Podcasts about Mekong

Major river in Southeast Asia

  • 465PODCASTS
  • 1,056EPISODES
  • 27mAVG DURATION
  • 5WEEKLY NEW EPISODES
  • Dec 21, 2025LATEST
Mekong

POPULARITY

20172018201920202021202220232024


Best podcasts about Mekong

Show all podcasts related to mekong

Latest podcast episodes about Mekong

SBS Hmong - SBS Hmong
Cov kev sim siv cov system ceeb toom txog npaws yoov tshaj cum thaum ntxov

SBS Hmong - SBS Hmong

Play Episode Listen Later Dec 21, 2025 8:08


Tej kws teeb txheeb cia siab tias yuav coj ib co system ceeb toom thaum ntxov qhia txog tus kab mob npaws yoov tshaj cum dengue fever coj mus sim siv rau ntawm Cob tsib tej chaw nyob npuab tus dej Mekong seb puas muaj peev xwm txog tau kom tej neeg tsis txhob tau tus mob npaws yoov no txog li ntawm 25 feem pua. Thiab seb cov system no ho siv puas tau hauj lwm zoo, yog zoo ces seb puas muaj peev xwm coj mus siv rau ntau thaj chaw uas tau tus mob no rau yav tom ntej.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Lão nông mê xây cầu, xây nhà miễn phí

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 19, 2025 9:13


Ở nhiều vùng quê của Đồng Tháp, những cây cầu nhỏ không chỉ nối liền đôi bờ mà còn nối bằng tấm lòng của những người âm thầm vì cộng đồng. Hơn 15 năm qua, ông Phan Văn Năm, ngụ xã Hòa Long, đã lặng lẽ làm cầu, sửa đường, vận động bà con cùng chung tay - từ những cây cầu gỗ đơn sơ ban đầu đến hơn 100 cây cầu bê tông hôm nay. Không lương, không thù lao, chỉ với mong muốn giúp bà con đi lại an toàn, thuận tiện hơn mỗi ngày.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Người thắp sáng hành trình sống cho bệnh nhân nghèo

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 17, 2025 9:14


Nhiều năm qua, ông Lê Thành Lộc được người dân xã Phú Quới, tỉnh Vĩnh Long trìu mến gọi bằng cái tên thân mật “ông Lộc từ thiện”. Suốt tám năm qua, hễ có người cần là ông hoặc các tài xế thiện nguyện lại lập tức lên đường, thực hiện hàng trăm chuyến xe 0 đồng đưa bệnh nhân nghèo đi cấp cứu, chuyển viện kịp thời. Những chuyến xe không thu phí ấy đã trở thành điểm tựa của nhiều gia đình khó khăn, góp phần lan tỏa giá trị nhân ái, tinh thần sẻ chia và trách nhiệm với cộng đồng, nơi sinh mạng con người luôn được đặt lên trên mọi toan tính.

Meet My Country | Asia Society Switzerland
Southeast Asia's Potential: A Reality Check

Meet My Country | Asia Society Switzerland

Play Episode Listen Later Dec 16, 2025 36:00


In this episode, we're gonna take a sweeping look at Southeast Asia's political, economic, and security landscape. The region sits at a geopolitical crossroads, a position that has created huge potential and a delicate balancing act between China and the U.S.As an intrinsically diverse region, different countries pursue different levels of ambition. The difficulties the region has in finding a unified voice are clearly visible daily, whether it is in the ongoing crisis in Myanmar, the environmental challenges facing the Mekong region, or the protest-inducing corruption scandals in countries like the Philippines and Indonesia.So is Southeast Asia meeting its potential? We asked Pita Limjaroenrat, former Prime Minister designate of Thailand and current Senior Fellow at the Harvard Kennedy School of Government and Huong Le Thu, Deputy Director of the Asia Program at the International Crisis Group.The conversation, recorded live on stage at our annual STATE OF ASIA CONFERENCE last month, is led by James Crabtree, a fellow at the European Council on Foreign Relations and advisor to Asia Society Switzerland.Find more information on STATE OF ASIA 2025, including videos, on the Asia Society website.Stay up-to-date on all events and activities at Asia Society Switzerland: subscribe to the newsletter and support our work by becoming a member. -STATE OF ASIA is a podcast from Asia Society Switzerland.  Published: December 16, 2025Host/Editor: Remko Tanis, Managing Editor, Asia Society Switzerland

