt Nam + 1' dưới thời Trump 2.0".Phương án "Trung Quốc + 1" và "Đài Loan + 1" có nghĩa là các nhà cung cấp xây dựng năng lực sản xuất bên ngoài hai trung tâm này để giảm thiểu rủi ro địa chính trị phát sinh từ căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng như căng thẳng ở vùng eo biển Đài Loan. Nhưng theo dự báo của ông James Huang, chính sách thương mại của Mỹ “sẽ thay đổi khi Trump trở lại Nhà Trắng, đặc biệt là khi thặng dư thương mại của Việt Nam với Hoa Kỳ đang tăng lên". Cho nên rất có thể các nhà đầu tư Đài Loan sẽ phải chuyển một phần cơ sở sản xuất từ Việt Nam sang một nước khác.
Việt Nam chi khoảng 120 tỷ đồng, từ nguồn tài trợ và từ nguồn tài chính xã hội hóa, để tổ chức Triển lãm quốc phòng quốc tế lần thứ hai (19-22/12/2024). Đây là cơ hội để Việt Nam “chứng minh nền công nghiệp quốc phòng tự lực, tự chủ, tự cường, song vẫn sẵn sàng hợp tác với các nước có nền công nghiệp quốc phòng tiên tiến để học hỏi”, đặc biệt là những khách mời quan trọng như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Israel, Pháp, Anh, Tây Ban Nha. Việc tổ chức triển lãm quốc phòng là một thay đổi lớn trong quân đội Việt Nam, thường vẫn khá bí mật. Triển lãm quốc phòng quốc tế lần này có ý nghĩa và tầm quan trọng như thế nào đối với quân đội Việt Nam ? Nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc, trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.RFI : Việt Nam tổ chức triển lãm quốc phòng lần thứ hai, từ 19-22/12/2024. Triển lãm này dường như trở thành hoạt động thông lệ hai năm một lần. Sự kiện có ý nghĩa như thế nào cho Việt Nam và bộ Quốc Phòng ? Hà Nội trông đợi gì từ các nhà cung cấp thiết bị quân sự quốc tế tham gia ? Nguyễn Thế Phương : Sự kiện này sẽ mang hai hàm ý. Thứ nhất là gửi thông điệp tới trong nước rằng Quân đội Việt Nam có đủ khả năng và đủ sức mạnh để có thể bảo vệ lợi ích và chủ quyền của Việt Nam ở trên biển cũng như trên bộ. Đây là thông điệp rõ ràng và là thông điệp quan trọng nhất mà thông qua cuộc triển lãm lần này, có thể đưa ra.Thứ hai là với nước ngoài. Ở đây có một điểm là từ trước đến nay, truyền thống Quân đội Việt Nam là khá bí mật, bí mật trong cả quá trình phát triển, trưởng thành, đặc biệt hơn là bí mật trong quá trình phát triển vũ khí. Khoảng 5 đến 10 năm trở lại đây, sau một số cuộc thảo luận nội bộ, có vẻ như đảng và quân đội nhất trí rằng, thông qua triển lãm quốc phòng, quân đội sẽ có thể giới thiệu một số năng lực cho nước ngoài biết và từ đó sẽ gia tăng khả năng tạo dựng hình ảnh, cũng như gia tăng khả năng chống chịu trước những sức ép từ bên ngoài, mà thuật ngữ chuyên môn gọi là “khả năng răn đe”. Đọc thêm : Nga hụt hơi xích gần với Trung Quốc buộc Việt Nam cân nhắc nâng cấp quan hệ với Mỹ ?Điểm thứ ba là hoạt động triển lãm sẽ giúp cho Việt Nam tiếp cận được các nhà thầu quốc phòng nước ngoài quan trọng, nhằm đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân đội theo hướng tăng cường mối quan hệ giữa quân đội và ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam với ngành công nghiệp quốc phòng của các quốc gia mà Việt Nam đang có mối quan hệ rất tốt. Điểm này cũng nằm trong chính sách được tiến hành từ 5, 6 năm trở lại đây, bởi vì chiến tranh Nga-Ukraina, rồi những vấn đề về tranh chấp, xung đột khắp thế giới cho thấy một trong những cái cốt lõi nhất để có thể giúp cho Việt Nam và quân đội Việt Nam giữ vững được năng lực bảo vệ chủ quyền, đó là tự chủ, hoặc theo một số người nói là “tự chủ chiến lược”.Việt Nam kỳ vọng gì ? Nếu thông qua những gì đã được công khai, rõ ràng triển lãm quốc phòng lần thứ 2 này có quy mô lớn hơn rất nhiều so với triển lãm quốc phòng lần thứ nhất. Nếu nhìn vào các quốc gia tham gia triển lãm quốc phòng, có thể thấy là hầu như tất cả các nền công nghiệp quốc phòng lớn đều có mặt, đặc biệt hơn là những nền công nghiệp quốc phòng có vẻ như đang đối đầu nhau, ví dụ Nga - Mỹ, Iran - Israel đều tham dự. Điều đó giúp cho Việt Nam mở rộng không gian tương tác với các nền công nghiệp quốc phòng khác nhau, qua đó học hỏi kinh nghiệm từ họ, đặc biệt là từ những nền công nghiệp quốc phòng có tính tự chủ cao, học hỏi thêm một số công nghệ quốc phòng mà từ trước tới nay Việt Nam chưa tiếp cận được, cũng như mở rộng mối quan hệ để có thể thúc đẩy hơn hợp tác về công nghiệp quốc phòng trong tương lai.Ngoài ra, cũng hoàn toàn có khả năng là trong triển lãm lần này, sẽ có một số hợp đồng quốc phòng giữa Việt Nam và các nước được công bố. Chưa biết cụ thể là như thế nào, nhưng khả năng đó cũng rất là cao.RFI : Theo thiếu tướng Lê Quang Tuyến, phó chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, trong triển lãm năm 2022, có 5 hợp đồng được ký kết và năm nay dự kiến sẽ có các hoạt động tương tự. Như anh đề cập, quân đội Việt Nam có khả năng ký một số hợp đồng. Vậy những hợp đồng này có thể sẽ liên quan đến những hạng mục nào ? Việt Nam trông đợi gì từ những hợp đồng này ?Nguyễn Thế Phương : Thực ra, ở thời điểm hiện tại, rất khó nêu ra cụ thể những hợp đồng đó là gì, nhưng chắc chắn nó sẽ liên quan tới quá trình hiện đại hóa quân đội, theo đó Việt Nam có thể mua thêm một số vũ khí, khí tài, ví dụ liên quan tới không quân và một số loại công nghệ và vũ khí, khí tài liên quan tới lục quân. Không hẳn là Việt Nam sẽ mua một vũ khí mới hoàn toàn, nguyên chiếc, mà có thể là những hợp đồng mang tính chuyển giao công nghệ, hoặc những cái tạm gọi là MOU - ý định thư hoặc nghị định thư - mà Việt Nam tham gia vào việc chế tạo một số bộ phận của các loại vũ khí nào đó. Đây cũng là những điểm cần nhắc tới, bởi vì, như đã nói, mục tiêu là cải thiện năng lực của ngành công nghiệp quốc phòng nội địa và sẽ phải liên quan tới một số loại công nghệ lõi và công nghệ nguồn. Đọc thêm : Hoa Kỳ và Việt Nam thảo luận về việc mua bán máy bay vận tải quân sự C-130Thông qua triển lãm lần này và có thể là một số hoạt động hợp tác song phương và đa phương giữa Việt Nam và các đối tác khác, vấn đề chuyển giao công nghệ lõi, công nghệ nguồn, hoặc là Việt Nam tiếp cận một phần nào đó thông qua chuỗi sản xuất vũ khí, sẽ giúp cải thiện năng lực chế tạo của Việt Nam, bên cạnh việc Việt Nam có thể mua một số loại vũ khí hiện đại. Nhưng chủ yếu vẫn tập trung vào những quân chủng, binh chủng mà Việt Nam mong muốn tiến thẳng lên hiện đại, ở đây sẽ có hải quân và không quân. Ngoài ra sẽ có một số MOU có thể liên quan tới những lực lượng khác, ví dụ tác chiến điện tử, hoặc là tình báo tín hiệu hoặc những vấn đề tương tự.RFI : Triển lãm quốc phòng cũng là dịp để giới thiệu đến các đối tác quốc tế những vũ khí, trang thiết bị do Việt Nam chế tạo, được nhấn mạnh là “có những vượt trội”. Ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam hiện xuất khẩu những loại trang thiết bị quân sự nào ? Nguyễn Thế Phương : Theo một số thông tin gần đây, Việt Nam xuất khẩu một vài thứ khá đơn giản, ví dụ đạn dược, một số cấu phần của súng cho bộ binh và thuốc nổ. Hiện nay, vấn đề quan trọng nhất của một nền công nghiệp quốc phòng mà muốn phát triển một cách bền vững, đó là phải tìm hiểu và mở rộng thị trường cho sản phẩm quốc phòng đó. Triển lãm quốc phòng lần này cũng là dịp để Việt Nam có thể tìm hiểu thị hiếu, nhu cầu, cũng như tìm hiểu thông lệ trong việc buôn bán, trao đổi các mặt hàng vũ khí quốc phòng với các đối tác, tại vì danh sách các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu hiện nay không phải là lớn lắm. Đọc thêm : Việt Nam gần như không nhập khẩu vũ khí trong năm 2023Ngoài đạn dược, các cấu phần của súng, thuốc nổ, thì lác đác đâu đó còn là những mặt hàng có liên quan tới tàu. Nhưng tàu ở đây không phải là Việt Nam tự làm mà là liên doanh với một công ty nước ngoài, cụ thể ở đây là Damen (Hà Lan). Đã có thông tin Việt Nam xuất khẩu một số dạng tàu chở quân và tàu đổ bộ cho một số nước ở châu Mỹ Latinh và châu Phi chẳng hạn, nhưng sản phẩm đó là sản phẩm liên doanh. Điều này phần nào đó cũng cho thấy rằng việc hợp tác giữa một công ty Việt Nam và một công ty nước ngoài trong việc xây dựng và chế tạo các loại vũ khí, khí tài là một bước đi đúng đắn, sẽ giúp cho Việt Nam đẩy nhanh quá trình tiếp cận công nghệ và qua đó giúp cho các tổ hợp quốc phòng Việt Nam trưởng thành hơn.Sắp tới, tham vọng của Việt Nam là xuất khẩu một số loại vũ khí, khí tài công nghệ cao. Chẳng hạn trước đây Viettel cũng đã có hợp đồng tạm gọi là xuất khẩu một số “mô hình huấn luyện” cho các quốc gia như Indonesia, hoặc xuất khẩu các loại radar, máy bay không người lái. Triển lãm lần này cũng là dịp để họ tìm hiểu nhu cầu của thị trường về những sản phẩm công nghệ cao mà Việt Nam đã tự sản xuất được.RFI : Theo Reuters, Iran được cho là tham gia triển lãm quốc phòng ở Hà Nội trong khi nước này đang bị trừng phạt quốc tế. Tương tự, tập đoàn Nirinco Group của Trung Quốc, nằm trong danh sách trừng phạt của Mỹ. Liệu quyết định này có tác động đến hình ảnh của Việt Nam?Nguyễn Thế Phương : Thực ra, biện pháp trừng phạt đó sẽ liên quan tới việc mua sắm hơn là chỉ tham gia vào triển lãm. Họ đến Việt Nam mở gian hàng và họ có một số catalogue và trưng bày một số loại vũ khí hạng nhẹ. Điểm đó cũng không ảnh hưởng nhiều lắm tới “trừng phạt”. Trừng phạt là liên quan tới việc mua vũ khí của Iran, mua công nghệ của Iran, của Trung Quốc trong một số mảng cụ thể, chứ không phải là tất cả các mảng.Còn bảo là có ảnh hưởng tới hình ảnh hay không, thực ra cũng không ảnh hưởng mấy, bởi vì thông qua triển lãm này, Việt Nam còn gửi một thông điệp ngược lại. Chính sách đối ngoại của Việt Nam gần đây vẫn hay nói tới “ngoại giao cây tre”, cho nên việc mời cả Iran, Trung Quốc chứng tỏ rằng trong mảng an ninh quốc phòng nói riêng, Việt Nam chơi với tất cả các nước và đối xử với tất cả một quốc gia như nhau, bất kể là họ đang có đối đầu hay có căng thẳng. Đọc thêm : Các hãng công nghiệp quốc phòng Trung Quốc tham gia hội chợ vũ khí Việt NamRiêng về trường hợp của Trung Quốc, từ khoảng một năm trở lại đây, giao lưu hợp tác quốc phòng giữa hai bên dày đặc hơn. Việc cho phép tập đoàn Norinco tham gia triển lãm quốc phòng cho thấy mối quan hệ an ninh quốc phòng song phương có một điểm đáng để nhắc tới, chứ không phải là buồn tẻ như từ trước tới nay. Còn việc Việt Nam có mua hay không hoặc mua như thế nào thì đó lại là chuyện khác, không bàn tới. Chưa kể rằng họ mang vũ khí tới triển lãm này không phải chỉ giới thiệu cho Việt Nam, mà còn cho các nước khác nữa, bởi vì Việt Nam mời đại diện của hầu như tất cả các nước Đông Nam Á và các nước mà có quan hệ với Việt Nam tới tham gia triển lãm. Các nước này có thể mua bán, họ sẽ đặt hợp đồng qua lại lẫn nhau, chứ không phải chỉ cho Việt Nam. Vấn đề này cũng nên hiểu rõ như vậy.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.
Trong những năm gần đây, Hà Nội đã tăng tốc bồi đắp các đảo mà Việt Nam đang kiểm soát quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Hiện giờ Trung Quốc vẫn chưa có phản ứng gì, nhưng về lâu dài, vấn đề này có thể sẽ làm gia tăng căng thẳng giữa Hà Nội với Bắc Kinh. Vào năm 2013, Trung Quốc đã bắt tay vào một chương trình bồi đắp đảo quy mô lớn tại quần đảo Trường Sa, xây dựng cả cơ sở hạ tầng dân sự và quân sự, bao gồm đường băng sử dụng vào mục đích quân sự, trạm radar, bến cảng và nhà ở cho quân đội. Bắc Kinh khẳng định các cơ sở đó được xây dựng trên các thực thể mà họ kiểm soát và hành động của họ là "hợp pháp và chính đáng". Trong bài viết đề ngày 24/10/2024 đăng trên trang mạng của Trung tâm Truyền thông Châu Á ( Asia Media Centre ), nhà báo người Philippines Carla Teng, cố vấn truyền thông của trung tâm này, ghi nhận: “ Tại vùng Biển Đông đang có tranh chấp gay gắt, Việt Nam nay đã có cách tiếp cận quyết đoán hơn, mở rộng sự hiện diện quân sự thông qua các sáng kiến xây dựng đảo chiến lược. Chiến thuật này là một phần trong mục tiêu lớn hơn của Việt Nam nhằm củng cố các yêu sách lãnh thổ của mình trong khu vực, áp dụng các phương pháp tương tự như cách tiếp cận hung hăng của Trung Quốc”. Tác giả bài viết nhắc lại nhật báo Mỹ The Wall Street Journal gần đây đã nêu bật sự bành trướng nhanh chóng của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, cho thấy đất nhân tạo trong khu vực đã tăng gấp mười lần trong ba năm qua, dựa trên hình ảnh vệ tinh có độ phân giải cao của Maxar Technologies. Nhật báo Mỹ nêu chi tiết về việc xây dựng các bến cảng, chiến hào phòng thủ và có thể là các đường băng được mở rộng để sử dụng vào mục đích quân sự. Tờ báo lưu ý rằng những hành động này rất giống với các dự án xây dựng đảo nhân tạo trước đó của Trung Quốc, bao gồm cơ sở hạ tầng quân sự? như tháp quan sát và đường băng. Tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) vào tháng 6/2024 cho biết Việt Nam đã bồi đắp thêm 692 mẫu Anh ( acre ), tương đương với khoảng 2.770 km2, vào 10 thực thể kể từ tháng 11 năm 2023, nâng tổng diện tích bồi đắp đất lên khoảng 2.360 mẫu Anh, tức là khoảng một nửa so với 4.650 mẫu Anh của Trung Quốc. Điều này đánh dấu sự thay đổi đáng kể so với tổng diện tích trước đó của Việt Nam chỉ là 329 mẫu Anh cách đây ba năm. Một ví dụ cụ thể đó là vào tháng 9/2020, sự hiện diện của Việt Nam trên rạn san hô Đá Thuyền Chài ( Barque Canada Reef ) chỉ giới hạn ở ba tiền đồn nhỏ trên các bệ bê tông. Đến tháng 8/2024, sau khi nạo vét sâu rộng, rạn san hô này đã trở thành thực thể lớn nhất của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa. Tương tự như thế: Vào tháng 3/2021, Đảo Namyit trải dài 13 mẫu Anh trong một rạn san hô dài hai dặm. Đến tháng 6/2024, sau khi tiến hành công trình lớn, nó đã trở thành một trong những thực thể lớn nhất của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa, với một bến cảng lớn được nạo vét ở trung tâm. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 31/10/2024, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt cũng ghi nhận:"Những hình ảnh vệ tinh của một số trang như trang của CSIS ( Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược ) cũng đã cho thấy rõ ràng khả năng này là hoàn toàn có. Phía Việt Nam không đưa thông tin nhiều, nhưng cũng không phản bác thông tin từ những trang đó. Thật ra việc Việt Nam phải tôn tạo những đảo mà họ kiểm soát là chuyện bình thường, bởi vì thứ nhất là các công trình trên biển có tuổi thọ không lớn, do sự tàn phá của môi trường biển, nước biển, gió biển mang hàm lượng muối cao, cho nên nhiều thực thể dễ bị sụp đổ. Trong quá khứ, các dàn khoan dầu khí của Việt Nam cũng đã bị sụp đổ nhiều lần rồi, cho nên cứ sau một thời gian là phải tôn tạo. Đó là chuyện bình thường.Thứ hai, có lẽ Việt Nam không làm giống như Trung Quốc, tức là quân sự hóa các thực thể mà Việt Nam đang chiếm giữ. Cái quan trọng là Việt Nam muốn phát triển các thực thể đó thành những cứ điểm để có thể cứu nạn, cứu hộ cho những ngư dân Việt Nam trên biển. Điều này cũng sẽ giúp Việt Nam tăng cường sức mạnh về cảnh sát biển, bởi vì các lực lượng trong đó có cảnh sát biển và lực lượng kiểm ngư của Việt Nam cũng cần phải giám sát các vùng biển để bảo vệ chủ quyền, đồng thời ngăn chận ngư dân đánh bắt bất hợp pháp trên vùng biển của những quốc gia khác.Cho nên mục tiêu của Việt Nam không phải là quân sự hóa, tức là đặt các cơ sở quân sự trên những đảo đó như Trung Quốc đã làm, mà thật ra thì Việt Nam cũng đâu có đủ tiềm lực để làm. Việt Nam chỉ tôn tạo những đường cho kiên cố hơn, hoặc là, theo tin của báo chí Mỹ, xây dựng các đường băng để tiếp tế hoặc sử dụng cho những trường hợp khẩn cấp, cấp cứu trên đảo. Máy bay hạ cánh xuống thì dễ hơn, chứ còn đi tàu thì rất lâu."Hà Nội cho tới nay vẫn im lặng về các nỗ lực cải tạo của Việt Nam, về mặt chính thức mô tả đó là các dự án nhỏ để xây dựng nơi trú bão cho ngư dân và ngăn chặn xói mòn.Nhưng một báo cáo tháng 9/2024 của John Pollock và Damien Symon, Viện Chatham House của Anh Quốc, cho rằng việc mở rộng của Việt Nam là một hành động chiến lược nhằm củng cố vị thế của mình trong các tranh chấp biển đảo với Trung Quốc và các quốc gia khác trong khu vực. Họ cũng suy đoán rằng Việt Nam sẽ sớm triển khai máy bay quân sự tầm xa tại các tiền đồn của mình, cho thấy sự quân sự hóa mạnh hơn nữa.Nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 25/10/2024 trích dẫn báo cáo của tổ chức Sáng kiến thăm dò tình hình chiến lược Biển Đông ( South China Sea Probing Initiative - SCSPI) cho biết chỉ trong 5 tháng qua, Việt Nam đã bồi đắp thêm hơn 2 km2 tại quần đảo Trường Sa ( mà Trung Quốc gọi là Nam Sa ). Như vậy là Hà Nội đã nâng cấp tổng cộng 11 trên 26 thực thể mà Việt Nam kiểm soát, những thực thể mà Bắc Kinh cũng khẳng định chủ quyền.Theo lời ông Hồ Ba ( Hu Bo ), giám đốc SCSPI, “Hà Nội đã liên tục mở rộng các thực thể mà họ chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa kể từ những năm 1970… và việc mở rộng đã có sự gia tăng đáng kể cả về tốc độ lẫn quy mô kể từ đợt mở rộng mới nhất bắt đầu vào tháng 10/2021”.Ông Trần Tương Miểu (Chen Xiang Miao), một nghiên cứu viên cộng tác tại Viện Nghiên cứu Nam Hải Quốc gia, trụ sở tại Hải Nam, cho biết Việt Nam đặt mục tiêu tận dụng việc xây dựng đảo của mình để tăng cường kiểm soát quần đảo Trường Sa, vì có khả năng thiết lập sự hiện diện liên tục của các tàu thực thi pháp luật trên biển và mở rộng việc triển khai các cơ sở quân sự tại đó. Ông cho biết: “Trước đây, Hà Nội duy trì một số lượng hạn chế các căn cứ ở quần đảo Trường Sa, chỉ có khả năng tiếp nhận các tàu nhỏ. Tuy nhiên, với những nâng cấp gần đây đối với các cơ sở cảng, Việt Nam đang sẵn sàng duy trì sự hiện diện liên tục của lực lượng thực thi pháp luật hàng hải, điều này sẽ tăng cường đáng kể quyền kiểm soát của Việt Nam đối với toàn bộ khu vực Trường Sa”.Theo ông Trần Tương Miểu, “những nâng cấp gần đây đối với các tiền đồn đã nâng cao năng lực của Việt Nam trong việc tiếp nhận các tàu lớn - từ hàng ngàn đến gần 10 ngàn tấn - cho thấy tiềm năng của họ về việc neo đậu tàu quân sự trong tương lai”. Ông cho biết các công trình phòng thủ đang được xây dựng doanh trại, pháo binh và các cơ sở quân sự khác. Dĩ nhiên, đối với nhà nghiên cứu Trung Quốc này, những nỗ lực nói trên của Việt Nam là nhằm chiếm đóng "bất hợp pháp và vĩnh viễn" các thực thể đó và như vậy sẽ đặt ra thách thức đáng kể đối với Trung Quốc, vì có thể thúc đẩy các hành động tương tự từ Philippines và các quốc gia khác cũng có yêu sách chủ quyền trên Biển Đông.Mặc dù đã có thái độ rất cứng rắn với Philippines trong các tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc cho tới nay vẫn im lặng một cách đáng chú ý về các hoạt động của Việt Nam. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt giải thích:"Gần đây có một số bài báo của các nhà phân tích nói đến việc tại sao Trung Quốc phản ứng gần như là im ắng trước việc Việt Nam tôn tạo một số thực thể như vậy, trong khi Trung Quốc lại rất căng thẳng với Philippines.Thứ nhất, Trung Quốc không phản đối bởi vì Trung Quốc mới là xây nhiều. Việt Nam chắc là không bao giờ theo kịp Trung Quốc trong việc tôn tạo các thực thể trên Biển Đông. Trung Quốc còn quân sự hóa các đảo đó, biến thành những tiền đồn. Việt Nam thì chắc là sẽ không có các tiền đồn. Cá nhân tôi có một lần đến Trường Sa thì thấy chủ yếu là dân, chứ không có nhiều căn cứ quân sự kiên cố, chủ yếu chỉ có một số vũ khí để đề phòng thôi, chứ không phải là những tiền đồn ghê gớm như của phía Trung Quốc. Thứ hai, có lẽ Việt Nam cũng khéo léo chọn thời điểm mà Trung Quốc cũng đang muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam và Việt Nam cũng đang cố gắng giữ quan hệ với Trung Quốc ở mức tốt đẹp để phía Trung Quốc không có phản ứng nhiều trong trường hợp này."Các chuyên gia cho rằng sự khác biệt trong thái độ của Bắc Kinh là do Trung Quốc duy trì trao đổi chặt chẽ với ban lãnh đạo mới của Việt Nam sau những thay đổi nhân sự cấp cao. Ngày 21/10/2024, tướng quân đội Lương Cường đã được Quốc Hội bầu làm chủ tịch nước mới, để kế nhiệm ông Tô Lâm, sau khi đi thăm Trung Quốc và hội kiến chủ tịch Tập Cận Bình. Trong cuộc gặp này, hai bên đã tái khẳng định cam kết tăng cường quan hệ giữa hai nước. Trước đó, tổng bí thư Tô Lâm đã đến thăm Trung Quốc vào tháng 8 trong chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi nhậm chức. Trong chuyến đi đó, ông đã cam kết giải quyết tranh chấp chủ quyền Biển Đông thông qua đối thoại. Sau khi dự một diễn đàn khu vực tại Lào, Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường đã đến Việt Nam để thảo luận với tổng bí thư Tô Lâm và thủ tướng Phạm Minh Chính, tạo cơ hội cho Bắc Kinh hàn gắn quan hệ với Việt Nam. Trong văn bản tuyên bố, Bắc Kinh và Hà Nội cam kết "kiềm chế không thực hiện các hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp". Ngoài ra, họ đã nhất trí khởi xướng các dự án phát triển hàng hải chung ở những khu vực ít nhạy cảm và cải thiện tương tác giữa các lĩnh vực quốc phòng và an ninh của họ. Theo chuyên gia La Lượng (Luo Liang), thuộc Viện Nghiên cứu Nam Hải Quốc gia, “những cuộc gặp gỡ thường xuyên giữa các quan chức cấp cao và các kênh liên lạc cởi mở, thông suốt giữa Trung Quốc và Việt Nam đã giúp giải quyết hiệu quả các bất đồng trên biển, giúp giảm thiểu tác động bất lợi đến quan hệ song phương”.Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, Bắc Kinh chưa muốn làm căng với Hà Nội về vấn đề bồi đắp các đảo cũng là do Trung Quốc đang cố hòa hoãn với Việt Nam, hay đi xa hơn là cố giữ Việt Nam trong vòng ảnh hưởng của mình:“Không phải bây giờ, mà từ xưa, Trung Quốc luôn giữ Việt Nam trong vòng cương tỏa, trong ảnh hưởng của mình. Xem lại hàng ngàn năm lịch sử, Trung Quốc biến Việt Nam thành một dạng thuộc địa hay chư hầu của mình. Với vị thế của Trung Quốc muốn trở thành một cường quốc lớn ở khu vực châu Á và của cả thế giới, đương nhiên Trung Quốc muốn các nước khu vực phải dưới sự chỉ đạo, kiểm soát của Trung Quốc.Phía Việt Nam thì hiểu rằng, Trung Quốc là một cường quốc mà lại là một láng giềng của Việt Nam, cho nên Việt Nam phải khéo léo phần nào. Nhưng Việt Nam cũng đang cố gắng tìm cách cân bằng, để không bị lệ thuộc vào Trung Quốc, qua việc thúc đẩy quan hệ với các quốc gia mà có khi lại là đối thủ của Trung Quốc, như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, cũng là những nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam. Thật ra thì Việt Nam cũng có mối quan hệ truyền thống với Nga, mà Nga - Trung là một mối quan hệ phức tạp, có những lúc hợp tác, có những lúc cạnh tranh. Chắc chắn là Trung Quốc sẽ luôn tìm mọi cách để Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc, nhưng làm được hay không thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố Việt Nam rất nhiều.”Tuy nhiên, nhật báo Hồng Kông South China Morning Post trích dẫn một số nhà phân tích cho rằng cho dù hai bên đã mở các kênh liên lạc để quản lý các tranh chấp, những bất đồng căn bản giữa hai nước láng giềng vẫn còn đó. Theo một phó giáo sư tại Quảng Châu chuyên về Biển Đông, xin được giấu tên, các hành động kiên quyết của Việt Nam trong việc bảo vệ các yêu sách của mình đang làm phức tạp thêm các nỗ lực trong tương lai của Trung Quốc nhằm khẳng định các quyền của họ ở Biển Đông. Theo học giả này, các cuộc đối đầu trên biển giữa Bắc Kinh và Hà Nội không chỉ dai dẳng, mà còn có khả năng leo thang trong tương lai, như vụ xảy ra trong tháng 10: Việt Nam cáo buộc Trung Quốc tấn công 10 ngư dân Việt Nam, khiến ba người bị gãy chân tay, ngư cụ bị hư hại và hải sản bị tịch thu.Có lẽ là để có thể tập trung đối phó với Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông, Việt Nam đã cố dàn xếp với Malaysia, khi Kuala Lumpur, theo tin Reuters ngày 04/11/2024, gởi một lá thư khiếu nại đến Hà Nội, cáo buộc Việt Nam mở rộng một đảo nhỏ ở quần đảo Trường Sa mà cả hai nước đều tuyên bố chủ quyền.Theo báo chí Việt Nam, phát biểu trong cuộc họp báo chung với thủ tướng Malaysia Anwar Ibrahim tại Putrajaya nhân chuyến thăm Malayisa ( 21-23/11), tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm cho biết Việt Nam và Malaysia đã nhất trí "tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ hơn để duy trì hòa bình ở Biển Đông". Hai nhà lãnh đạo cũng cam kết "tiếp tục hợp tác chặt chẽ với nhau để duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông và thúc đẩy giải quyết hòa bình các tranh chấp". Theo lời thủ tướng Anwar, hai bên còn đã "đồng ý tìm kiếm khả năng cùng nỗ lực trong ngành đánh bắt cá để thực sự có thể làm việc trên cơ sở tin tưởng và hữu nghị". Không những thế, nhân chuyến đi của ông Tô Lâm, Việt Nam và Malaysia đã đồng ý nâng cấp quan hệ song phương lên thành Đối tác Chiến lược Toàn diện
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong nhiều năm qua. “Trong 10 tháng năm 2024, thương mại Việt-Mỹ đạt gần 111 tỷ đô la, trong đó tăng mạnh mẽ hơn ở chiều xuất khẩu với kim ngạch gần 98,5 tỷ đô la, tăng 24,2% so với cùng kỳ”, theo báo Đầu Tư ngày 06/11. Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ sẽ sớm vượt ngưỡng 100 tỷ đô la, sau khi cũng ở mức khoảng 100 tỷ năm 2023. Mỹ chiếm hơn 1/4 tổng khối lượng xuất khẩu của Việt Nam. Những con số này sẽ không làm tân tổng thống Donald Trump hài lòng. Ông vẫn tuyên bố sẽ “mang việc làm về Mỹ”, tăng thuế hải quan 20% đối với mọi mặt hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ, riêng với hàng Trung Quốc ít nhất là 60%. Việt Nam có thể sẽ là một trong những nước ở châu Á bị tác động nặng nề nhất, theo nhận định của nhiều chuyên gia, được Japan Times trích dẫn ngày 12/11, do thặng dư thương mại với Mỹ quá lớn, gấp đôi so với nhiệm kỳ đầu của ông Trump. Ngoài ra, Việt Nam chưa hẳn đã được hưởng lợi lớn trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, được cho là sẽ trầm trọng hơn dưới thời ông Trump. Đọc thêm : Nếu đắc cử tổng thống, Trump sẽ lại "sờ đến" đến thặng dư thương mại của Việt Nam với MỹViệt Nam, “kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất” theo cách gọi của ông Trump, đang từng bước chuẩn bị đối sách. Ngay ngày 07/11, khi có số liệu chính xác về kết quả bầu cử, tổng bí thư Tô Lâm, chủ tịch nước Lương Cường và thủ tướng Phạm Minh Chính đã gửi điện chúc mừng, khẳng định “Việt Nam coi Hoa Kỳ là đối tác có tầm quan trọng chiến lược”. Đến ngày 11/11, theo báo Chính phủ, tổng bí thư Tô Lâm đã điện đàm với ông Donald Trump, “đánh giá cao những đóng góp của tổng thống đắc cử trong quá trình phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ”. Ông “cũng trao đổi với tổng thống đắc cử Donald Trump về một số phương hướng lớn nhằm tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước trong các lĩnh vực hai bên có thế mạnh và nhu cầu”.Ngoài ra, phải kể đến một sự kiện trùng hợp, có thể giúp Việt Nam “ghi điểm” trong mắt tổng thống tân cử Mỹ: Một tháng trước cuộc bầu cử, ngày 08/10/2024, công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc thông báo tập đoàn Trump (Trump Organization) đã đồng ý đầu tư xây dựng tổ hợp khách sạn, sân golf cao cấp tại tỉnh Hưng Yên, quê nhà của tổng bí thư Tô Lâm cũng như của những người thân cận với ông. Đọc thêm : Dự án tỷ đô tại quê nhà của tổng bí thư Tô Lâm, lá bài trói buộc Trump của Việt Nam ? Việt Nam sẽ còn phải có những đối sách nào khác trong khi rất phụ thuộc vào thương mại trên thế giới, xuất khẩu chiếm khoảng 85% nền kinh tế và Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất của Việt Nam ? Giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ, trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt về chủ đề này.RFI : Thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ sẽ vượt qua 100 tỷ đô la Mỹ vào năm 2024. Ông Donald Trump từng gọi Việt Nam là “kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất” vào thời điểm mà thặng dư chỉ bằng một nửa hiện nay. Việt Nam sẽ chịu những tác động như thế nào nếu ông Trump thực hiện lời đe dọa nâng thuế nhập khẩu và “rờ” đến những nước xuất siêu sang Mỹ, trong đó có Việt Nam ?Alexander Vuving : Tôi nghĩ là nếu chính quyền Trump áp thuế xuất nhập khẩu vào hàng hóa của Việt Nam thì đương nhiên nó sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng ảnh hưởng nhiều hay ít thì phụ thuộc vào tỉ lệ mà người ta áp thuế. Ví dụ áp thuế 1-2% khác với cả áp thuế 5-7% và khác với cả áp thuế 10-15%. Bây giờ cũng không thể biết được là chính quyền Trump sẽ áp thuế đến mức độ nào.Thứ hai, cũng không biết là họ sẽ áp thuế những mặt hàng nào. Có thể họ sẽ áp toàn bộ các mặt hàng ở một mức nào đó. Nhưng khả năng là có thể cho tất cả các nước, cũng có thể là chỉ tùy mặt hàng. Ảnh hưởng đến xuất khẩu Việt Nam chắc chắn là sẽ có, nhưng nhiều hay ít thì chưa thể nói được, vì nó còn phụ thuộc vào những số liệu cụ thể mà người ta sẽ đưa ra.Các doanh nghiệp Việt Nam, khi mà thị trường của Mỹ eo hẹp như vậy, đương nhiên sẽ phải tìm những thị trường khác. Những thị trường tương đương với Mỹ, để xuất hàng hóa tương đương với Mỹ, thì khả năng lớn sẽ là những thị trường phía châu Âu. Cũng có thể là cả một số thị trường khác ở những nước đang phát triển hoặc cũng có những nước Trung Đông, nhưng chủ yếu chắc sẽ là những thị trường châu Âu. Đọc thêm : Việt Nam mua vũ khí lớn của Mỹ: Bước ngoặt trong quan hệ quốc phòng song phương?Ngoài ra, chính phủ Việt Nam cũng sẽ có những phản ứng, chẳng hạn tìm cách xoa dịu Mỹ bằng cách có thể là hối thúc các doanh nghiệp Việt Nam mua thêm hàng của Mỹ để cân bằng lại cán cân thương mại. Hoặc là sẽ có những động thái nào đó, có thể không thuộc phạm trù kinh tế, để xoa dịu Mỹ và cho thấy là Việt Nam có những thiện chí đối với Mỹ, để từ đó làm cho họ giảm thuế suất đi chẳng hạn. Thậm chí rất có thể Việt Nam cũng nghĩ đến chuyện mua vũ khí của Mỹ và lấy cái đó để làm một đòn bẩy nhằm giảm mức độ Mỹ áp những chính sách khó khăn về kinh tế đối Việt Nam.Từ phía các nhà đầu tư chẳng hạn thì tùy thuộc vào mức độ ảnh hưởng mà họ sẽ phải đi tìm những nơi khác để đầu tư, bởi vì họ xem những chỗ nào đầu tư có lãi hơn. Nói chung là hoàn toàn phụ thuộc rất nhiều vào những con số cụ thể.RFI : Việt Nam bị coi trở thành trung gian cho các sản phẩm của Trung Quốc nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Biện pháp này được sử dụng rất nhiều. Việt Nam sẽ phải đối mặt với những rủi ro nào trong trường hợp chiến tranh thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ xảy ra và có thể trầm trọng hơn dưới thời tổng thống Donald Trump, cùng với lời đe dọa của ông là đánh thuế hải quan lên đến 60% đối với sản phẩm của Trung Quốc?Alexander Vuving : Vâng, cái này cũng phụ thuộc vào việc chính quyền Trump sẽ nhìn nhận như thế nào. Họ sẽ đánh giá mức độ mà Việt Nam làm “trung gian” để đưa hàng Trung Quốc sang Mỹ. Tôi nghĩ là họ sẽ gây áp lực về vấn đề đó, bởi vì trên thực tế, có nhiều mặt hàng mà mức độ “xử lý” ở Việt Nam không nhiều, chủ yếu là hàng từ Trung Quốc, sau đó được xử lý một chút, rồi dán mã Việt Nam và đưa sang Mỹ. Đọc thêm : Chiến tranh thương mại với Mỹ : Những bước chuẩn bị của châu ÁThế thì người ta sẽ điều tra ra sao? Thứ nhất là nếu không điều tra được thì họ sẽ đánh thuế theo mức độ “mặc định” và nhiều khả năng là nó sẽ quá lớn, có hại cho Việt Nam. Thứ hai, trong vấn đề này, chính quyền Việt Nam cũng có thể tìm cách hợp tác với Mỹ, để cho Mỹ thấy rằng họ có thiện chí trong việc hạn chế những luồng “thương mại trung gian”, tức là đi từ Trung Quốc sang rồi xử lý phết phẩy một chút ở Việt Nam và đưa sang Mỹ, hoặc trong vấn đề “kiểm soát đầu tư” của Trung Quốc ở Việt Nam, để nâng cao tính nội địa của Việt Nam.Tôi nghĩ chắc chắn là Việt Nam sẽ tìm cách tỏ thái độ thiện chí và hợp tác với Mỹ, để từ đó phía chính quyền Trump sẽ giảm mức độ trừng phạt. Có thể thấy là còn phụ thuộc rất nhiều. Chính quyền Trump sử dụng cái gì thì mình cũng không biết được, bởi vì họ không theo những mô hình mà mình đã thấy từ trước.RFI : Việt Nam được cho là hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung trong những năm, qua nhưng cuộc chiến này có lẽ sẽ còn nghiêm trọng hơn dưới thời Trump nhiệm kỳ 2. Liệu Việt Nam có tiếp tục được hưởng lợi nữa hay không ?Alexander Vuving : Chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc khả năng rất lớn là sẽ xảy ra trong thời của ông Trump. Và như thế Việt Nam đương nhiên là sẽ hưởng lợi, bởi vì vị trí của Việt Nam khiến cho Việt Nam có thể thành một trong những nơi được hưởng lợi lớn nhất. Hễ có xung đột thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc thì Việt Nam sẽ được hưởng lợi. Đọc thêm : Việt Nam : Nắm cơ hội, sửa điểm yếu để thu hút doanh nghiệp rời Trung QuốcLợi ít hay lợi nhiều thì còn phụ thuộc vào việc Mỹ sẽ có những trừng phạt nhất định đối với những kẻ mà họ cho là hưởng lợi một cách “không chính đáng”. Cho nên điều này còn phụ thuộc vào sự trừng phạt của Mỹ là mạnh hay yếu. Cho Việt Nam đương nhiên hưởng lợi chừng nào có chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng sự hưởng lợi này sẽ đi kèm với sự “bị trừng phạt”. Và “sự trừng phạt” thì như đã nói ở trên, mức độ có thể nhiều hoặc ít.RFI : Quy chế nền kinh tế thị trường mà Việt Nam kêu gọi Mỹ trao cho từ lâu liệu sẽ không được thực hiện ngay dưới thời của ông Donald Trump ?Alexander Vuving : Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy. Tức là về vấn đề quy chế thị trường, nếu nói về những tiêu chí một cách khách quan, thì khả năng lớn là Việt Nam không đạt được, bởi vì mức độ can thiệp của nhà nước vào thị trường ở Việt Nam là có hệ thống.Sự can thiệp này không chỉ có hệ thống mà còn nằm trong chủ trương, chính sách. Chủ trương, chính sách của Việt Nam, từ Hiến Pháp, từ nghị quyết, từ tất cả những văn bản chính thức, đều nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ngoài ra còn nói rõ thêm về vai trò trụ cột của nền kinh tế quốc doanh. Với những điểm như vậy thì Việt Nam không thể nào đạt được những tiêu chí kinh tế thị trường như Mỹ đưa ra. Đọc thêm : Được Mỹ công nhận là kinh tế thị trường: Không đơn giản đối với Việt NamVấn đề còn lại chỉ là chính quyền Mỹ, vì những lý do khác ngoài lý do kinh tế, ví dụ do quan hệ ngoại giao, địa-chính trị hay gì đó, mà họ nới lỏng cho Việt Nam, họ công nhận Việt Nam có kinh tế thị trường, để mà có quan hệ như thế nào với Việt Nam. Liệu những lý do chính trị và ngoại giao đấy có đủ mạnh để chính quyền Mỹ chấp nhận để bên bộ Ngoại Giao, rồi phía Nhà Trắng can thiệp vào công việc của bộ Thương Mại, ép bộ Thương Mại cho Việt Nam được hưởng quy chế thị trường hay không, điều này cũng phụ thuộc vào vấn đề đó.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Honolulu, Hawaii, Hoa Kỳ.