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Việt Nam: Đồng bằng sông Cửu Long tìm giải pháp cho tình trạng ngập úng

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Dec 15, 2025 12:58


Theo các chuyên gia, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nhiều nguy cơ với các hiện tượng triều cường, sụt lún và sạt lở đồng loạt gia tăng. Không chỉ gây ngập úng diện rộng, các hiện tượng này còn làm suy yếu hệ thống đê bao, có thể dẫn đến những sự cố nghiêm trọng nếu không có giải pháp ứng phó kịp thời. Theo báo chí trong nước, trong những ngày đầu tháng 10 âm lịch vừa qua, nhiều khu vực ở Đồng Tháp liên tục ngập sâu do triều cường lên mức cao nhất từ đầu năm. Triều cường mạnh cũng có nguy cơ làm vỡ đê. Cùng thời điểm, Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam (VAWR) cảnh báo nhiều khu vực trong vùng có khả năng tiếp tục bị ngập úng do kết hợp giữa triều cường, mưa trái mùa và dòng chảy yếu từ thượng nguồn. Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 12/12/2025, tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, Đại học Cần Thơ và là chủ tịch Quỹ bảo tồn Mekong MCF, giải thích: "Nói về ngập, chúng ta phân biệt ba thông số. Thứ nhất là diện tích ngập, thứ hai là độ sâu ngập và thứ ba là thời gian ngập. Ví dụ các tỉnh ven phía Biển Đông như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều, thành thử khi bị ngập thì sẽ ngập rất nhanh, nhưng mà rút rất là lẹ, tại vì một ngày một đêm có tới hai lần nước ròng, hai lần nước kém. Các tỉnh khác như Kiên Giang, Cà Mau thì lại bị ảnh hưởng chế độ nhật triều, ngập thì cũng ngập nhanh, nhưng lại rút rất chậm, bởi vì một ngày một đêm chỉ có một lần nước ròng thôi. Những tỉnh đầu nguồn như Đồng Tháp, An Giang thì lại ít bị ảnh hưởng bởi chế độ thủy triều từ Biển Đông, mà bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi lượng nước đổ về của sông Mekong và lượng mưa tại chỗ. Ở những nơi đây có mùa nước mà người ta hay gọi là mùa nước nổi, khoảng giữa rằm tháng 7 thì nước dâng lên từ từ nhưng lại kéo dài cho tới khoảng cuối tháng 9 âm lịch thì nước mới bắt đầu rút được. Còn những tỉnh nằm giữa như Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang thì lại bị ảnh hưởng bởi hai phần. Một phần là các tỉnh phía thượng nguồn như Đồng Tháp, An Giang và một phần khác là các tỉnh ven biển như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu... Nếu xảy ra ngập lụt ở Cần Thơ và nếu các tỉnh phía bên trên như Đồng Tháp, An Giang không có nước đổ về tiếp tục và trong khi đó phía Sóc Trăng và Trà Vinh không bị ngập, thì Cần Thơ bị ngập không đáng kể, có nghĩa là ngập, nhưng sau đó nước sẽ rút rất nhanh. Nhưng ngược lại, nếu các tỉnh ven biển như Trà Vinh, Sóc Trăng cũng bị ngập và cộng thêm các tỉnh đầu nguồn như Đồng Tháp, An Giang lại ngập nữa, thì lúc bây giờ các tỉnh phía giữa như Vĩnh Long và Cần Thơ sẽ ngập rất sâu. Khi muốn đánh giá ngập ở một chỗ nào thì có rất nhiều nguyên nhân, chứ không đơn thuần một hai nguyên nhân. Và bản chất của chuyện ngập là hoàn toàn khác nhau giữa tỉnh này với tỉnh khác. Nó không chịu một ảnh hưởng nguyên nhân chung, mà mỗi tỉnh có một nguyên nhân riêng. Thậm chí những địa phương trong cùng một tỉnh cũng có