Để bảo đảm an ninh năng lượng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn thực hiện được cam kết về chống biến đổi khí hậu, Việt Nam đang muốn quay trở lại với các dự án điện hạt nhân đã bị bỏ dở trước đây. Vào giữa tháng 9 vừa qua, chính phủ Hà Nội đã giao cho bộ Công Thương nghiên cứu việc phát triển điện hạt nhân của các nước, “để đề xuất phát triển loại năng lượng này tại Việt Nam trong thời gian tới”. Trên cơ sở đó, chính phủ “sẽ báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định”.Trên thế giới hiện nay, nhiều nước đang quay lại điện hạt nhân để chống biến đổi khí hậu vì hạt nhân là nguồn điện hầu như không phát thải CO2. Vào năm 2009, Quốc Hội Việt Nam đã phê duyệt kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuân, với tổng cộng 4 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất 4.000 MW. Các hợp đồng được giao cho tập đoàn Nhật Bản Japan Atomic Power Co và tập đoàn Nga Rosatom thực hiện, với tổng chi phí khoảng 8,9 tỷ đô la.Nhưng một phần do những quan ngại từ tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 và một phần do khó khăn về ngân sách vào thời gian đó, dự án này đã dừng lại vào năm 2016 theo quyết định trong Nghị quyết 31 năm 2016 của Quốc Hội. Đến năm 2022, khi giám sát về việc thực hiện nghị quyết này của Quốc Hội, Ủy ban Kinh tế đã đề xuất nên xem xét phát triển năng lượng hạt nhân “trên cơ sở đánh giá đầy đủ, khoa học, chính xác thực trạng và dự báo cung cầu năng lượng”.Nay nhu cầu phát triển điện hạt nhân càng trở nên cấp thiết do Việt Nam đang gặp nhiều trở ngại trong chiến lược phát triển các nguồn năng lượng sạch, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và khí đốt thiên nhiên, do các vấn đề về quy định và giá cả.Trả lời RFI Việt ngữ ngày 27/09/2024, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, cũng cho rằng đã đến lúc phải xem xét trở lại khả năng phát triển điện hạt nhân:“Trong bối cảnh chung , rõ ràng là khi kiểm tra lại các phương án, chúng ta có thể xem xét trở lại vấn đề hạt nhân, vì năng lượng này có thể đóng góp phần lớn và tạo thêm bức tranh chung, tức là tiến đến thực hiện cho được cam kết netzero cũng như các phương án điện khác.Trước đây chúng ta gác việc ấy lại, nhưng bây giờ thấy cần thiết phải xem xét, nhưng đấy chỉ mới là xem xét thôi, chứ còn điện hạt nhân thì có nhiều loại lắm, vấn đề là xem xét loại nào. Bây giờ tình trạng chung các nước đều như thế cả, cho nên nước nào cũng sẽ xem xét phát triển điện hạt nhân, nhưng mỗi nước có một điều kiện riêng. Khi xem xét Việt Nam cũng phải dựa trên điều kiện của Việt Nam để đề ra những phương án cụ thể, chứ thực chất là các loại năng lượng tái tạo vẫn tốt, nhưng bao giờ cũng có những khó khăn”.Thật ra, theo hãng tin Anh Reuters, từ nhiều năm qua, Việt Nam đã vẫn tiếp tục thăm dò khả năng phát triển điện hạt nhân và đã thảo luận với những nước như Nga, Hàn Quốc và Canada về việc hỗ trợ phát triển các lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ. Việc phát triển điện hạt nhân hiện không được đề cập trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đến 2030 ( Quy hoạch điện VIII ), nhưng trong báo cáo gửi các bộ ngành đề nghị góp ý cho dự thảo sửa quy hoạch này, bộ Công Thương có nhắc đến phát triển các nhà máy điện hạt nhân cỡ nhỏ (SMR) ở Việt Nam.Theo Bộ này, các lò phản ứng module nhỏ có công suất khoảng 300 MW mỗi tổ máy, bằng một phần ba công suất của các lò truyền thống. Các nhà máy này sản xuất lượng điện có hàm lượng carbon thấp, thời gian xây dựng ngắn (khoảng 24-36 tháng). Giáo sư Phạm Duy Hiển cũng đồng tình với việc phát triển các lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ phù hợp với điều kiện của Việt Nam:“Bây giờ nếu nói trở lại điện hạt nhân, ý kiến dứt khoát của tôi là không dùng điện hạt nhân như trước đây đã từng dự định làm ở Phan Rang theo mô hình các nhà máy thế hệ 3+, dùng công nghệ của Nga và của Nhật, rất là tốn kém, giải pháp về an toàn thì rất tốt, nhưng không cần thiết. Ví dụ như họ tính là nhà lò kiên cố đến mức mà máy bay có rơi thẳng xuống thì không sao cả. Để làm gì? Xác suất mà máy bay rơi xuống rơi xuống nhà lò thì cực kỳ thấp. Công nghệ đó có thể thích hợp với các nước tiên tiến. Bây giờ các nước đó xây những lò phản ứng cùng một lúc có thể cho ra hàng ngàn MW.Còn bây giờ theo điện hạt nhân thì phải theo option mới, mà một trong những option đó là lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ. Lò phản ứng này rất thích hợp vì không đòi hỏi nhiều về cơ sở hạ tầng về pháp lý, về xây dựng…, nhưng công suất tối đa chỉ 100, 200 MW, nên tất nhiên là phải cần nhiều lò.”Nhưng giáo sư Phạm Duy Hiển nhấn mạnh, hiện trên thế giới chưa có lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ nào sẵn sàng để được thương mại hóa:"Nước nào cũng nói như vậy nhưng đâu đã có ai bán lò công suất thấp với giá tương đối phải chăng. Bộ Công Thương nếu có trình dự án cho Bộ Chính trị thì cũng để đấy, vì phải có thêm thời gian nghiên cứu và cũng chờ cho đến khi nào các lò công suất thấp đó được thương mại hóa, chắc chắn là phải sau năm 2030".Nếu quyết định trở lại với các dự án phát triển điện hạt nhân, Việt Nam sẽ có thể trông chờ vào sự trợ giúp của nước nào? Trước mắt, có vẻ như Nga đang chiếm ưu thế trong số các đối tác tương lai của Việt Nam. Theo báo chí trong nước, trong chuyến thăm cấp nhà nước của tổng thống Nga Vladimir Putin ở Việt Nam vào tháng 6/2024, hai bên đã khẳng định "phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình là lĩnh vực hứa hẹn trong mở rộng hợp tác song phương giữa Việt Nam và Liên bang Nga."Nhân dịp đó, Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) và Bộ Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam đã ký bản ghi nhớ về lộ trình thực hiện Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân tại Việt Nam. Dự án này bao gồm lò phản ứng hạt nhân với công suất 10 MW sẽ được xây dựng tại thành phố Long Khánh (Đồng Nai).Thật ra thì ba nhiệm vụ quan trọng của lò phản ứng tại Long Khánh chỉ là sản xuất đồng vị phóng xạ, dược chất phóng xạ để chẩn đoán, điều trị ung thư; chiếu xạ silic tạo vật liệu bán dẫn; triển khai các nghiên cứu về ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và đồng vị phóng xạ. Nhưng đây được coi là cơ sở để "giúp nâng cao tiềm lực năng lượng nguyên tử cho Việt Nam trong giai đoạn tới", theo đánh giá của chính phủ Việt Nam. Hàn Quốc, một trong những quốc gia cũng có thế mạnh về năng lượng nguyên tử, cũng đã tỏ vẻ rất quan tâm đến khả năng phát triển loại năng lượng này ở Việt Nam. Theo báo chí trong nước, khi hội kiến chủ tịch nước Tô Lâm ngày 02/08, đại sứ Hàn Quốc Choi Young Sam bày tỏ mong muốn của Seoul tăng cường hợp tác với Hà Nội trong việc phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam. Trước đó, Công ty Thủy điện và Điện hạt nhân Hàn Quốc (KHNP) thuộc Công ty Điện lực Hàn Quốc (KEPCO) ngày 22/6/2023 tại Hà Nội đã ký kết biên bản ghi nhớ với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) về hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực điện nguyên tử và lò phản ứng module nhỏ (SMR).Việc phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam như đã nói ở trên phải cần nhiều năm, cho nên trước mắt, do nhu cầu tiêu thụ điện năng ngày càng lớn, Việt Nam phải cố gắng tiết kiệm điện, điều mà giáo sư Phạm Duy Hiển đã kêu gọi từ lâu:"Tôi thấy rất mừng là nước đã nhận ra rằng mức tiêu thụ điện năng của mình là quá cao so với nhiều nước khác. Do đó ngay cả EVN ( Tập đoàn Điện lực Việt Nam ) cũng đã đề nghị nhà nước phải có một chính sách tiết kiệm điện một cách triệt để, thậm chí đề ra mục tiêu là hàng năm phải tiết kiệm 2% điện năng. Đấy là một chủ trương rất tích cực, góp phần vào mục tiêu chung, chứ không chỉ có việc phát triển các năng lượng tái tạo và những vấn đề khác."
Việt Nam muốn Trung Quốc hỗ trợ trợ xây dựng đường sắt ở miền bắc để kết nối sáng kiến "Hai hành lang, Một vành đai" với "Sáng kiến Vành đai và Con đường" (BRI) của Trung Quốc. Theo ông Hùng Ba, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, hệ thống đường sắt này "sẽ kết nối Việt Nam với các nước châu Âu - Tây Á qua tuyến đường sắt liên vận. Việt Nam sẽ thành cửa ngõ để Trung Quốc kết nối với các nước ASEAN, đồng thời là đầu mối quan trọng kết nối ASEAN với châu Âu và Trung Á". Sáng kiến « Hai hành lang, Một vành đai », được Việt Nam và Trung Quốc thông qua năm 2004, là cụm từ gọi tắt của hành lang « Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng » và hành lang « Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng » và « Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ ». Sau nhiều năm cân nhắc bên phía Việt Nam, vấn đề hợp tác đường sắt được nhấn mạnh trong Điều 7 Tuyên bố chung ngày 20/08/2024, nhân chuyến công du Trung Quốc của tổng bí thư-chủ tịch nước Tô Lâm.Việt Nam được lợi ích gì từ những dự án này ? Vai trò của Việt Nam trong kế hoạch Vanh đai và Con đường của Trung Quốc ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.RFI : Việt Nam dự kiến nhiều kế hoạch hiện đại hóa hệ thống đường sắt từ lâu. Vào tháng 04/2024, sau khi thông báo ý định trên, Việt Nam đã kêu gọi Trung Quốc hỗ trợ trong khi dường như Việt Nam đã lưỡng lự trong thời gian dài. Tại sao lại chọn thời điểm này ? Và tại sao lại là Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Dường như Trung Quốc đang tìm cách thúc đẩy mối quan hệ kinh tế với Việt Nam thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng để xây dựng thiện chí và niềm tin song phương. Điều này đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh trong bối cảnh mất lòng tin dai dẳng do các yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc ở Biển Đông.Chúng ta thấy mong muốn hòa dịu và xích lại gần nhau giữa hai nước từ nhiều năm nay, được thể hiện rõ qua các chuyến thăm của nhiều quan chức cấp cao. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến thăm chính thức Việt Nam vào ngày 12 và 13/12/2023 theo lời mời của người đồng cấp Việt Nam lúc bấy giờ là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Trong chuyến thăm này, ông Tập đã nêu một dự án xây dựng đường sắt liên doanh có thể nằm trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc. Đọc thêm : Thăm Trung Quốc, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ thúc đẩy kết nối đường sắt giữa hai nướcSau đó, chủ đề này đã được thủ tướng Phạm Minh Chính nhắc lại trong chuyến thăm Trung Quốc từ ngày 24 đến 27/06/2024. Ông cho biết Việt Nam có kế hoạch xây dựng 3 tuyến đường sắt nối Trung Quốc trong khuôn khổ Sáng kiến Vành đai và Con đường, cụ thể là ba tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng ; Lạng Sơn - Hà Nội và Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng.Cuối cùng, chuyến thăm Bắc Kinh của tổng bí thư chủ tịch nước Việt Nam Tô Lâm vào ngày 19-20/08/2024 đã cho phép Trung Quốc và Việt Nam ký kết 14 thỏa thuận, nhằm tăng cường thương mại và kết nối biên giới, đặc biệt là kế hoạch đường sắt. Nhân dịp này, ông Tập Cận Bình khẳng định Việt Nam là « ưu tiên » trong chính sách ngoại giao láng giềng của Trung Quốc. Ông cũng cam kết mở rộng Sáng kiến Vành đai và Con đường bằng cách thúc đẩy xây dựng đường sắt, đường cao tốc và hải cảng.Tất cả những công bố và quyết định này đều nhất quán với Quy hoạch tổng thể đến năm 2050 với mục tiêu là kết nối mạng lưới đường sắt Việt Nam với tuyến đường sắt xuyên Á thông qua Trung Quốc và với mạng lưới đường sắt ASEAN thông qua Lào và Cam Bốt. Nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch, hai tuyến đường sắt cao tốc sẽ được xây dựng từ nay đến năm 2030 và sẽ nối các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc với các cảng trọng điểm Hải Phòng và Hà Nội.Cho nên theo tôi, có lẽ bối cảnh chung hiện nay được đánh dấu bởi nhiều yếu tố : mong muốn phát triển đường sắt của Việt Nam, nguồn vốn dồi dào và sẵn có bên phía Trung Quốc và cuối cùng là mong muốn của Trung Quốc giảm bớt căng thẳng với nước láng giềng phương Nam vào lúc căng thẳng có xu hướng gia tăng ở eo biển Đài Loan và biển Hoa Đông. Tất cả những yếu tố này giải thích cho động lực phát triển hiện nay trong hợp tác Việt - Trung.RFI : Người ta thường nói đến rủi ro hoặc « bẫy nợ » khi nhắc đến các khoản vay từ Trung Quốc. Vậy Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với những tác động như thế nào nếu nhận hỗ trợ từ Trung Quốc ? Liệu có thể có nguy cơ nào đó phụ thuộc vào Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Trong chuyến đi Trung Quốc vào tháng 06/2024, thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết chính phủ Việt Nam sẽ yêu cầu các cơ quan nghiên cứu soạn thảo một hiệp định liên chính phủ về việc triển khai ba tuyến đường sắt, trong đó nhấn mạnh đến « các khoản vay ưu đãi » từ Trung Quốc, « chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực » để Việt Nam có thể tự phát triển ngành công nghiệp đường sắt.Cũng cần lưu ý rằng bối cảnh hiện tại khá thuận lợi cho Việt Nam. Việc chuỗi cung ứng Mỹ và phương Tây rời khỏi Trung Quốc và tái tổ chức hoạt động, trong đó có Việt Nam, cũng đã buộc Trung Quốc phải tổ chức lại các mạng lưới chuỗi cung ứng sản xuất hướng sang Việt Nam. Đọc thêm : Việt Nam gia tăng sử dụng đường sắt Trung Quốc xuất hàng sang châu ÂuNhưng cũng cần phải cảnh giác vì Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu từ Trung Quốc, đặc biệt là thép, nhựa và linh kiện điện tử thiết yếu để sản xuất thành phẩm. Động lực kinh tế đã làm gia tăng thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc và lên đến 50 tỷ đô la vào năm 2023, tăng gần 50% trong 5 năm qua. Do đó, sự hội nhập của Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu về cơ bản là nhờ vào hàng nhập khẩu Trung Quốc và bị phụ thuộc vào nhập khẩu từ Trung Quốc. Rõ ràng, sự phụ thuộc này, nếu đi kèm với khoản nợ đáng kể với Trung Quốc liên quan đến đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là đường sắt, có thể gây ra rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam, kể cả « bẫy nợ ».Tuy nhiên, chúng ta có thể lưu ý rằng bẫy nợ cho đến nay vẫn gây nhiều tác động đến các quốc gia nhỏ hơn Việt Nam, như Sri Lanka hay Montenegro. Tương tự, cần phải nhớ rằng lợi ích đầu tiên của một chủ nợ, kể cả đó là một Nhà nước, là phải thu hồi vốn cùng với lợi nhuận, hơn là thấy « con nợ » chìm sâu trong vòng xoáy nợ nần. Dù sao vẫn phải luôn cảnh giác vì một Việt Nam yếu kém và phụ thuộc về tài chính có thể trở thành một lá bài về địa-chính trị cho Trung Quốc.RFI : Ngược lại, đâu là những lợi ích mà Việt Nam có thể được hưởng từ những chương trình đầu tư này ? Laurent Gédéon : Nhờ kết nối, vận tải hàng hóa và du lịch được cải thiện, Việt Nam có thể thu được nhiều lợi ích từ những khoản đầu tư này, cả về kinh tế lẫn chính trị :Trước hết, nhờ tăng cường kết nối, Việt Nam sẽ có thể tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương với các nước láng giềng ASEAN cũng như với Trung Quốc. Số lượng container được vận chuyển mỗi năm bằng đường sắt về nguyên tắc sẽ tăng lên, song song đó là giảm chi phí về hậu cần.Tiếp theo, ngành du lịch cũng sẽ được hưởng lợi nhiều nhờ sự gia tăng kết nối đường sắt này. Ngoài ra, sức hấp dẫn sẽ được tăng cường do tiết kiệm được đáng kể thời gian nhờ các mạng lưới đường sắt mới. Ví dụ, một chuyến tàu chở hàng từ Thành Đô hiện giờ mất khoảng bảy ngày để đến Hà Nội. Trước đây, hàng hóa từ Trùng Khánh về Việt Nam mất trung bình 20 ngày do phải đi đường biển qua Thượng Hải. Đọc thêm : Bắc Kinh và Hà Nội xem xét nâng cấp tuyến đường sắt xuyên qua vùng giàu đất hiếm của Việt