những nguyên nhân ngập khác nhau. Và điều đó tác động lên ba thông số mà tôi vừa trình bày: Diện tích ngập, độ sâu ngập và thời gian ngập." Tình trạng sụt lún Không chỉ đối mặt với ngập úng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn đang chịu tác động của sụt lún đất và sạt lở bờ sông, bờ biển. Mưa lớn, dòng chảy thay đổi và tác động của triều cường khiến các điểm sạt lở xuất hiện với tần suất dày hơn. Tại một số khu vực, sạt lở đã ăn sâu vào sát chân đê, làm tăng nguy cơ mất an toàn cho cả tuyến đê lẫn người dân sinh sống ven sông. Phân tích của các chuyên gia VAWR cho thấy việc khai thác nước ngầm kéo dài đã khiến nền đất hạ thấp. Khi nền đất lún xuống, mực nước vốn chỉ ngang bờ kênh nay có thể gây ngập ngay cả khi triều không quá cao. Theo phân tích của tiến sĩ Dương Văn Ni, có rất nhiều nguyên nhân giải thích tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long: "Đồng bằng chúng ta là một vùng đất non trẻ, trước khi hình thành chỉ là những bãi bùn rất là nhão. Sau đó đất bắt đầu dần dần săn chắc và như vậy có một quá trình gọi là 'sụt lún tự nhiên'. Hiện tượng này khác nhau ở từng vùng. Do điều kiện địa chất, có những nơi thì sụt lún tự nhiên khoảng chừng 5 cm, có những nơi thì chỉ sụt một vài cm thôi. Nó hoàn toàn lệ thuộc vào cấu tạo địa chất của lớp trầm tích nằm bên dưới. Nhưng một nguyên nhân thứ hai đó là do chúng ta khai thác nước ngầm. Mà lý do căn bản của chuyện khai thác nước ngầm không phải là người ta thiếu nước ngọt mà là thiếu nước có đủ chất lượng để mà sản xuất và sinh hoạt. Bấy lâu nay chúng ta thâm canh, chúng ta đã sử dụng quá nhiều phân bón, thuốc trừ sâu và như vậy tạo ra một lượng dư thừa đổ xuống sông rạch và làm ô nhiễm nước mặt. Đặc biệt là trong quá trình xây đê điều, cống đập để ngăn mặn, ngăn lũ, điều tiết nước thì chúng ta cản trở dòng chảy rất là lớn. Do đó bây giờ gần như người dân nông thôn không còn uống nước dưới sông nữa, hoặc là không còn sinh hoạt, tắm giặt dưới sông nữa, bởi vì người ta sợ ô nhiễm. Và chính vì sợ ô nhiễm như vậy, người ta phải khoan rất nhiều giếng để lấy nước ngầm lên xài. Nghiêm trọng hơn là ở những vùng ven biển, khi người ta nuôi tôm thì người ta cần những độ mặn thích hợp cho quá trình con tôm tăng trưởng. Thành thử người ta phải cần rất nhiều nước ngọt  pha loãng với nước mặn để có độ mặn lý tưởng. Và người ta sử dụng một lượng nước ngầm vô cùng lớn không phải chỉ để sinh hoạt, mà cho cả sản xuất, góp phần rất đáng kể vào chuyện làm sụt lún mặt đất. Và nguyên nhân cuối cùng là các công trình xây dựng của chúng ta càng ngày càng dày đặc. Những thành phố ngày xưa chỉ là những nhà thấp thì bây giờ xuất hiện rất nhiều nhà cao tầng, thậm chí những nhà cao tầng đó tập trung rất dày đặc. Với trọng lượng rất là lớn trên mặt đất như vậy nó ép xuống và như vậy cũng sẽ làm tăng mức độ sụt lún chung cho cả vùng. Bao nhiêu năm nay khi nói là nước biển dâng, biến đổi khí hậu, nhưng mà nước biển chỉ dâng chừng vài mm trong vòng 1, 2 năm, trong khi tốc độ sụt lún của chúng ta tới mấy chục mm trong vòng 1 năm.Và như vậy chúng ta thấy là thiên tai đến chậm, nhưng nhân tai đến nhanh hơn!" Sống chung với lũ Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, trước