NamCuối cùng, một tuyến đường sắt từ Trung Quốc xuyên qua Việt Nam có thể sẽ nâng tầm quan trọng của Việt Nam hơn về mặt chiến lược đối với Bắc Kinh và nâng cao vị thế của Hà Nội nếu nhìn từ góc độ Trung Quốc. Khi đó, Trung Quốc có lẽ sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc để Việt Nam là đối tác thân thiết trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang được tái cấu trúc, cũng như cạnh tranh Mỹ - Trung.Về mặt thực tiễn, các tuyến đường sắt được quy hoạch sẽ tích hợp mạng lưới của Việt Nam vào mạng lưới đường sắt xuyên Á, hiện có ba tuyến : tuyến ở giữa đi từ Côn Minh đến Lào và Bangkok ; tuyến phía tây đi qua Miến Điện và Thái Lan ; tuyến phía đông dự kiến đi qua Việt Nam, Cam Bốt và Thái Lan và kéo dài xuống phía nam tới Malaysia và Singapore.Cũng cần lưu ý rằng tuyến tàu chở hàng Trùng Khánh - Hà Nội hiện đã kết nối Việt Nam vào hành lang thương mại quốc tế đường bộ-đường biển mới International Land-Sea Trade Corridor (ILSTC). Xin nhắc lại rằng đây là hành lang thương mại và hậu cần có trung tâm hoạt động ở Trùng Khánh và kết nối với 190 cảng ở 90 quốc gia. ILSTC là một trong số nhiều hành lang thương mại trong Sáng kiến Vành đai và Con đường.Ngoài ra, còn phải nói đến tuyến đường sắt giữa Việt Nam và Lào đang được nghiên cứu, theo dự kiến sẽ được kết nối với tuyến đường sắt hiện có giữa Trung Quốc và Lào. Dự án này sẽ giúp Lào tiếp cận với lĩnh vực hàng hải và sẽ tạo ra các luồng trao đổi kinh tế có lợi cho Việt Nam.RFI : Liệu thông qua những tuyến đường này có thể coi là Việt Nam tham gia vào dự án Con đường tơ lụa mới của Trung Quốc không ? Laurent Gédéon : Trước tiên cần lưu ý rằng xét về mặt địa lý, Việt Nam nằm ở cực đông của tất cả các tuyến đường và điều này khiến Việt Nam phần nào nằm bên rìa so với những nước khác. Việt Nam chỉ có thể được đưa vào dự án Con đường Tơ lụa mới thông qua hai tuyến : đường biển và hành lang Đông Dương. Liên quan đến Con đường Tơ lụa trên biển, Việt Nam nằm ngoài dự án này vì chỉ có cảng Hải Phòng nằm trên tuyến đường dự tính ban đầu. Cho nên, khả năng lớn nhất để Việt Nam hội nhập vào Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) là thông qua các tuyến trên đất liền.Về mặt chính thức, Tuyên bố chung về Tăng cường Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện giữa Việt Nam và Trung Quốc và Xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai được công bố vào ngày 20/08, nhân chuyến thăm của Tô Lâm tới Bắc Kinh, nhấn mạnh đến việc « Hai bên nhất trí thúc đẩy kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước, thực hiện hiệu quả kế hoạch hợp tác gắn sáng kiến Việt Nam « Hai hành lang, một vành đai » với sáng kiến « Một vành đai, một con đường » của Trung Quốc ; đẩy mạnh « kết nối cứng » về đường sắt, đường cao tốc và cơ sở hạ tầng biên giới ; […] ; Trung Quốc cũng cam kết hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển quy hoạch các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn ». Do đó, việc đưa Việt Nam vào hệ thống, đặc biệt là những con đường tơ lụa mới trên đất liền, có lẽ là điều hiển nhiên. Đọc thêm : Việt Nam-Trung Quốc nhất trí xây dựng “Cộng Đồng Chia Sẻ Tương Lai”Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý đến một yếu tố mang tính chiến lược hơn và rất được Trung Quốc quan tâm trong kế hoạch này. Chúng ta thấy rằng tuyến Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng cũng kết nối cảng Phòng Thành Cảng ở vùng duyên hải Quảng Tây. Trong khi cảng này nằm gần dự án kênh đào Bình Lục (Pinglu). Kênh này được dự kiến kết nối Nam Ninh, thủ phủ khu tự trị Quảng Tây, với vịnh Bắc Bộ. Thông qua tuyến đường này, hàng hóa có thể từ eo biển Malacca đi bằng đường biển vào Quảng Tây, rồi từ đó được chuyển vào sâu trong lục địa Trung Quốc, tránh đi qua eo biển Đài Loan.Rõ ràng lợi ích của dự án này là rất lớn, ở cấp độ chiến lược bởi vì trong trường hợp xảy ra xung đột ở eo biển Đài Loan, Trung Quốc vẫn có thể vận chuyển thực phẩm và nguyên liệu thô qua kênh đào này, ngay cả khi toàn bộ tuyến đường Biển Đông, từ Hồng Kông đến Hoàng Hải, bị ngăn chặn. Với giả thuyết như vậy, chúng hiểu rằng Bắc Kinh cần phải duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Việt Nam để những luồng vận tải này không bị gián đoạn.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
Sau nhiều thăng trầm, quan hệ giữa Việt Nam và Vatican đã đạt được một bước tiến lớn với việc thông qua “Thỏa thuận Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú và Văn phòng Đại diện thường trú Tòa thánh tại Việt Nam”. Thỏa thuận đã được thông qua vào tháng 7/2023 khi chủ tịch nước của Việt Nam vào lúc đó là Võ Văn Thưởng thăm Tòa Thánh và gặp giáo hoàng Phanxicô. Đến ngày 23/12 vừa qua, Tòa thánh Vatican đã chính thức công bố việc Tổng Giám mục Marek Zalewski được giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Đại diện thường trú đầu tiên của Tòa thánh tại Việt Nam. Tổng Giám mục Marek Zalewski nguyên là Sứ thần Tòa thánh tại Singapore và đã kiêm nhiệm Đặc phái viên không Thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam từ năm 2018. Việt Nam là quốc gia Cộng Sản duy nhất mà Vatican có đại diện thường trú. Một sự kiện đáng chú ý khác trong quan hệ Việt Nam - Vatican đó là vào tháng 4 năm nay, lần đầu tiên một ngoại trưởng của Tòa thánh đến thăm Việt Nam, đó là Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher. Chính quyền Hà Nội thì từ lâu cũng đã công nhận vai trò của Giáo hội Công giáo trong đời sống xã hội ở Việt Nam thông qua các hoạt động thiện nguyện, giáo dục, y tế, dạy nghề…. Tuy đã đạt được những bước tiến lớn như vậy, Hà Nội và Vatican cho tới nay vẫn chưa có dấu hiệu nào sẽ sớm bình thường hóa bang giao. Thậm chí, trong chuyến tông du của giáo hoàng Phanxicô đến Đông Nam Á và Thái Bình Dương, ngài cũng đã không đặt chân đến Việt Nam mặc dù trước đó giáo hoàng cho biết rất muốn là lãnh đạo đầu tiên của Giáo hội Công Giáo Hoàn Vũ đến thăm quốc gia vốn đã cắt đứt bang giao với Vatican sau năm 1975. Vì sao giáo hoàng đã không đến thăm Việt Nam trong chuyến tông du Đông Nam Á và Thái Bình Dương lần này? Trả lời RFI Việt ngữ ngày 02/09/2024, giảng viên lịch sử Đông Nam Á Trần Thị Liên Claire, chuyên về lịch sử tôn giáo ở Việt Nam, Đại học Paris Cité, giải thích:“Rõ ràng đó là do những thay đổi nhân sự lãnh đạo chính trị trong những tháng gần đây. Trước hết là vụ từ chức bất ngờ ngày 20/03 của chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, người đã ký thỏa thuận với Roma về việc bổ nhiệm một đại diện thường trực của giáo hoàng ở Hà Nội. Tiếp đến là việc bổ nhiệm ông Tô Lâm làm chủ tịch nước ngày 22/05. Rồi đến ngày 19/07, tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng qua đời, sau đó ông Tô Lâm được Bộ Chính trị giao kiêm nhiệm tổng bí thư ngày 03/08.Những thay đổi nhân sự lãnh đạo kể từ tháng 3, và trong thời gian đó tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sắp qua đời nên rất khó cho Việt Nam đón tiếp giáo hoàng. Tôi cũng xin lưu ý là hồng y Parolin, nhân vật giống như là thủ tướng của Vatican, lúc đó đã thay mặt giáo hoàng gởi lời chia buồn đến chủ tịch Việt Nam và đã đề cao vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc cải thiện quan hệ giữa Vatican với Việt Nam. Bản thân ông Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng đến thăm Vatican năm 2013 và gặp giáo hoàng Benedicto 16.Đã có rất nhiều cuộc gặp cấp cao giữa hai bên, nhưng bối cảnh chính trị xáo trộn của Việt Nam trong những tháng gần đây giải thích vì sao không thể tổ chức chuyến thăm của giáo hoàng.”Như vậy là gần như sẽ không còn cơ hội cho giáo hoàng Phanxicô đến thăm Việt Nam như mong muốn của ngài, bởi vì vị lãnh đạo Giáo hội Hoàn vũ năm nay đã 87 tuổi rồi, sau chuyến tông du kéo dài đến 12 ngày lần này chắc là ngài sẽ không còn đủ sức để trở lại châu Á. Đây quả là điều rất đáng tiếc vì quan hệ giữa Tòa Thánh với Việt Nam đã được cải thiện đáng kể trong những thập niên qua, đặc biệt là thái độ nghi ngại của Hà Nội đối với Tòa Thánh đã giảm đi rất nhiều, thể hiện qua việc chấp nhận cho Vatican bổ nhiệm một đại diện thường trú ở Việt Nam, theo nhận xét của nhà nghiên cứu về lịch sử tôn giáo Việt Nam Trần Thị Liên Claire:“Năm 2023 đã cho thấy là sự nghi ngại của phía Việt Nam đối với Vatican đã xuống đến mức thấp nhất. Việc chủ tịch nước Võ Văn Thưởng vào tháng 07/2023 ký kết thỏa thuận lần đầu tiên chấp nhận cho Tòa Thánh bổ nhiệm một đại diện không thường trực ở Việt Nam là một sự kiện quan trọng. Đây là vị đại diện thường trực đầu tiên kể từ khi vị khâm sứ của Tòa Thánh ở miền bắc bị trục xuất vào năm 1959 và sau đó là khâm sứ ở miền nam bị trục xuất năm 1975. Cho dù Tổng Giám mục Marek Zalewski chỉ là đại diện thường trú chứ chưa phải là sứ thần hay khâm sứ của Tòa Thánh, nhưng coi như đây là một đại diện của giáo hoàng, một chức vụ có tính biểu tượng cao và quan trọng. Năm 2023 đánh dấu một bước ngoặt, nhất là với lời mời giáo hoàng đến thăm Việt Nam của chủ tịch nước lúc đó là Võ Văn Thưởng. Lời mời này được đưa ra một ngày sau khi chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kết thúc chuyến thăm Việt Nam.Rất có thể là chính sách của Việt Nam sẽ không thay đổi. Cho dù ông Tô Lâm không được xem là một nhân vật cấp tiến mà đúng hơn là một nhân vật bảo thủ, ở Việt Nam, chính sách tôn giáo không chỉ có liên hệ với tôn giáo, mà còn liên hệ với những mục tiêu về ngoại giao, kinh tế, chiến lược. Vị đại diện thường trực của Tòa Thánh sẽ làm việc với Ban Tôn giáo của chính phủ, với bộ Ngoại Giao và trong vài tháng nữa chúng ta sẽ biết chính sách của ông Tô Lâm sẽ như thế nào.Có thể nói là kể từ khi thời Đổi Mới, thái độ nghi ngại đó đã giảm đi rất nhiều. Không phải không còn những bất đồng, nhưng tình hình chính trị ở sẽ không ảnh hưởng đến những thay đổi trong ba thập niên qua.”Nói chung, đối với giảng viên Trần Thị Liên Claire, có thể nói là tiến trình bình thường hóa bang giao giữa Việt Nam và Vatican diễn ra chậm nhưng chắc:“Như tôi đã nói, vẫn còn những bất đồng, nhưng tôi muốn nhấn mạnh là đối thoại giữa hai bên chưa bao giờ bị gián đoạn, nhờ thái độ thực dụng của ba nhân tố chính: Đảng Cộng sản Việt Nam, Vatican và Hội đồng Giám mục Việt Nam.Diễn biến từ năm 1989, khi đại diện đầu tiên của giáo hoàng, hồng y Etchegaray, đến thăm Việt Nam, cho thấy tiến trình bình thường hóa bang giao từ 35 năm qua tuy chậm nhưng chắc. Tuy chưa có bình thường hóa, tức là chưa có một sứ thần của Tòa Thánh ở Việt Nam, nhưng từ năm 2007 đã có đến 5 lãnh đạo cao cấp của Việt Nam đã được tiếp ở Vatican: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai chủ tịch nước Trần Đại Quang và Võ Văn Thưởng. Không có một nước Cộng Sản nào là các lãnh đạo viếng thăm Vatican nhiều như Việt Nam, cho thấy là trao đổi diễn ra ở cấp cao nhất, chứ không chỉ ở cấp bộ trưởng Ngoại Giao. Những trao đổi cũng đã có từ năm 2009 với việc thành lập nhóm công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican. Nhóm này vẫn họp mỗi năm từ 2009 và đã đạt được kết quả là bổ nhiệm một đại diện thường trực của Tòa Thánh ở Việt Nam. Đối thoại giữa hai bên, chưa bao giờ bị gián đoạn, cũng đã giúp giải quyết vấn đề bổ nhiệm các giám mục, để cho các tu sĩ linh mục được đào tạo ở khắp nơi trên thế giới, cho phép Caritas, tổ chức thiện nguyện của Giáo hội, được hoạt động trở lại từ năm 2008.Có thể nói là đối thoại giữa từ ba thập niên qua đã giúp đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng đã cần rất nhiều thời gian. Câu hỏi đặt ra bây giờ là Việt Nam có thể lập quan hệ ngoại giao với Vatican trước Trung Quốc hay không? Liệu Trung Quốc có chấp nhận điều đó hay không? Cả Vatican và Việt Nam đều phải tính đến phản ứng của Trung Quốc. Hồng y Parolin, vốn vẫn rất tích cực trong các cuộc đối thoại, đã nhiều lần nói rằng mô hình của Việt Nam có thể được áp dụng cho Trung Quốc, nhất là về việc bổ nhiệm các giám mục, một vấn đề rất nhạy cảm. Điều chính yếu đối với ba tác nhân là phải duy trì đối thoại và giải quyết theo từng trường hợp một. Tôi nghĩ là sự hiện diện của Tổng giám mục Zalewski ở Hà Nội cũng sẽ giúp giải quyết vấn đề đó.Việc bình thường hóa quan hệ sẽ không diễn ra ngay trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, cũng như trong bối cảnh quan hệ giữa Vatican với Trung Quốc. Nhưng suy cho cùng thì điều đó có thật sự quan trọng không? Chủ yếu là phải làm sao cho cộng đồng tín hữu Công Giáo luôn có điều kiện thuận lợi nhất để sống đạo. Đó mới thật sự là điều quan trọng đối với Giáo hội Việt Nam và Vatican.”Thật ra thì theo cái nhìn của bà Trần Thị Liên Claire, đối với chính quyền Hà Nội, quan hệ tốt với Tòa Thánh có lợi cả về mặt kinh tế, lẫn địa chính trị:"Việt Nam là một trường hợp đặc biệt trong số các quốc gia Cộng sản, nhất là ở châu Á. Chính sách tôn giáo của Việt Nam không chỉ mang tính tôn giáo mà nằm trong chính sách chung về kinh tế, địa chính trị và quân sự. Trước hết là về kinh tế. Từ năm 1998, trong đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế được ban hành dưới thời Bill Clinton, Hoa Kỳ gắn liền quan hệ kinh tế với tự do tôn giáo. Vì muốn bằng mọi giá hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, phát triển hiệp định tự do mậu dịch với Hoa Kỳ và Liên Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải nỗ lực cải thiện tự do tôn giáo vì lý do kinh tế. Những tiến bộ đó đã góp phần giúp Việt Nam đạt được những thành quả kinh tế quan trọng. Đảng phải đạt thành công kinh tế để bảo vệ tính chính danh của mình, mục tiêu là duy trì mức tăng trưởng cao. Năm nay Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng đứng hàng thứ hai ở Đông Nam Á. Phải làm sao giữ chân các nhà đầu tư ngoại quốc, nhất là trong bối cảnh nhiều công ty đa quốc gia đã rời bỏ Trung Quốc để chuyển sang Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế đó, Việt Nam cần có quan hệ tốt với Vatican. Tuy đó không phải là yếu tố quyết định, nhưng mối quan hệ tốt đó là nhằm chứng tỏ Việt Nam đã có những nỗ lực về tự do tôn giáo.Lý do thứ hai là về mặt địa chính trị quốc tế. Việt Nam hiện là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ 2023-2025 và trước đó đã là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021, quan hệ tốt với Vatican cũng là thể hiện hình ảnh một quốc gia đáng tin cậy. Cho dù không thể so sánh Vatican với Hoa Kỳ, Liên Âu hay với các cường quốc châu Á như Ấn Độ hay Nhật Bản, nhưng Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách ngoại giao "cây tre", tức là giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc. Tòa Thánh chỉ là một nước nhỏ, nhưng là một quốc gia có tính biểu tượng cao.Lý do cuối cùng là về mặt quân sự. Theo chính sách đa phương hóa, Việt Nam phải tránh bị phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc trong bối cảnh căng thẳng ở Biển Đông. Quan hệ tối với Vatican cũng nhằm chứng tỏ với các cường quốc phương Tây là Việt Nam vẫn chủ trương đối thoại với các cường quốc này. Việt Nam hiện vẫn cố tìm những đối trọng với láng giềng Trung Quốc hùng mạnh. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến thăm Hoa Kỳ vào năm 2015 và được tổng thống Mỹ đón tiếp tại Nhà Trắng. Ngoại trưởng Antony Blinken đã đến Việt Nam chia buồn sau lễ quốc tang ông Nguyễn Phú Trọng trong tháng 7 và ông đã nhấn mạnh đến mối quan hệ đối tác chiến lược giữa Hoa Kỳ với Việt Nam. Tân chủ tịch nướcTô Lâm cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của quan hệ đối tác này và đã hoan nghênh sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho một nước Việt Nam vững mạnh, độc lập, tự chủ và thịnh vượng."
Mỹ sẽ tặng Việt Nam tàu tuần duyên thứ ba từ nay đến cuối năm 2024. Washington được cho là đang đàm phán bán máy bay vận tải C-130J cho Hà Nội. Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Năm thăm Mỹ đúng kỉ niệm một năm hai nước nâng cấp quan hệ song phương lên mức cao nhất - Đối tác chiến lược toàn diện. “Sự gia tăng hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong suốt năm qua” đã được bộ trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin nhấn mạnh khi tiếp đồng nhiệm Phan Văn Giang ngày 09/09. Tất cả những sự kiện này đánh dấu “giai đoạn mới trong hợp tác hữu nghị” giữa hai nước, cho đến nay “vẫn suôn sẻ và đi theo hướng mà cả hai nước đều mong muốn”. Để hiểu hơn về những chuyển biến mới trong quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt, đặc biệt là mức độ tin cậy nhau, RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.RFI : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam vừa kết thúc chuyến thăm Hoa Kỳ. Có thể hiểu đây là một dấu hiệu mới cho việc thắt chặt quan hệ quốc phòng và an ninh song phương ? Nguyễn Thế Phương : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Mỹ đợt này hơi đặc biệt tại vì chuyến thăm này khá dài, tầm 4-5 ngày, cho nên lịch trình sẽ dầy và tập trung nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở thời điểm hiện tại, chưa rõ cụ thể chương trình nghị sự của bộ trưởng Giang nhưng chuyến thăm này đánh dấu bước đi tiếp theo cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, bởi vì tháng 9 này kỉ niệm đúng một năm hai nước nâng cấp quan hệ. Đọc thêm : Nâng quan hệ Mỹ-Việt lên Đối tác chiến lược: Lợi ích và trở ngạiỞ đây cần nhấn mạnh đến một số điểm. Thứ nhất, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ ở thời điểm hiện tại thường vẫn được nhấn mạnh đến quan hệ kinh tế và thương mại, còn quan hệ an ninh và quốc phòng thường được đặt bên dưới. Chuyến thăm Mỹ lần này của bộ trưởng Giang phần nào đó sẽ giúp cho Việt Nam hiểu được Mỹ sẽ muốn gì trong mối quan hệ an ninh quốc phòng giữa hai bên trong tương lai. Và cũng để cho phía Mỹ hiểu rõ hơn là Việt Nam thực sự muốn gì ở Mỹ, đặc biệt trong vấn đề giúp Việt Nam cải thiện một số năng lực, nhất là năng lực hàng hải, hoặc những chuyển động quốc phòng sâu sắc hơn trong tương lai cho xứng tầm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Đây là điểm mấu chốt trong chuyến thăm của bộ trưởng Giang.Ngoài ra, có thể đây là chuyến thăm mở đường cho chuyến thăm của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sắp tới. Đây cũng là chuyến thăm để Việt Nam dò chính sách của Mỹ, đặc biệt trong bối cảnh chỉ còn hai tháng nữa là bầu cử tổng thống.RFI : Năm 2023 từng có thông tin Việt Nam và Mỹ bàn khả năng mua sắm chiến đấu cơ F-16 nhưng đàm phán bị dừng lại. Hiện tại có thông tin Mỹ đang thảo luận với Việt Nam về việc bán máy bay vận tải quân sự Lockheed Martin C-130J Hercules cho Hà Nội. Tại sao lại có sự thay đổi này ? Liệu việc mua máy bay, dù là máy bay vận tải, sẽ là một bước ngoặt cho mối quan hệ hợp tác giữa hai nước ?Nguyễn Thế Phương : Thông tin Việt Nam đàm phán với Mỹ về việc mua các loại vũ khí, khí tài của Mỹ, đặc biệt là F-16, đã xuất hiện từ cách đây 2, 3 năm chứ không phải là một vấn đề mới. Nhìn chung, nếu như Việt Nam mua vũ khí, khí tài của Mỹ thì đây cũng sẽ là một bước ngoặt. Đó sẽ là một dấu hiệu cho thấy mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai bên được nâng lên một tầm mức mới, bởi vì để Việt Nam mua vũ khí của Mỹ thì mức độ lòng tin chiến lược trong an ninh quốc phòng giữa hai bên, đặc biệt là từ phía Việt Nam đối với Mỹ, đã được nâng lên một tầm mức nào đó rồi.Việt Nam cũng đã chuẩn bị từ trước cho những quyết định mua sắm đó. Thứ nhất, Việt Nam gửi một số sĩ quan không quân, những đội hậu cần qua Mỹ để huấn luyện và học tập từ cách đây 2, 3 năm. Thứ hai, Việt Nam vừa mới khai trương một sân bay ở Phan Thiết. Người ta cho rằng sân bay này được dành cho việc triển khai một số loại máy bay huấn luyện sẽ mua của Mỹ trong tương lai. Có thể thấy Việt Nam đã chuẩn bị hết về nhân lực, cơ sở hạ tầng cho vấn đề mua sắm trang thiết bị vũ khí mà ở đây là các loại máy bay Mỹ. Đọc thêm : Hoa Kỳ và Việt Nam thảo luận về việc mua bán máy bay vận tải quân sự C-130Thông tin Việt Nam mua máy bay F-16 của Mỹ bị dừng lại cũng không phải là điều quá bất ngờ: Thứ nhất, F-16 là một loại vũ khí mang tính tấn công mà ở thời điểm hiện tại, nếu Việt Nam mua của Mỹ thì sẽ rất nhạy cảm, đặc biệt là đặt trong mối quan hệ với Trung Quốc. Bên cạnh đó, còn có một số yếu tố khác, mang tính kỹ thuật. Liệu hai bên có sẽ trao đổi vấn đề mang tính kỹ thuật về vũ khí, về bảo dưỡng, bảo trì không ? Đây cũng là điểm “nhạy cảm”. Việc Mỹ có cho phép mua vũ khí đi kèm hay không cũng là một chuyện cần bàn thảo sâu hơn trong tương lai. Hiện tại, những vấn đề đó dường như vẫn là những khúc mắc mà hai bên chưa giải quyết được.Trong khi đó C-130 chỉ là một loại máy bay vận tải phi tác chiến. Cho nên việc Việt Nam có khả năng mua C-130 cũng có thể được giải thích theo hướng là sẽ giúp Việt Nam cải thiện năng lực phòng thủ, năng lực không vận, vốn là năng lực mà Việt Nam vẫn còn yếu. C-130 mang tính phòng thủ, không mang tính tấn công, bớt tính nhạy cảm và một phần nào đó cũng giúp cải thiện quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong bối cảnh thâm hụt thương mại hiện nay nghiêng về Việt Nam quá lớn. Cho nên, mua sắm thêm vũ khí cũng là cách để Việt Nam gửi thông điệp rằng “chúng tôi muốn mở rộng hơn nữa hợp tác, đặc biệt là về thương mại”. Và trao đổi thương mại quốc phòng là một điểm mà Việt Nam đã và đang cân nhắc.RFI : Việc Nga, nước cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam, bị cấm vận và phải dồn toàn bộ nguồn lực quốc phòng cho chiến tranh ở Ukraina buộc Hà Nội phải tăng tốc đa dạng hóa nguồn cung, trong số này có vũ khí hệ phương Tây. Tuy nhiên, những nước này có cơ chế kiểm soát chặt chẽ vũ khí được bán. Vấn đề này sẽ tác động đến quá trình hợp tác với Việt Nam như thế nào ? Yếu tố “hoa hồng”, vẫn được các chuyên gia, nhà quan sát về quân sự Việt Nam nêu lên, có phải là một trở ngại khác ? Nguyễn Thế Phương : Có hai yếu tố gây trở ngại chính. Thứ nhất là yếu tố mang tính hệ thống vì toàn bộ chu trình ra quyết định mua vũ khí nào và quy trình huấn luyện, bảo dưỡng bảo trì thì từ trước đến này, hệ thống, cấu trúc của Việt Nam luôn hướng về phía Nga. Cho nên hiện giờ, muốn đổi sang một hệ phương Tây khác thì toàn bộ quy trình đó phải được điều chỉnh và thay đổi. Và quá trình này tốn rất nhiều thời gian.Thứ hai là vấn đề mang tính chính trị bởi vì tư duy quốc phòng, an ninh của Việt Nam hiện tại vẫn có một yếu tố nghi ngại phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng, cũng như các đồng minh của Mỹ. Đây là điểm có khả năng làm chậm lại quá trình tương tác giữa Việt Nam và các quốc gia phương Tây, đặc biệt là liên quan đến mua sắm vũ khí quốc phòng. Đọc thêm : Nga hụt hơi xích gần với Trung Quốc buộc Việt Nam cân nhắc nâng cấp quan hệ với Mỹ ?Điểm thứ ba, rất cốt lõi, liên quan đến tài chính. Nguồn lực của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là tài chính trong quá trình hiện đại hóa, rõ ràng là không lớn cho nên cũng phải “liệu cơm gắp mắm”. Tất cả những yếu tố đó, khi Việt Nam muốn xác định mua sắm, đều phải đặt lên bàn cân để xem mua của ai, được lợi gì và bất lợi gì, đặc biệt là với Mỹ. Như chị đề cập tới quy trình và đặc trưng của quy trình mua sắm vũ khí, khí tài, thì “văn hóa” giữa hai bên Mỹ-Việt Nam và Việt Nam với phương Tây là khác nhau. Thực ra, sự khác nhau này là có thể điều chỉnh được.Nhưng như tôi đã đề cập, quá trình điều chỉnh văn hóa mua sắm và chính sách như này cần phải có nhiều thời gian và dựa trên niềm tin chính trị giữa hai bên, nhu cầu của Việt Nam và chính sách, cũng như chiến lược quốc phòng của Việt Nam hiện tại, chứ không hẳn là vũ khí phương Tây là tốt và cũng không hẳn là ở thời điểm hiện tại, Nga đang gặp khó khăn và Việt Nam không mua của Nga.RFI : Phát biểu tại một sự kiện của Canergie, đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius từ năm 2014-2017 cho rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam “thực tế”, “có rất nhiều điều có thể thực hiện một cách thực dụng giúp tăng cường quan hệ đối tác” Việt-Mỹ, kể cả trong lĩnh vực an ninh, dù không cần liên minh hay căn cứ. Hai nước sẽ tính đến những hướng phát triển nào ? Liệu Washington cần tiếp tục kiên trì vì Hà Nội cần thời gian nếu nhìn vào sự cân bằng với Trung Quốc ?Nguyễn Thế Phương : Trong chính sách đối ngoại và chiến lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam dù sao cũng đóng một vai trò tương đối quan trọng trong tầm nhìn của Mỹ ở khu vực. Cho nên Mỹ sẽ cần phải có một mức độ kiên trì nhất định khi tương tác với các lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là các lãnh đạo bên quân đội. Đọc thêm : Thêm Việt Nam, Mỹ mở rộng mạng lưới đối trọng với Trung Quốc ở Biển ĐôngĐối với Việt Nam, niềm tin chiến lược hiện tại giữa hai bên đã được cải thiện, nhưng không đi quá nhanh. Nhìn vào Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam, vấn đề mang tính diễn biến hòa bình, những vấn đề mang tính lật đổ hoặc đảm bảo nguyên chế độ vẫn là vấn đề an ninh hàng đầu. Khi nói đến những vấn đề đó, phương Tây và Mỹ là những “đối tượng rất lớn”, theo đúng cách dùng của ngôn ngữ chiến lược Việt Nam. Cho nên, để có mối quan hệ song phương bền vững và lâu dài với Việt Nam, Mỹ cần có sự kiên trì nhất định khi làm việc với Việt Nam, đặc biệt là trong những vấn đề mang tính nhạy cảm như an ninh và quốc phòng.Ngoài ra, theo lời đại sứ Ted Osius, về vấn đề liên quan đến “thực tế”, các nhà lãnh đạo Việt Nam ở thời điểm hiện tại đã “thực tế” và “thực dụng” hơn rất nhiều so với các đây 20-30 năm, đặc biệt là trong giai đoạn trước và sau khi Liên Xô sụp đổ. Đó là giai đoạn vẫn còn nghi kị rất nhiều. Hiện tại, do sự chuyển dịch tư duy về chiến lược đặt phát triển kinh tế lên hàng đầu, để phát triển kinh tế, các nhà lãnh đạo phải “thực dụng” hơn nhưng không có nghĩa là họ không nghi ngờ, không phòng thủ trước những mối quan hệ với Mỹ và phương Tây. Phòng thủ ở đây không chỉ về mặt khác biệt và quan điểm chính trị, mà còn là sự đề phòng trong mối cân bằng ngoại giao với Trung Quốc. Đó là sự cân bằng giữa các nước lớn. Đọc thêm : Việt - Mỹ thắt chặt quan hệ, không để Trung Quốc "lộng hành" ở Biển ĐôngCho nên, nói theo đại sứ Ted Osius cũng đúng, nhưng phải đặt trong toàn bộ bối cảnh tư duy chiến lược của Việt Nam hiện tại : Có sự cân bằng giữa các nước láng giềng, có yếu tố về mặt chính trị, một chút ý thức hệ và cũng có yếu tố thực dụng trong việc tăng cường quan hệ với Mỹ thì sẽ mở rộng hơn nữa khả năng của Việt Nam về mặt thương mại, tài chính và công nghệ. Đó là những lĩnh vực Việt Nam đang muốn đầu tư cho việc duy trì khả năng phát triển kinh tế trong tương lai.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.
Với nguồn tài nguyên biển phong phú cùng điều kiện nắng và gió thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm sản xuất hydrogen xanh hàng đầu ở châu Á, qua đó giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhiên liệu hóa thạch. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần đến sự trợ giúp của các nước phát triển, trong đó có Pháp. Hydrogen xanh là một loại hydrogen được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời và gió. Khác với hydro "xám", quá trình sản xuất hydro xanh sử dụng điện năng để điện phân nước, tách nước thành hydro xanh và oxygen, không phát thải CO2 và các chất ô nhiễm khác. Các lợi ích về môi trường và tính linh hoạt của nó trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, công nghiệp và sản xuất điện khiến hydro xanh ngày càng trở nên quan trọng khi các quốc gia nỗ lực đạt được mục tiêu trung hòa cacbon, như mục tiêu mà Việt Nam đã cam kết cho năm 2050Trả lời RFI Việt ngữ từ Jakarta ngày 26/08/2024, ông Mathieu Geze, giám đốc đặc trách khu vực châu Á của công ty Hydrogène de France ( HDF Energy ), một trong những công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen, nhận định về tiềm năng phát triển hydrogen xanh của Việt Nam:“Hydrogen có thể được sản xuất từ những nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời hoặc gió. Việt Nam có những tiềm năng rất lớn về hai loại năng lượng này, nên cũng có tiềm năng lớn về hydrogen xanh, mà công ty HDF Energy của chúng tôi cố gắng giúp khai thác. Nói chung, tiềm năng về hydrogen là rất lớn trong lĩnh vực hóa dầu, cụ thể là tập đoàn Petrovietnam với một số nhà máy lọc dầu của công ty này, hay các nhà máy dùng hydrogen để sản xuất một số sản phẩm như phân bón.Hiện nay, hydrogen xám chủ yếu được sản xuất từ khí đốt. Nhưng trong tương lai, nhờ tiềm năng về năng lượng tái tạo, ta có thể sản xuất hydrogen xanh để phi cacbon hóa những ngành như ngành hóa dầu, hay ngành giao thông, như xe lửa. Chẳng hạn như Công ty Đường sắt Việt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng các đầu máy chạy bằng diesel. Hydrogen có thể đóng một vai trò trong việc kéo dài tuổi thọ của một số đầu máy, đồng thời góp phần phi cacbon hóa ngành này.Về phần công ty HDF Energy, trong giai đoạn đầu, chúng tôi cố gắng giúp phi cacbon hóa ngành điện. Việt Nam có những vùng xa xôi hẻo lánh, chẳng hạn như các đảo thuộc tỉnh Kiên Giang, nơi mà hydrogen có thể được dùng để tích trữ một cách ổn định các nguồn năng lượng tái tạo. Cụ thể, nguồn điện từ năng lượng Mặt trời hay năng lượng gió có thể không ổn định, vì nắng lúc có lúc không, gió thì lúc mạnh lúc yếu. Hydrogen có thể được sử dụng để tích trữ lượng điện đó và cung cấp cho mạng lưới điện những khi thiếu nắng và gió.” Với những tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và năng lượng Mặt Trời, Việt Nam đã phê duyệt chiến lược quốc gia phát triển hydrogen xanh đến năm 2050. Mục tiêu cụ thể là sản xuất từ 100.000 đến 500.000 tấn hydrogen xanh từ đây đến năm 2030, để sau đó đạt được sản lượng từ 10 đến 20 triệu tấn từ đây đến năm 2050. Chính phủ Việt Nam hiện đang tìm các nhà đầu tư ngoại quốc có thể hỗ trợ tài chính cho việc sản xuất hydrogen xanh qua nhiều nguồn năng lượng khác nhau, không chỉ có năng lượng gió, năng lượng Mặt trời, mà cả than đá, dầu hỏa và khí đốt. Theo dự báo của chính phủ Hà Nội, hydrogen xanh sẽ đáp ứng 10% nhu cầu tiêu thụ năng lượng của Việt Nam từ đây đến năm 2050. Ông Mathieu Geze, giám đốc châu Á của HDF Energy nhận định về mục tiêu này:“Tôi nghĩ là có thể đạt được mục tiêu đó, vấn đề chủ yếu chỉ là thời gian. Nhưng do có tiềm năng rất lớn về điện Mặt trời và điện gió, do nhu cầu phải phi cacbon hóa đất nước, do phải đáp ứng nhu cầu điện năng ngày càng tăng cùng với đà phát triển của kinh tế, công nghiệp, hydrogen có thể góp phần đáp ứng nhu cầu đó. Tỷ lệ 10% theo tôi là một mục tiêu khả thi”.Pháp là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen xanh tính theo số lượng sáng chế, nghiên cứu, phát triển, sản xuất trang thiết bị và doanh nghiệp ở mọi quy mô. Công ty Pháp HDF Energy đã hợp tác với Việt Nam từ vài năm nay trở lại đây. Mới đây, công ty này đã đưa vào hoạt động một nhà máy sản xuất pin nhiên liệu ( fuel cell ) tại vùng ngoại ô thành phố Bordeaux.Giám đốc châu Á của HDF Energy Mathieu Geze nêu bật những khả năng hợp tác giữa Pháp với Việt Nam về hydrogen xanh:“Nói chung, nước Pháp có những công ty hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng, như Tập đoàn Điện lực Pháp EDF, nếu tôi không lầm thì đã có mặt ở Việt Nam từ nhiều năm qua, hoặc là những công ty khác cũng có thể có tham vọng đầu tư vào Việt Nam. Như vậy nước Pháp có thể đóng vai trò quan trọng với khả năng đầu tư, kỹ thuật, để hỗ trợ Việt Nam, đặc biệt là về thủy điện hay về điện hạt nhân.Riêng công ty HDF sẽ tập trung vào những dự án mà chúng tôi có thể chuyển giao các kỹ năng quan trọng cho phía Việt Nam, khác với những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, hay một số đảo, nơi mà một phần của hệ thống điện phụ thuộc nhiều vào các máy phát điện chạy bằng diesel”. Có mặt tại Việt Nam từ năm 2022, HDF Energy đã triển khai nhiều dự án hợp tác với các Bộ Công Thương, Bộ Giao Thông Vận Tải, Tập đoàn Đường sắt và Tập đoàn Điện lực Quốc gia. Công ty cũng có ký kết, làm việc, hoặc trao đổi phát triển các dự án ở nhiều tỉnh thành như Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, là những địa phương có tiềm năng lớn trong phát triển năng lượng tái tạo như điện gió ngoài khơi, điện gió trên đất liền, hay điện Mặt trời.Đây cũng chính là những nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất hydrogen "xanh" phục vụ ngành giao thông vận tải. Đặc biệt, HDF Energy đã làm việc với Công ty Đường sắt Việt Nam để nghiên cứu cơ hội chuyển đổi gần 200 động cơ diesel cũ đã vận hành từ cách đây hàng chục năm, chuyển sang sử dụng hydrogen. Về dự án này, ông Mathieu Geze cho biết:“Nói chung chúng tôi có tham vọng hỗ trợ ngành đường sắt để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng của ngành này tại Pháp và tại nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam. Chúng tôi thấy nhiều đầu máy xe lửa còn phụ thuộc vào động cơ diesel, vì cần phải đầu tư rất nhiều cho việc điện hóa các tuyến xe lửa. Một số tuyến có nhu cầu rất hạn chế hoặc rất khó lấy lại vốn khi đầu tư vào. Hydrogen sẽ là một giải pháp đơn giản để phi cacbon hóa các đầu máy đó bằng cách, nói theo tiếng Anh, retrofit chúng, thay thế động cơ diesel bằng động cơ chạy điện. Vì lý do bảo mật, tôi không thể nói chi tiết hơn, nhưng chúng tôi đang nghiên cứu các dữ liệu để xác nhận tiềm năng đó tại một số nơi ở Việt Nam.”Đối với ông Mathieu Geze, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hiện nay đã đủ thuận lợi cho việc phát triển hydrogen xanh: “Đây vẫn là những vấn đề rất phức tạp ở tất cả các nước mà các nhà công nghiệp, các nhà đầu tư vẫn trông chờ một sự yểm trợ về mặt chính trị, thể hiện qua một khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho các dự án. Cá nhân tôi thì nghĩ rằng dù trong khuôn khổ pháp lý như thế nào, các nhà phát triển dự án, các nhà đầu tư, các nhà công nghiệp cũng nên tỏ ra thực dụng. Nếu dự án được xem là đáng giá về mặt kinh tế, về mặt kỹ thuật, tôi có thể chắc chắn là dự án đó sẽ được sự hỗ trợ của chính quyền, dù ở cấp quốc gia, với bộ Công Thương hay ở cấp địa phương với chính quyền các tỉnh.Tôi nghĩ là các quy định luật lệ hiện nay ở Việt Nam đủ để chúng tôi có thể đề xuất các ý tưởng, các dự án và thực hiện các ý tưởng, dự án đó. Nếu trong tương lai các nhà lập pháp hỗ trợ mạnh hơn đối với các năng lượng tái tạo thì càng tốt”.