viễn cảnh đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục ngập úng diện rộng trong thời gian dài, thay vì chế ngự nguồn nước bằng đê điều như vẫn làm từ trước đến nay, chính quyền địa phương nên giúp cho người dân ở vùng này học cách sống chung với lũ: "Những năm gần đây, chúng ta thấy rõ ràng ngay cả trong các văn bản của nhà nước cũng không còn mạnh dạn nói chuyện chống hạn, chống mặn, chống lũ nữa, mà đang dần dần khuyến khích người dân sống chung với lũ, sống chung với mặn. Thách thức hiện nay đó là nhiều khi giải pháp sống chung đó chưa được phát triển một cách đầy đủ. Và như vậy người dân và các cấp chính quyền ở địa phương khá lúng túng khi áp dụng những mô hình cụ thể vào cuộc sống hàng ngày. Ở những tỉnh đầu nguồn như An Giang, Đồng Tháp vài chục năm trước người ta bao những đê triệt để, không cho nước lũ tràn vào trong mùa mưa, để người ta thâm canh lúa vụ ba nhằm tăng sản lượng lúa. Nhưng sau hàng chục năm sử dụng mô hình đó, bây giờ người ta đã thấy một điều rất rõ là ở những vùng đó gần như đất bị kiệt quệ về dinh dưỡng và người sản xuất phải bón phân ngày càng nhiều. Năng suất lúa thì không tăng bao nhiêu nhưng lượng phân bón phải tăng lên rất cao, do đó lợi nhuận của sản xuất lúa vụ ba này gần như không còn. Người dân ý thức được chuyện đó, chính quyền địa phương và mọi người ý thức được chuyện đó, nhưng bây giờ muốn xả nước trở lại để lấy phù sa, để lấy dinh dưỡng trở lại tự nhiên cho đất, thì đó là một vấn đề không dễ. Trong hàng chục năm qua, vì chúng ta đã giữ mực nước thấp như vậy, thành thử nhà cửa, chuồng trại, vườn tược, thậm chí mồ mả cũng xây thấp lè tè bằng với mực nước. Bây giờ nếu xả nước trở lại thì tất cả những công trình này sẽ bị chìm ngập hết. Và như vậy người dân không đồng thuận mặc dù người ta ý thức rất rõ là bây giờ phải xả nước trở lại để cho đất đai nó màu mỡ trở lại. Chúng ta cũng phải đi từng bước chứ không thể một ngày một buổi mà có giải pháp tổng thể được. Thứ nhất, phải chuyển đổi cách sử dụng đất làm thế nào để bảo đảm được thu nhập cho người dân ổn định hàng tháng, hàng năm chuyển đổi từ sinh kế không lệ thuộc vào nguồn nước sang thích nghi tốt với những nguồn nước. Khi chuyển đổi được những sinh kế cho bà con ở một vùng nào đó rồi đó thì bước tiếp theo  là phải lần lần rút người dân ra khỏi những vùng không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nữa, ví dụ như những vùng bưng biền mà ngày xưa nó ngập rất lâu, khi mùa nước tới là nước nó ngập ba bốn mét. Những vùng này trong bao nhiêu năm qua chúng ta bao đê khô triệt để cho người dân sống trong đó, nhưng mà người ta sống với một tâm thế rất là phập phồng rủi ro, không biết đê bao bị vỡ gây ngập lụt bất cứ lúc nào, tài sản người ta xây dựng hàng chục năm có thể đổ sông đổ biển trong vòng một vài tiếng đồng hồ. Thứ ba là chúng ta cũng phải định hình lại chiến lược phát triển tổng thể của Đồng bằng sông Cửu Long và chiến lược đó phải phân khu vực. Những nơi nào mà bắt buộc chúng ta phải không cho nước nó ngập bất cứ lúc nào, thì những  khu đó, với khoa học công nghệ hiện đại, chúng ta hoàn toàn có đủ khả năng kiểm soát hoàn toàn mực nước, để không có chuyện ngập tràn lan. Dĩ nhiên là những khu này phải tương