Trong bối cảnh Việt Nam và Philippines phải tăng cường hợp tác để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, giữa hai nước lại nảy sinh một vấn đề cần giải quyết, đó là vấn đề ranh giới ngoài thềm lục địa. Ngày 15/06/2024, bộ Ngoại Giao Philippines thông báo phái đoàn nước này tại Liên Hiệp Quốc đã đệ trình Báo cáo Ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông ( mà họ gọi là Biển Tây Philippines ) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) "để đăng ký quyền với vùng thềm lục địa mở rộng ở tây Palawan".Philippines cho biết họ đã mất 15 năm để chuẩn bị cho việc này, theo đúng Điều 76 trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Theo Công ước này, một quốc gia ven biển như Philippines có thể “thiết lập ranh giới ngoài của thềm lục địa, bao gồm vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, vượt 200 hải lý, nhưng không quá 350 hải lý từ đường cơ sở được dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.Vấn đề là vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines muốn được công nhận có thể chồng lấn với những nước ven Biển Đông khác, đặc biệt là Việt Nam. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/07, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại: "Theo điều 76 của UNCLOS 1982, mỗi quốc gia sẽ có vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở hướng ra ngoài. Ngoài ra, các quốc gia có thể có vùng thềm lục địa mở rộng có thể tối đa là 350 hải lý. Từ năm 2009, Việt Nam đã đệ trình Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa một báo cáo riêng của Việt Nam và một báo cáo chung với Malaysia ngày 06/05 và 07/05. Một ngày sau đó, 08/05, Trung Quốc đã gởi hai công hàm phản đối hai đệ trình đó. Trong hai công hàm đó có kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò".Sau đó, đến tháng 12/2019, phía Malaysia lại đệ trình một báo cáo mới về thềm lục địa mở rộng, trong bối cảnh sau phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mới đây nhất phía Philippines cũng tiếp tục đệ trình, theo đúng quy định của điều 76 trong UNCLOS 1982. Nhưng yêu cầu có được chấp thuận hay không thì đó lại là câu chuyện dài hơn rất nhiều.Ngay trong đệ trình của Philippines lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, họ cũng đã nói rõ là vùng thềm lục địa mở rộng này của họ có khả năng sẽ chồng lấn với vùng thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và của Malaysia. Mới đây nhất, Malaysia đã gởi công hàm phản đối, bởi vì giữa Malaysia và Philippines vẫn có tranh chấp về vùng Sabah, mà Manila cho là của Philippines, nhưng nay đang thuộc về Malaysia. Vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines yêu sách cũng nằm trong vùng thềm lục địa của Sabah.Đối với Việt Nam, một số nhà nghiên cứu khi đo bản đồ cũng đã thấy là một sự chồng lấn. Khả năng chồng lấn với Việt Nam là chắc chắn."Phản ứng về quyết định nói trên của Manila, Hà Nội, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng ngày 20/06, nhìn nhận quyền của Philippines: "Các quốc gia ven biển thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) có quyền xác định ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng của mình trên cơ sở phù hợp với quy định liên quan của UNCLOS 1982.”Nhưng phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nhấn mạnh Việt Nam “bảo lưu toàn bộ quyền và lợi ích của mình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, và sẵn sàng trao đổi với Philippines để tìm kiếm và đi đến giải pháp phù hợp với lợi ích của cả hai nước.”Đáp lại tuyên bố nói trên của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam, ngày 01/07, bộ Ngoại Giao Philippines cho biết Manila "hoan nghênh" việc Hà Nội công nhận báo cáo của Manila đệ trình lên Liên Hiệp Quốc nhằm bảo đảm quyền của nước này đối với thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông, đồng thời cho biết “sẵn sàng đàm phán với Hà Nội để giải quyết mọi vấn đề”, cũng như sẵn sàng hợp tác với Việt Nam “theo những cách khả thi để giúp đạt được giải pháp cùng có lợi cho các vấn đề ở Biển Đông”. Sau đó, ngày 17/07, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam đã chính thức nộp hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc.Trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp đệ trình này "sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS".Nhưng liệu Việt Nam và Philippines có thể dễ dàng đạt được thỏa thuận để giải quyết sự chồng lấn về thềm lục địa mở rộng giữa hai nước hay không? Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định:"Chắc chắn là được thôi, khi mà cả hai quốc gia đều có thiện chí thì cũng dễ giải quyết. Việc chồng lấn là bình thường. Trên khu vực Biển Đông có rất nhiều sự chồng lấn. Việt Nam và Indonesia đã mất cả 12 năm để phân định vùng đặc quyền kinh tế. Hai nước đã công bố thỏa thuận qua tuyên bố năm 2022, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy văn bản chính thức Việt Nam và Indonesia phân định như thế nào.Giữa Việt Nam với Philippines thì cũng đơn giản, vì thứ nhất là khi hai bên đều đòi hỏi vùng thềm lục địa mở rộng, thì chắc chắn là sẽ có sự chồng lấn và hai bên phải đàm phán. Nếu hai bên đều có thiện chí thì không khó, khó nhất là một bên, hoặc cả hai bên không có thiện chí. Trong đàm phán, hai bên đều phải nhân nhượng với nhau, để cùng chấp nhận một giải pháp hai bên cùng có lợi. Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines về hợp tác trên biển cũng đã có từ lâu. Vài năm trước, hai nước đã ký một số thỏa thuận về thăm dò địa chấn, hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Như vậy chủ trương hai bên đều có rồi, vấn đề còn lại là hai bên sẽ phải đàm phán trực tiếp, sẽ phân định như thế nào. Có lẽ đây sẽ là một quá trình khá dài, vì cả hai bên đều phải dựa trên những điều kiện địa lý tự nhiên của mình, đồng thời căn cứ trên luật pháp, cũng như những án lệ trước đây, để tìm ra một giải pháp công bằng nhất".UNCLOS quy định thời hạn cuối cùng để đệ trình thông tin về ranh giới ngoài thềm lục địa lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) là ngày 13/5/2009. Như vậy tại sao Philippines trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng tại Biển Đông 15 năm sau thời hạn cuối cùng?Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đệ trình của Philippines vào thời điểm này có thể có một số tính toán:"Cái đầu tiên là liên quan đến Trung Quốc. Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc và Philippines luôn luôn đối đầu ở khu vực biển của mấy thực thể, thứ nhất là Bãi Cỏ Mây, thứ hai là bãi cạn Scarborough và thứ ba là bãi cạn Sa Bin. Đặc biệt ở Bãi Cỏ Mây chúng ta đã thấy tình hình căng thẳng như thế nào. Gần đây nhất là sự kiện 17/06, nhiều tàu của Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu của Philippines, các thủy thủ Trung Quốc đã cầm rìu, dao găm và gậy tấn công các thủy thủ Philippines trên tàu của họ, cướp một số vũ khí, cũng như đồ đạc. Xung đột đã khiến một binh sĩ của Philippines bị mất một ngón tay cái. Đây không phải là sự kiện đầu tiên cũng như cuối cùng. Từ 2013 tới nay, những vụ va đâm tàu, phun vòi rồng và chiếu tia laser vào các thủy thủ Philippines đã xảy ra rất nhiều. Vào tháng 05/2009, việc Việt Nam và Malaysia đệ trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng đã gây một làn sóng phản đối từ Trung Quốc. Lần thứ hai đó là vào tháng 12/2019, Philippines làm mới lại đệ trình của mình thì cũng đã gây ra cuộc chiến công hàm kéo dài đến 2021 mới chấm dứt. Các quốc gia đã liên tục gởi các công hàm lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc để thể hiện quan điểm của mình. Có lẽ đó là cái quan trọng mà Philippines tính tới: trong bối cảnh căng thẳng với Trung Quốc và chính sách của Philippines đang sử dụng là "name and shame", vạch trần những hành động côn đồ và phi pháp của Trung Quốc trên khu vực Biển Đông tranh chấp, thì Philippines hy vọng là sẽ có một làn sóng của công luận trên thế giới lên án Trung Quốc và điều này sẽ tác động phần nào đến cuộc đối đầu giữa hai nước.Ngoài ra, Philippines đương nhiên có những tính toán khác, trong đó có việc nhắc lại tác dụng của phán quyết 2016 trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc. Philippines cũng muốn tranh thủ lúc này Philippines đang có một đại diện trong Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc." Trong một bài viết đăng trên trang Vietnamnet ngày 29/06, đại sứ Việt Nam Nguyễn Hồng Thao, một chuyên gia pháp lý, cũng nhận định:"Trước hết, chính quyền tổng thống Marcos Jr. muốn khẳng định giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài Thường trực ngày 12/6/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết này tạo khả năng cho phép mở rộng thềm lục địa từ các đảo chính của Philippines trong khi làm rõ mỗi thực thể biển ở quần đảo Trường Sa chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Thứ hai, đệ trình có thể nhằm bác bỏ yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc. Thứ ba, Manila có thể muốn khẳng định tính pháp lý của đường cơ sở quần đảo Philippines năm 2012, đường này đã được sửa đổi cho phù hợp hơn với UNCLOS. Thứ tư, việc đệ trình tạo điều kiện kích hoạt điều 5 của Hiệp ước phòng thủ chung Philippines - Hoa Kỳ 1951, theo đó Mỹ có trách nhiệm bảo vệ các lực lượng vũ trang Philippines, các tàu và máy bay công vụ (bao gồm cả lực lượng cảnh sát biển) khỏi các cuộc tấn công vũ trang trong Biển Đông. Thứ năm, đệ trình có thể thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) đang gặp bế tắc." Nhưng theo ông Nguyễn Hồng Thao, tranh chấp chủ quyền các thực thể trong quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại sẽ làm nảy sinh tiếp vấn đề phân định biển của các vùng đáy biển thuộc lãnh hải của các thực thể này với yêu sách thềm lục địa mở rộng của Philippines. Ấy là chưa kể đến phản ứng của Trung Quốc. Ngày 18/07/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa mở rộng "bao gồm một phần quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) của Trung Quốc và xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, trái với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển". Trước đó, ngày 17/6/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã khẳng định “đệ trình đơn phương của Philippines về mở rộng thềm lục địa của họ tại Biển Đông xâm phạm tới các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, vi phạm luật quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”.
Sau khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời ngày 19/07/2024, chủ tịch nước Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, tạm giữ chức tổng bí thư, câu hỏi đang được đặt ra là chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “chiến dịch đốt lò”, do ông Trọng phát động rồi sẽ đi đến đâu? Cùng với cuộc chiến chống tham nhũng, đấu đá trong nội bộ đảng để giành chiếc ghế lãnh đạo tối cao sẽ diễn ra như thế nào từ đây đến Đại hội Đảng năm 2026? Tong phần tạp chí hôm nay, RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, về chủ đề này. RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, trước hết điểm lại những gì mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong cuộc chiến chống tham nhũng do chính ông phát động kể từ khi lên lãnh đạo đảng cách đây hơn 1 thập niên, anh nhận thấy có những điểm gì đáng ghi nhận?Lê Hồng Hiệp: “Có thể nói thành tựu quan trọng nhất của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại chính là đã phát động và dẫn dắt thành công một chiến dịch chống tham nhũng có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” nhắm vào các quan chức thuộc mọi cấp bậc.Từ năm 2011, khi bắt đầu nắm chức tổng bí thư, ông đã bắt đầu phát động chiến dịch này, nhưng do một số trở ngại, đặc biệt là có sự lãnh đạo chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng thời bấy giờ, vai trò của đảng và của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc chống tham nhũng còn hạn chế. Tuy nhiên, kể từ năm 2016, khi ông Trọng đã củng cố được quyền lực, chiến dịch này đã tăng tốc rất mạnh, tạo ra một làn sóng thanh lọc trong nội bộ đảng.Từ 2016 đến nay, có khoảng 139 ngàn đảng viên đã bị kỷ luật, trong đó có hơn 40 ủy viên trung ương đảng và 50 tướng lĩnh trong lực lượng quân đội, công an. Đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 2021 đến nay, có 7 ủy viên Bộ Chính trị, trong đó có những vị trong “tứ trụ”, như chủ tịch nước Võ Xuân Phúc, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ và nguyên Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai đã bị buộc phải thôi nhiệm vụ vì các lý do khác nhau liên quan đến các vụ tham nhũng. Để so sánh thì chúng ta thấy là từ 1986 đến 2016, không có một ủy viên Bộ Chính trị nào bị cách chức vì tham nhũng, chỉ có 9 ủy viên trung ương đảng bị kỷ luật vì các vi phạm liên quan đến tham nhũng.Trong cương vị tổng bí thư, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông Trọng là bảo vệ sự sinh tồn của đảng, cũng như duy trì vai trò cầm quyền của đảng. Ông luôn tâm niệm tham nhũng là mối đe dọa đối với sự tồn vong và vai trò lãnh đạo của đảng, chính vì vậy ông luôn nhấn mạnh chống tham nhũng là biện pháp để duy trì vai trò của đảng. Tham nhũng đã ăn rất sâu ở Việt Nam và đã gây tác hại rất lớn, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xảy ra nhiều vụ tham nhũng mà cho tới nay người ta vẫn phải mất rất nhiều công sức để giải quyết hậu quả.Bản thân ông Trọng cũng có nhu cầu dùng chiến dịch chống tham nhũng này để nâng cao vai trò kiểm soát của đảng, đặc biệt là sau thời kỳ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giai đoạn mà vai trò của bên chính phủ đã lấn át vai trò của lãnh đạo đảng. Cuộc chiến chống tham nhũng này cũng là một cách để giúp khôi phục vai trò kiểm soát của đảng trong hệ thống chính trị. Qua đó gián tiếp củng cố vai trò, quyền lực cá nhân của ban lãnh đạo đảng, trong đó có tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng."RFI: Như vậy những yếu tố nào đã giúp ông Nguyễn Phú Trọng có thể mạnh tay như thế trong chiến dịch chống tham nhũng?Lê Hồng Hiệp: "Ông Trọng hơi khác chút so với các lãnh đạo khác đó là ông được tiếng trong sạch thanh liêm, trong quá trình vươn lên nắm quyền, ông không dính vào các bê bối tham nhũng, ít nhất là cho đến lúc này. Chính vì vậy là ông có thẩm quyền đạo đức, có tiếng nói đủ lớn để có thể dẫn dắt cuộc chiến chống tham nhũng này mà không gặp sự kháng cự, không có các điểm yếu mà các đối thủ của ông có thể khai thác.Mặt khác, ông cũng có khả năng tập hợp được sự ủng hộ, hợp tác của một bộ phận lãnh đạo, từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cho tới bộ Công An và những cơ quan giúp thực thi chiến dịch này. Đặc biệt là ông Trọng đã đóng vai trò trong Đảng ủy Công an Trung ương, một vai trò mà các tổng bí thư trước ông Trọng chưa từng có, kiểm soát bộ Công an thành một công cụ hiệu quả trong việc chống tham nhũng. Nhờ vậy mà ông Trọng đã rất thành công trong việc thực hiện chiến dịch chống tham nhũng cho đến nay. Di sản đó được duy trì đến đâu trong thời gian tới?Đó vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.”RFI: Tuy chủ trương “Diệt chuột không để vỡ bình”, nhưng ta đã thấy là trong thời gian qua, kể cả các ủy viên Bộ Chính trị cũng bị kỹ luật, bị cách chức. Vậy thì chiến dịch chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng phát động đã có tác động như thế nào đến thượng tầng lãnh đạo của Đảng?Lê Hồng Hiệp:“Diệt chuột không để vỡ bình tức là không để ảnh hưởng tới sự sinh tồn của chế độ, không để những người mà đảng xem là “các thế lực thù địch”, hoặc những người chống đối vai trò lãnh đạo của đảng “lợi dụng” để làm suy yếu đảng. Chính vì vậy mà trong quá trình chống tham nhũng, thay vì nâng cao vai trò của báo chí, xã hội dân sự, những thành phần có thể đóng góp vào cuộc chiến chống tham nhũng bằng cách phơi bày các quan chức tham nhũng, thì trong thời kỳ vừa qua, đảng đã thắt chặt kiểm soát đối với báo chí và xã hội dân sự. Đảng muốn chống tham nhũng theo cách của đảng và các biện pháp được thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát của đảng, không thể ảnh hưởng đến an ninh chế độ.Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng những tác dụng phụ nhất định: Ngoài việc thắt chặt đối với không gian công cộng, không gian xã hội dân sự, không gian tự do báo chí ở Việt Nam, khi người ta nhấn mạnh đến chống tham nhũng, trong một số trường hợp, cuộc chiến chống tham nhũng biến thành công cụ tranh giành quyền lực hoặc thanh lọc các đối thủ chính trị. Rất nhiều lãnh đạo, kể cả trong “tứ trụ”, đã bị loại bỏ, bị thay thế, dẫn đến biến động trong cấu trúc thượng tầng lãnh đạo của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, họ sẽ không cho phép những biến động này ảnh hưởng tới an ninh của chế độ. Một tác dụng phụ khác, đó là cuộc chiến chống tham nhũng này cũng tạo ra cảm giác bất an, xuống tinh thần, trong một bộ phận cán bộ, công chức, thể hiện qua việc họ thường xuyên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, hay tránh đưa ra các quyết định về các dự án hay các quyết định đầu tư, do lo sợ trách nhiệm về mặt pháp lý khi đưa ra các quyết định mà sau này có thể bị coi là có vi phạm, ảnh hưởng tới sinh mệnh chính trị của họ. Việc đùn đẩy trách nhiệm, né tránh ra quyết định cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.Về lâu dài, những biến động về chính trị và trì trệ về kinh tế cũng là những thách thức mà đảng không thể bỏ qua, trong ngắn hạn không phải là vấn đề, nhưng nếu nó kéo dài quá lâu thì sẽ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, ổn định chính trị của đất nước và làm giảm uy tín của đảng. Chính vì vậy, tôi nghĩ trong tương lai có thể họ sẽ phải có một số điều chỉnh, không để các tác dụng phụ này kéo dài, ảnh hưởng quá lớn đến vai trò, uy tín của đảng, cũng như sự phát triển của đất nước.” RFI: Ngay trước khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời thì Bộ chính trị đã giao cho ông Tô Lâm tạm nắm quyền tổng bí thư, không biết ông sẽ nắm chức vụ này đến lúc nào, nhưng có vẻ như ông Tô Lâm đang có lợi thế rất lớn để tranh chức tổng bí thư sau này. Liệu có nguy cơ là kể từ nay ông có toàn quyền để tiếp tục chống tham nhũng nhưng là để củng cố thế lực cá nhân của ông? Lê Hồng Hiệp: “Hiện tại ông Tô Lâm có một số lợi thế trong việc kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên việc bầu ông Tô Lâm hay ai đó thì vẫn còn phải chờ quyết định của Bộ Chính trị và Trung ương đảng. Tuy nhiên, bất kể ai được bầu chọn thì cũng sẽ tiếp tục cuộc chiến chống tham nhũng này. Lý do thứ nhất đó là di sản ông Nguyễn Phú Trọng để lại quá lớn. Người kế nhiệm ông Trọng không thể làm ngơ trước di sản đó, không thể một sớm một chiều lật ngược di sản đó. Di sản quan trọng nhất của ông là chống tham nhũng, vì vậy người kế nhiệm sẽ gặp áp lực rất lớn, không thể không tiếp tục cuộc chiến này, để thể hiện tính chính danh của đảng, cũng như của bản thân người đó.Thứ hai, bản thân người kế nhiệm cũng thấy có lợi ích trong việc duy trì cuộc chiến chống tham nhũng này, cụ thể là sẽ tiếp tục sử dụng nó như một công cụ hiệu quả để kiểm soát nội bộ và có thể hướng tới kiểm soát các đối thủ chính trị, thông qua việc thanh trừng những người có thể là nguy cơ đối với quyền lực của họ. Cuộc chiến chống tham nhũng này vẫn sẽ tiếp tục dưới thời lãnh đạo mới. Vấn đề đặt ra là cách thức tiến hành của họ sẽ như thế nào, quy mô, cũng như cường độ của cuộc chiến sẽ ra sao. Có thể sẽ có một số điều chỉnh, ví dụ như họ có thể có những sáng kiến mới để vừa duy trì được nhiệm vụ chống tham nhũng, vừa hóa giải được một số thách thức về phát triển kinh tế xã hội phù hợp với mục tiêu của nhà lãnh đạo mới, tức là vừa duy trì được quyền lực, vừa có thể chống tham nhũng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cũng như duy trì được sự ổn định trong thượng tầng kiến trúc của hệ thống chính trị. Liệu ông Tô Lâm, hay một ai đó, có sẽ thay đổi cách tiếp cận hay không? Chúng ta hãy chờ xem.”
Chủ tịch nước Tô Lâm trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi kiêm nhiệm chức tổng bí thư đảng Cộng Sản từ ngày 18/07/2024. Giới quan sát và truyền thông phương Tây đều cho rằng ông Tô Lâm « có khả năng củng cố quyền lực hơn nữa ». Là người trực tiếp chống tham nhũng và cũng là « người cuối cùng trụ lại », ông Tô Lâm sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông Nguyễn Phú Trọng nhưng « phục vụ cả lợi ích riêng », theo nhận định của giáo sư Zachary Abuza, Trường Chiến tranh Quốc gia Washington.Việc được bầu làm chủ tịch nước được coi là « bước đệm » cho chức vụ lãnh đạo đảng. Và ông không ngồi vào ghế chủ tịch nước nếu thực sự chưa bố trí được người thân cận thay ông làm bộ trưởng Công An. Loại hết mọi đối thủ, trong đó có hai chủ tịch nước, một chủ tịch Quốc Hội, để nắm giữ, dù tạm quyền, cả hai chức vụ cao nhất của Việt Nam - tổng bí thư và chủ tịch nước - là « một thắng lợi hoàn toàn » của ông Tô Lâm, theo giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).Ông đánh giá : « Đây là một chính trị gia vô cùng quyền lực, nhận được sự ủng hộ của một bộ (Công An) nằm trọng tâm của dự án chính trị. Chúng ta sẽ thấy một sự cá nhân hóa quyền lực xung quanh ông ». Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 19/07, chuyên gia về Việt Nam Benoît de Tréglodé, nhấn mạnh sẽ « không có đoạn tuyệt », mà là « tiếp nối » chính sách của người tiền nhiệm. Có nghĩa là chiến dịch « đốt lò » sẽ tiếp diễn, nhưng được điều phối để tránh ảnh hưởng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.RFI : Ông Tô Lâm dường như từng không muốn trở thành chủ tịch nước Việt Nam nếu như chỉ giữ một mình chức vụ này nhưng hiện giờ ông đang giữ vị trí mà ông Võ Văn Thưởng phải từ bỏ. Chức vụ mà ông Tô Lâm thực sự nhắm tới là tổng bí thư đảng Cộng Sản, hiện giờ ông được bộ Chính Trị chỉ định thay thế cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Như vậy ông kiêm nhiệm hai chức vụ cao nhất. Liệu cuối cùng thời điểm có đến sớm hơn so với dự kiến không ?Benoît de Tréglodé : Trước tiên phải nhớ rằng ông Tô Lâm suy ngẫm đến việc này từ nhiều năm nay. Ý thức rõ về vị trí bộ trưởng Công An của mình, ông đã chiếm được vị trí trung tâm chiến lược trong bộ máy Nhà nước. Cũng đừng quên rằng công an luôn là một yếu tố an ninh vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ chế độ từ bên trong trước những chuyển biến chung của thời đại và xã hội. Nhờ vị trí chiến lược đó mà ngay từ đầu, ông Tô Lâm đã là một ứng cử viên có tiềm năng lớn để thay thế ông Nguyễn Phú Trọng.Vị trí chủ tịch nước có tầm quan trọng tương đối hình thức trong hệ thống chính trị Việt Nam, ông Tô Lâm không quan tâm trực tiếp đến chức vụ này. Nếu ông chấp nhận đảm nhiệm vai trò chủ tịch nước, đó là vì ông biết dù sao đi nữa thì ông Nguyễn Phú Trọng cũng không còn nhiều thời gian và chức chủ tịch nước thực sự chỉ là hình thức chuyển tiếp đối với ông. Xin nhắc lại là trong lịch sử chính trị Việt Nam đã có một số lần vị trí chủ tịch nước và tổng bí thư do cùng một người đảm nhiệm, ví dụ sau khi chủ tịch nước Trần Đại Quang mất, ông Nguyễn Phú Trọng kiêm nhiệm từ năm 2019 đến 2021.Hiện giờ, có lẽ chính việc tạm quyền, điều mà ông từng ngóng đợi và hy vọng đó, sẽ đưa ông giữ chức vụ này ít nhất cho đến đại hội sắp tới của đảng Cộng Sản Việt Nam, vào đầu năm 2026. Cho nên, xin nhắc lại, đó là điều mà ông Tô Lâm đã tính toán.RFI : Tại sao « đây là một thắng lợi hoàn toàn đối với ông » Tô Lâm, theo đánh giá của ông với một số cơ quan truyền thông Pháp ? Benoît de Tréglodé : Điều đầu tiên cần ghi nhận là trong những năm qua, với sự thay đổi của bối cảnh quốc tế, các cuộc khủng hoảng kinh tế thường xuyên, khủng hoảng Covid-19, tất cả các xã hội đều suy yếu. Vì vậy mục tiêu của các nhà lãnh đạo đất nước - vốn khá độc đoán - là làm mọi cách để bảo vệ sự phát triển yên bình của đất nước.Và nhìn từ góc độ này, trật tự là một khái niệm cực kỳ quan trọng. Đó cũng là điểm chung đã đưa ông Nguyễn Phú Trọng đến gần ông Tô Lâm hơn, lúc đó mới chỉ là bộ trưởng Công An chứ không phải là người kế thừa.Mối quan hệ giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tô Lâm đôi lúc vô cùng sóng gió. Nhưng rõ ràng họ có chung quan niệm là xã hội Việt Nam phải có kỷ cương, không thể để đất nước được quản lý theo cách « hỗn loạn, bất ổn » và cần phải cân bằng giữa chủ trương « cởi mở về chính trị » và quan niệm « chặt chẽ về trật tự ». Do đó, trật tự và việc duy trì trật tự là trọng tâm trong dự án chính trị của hai nhà tư tưởng cực kỳ thực dụng này. Cả hai đều chưa bao giờ thực sự muốn xem xét lại sự cân bằng quyền lực truyền thống với Bắc Kinh, cũng như các nước lớn khác trên trường quốc tế. Mục tiêu là tránh bất ổn trong nước và cho phép kinh tế xoa dịu bớt những khát vọng tiềm tàng của người dân trong việc đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn.RFI : Liệu « chiến thắng » này có khả năng kéo dài đến sau cả Đại hội đảng ?Benoît de Tréglodé : Có. Phải nói là lịch sử thường không phải là nhà cố vấn hay lắm nhưng đôi khi thì ngược lại. Người ta vẫn nhớ đến một nhân vật ít nổi tiếng nhưng cuối cùng lại để lại một chút dấu ấn trong ký ức, đặc biệt là ở nước ngoài, trong đó có Pháp. Đó là bộ trưởng bộ Công An đầu tiên của Việt Nam, ông Trần Quốc Hoàn. Trong thời gian rất dài, gần 28 năm, từ năm 1953 đến 1981, ông Trần Quốc Hoàn đứng đầu một bộ nòng cốt, mà hiểu được cách vận hành của bộ này giúp nắm được sự hình thành chế độ chính trị Việt Nam.Có thể hình dung là ông Tô Lâm lấy tấm gương lịch sử này để làm hình mẫu. Ông Trần Quốc Hoàn trở thành bộ trưởng bộ Công An năm 36 tuổi. Đây không phải là trường hợp của ông Tô Lâm khi ông giữ vị trí được đánh giá là quan trọng trong bộ máy Việt Nam. Nhưng dù sao gương mặt lịch sử này có ý nghĩa quan trọng để hiểu điều mà ông Tô Lâm muốn làm với chế độ chính trị Việt Nam và cách ông đã thành công trong vòng 3-4 năm vừa qua, đưa bộ Công An và người của ông vào vị trí không ai cạnh tranh được. Trong bộ máy Nhà nước, cũng như trong bộ Chính Trị và trong chính phủ, người xuất thân từ bộ Công An hiện giờ không có đối thủ cạnh tranh.RFI : Việc ông Tô Lâm kiêm nhiệm hai chức vụ cao nhất, ít nhất cho đến kỳ Đại hội đảng, có thể dẫn đến những thay đổi nào trong nội bộ ?Benoît de Tréglodé : Sẽ không có thay đổi lớn nào. Trước tiên, đó là một kế hoạch chính trị đã được suy tính. Chúng ta nhớ là vào kỳ họp toàn thể của đảng Cộng Sản vào mùa thu 2023, vấn đề kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng còn chưa ngã ngũ. Ông Tô Lâm thực sự không muốn có một cái tên nào khác nổi lên. Bị rơi vào tình thế khá tế nhị đó, ông Nguyễn Phú Trọng buộc phải quyết định là đích thân ông chỉ đạo tiểu ban nhân sự đảng. Đây là điểm quan trọng để hiểu được thời điểm căng thẳng lúc đó. Ông Tô Lâm, nhân vật quyền lực số hai của chính quyền lúc đó, đã tính toán và chuẩn bị cho mục tiêu của mình.Một điểm quan trọng khác vào thời điểm đó, đó là ông Tô Lâm đã lãnh trách nhiệm về các chiến dịch chống tham nhũng, lĩnh vực trước đây nằm trong tay ông Nguyễn Phú Trọng. Vì vậy, sự chuyển tiếp đã được được bắt đầu từ nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm qua, cho nên đừng mong là sẽ có những thay đổi lớn nào đó xảy ra từ giờ cho đến Đại hội đảng Cộng Sản sắp tới. Ông Tô Lâm hoàn toàn ý thức được rằng từ giờ ông kiểm soát bộ máy nhà nước Việt Nam. Và ông cũng ý thức được hình ảnh của ông, cũng như trách nhiệm về hình ảnh của ông ở nước ngoài. Không có chuyện khiến các đối tác thương mại lớn nước ngoài sợ hãi. Đảng không có phương tiện, chính phủ cũng vậy. Tôi nghĩ rằng ông Tô Lâm sẽ duy trì tư duy khá cổ điển, có nghĩa là chính sách « ngoại giao cây tre » nổi tiếng. Mô hình ngoại giao này không phải do ông Nguyễn Phú Trọng tạo ra mà đã có từ rất lâu trong nền chính trị Việt Nam. Và tôi nghĩ ông Tô Lâm sẽ tiếp tục chiến lược này.RFI : Các đối tác phương Tây sẽ có hình ảnh như thế nào về chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Tô Lâm, cũng như về chính phủ Việt Nam khi những kỷ niệm mà ông Tô Lâm để lại ở Đức và Slovakia không hẳn tốt đẹp lắm trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ?Benoît de Tréglodé : Trước tiên, thường thì người ta chóng quên những chuyện liên quan đến chính trị. Tôi cho rằng chủ nghĩa thực dụng đang chiếm ưu thế và đặc biệt là đối với các đối tác lớn nước ngoài đang làm việc với Hà Nội, cũng như những đại tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và các nước đang mong muốn tăng cường hợp tác song phương với Việt Nam. Những hành xử độc đoán trong quá khứ sẽ bị lãng quên khá nhanh chóng.Hơn nữa, trong vòng một năm rưỡi cho đến kỳ Đại hội đảng lần tới, ông Tô Lâm sẽ tiếp tục công cuộc mà Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện, tức là cách thức mà cố tổng bí thư đã xây dựng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và trong khu vực với một lập trường khá khéo léo, uyển chuyển giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ và tất nhiên là vị trí của Việt Nam trong khu vực, như trong khối ASEAN hoặc với các cường quốc Đông Bắc Á. Đứng từ quan điểm này, chủ trương chuyên chế về chính trị với trong nước của ông Tô Lâm sẽ được phối hợp với một chủ nghĩa thực dụng về kinh tế cực kỳ mạnh mẽ.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên được thúc đẩy mạnh mẽ trong giai đoạn cuối năm 2018 đến đầu 2019 với đỉnh điểm là chuyến công du Hà Nội của lãnh đạo Kim Jong Un và họp thượng đỉnh với tổng thống Mỹ Donald Trump. Việt Nam thường xuyên được nhắc đến như một điển mẫu về mở cửa để Bình Nhưỡng có thể hướng theo. Tuy nhiên, trên phương diện quân sự và công nghiệp quốc phòng, Bắc Triều Tiên bỏ xa Việt Nam. Năm 2023, Hà Nội không nhập khẩu vũ khí dù có ngân sách mua sắm hàng năm khoảng 1 tỉ đô la. Nga, nguồn cung lớn nhất của Việt Nam, đang vướng vào chiến tranh Ukraina và bị cấm vận. Israel, một nhà cung cấp khác, dù không bán thiết bị quân sự cho Việt Nam trong những năm gần đây, cũng đang phải tập trung khí tài đối phó với lực lượng Hamas ở dải Gaza. Dù thực hiện chính sách đa dạng hóa nguồn cung vũ khí nhưng dường như Việt Nam gặp trở ngại trong đàm phán với các đối tác mới. Trong khi đó, ngành công nghiệp quốc phòng nội địa mới chỉ sản xuất được những loại vũ khí cơ bản, chưa đủ trình độ để sản xuất các loại khí tài cần công nghệ lõi.Những thành tựu vượt bậc về quân sự và công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên liệu có phải là một mô hình để Việt Nam theo đuổi ? Bình Nhưỡng sẵn sàng hy sinh kinh tế để củng cố quốc phòng. Trong khi Việt Nam không có chủ trương như vậy. Trên đây là một trong số những nhận định của nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải, Đại Học New South Wales, Úc, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.RFI : Việt Nam từ lâu được đề cập là nước hỗ trợ lương thực cho Bắc Triều Tiên, nhưng về mặt quốc phòng và công nghiệp quân sự, Bắc Triều Tiên dường như là mô hình để Việt Nam học hỏi ?Nguyễn Thế Phương : Nhận định này có mặt đúng nhưng có mặt không đúng lắm, theo quan điểm cá nhân của tôi. Quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên sẽ phải xuất phát từ nhu cầu của cả hai bên : Việt Nam cần gì ? Và Bắc Triều Tiên cần gì ? Thực tế mà nói, mối quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên không thực sự suôn sẻ như những gì báo chí đưa ra, từ lịch sử cho tới nay, có nhiều khúc mắc và khúc khuỷu lắm. Đặc biệt khi mà Bắc Triều Tiên có một thể chế tương đối là toàn trị hơn Việt Nam.Điểm thứ hai, mô hình công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên đáng học hỏi nhưng phải xem là cái mô hình đó được xây dựng dựa trên sự đánh đổi nào. Ở đây, Bắc Triều Tiên đánh đổi kinh tế với quốc phòng, hy sinh toàn bộ thiết chế chính trị của họ và tập trung mọi nguồn lực vào quốc phòng. Và rõ ràng sự đánh đổi ở đây, mọi người đều biết là thực trạng kinh tế Bắc Triều Tiên như thế nào. Và Việt Nam rõ ràng không thể áp dụng một cách máy móc tư duy dồn toàn bộ nguồn lực quốc gia vào quốc phòng được. Rõ ràng là khi dồn toàn bộ tiền cho quốc phòng thì chắc chắn sẽ phải đạt được một cái thành tựu nào đó, không đạt được thành tựu thì mới là có vấn đề.Nhưng mô hình Việt Nam không phải như vậy. Việt Nam không phải là một mô hình toàn trị và coi quốc phòng như là một nền tảng để quản lý quốc gia. Còn Bắc Triều Tiên, vì lịch sử, vì vấn đề địa lý, tư duy, chính trị quốc tế nên họ đã lựa chọn đặt quân đội trên hết. Và chính sách « tiên quân » có từ thời Kim Chính Nhật (Kim Jong Il) cho tới bây giờ là « song tiến » của Kim Jong Un, tức là vừa kinh tế vừa quốc phòng nhưng thực ra quốc phòng vẫn nổi trội hơn.Mỗi một mô hình có điểm mạnh và điểm yếu và có vấn đề là họ hy sinh cái gì để họ đạt được mục đích. Việt Nam hiện nay không thể đi theo mô hình như vậy được, mà mô hình của Việt Nam là độc nhất, chỉ phù hợp với đặc trưng kinh tế, xã hội chính trị và quan hệ quốc tế của Việt Nam ở thời điểm hiện tại khi mà nguồn lực của Việt Nam phải được dành cho phát triển kinh tế và phát triển xã hội chứ không chỉ dành hoàn toàn cho cái gọi là « phát triển quốc phòng » được.Nhưng nói như thế không phải là Việt Nam không có những học hỏi nhất định. Việt Nam vẫn sẽ có một số học hỏi nhất định về trao đổi đoàn, về mô hình công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên. Nhưng thực tế mà nói, bởi vì mô hình khác nhau, ưu tiên khác nhau, nên theo cá nhân tôi, thì sự học hỏi đó không cao. Bởi mô hình của Việt Nam hiện tại, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng, Việt Nam học hỏi từ hai nước là chủ yếu : Trung Quốc và Nga. Đó là các mô hình lưỡng dụng, theo kiểu tư nhân tham gia vô mô hình đó và toàn bộ « tổ hợp công nghiệp quốc phòng » được đặt trong một mô hình kinh tế thị trường. Bắc Triều Tiên không có nền kinh tế thị trường đó.Cho nên từ Bắc Triều Tiên có thể học hỏi việc họ phát triển cụ thể ở một số loại vũ khí, khí tài, ví dụ như là quá trình họ phát triển tàu ngầm. Việt Nam hiện nay đang cố gắng xây dựng một hạm đội tàu ngầm từ lớn tới nhỏ, trong đó mô hình xây dựng tàu ngầm mini là mô hình của Bắc Triều Tiên hoặc là một số kỹ thuật hoặc là một số loại vũ khí, ví dụ các loại tên lửa mang tính chiến lược thì Việt Nam cũng kế thừa được kinh nghiệm phát triển tên lửa của Bắc Triều Tiên, tất nhiên là từ rất lâu rồi, bây giờ thì không có chuyện đó bởi vì có liên quan đến cấm vận. Nhưng rõ ràng là sẽ có thể học hỏi, nhưng cái sự học hỏi đó nói chỉ mang tính cục bộ và hạn chế rất nhiều bởi vì về mặt thiết kế mô hình kinh tế chính trị, mô hình quản trị quốc gia thì Việt Nam và Bắc Triều Tiên hoàn toàn khác nhau.RFI : Vũ khí hệ Nga chiếm khoảng 80% trong kho vũ khí Việt Nam. Năm 2023, Việt Nam không mua được linh kiện hoặc vũ khí từ Nga do Matxcơva bị cấm vận. Từ cuối năm ngoái, Bình Nhưỡng và Nga thắt chặt quan hệ, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng. Bắc Triều Tiên được cho là sản xuất vũ khí cho Nga và dường như được Nga chuyển giao công nghệ. Liệu Bắc Triều Tiên, dù vẫn bị cấm vận, có trở thành một kênh trung gian cho Việt Nam tiếp cận công nghệ vũ khí của Nga ?Nguyễn Thế Phương : Điều này ở thời điểm hiện tại là khó có khả năng xảy ra bởi vì liên quan rất nhiều đến việc cả Nga và Bắc Triều Tiên bị cấm vận. Do đó việc Việt Nam có một mối quan hệ nào đó với Bắc Triều Tiên và với Nga có liên quan đến vũ khí là vấn đề hết sức nhạy cảm và sẽ tác động đến uy tín quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là ở Liên Hiệp Quốc. Cho nên khả năng Việt Nam tiếp cận vũ khí hay linh kiện vũ khí của Nga thông qua Bắc Triều Tiên là khá thấp. Đó là lý do thứ nhất, liên quan đến uy tín quốc tế, tới cấm vận.Lý do thứ hai là không nhất thiết phải thông qua Nga mới có các linh kiện của Nga. Bởi vì hiện nay, Việt Nam có mối quan hệ an ninh quốc phòng khá tốt đẹp với những quốc gia cũng sử dụng linh kiện của Nga và Việt Nam hoàn toàn có thể mua lại những linh kiện thông qua các quốc gia đó. Ví dụ Ấn Độ là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp quốc phòng cũng như quân đội sử dụng vũ khí của cả hai hệ : Nga và Liên Xô trước đây và của cả phương Tây và Mỹ. Do đó, với quy mô quân đội hơn 1 triệu người thì vũ khí cũng như phụ tùng linh kiện vũ khí của Nga trong kho của quân đội Ấn Độ không phải là thiếu. Và ngoài Ấn Độ còn có các quốc gia Đông Âu.Tiếp theo, Nga cũng đã chuyển giao giấy phép một số loại kinh kiện phụ tùng cho Ấn Độ, có nghĩa là cùng một loại linh kiện phụ tùng đó, thay vì Nga sản xuất thì Ấn Độ sản xuất. Việt Nam hoàn toàn có thể mua trực tiếp từ Ấn Độ, chuyển giao giấy phép sản xuất vũ khí hoặc phụ tùng cho các nước khác. Không chỉ có Ấn Độ mà còn có Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước mà nền công nghiệp quốc phòng phụ thuộc rất lớn vào năng lực quốc phòng của Nga.Cho nên, xét tới những khả năng như vậy, có thể thấy việc Việt Nam thông qua Bắc Triều Tiên để tiếp cận vũ khí hoặc linh kiện sản xuất từ Nga tạo ra rủi ro nhiều hơn lợi ích. Rủi ro lớn nhất vẫn là rủi ro bị ảnh hưởng bởi cấm vận, bị ảnh hưởng về việc uy tín quốc tế của Việt Nam bị giảm sút. Nhưng quan trọng hơn nữa là cấm vận. Vì rủi ro khá là cao nên khả năng đó khá là thấp. Mặc dù đã có thảo luận nội bộ về vấn đề này nhưng khả năng đó khó xảy ra và hầu như không xảy ra ở thời điểm hiện tại. Và khả năng làm việc trực tiếp với Nga đã nổi lên từ cuối năm ngoái (2023). Việt Nam không cần thông qua Bắc Triều Tiên để là việc với Nga mà Việt Nam sẽ làm việc trực tiếp với Nga.RFI : Trong thời gian gần đây, Bình Nhưỡng đạt nhiều tiến bộ hơn về công nghệ tên lửa đạn đạo, như chúng ta thấy qua những vụ thử gần đây và được cho là nhờ Nga giúp đỡ. Liệu thông qua Bắc Triều Tiên, Việt Nam có thể tiếp cận được những công nghệ tiên tiến đó không, theo mô hình trao đổi hợp tác đôi bên cùng có lợi ? Nguyễn Thế Phương : Về mặt lý thuyết, đi đường vòng như vậy là có thể nhưng về mặt thực tế thì tốn cả thời gian, công sức và tiền bạc. Nhanh nhất, hiệu quả nhất, đỡ tốn thời gian nhất vẫn là Việt Nam làm việc trực tiếp với Nga bởi vì hai nước là đối tác chiến lược toàn diện, có mối quan hệ an ninh quốc phòng mật thiết và truyền thống. Hiện nay công nghệ mà Việt Nam quan tâm nhất của Nga là công nghệ hạt nhân, thì Việt Nam làm việc trực tiếp với Nga, không cần thông qua ai. Nên xét về lợi ích giá trị mang lại và mất đi, quan điểm riêng của tôi vẫn là làm trực tiếp với Nga sẽ nhanh hơn và đỡ tốn hơn là đi vòng.Thứ hai, quan hệ song phương hiện nay giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên không được tốt như trước đây. Phải khẳng định như vậy ! Quan hệ chỉ ở mức ngoại giao, tạm gọi là « thân thiết » về mặt ý thức hệ, cũng như là việc Việt Nam làm trung gian trong một số vấn đề chính trị, ví dụ giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc hoặc là giữa Nhật Bản và Bắc Triều Tiên hoặc Mỹ và Bắc Triều Tiên. Còn về mặt thực chất, hầu như mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên không tiến triển gì nhiều trong mấy thập niên trở lại đây. Cho nên khả năng thông qua bắc Triều Tiên để tiếp cận công nghệ, về mặt lý thuyết, là có, nhưng rất khó xảy ra. Với tình hình hiện tại, với mối quan hệ Việt-Triều, với mối quan hệ Việt-Nga hiện tại thì việc đó khó xảy ra.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải, Đại Học New South Wales, Úc.
Mặc dù đã trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Hoa Kỳ, từ hơn hai thập niên qua, Việt Nam vẫn nằm trong danh sách các quốc gia mà Hoa Kỳ xem là những nền kinh tế phi thị trường. Tổng cộng danh sách này hiện có 12 quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc, Nga và một số quốc gia khác cũng thuộc Liên Xô cũ. Hàng hóa nhập từ những nước bị xem là nền kinh tế phi thị trường vẫn bị Hoa Kỳ áp thuế “chống phá giá”. Trong thương mại quốc tế, bị xem là phá giá khi hàng xuất khẩu của một quốc gia cố tình được định giá thấp hơn giá trong nước, và như vậy là gây bất lợi cho các ngành công nghiệp của quốc gia nhập khẩu hàng. Thuế “chống phá giá” chủ yếu nhằm bù đắp cho sự chênh lệch giữa giá hàng được xuất khẩu và giá bình thường của hàng đó.Trong thời gian gần đây, Hà Nội đã thúc giục chính quyền tổng thống Joe Biden nhanh chóng công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, bởi vì đối với họ, Việt Nam đã thực hiện đủ những cải cách kinh tế để xứng đáng được hưởng quy chế đó. Hơn nữa, nhân chuyến viếng thăm Hà Nội của tổng thống Biden tháng 9 năm ngoái, hai nước đã nâng quan hệ song phương lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”, tức là Việt Nam đã xem Hoa Kỳ ngang hàng với Trung Quốc và Nga. Đối với Hà Nội, việc Washington vẫn xem Việt Nam là “nền kinh tế phi thị trường” gây cản trở cho việc tăng cường quan hệ giữa hai nước, trong khi những nước lớn khác như Nhật Bản, Úc, Anh Quốc và Canada đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Vài ngày sau khi tổng thống Biden đặt chân đến Việt Nam, Hà Nội đã nộp đơn xin Hoa Kỳ cấp quy chế kinh tế thị trường và một tháng sau đó, bộ Thương Mại Mỹ bắt đầu tiến trình xem xét dỡ bỏ Việt Nam khỏi danh sách các quốc gia bị áp thuế phá giá. Theo quy định của phía Mỹ, bộ Thương Mại có tổng cộng 270 ngày, tức là đến tháng 7 năm nay, để hoàn tất việc xem xét và đưa ra kết luận.Được xem là kinh tế thị trường sẽ mang lại những thay đổi nào cho kinh tế Việt Nam? Trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Hà Nội ngày 21/05/2024, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho biết: “Hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nếu như Việt Nam được Hoa Kỳ công nhận là kinh tế thị trường thì rất nhiều mặt hàng sẽ có thuế suất bằng 0% hoặc thuế suất rất thấp và điều sẽ kích thích mối quan hệ kinh tế giữa hai nước và thúc đẩy luồng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, có lợi cho cả hai bên.Nếu được công nhận là nền kinh tế thị trường và với việc đầu tư của các công ty Hoa Kỳ vào công nghiệp bán dẫn, thì điều này sẽ mang lại cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi trong việc phát triển xuất khẩu, cũng như đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.”Như vậy là nếu thoát khỏi thuế chống bán phá giá, hàng hóa của Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường Mỹ. Ngày 08/05/2024, bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã tổ chức phiên điều trần trực tuyến về việc công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, trong đó họ đã nghe những lập luận của cả bên chống và bên ủng hộ. Quyết định công nhận Việt Nam là kinh tế thị trường cho tới nay vẫn gặp sự phản đối của các nhà sản xuất thép và các nhà nuôi nuôi tôm Mỹ, cũng như một số nghị sĩ Quốc Hội Hoa Kỳ, tuy được các tập đoán ngành bán lẻ và các tập đoàn những ngành khác ủng hộ.Theo hãng tin Reuters, trong cuộc điều trần hôm đó, chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Mỹ-ASEAN, ông Ted Osius, nguyên đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, tuyên bố: “Việt Nam đã là một nền kinh tế thị trường rồi, vì đã đáp ứng tiêu chuẩn chủ chốt đó là khả năng chuyển đổi tiền tệ”.Nhưng Liên minh Tôm miền Nam gồm các ngư dân và nhà chế biến tôm Hoa Kỳ cho biết họ phản đối việc cấp quy chế kinh tế thị trường, vì theo họ, vẫn còn các rào cản về quyền sở hữu đất đai của Việt Nam, luật lao động của Việt Nam còn yếu kém và thuế đánh vào tôm ở Việt Nam thấp hơn, gây tổn hại cho các thành viên của Liên minh. Việc nâng cấp quy chế của Việt Nam cũng gặp phải sự phản đối đáng kể tại Quốc Hội Hoa Kỳ, với 8 thượng nghị sĩ và 31 dân biểu Hạ viện đưa ra lập luận tương tự với bộ trưởng Thương Mại Gina Raimondo. Theo họ, việc cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam sẽ hỗ trợ các công ty nhà nước Trung Quốc đã đầu tư nhiều vào Việt Nam, bằng cách giúp họ lách thuế nhập của Mỹ dễ dàng hơn.Roy Houseman, đại diện của liên minh các nhà sản xuất thép lớn của Mỹ, United Steelworkers Union (USW), nói thêm rằng thay đổi quy chế cho Việt Nam sẽ "làm xói mòn cơ sở sản xuất trong nước của chúng ta, làm suy yếu khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ... và củng cố vai trò của Việt Nam như một kênh trung chuyển hàng hóa Trung Quốc được buôn bán không công bằng." Đối với chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, các tiêu chuẩn do Hoa Kỳ đặt ra để công nhận là kinh tế thị trường còn quá xa so với tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam:“Giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thì mối quan hệ đã phát triển tốt đẹp và giữa hai nước hiện nay đang có quan hệ hợp tác chiến lược. Riêng về kinh tế, Hoa Kỳ có những tiêu chuẩn về nền kinh tế thị trường, trong đó đòi hỏi phải có đồng tiền được chuyển đổi đầy đủ, tức là trong bất kỳ tình huống nào, trong nước và ngoài nước, đồng tiền đều có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ.Một điều kiện nữa là giữa người sử dụng lao động và người lao động phải được tự do thỏa thuận tiền lương, rồi thì phải có công đoàn độc lập, v.v…Đó là những tiêu chuẩn mà hiện nay còn xa so với những tiêu chuẩn mà Việt Nam đang áp dụng, do điều kiện phát triển cụ thể của Việt Nam. Vì vậy, tôi thấy đây là một cuộc điều tra, xem xét khó khăn.Hoa Kỳ dự kiến đến tháng 7 sẽ có tuyên bố kết luận về điều này. Tôi hy vọng là việc xem xét này sẽ không gây cản trở cho mối quan hệ hợp tác kinh tế, vì hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam.” Theo Reuters, trong cuộc điều trần hôm 08/05, các luật sư đại diện Việt Nam khẳng định rằng việc tăng lương ở Việt Nam là kết quả của thương lượng giữa người lao động với chủ công ty. Nhưng tổ chức bảo vệ nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch ( HRW ) cho biết Việt Nam vẫn không đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản về quyền lao động để có thể được xem là nền kinh tế thị trường. Theo HRW, thật sai lầm khi nói rằng công nhân Việt Nam có thể tự thành lập công đoàn, hoặc nói rằng tiền lương của họ là kết quả của thương lượng tự do.Theo ông Lê Đăng Doanh, tiêu chuẩn liên quan đến công đoàn độc lập có lẽ sẽ là trở ngại lớn nhất cho việc Hoa Kỳ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường: “Việt Nam chưa có trả lời về việc có thay đổi quy chế hiện nay hay không. Trong nước chưa thấy có sáng kiến hay đề nghị nào về việc xem một Luật Công đoàn, trong đó có công đoàn độc lập.Vì vậy tôi nghĩ là giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cần tiếp tục có những trao đổi sâu sắc và đầy đủ để hai bên hiểu biết nhau đầy đủ hơn. Hiện nay Việt Nam quan niệm công đoàn là phải do đảng, cho nên hoạt động của công đoàn về nhiều mặt rất là năng động, nhưng đều dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của cơ quan đảng. Ngay cả công đoàn ở các doanh nghiệp tư nhân cũng phải được đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp đó. Cho nên Việt Nam cũng yêu cầu thành lập các tổ chức đảng ở các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài”.Ngoài hai tiêu chuẩn về khả năng chuyển đổi tiền tệ và về lao động, quốc gia muốn được Mỹ công nhận là kinh tế thị trường còn phải cho phép liên doanh hoặc hình thức đầu tư nước ngoài khác. Hoa Kỳ cũng sẽ xem xét chính phủ của nước đó có sở hữu hay kiểm soát các phương tiện sản xuất hay không, cũng như có kiểm soát việc phân bổ nguồn lực, giá và quyết định sản lượng hay không. Một tiêu chuẩn khác có thể là nhân quyền ở Việt Nam. Vấn đề là chính phủ Hoa Kỳ xem xét cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam trong bối cảnh đang diễn ra chiến dịch vận động tranh cử cho cuộc bầu cử tổng thống tháng 11. Theo hãng tin Reuters, tổng thống Joe Biden đang muốn thu hút lá phiếu từ giới lao động, nhất là những công nhân ngành thép ở Pennsylvania, được xem là một bang dao động ( swing state ) có vai trò quan trọng đối với kết quả bầu cử.Ông Biden gần đây đã phản đối kế hoạch của hãng thép Nhật Bản Nippon Steel mua lại hãng US Steel ở Pittsburgh, đồng thời kêu gọi phải đánh thuế cao hơn với thép nhập khẩu từ Trung Quốc.Ấy là chưa kế đến khả năng cựu tổng thống Donald Trump trở lại Nhà Trắng sau cuộc bầu cử tháng 11 và điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa Hoa Kỳ với Việt Nam, theo chuyên gia Lê Đăng Doanh:“Theo những thông tin mà tôi được biết, nếu ông Trump thắng cử, ông sẽ lập lại những yêu cầu, những lời hứa của ông và điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Tức là có thể ông Trump sẽ đánh thuế và sẽ xem xét lại những cam kết mà Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được trong thời tổng thống Biden.”
Năm 2023, tại Việt Nam, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn ở mức cao, tức là 112 bé trai trên 100 bé gái, trong khi tỷ số tự nhiên là khoảng 105/100, theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê vừa được công bố đầu năm nay. Năm 2022, tỷ số này là 113,7 bé trai trên 100 bé gái, đã được đánh giá nghiêm trọng, thế mà năm 2023 còn tiếp tục tăng thêm. Vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh thực sự trở thành thách thức đối với Việt Nam từ năm 2006 khi tỷ số giới tính khi sinh tăng lên 109,8 bé trai/100bé gái.Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, thuộc Bộ Y tế, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn một số nước, nhưng tăng nhanh và lan rộng, xảy ra ở cả thành thị và nông thôn. Xét ở phạm vi vùng kinh tế-xã hội, vào năm 2006 chỉ mới có 3/6 vùngmất cân bằng giới tính khi sinh, đến năm 2021 cả 6/6 vùng đều bị mất cân bằng giới tính khi sinh ở cả thành thị và nông thôn.Đặc biệt, Việt Nam là một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay từ đứa con đầu tiên, tức là các cặp vợ chồng lựa chọn giới tính ngay ở lần sinh đầu tiên. Tình trạng mất cân bằng giới tính này đưa Việt Nam vào trong nhóm các quốc gia có tỷ lệ mất cân bằng giới tính cao nhất. Theo một báo cáo năm 2020 của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc ( UNFPA ), riêng tại châu Á, tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh của Việt Nam đứng thứ 3 châu Á, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ.Riêng tại Việt Nam, tâm lý ưa thích con trai, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã tồn tại từ rất lâu ở Việt Nam và là nguyên nhân chính gây ra mất cân bằng giới tính khi sinh. Nguyên nhân thứ hai lạm dụng khoa học – công nghệ. Ngoài ra, các quy định pháp luật chưa được thực thi nghiêm làm trầm trọng hơn tình trạng này.Trả lời RFI Việt ngữ ngày 08/01/2024, bà Nguyễn Vân Anh, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu & Ứng dụng khoa học về Giới - Gia đình - Phụ nữ và Vị thành niên (CSAGA) ghi nhận:“ Thứ nhất là người Việt Nam mình thờ cúng tổ tiên và dòng họ thì theo họ bố. Tâm lý dòng họ vẫn là tâm lý rất nặng. Cha em thì trông chờ vào sự chăm sóc, sự nối dõi khi về già của người con trai gia đình. Vẫn có tâm lý là nếu không đẻ được con trai thì giống như là không làm tròn bổn phận đối với dòng họ, tổ tiên. Tâm lý đó còn rất nặng kể cả đối với những người ở thành phố, kể cả những người có học hành, có trình độ rất cao.Bây giờ còn có thêm một yếu tố, đó là các phương tiện để giúp người ta tìm kiếm sinh đẻ với giới tính theo ý muốn. Người ta có thể sử dụng rất nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả các kỹ thuật truyền thống và kỹ thuật hiện đại để đạt được điều đấy.Đấy là một trong những yếu tố rất quan trọng dẫn đến việc tỷ lệ con trai sinh ra vẫn nhiều hơn con gái”.Một báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2014 cho biết những gia đình mà vợ chồng có học vấn càng cao và kinh tế càng khá giả thì càng thích con trai. Một số thay đổi gần đây cũng góp phần làm trầm trọng thêm hiện tượng này như tỷ lệ sinh thấp, đặc biệt các công nghệ sinh sản hiện đại và chi phí phải chăng, cho phép nhiều người tiếp cận.Bà Nguyễn Vân Anh, giám đốc CSAGA, cũng ghi nhận:“ Luật pháp không cho phép, tuy nhiên người ta vẫn dùng muôn vàn thủ thuật để đạt được điều người ta muốn mà luật pháp không biết, ví dụ như các phương pháp truyền thống mà người ta truyền miệng với nhau để sinh được con trai, người ta có thể ra nước ngoài, tìm ra các kỹ thuật. Nói chung là có rất nhiều cách để lách luật, chứ luật pháp Việt Nam không chấp nhận việc sàng lọc giới tính khi sinh và không chấp nhận bác sĩ hoặc người làm siêu âm thông báo giới tính của thai nhi. Luật pháp đã cấm từ lâu rồi, nhưng người ta vẫn làm được việc đấy.”Theo báo mạng vnExpress ngày 8/10/2022, ngày càng có nhiều cặp vợ chồng chọn làm thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – viết tắt là IVF) để sinh cho bằng được một đứa con trai dù biết lựa chọn giới tính thai nhi là trái pháp luật. Đây là phương pháp sàng lọc và xét nghiệm phôi hiện đại, có thể xác định được giới tính phôi trước lúc chuyển vào cơ thể người mẹ.Tờ báo này cho biết, hơn chục năm trước, những người muốn làm IVF hầu hết phải sang Thái Lan, Singapore với chi phí cả tỷ đồng. Vài năm gần đây, Việt Nam trở thành trung tâm đào tạo về thụ tinh ống nghiệm của khu vực, chi phí IVF tại hơn 40 trung tâm, bệnh viện trên toàn quốc dao động trong khoảng từ 70 đến 100 triệu đồng, chỉ bằng 20-25% các nước. Từ năm 2017 trở đi, số ca IVF thực hiện mỗi năm ở Việt Nam đã cao nhất khu vực ASEAN. Năm 2019, cả nước có gần 35.000 ca IVF được thực hiện.Các chuyên gia cho rằng tình trạng mất cân bằng giới sẽ ảnh hưởng xấu tới cấu trúc dân số trong tương lai, dẫn tới dư thừa nam giới. Tổng cục Thống kê dự báo đến năm 2034, nếu tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam không giảm, Việt Nam sẽ “dư thừa” 1,5 triệu nam giới lứa tuổi 15-49. Đến năm 2059, dự báo con số này sẽ là 2,5 triệu. Nếu kịch bản này xảy ra, rất có thể Việt Nam sẽ phải “nhập khẩu cô dâu” như Trung Quốc và Ấn Độ. Giám đốc CSAGA Nguyễn Vân Anh chia sẽ mối quan ngại đó." Các nhà khoa học đã nói nhiều rồi: Trong một xã hội mà số nam giới nhiều quá thì nhìn sang các nước hàng xóm thì chúng ta đã thấy, đến khi tỷ lệ nam giới thừa nhiều quá thì ngay cả việc tìm được một người bạn đời cũng không phải là dễ, thậm chí có nhiều nước mà mọi người phải tìm cách để có được những cô dâu từ nước ngoài.Thêm vào đó có thể còn có tình trạng xâm hại tình dục, cưỡng hiếp mà mọi người cũng đã nói khá nhiều rồi. Tôi nghĩ là sẽ còn những hệ lụy khác khi xã hội có sự mất cân bằng cao về giới tính, dồn đến một thời điểm nào đó thì sẽ bùng nổ."Trước tình trạng mất cân bằng giới tính ngày càng trầm trọng như vậy, theo bà Nguyễn Vân Anh, về lâu dài phải đẩy mạnh việc truyền thông theo hướng làm thay đổi cái nhìn của xã hội đối với phụ nữ:"Khi làm truyền thông, mình cũng đã tranh luận rất nhiều với những người làm công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Mình không thể truyền thông là hãy ngừng việc lựa chọn giới tính thai nhi. Truyền thông như thế không giải quyết được vấn đề, mà cần làm rõ hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội là phải như thế nào.Nếu chúng ta nhìn thấy nhiều phụ nữ giỏi giang, có thể quản lý được cuộc đời mình và có thể có đời sống hạnh phúc, cũng như có thể thành công không kém gì nam giới, thì người ta sẽ thấy là nam giới và nữ giới không có khoảng cách. Nhưng nếu người ta chỉ nhìn thấy phụ nữ bị bạo lực, đời sống phải lệ thuộc, bị coi thường, thì người ta sẽ nghĩ rằng sinh ra làm phụ nữ rất là khổ. Nếu không chú ý điều đó, thì truyền thông của mình vẫn là sai. Cho nên, trong chương trình truyền thông của SCAGA trong thời gian dài, chúng tôi tập trung vào hình ảnh những phụ nữ và những nữ thanh niên thành đạt. Tại các trường thì ở cấp 3 khi hướng nghiệp, người ta thường nói là con gái thì không cần học nhiều, chỉ cần lấy được chồng tốt.Nhưng khi đến các trường, chúng tôi đem đến những tấm gương của nhiều phụ nữ thành đạt: người thì là cảnh sát quốc tế, người thì là cung thủ, kiếm thủ, hoặc là nhà bảo tồn động vật hoang dã đã đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. Các em và các phụ huynh mới thấy: “ Ơ, phụ nữ cũng làm được những nghề này à? Thế mà từ trước đến giờ mình không biết!”. Các thầy cô giáo cũng thấy: “À, mình có thể hướng cho các em tự chọn theo khát vọng của các em, chứ không phải dựa vào giới tính của các em để tự định ra một cái khuôn là phụ nữ nên làm nghề này và nam giới nên làm nghề này.Nhưng tất cả những điều ấy sẽ khích lệ về lâu dài, chứ sự mất cân bằng giới tính thì không thể xóa bỏ một sớm một chiều được.”Thật ra thì đây là một hiện tượng phổ biến ở rất nhiều nước. Phát biểu tại một hội thảo quốc tế về mất cân bằng giới tính giới tính khi sinh, diễn ra tại Hà Nội đầu tháng 10/2022, ông Bjorn Andersson, Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNFPA, đã nêu bật: "Hiện có hơn 140 triệu phụ nữ 'bị thiếu hụt' trên khắp thế giới do tâm lý ưa thích con trai và lựa chọn giới tính".