xứng với cái trình độ phát triển và phải đóng góp rất  lớn cho nền kinh tế của cả khu vực. Bởi vì đầu tư cho những khu vực này là vô cùng tốn kém và quản lý những khu này lại càng tốn kém hơn nữa. Đó là những khu vực đặc biệt phải ưu tiên, ví dụ như những khu công nghiệp, những nơi có những công trình phúc lợi công cộng như trường học, bệnh viện... Còn lại những khu vực không đóng góp thực sự lớn cho nền kinh tế thì chúng ta phải xem xét từng bước trả nó trở về với thiên nhiên. Khi chúng ta làm được điều đó đó thì tự bản thân cộng đồng đã thích nghi được rồi. Kinh nghiệm của Hà Lan Tiến sĩ Dương Văn Ni nêu ví dụ của Hà Lan, một quốc gia có giàu kinh nghiệm sống với nước, đồng thời có trình độ khoa học kỹ thuật rất cao trong việc xây dựng các đê điều và quản lý đê điều. Tuy nhiên, những năm sau này, họ thấy là cần thấy phải trả lại không gian cho dòng sông, cho nên họ đưa ra một chương trình rất lớn gọi là 'room for the river': Trong những năm mà mưa thuận gió hòa thì người ta vẫn canh tác được trên những vùng đất đó. Nhưng những năm nào mà dự đoán là thời tiết cực đoan, hay có thể xảy ra nước ngập nghiêm trọng, thì những vùng đó được cảnh báo và người ta không canh tác trong vùng đó. Vùng đó trở thành không gian để người ta chứa nước dư thừa của dòng sông. Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, có thể áp dụng kinh nghiệm của Hà Lan cho đồng bằng sông Cửu Long : "Ở đồng bằng sông Cửu Long thật ra có hai vùng rất lớn. Một vùng là ở Tứ Giác Long Xuyên của các tỉnh như Kiên Giang và An Giang. Vùng thứ hai là vùng Đồng Tháp Mười của các tỉnh Đồng Tháp, Long An và Tiền Giang. Hai vùng này, trong tự nhiên có thể trữ được khoảng 8 đến 9 tỷ mét khối nước trong mùa mưa. Với khả năng trữ một lượng nước khổng lồ như vậy, chúng ta hoàn toàn không phải lo chuyện ngập úng của những vùng bên dưới. Mấy năm gần đây chúng ta đã biến những vùng này thành những vùng thâm canh nông nghiệp và như vậy là toàn bộ lượng nước thay vì có một không gian để tràn thì bây giờ phải tràn xuống những vùng bên dưới, gây ra ngập lụt thường xuyên, đặc biệt là ngập lụt ở những thành phố mà trong lịch sử chưa từng bị ngập, như Cần Thơ chẳng hạn. Khái niệm 'room for the river' đối với Hà Lan thì dễ làm hơn là vì cộng đồng của họ thưa thớt, họ dễ quy hoạch, dễ tính toán. Còn hiện nay những vùng như Đồng Tháp Mười hoặc Tứ Giác Long Xuyên của chúng ta thì đã có hàng triệu người dân sinh sống và đã ổn định nhà cửa cũng như vườn tược, chuồng trại. Và như vậy việc sử dụng hai vùng này mà tôi gọi là 'room for the delta' là một thách thức rất lớn, cần một nỗ lực rất lớn của toàn xã hội."   "

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Người chiến sĩ nhân dân

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 15, 2025 11:11


Giữa nhịp sống hối hả hôm nay, khi nhiều người trẻ còn băn khoăn nên trao tuổi xuân của mình cho điều gì thì ở đâu đó vẫn có những người âm thầm chọn cách cho đi rất đỗi bình dị: sẻ chia những giọt máu của mình để níu giữ sự sống cho người khác. Câu chuyện của Thượng úy Trần Văn Phú, cán bộ Công an xã Hỏa Lựu, TP Cần Thơ là hành trình bền bỉ được lặp lại qua năm tháng, như một phản xạ tự nhiên của lòng nhân ái. Một câu chuyện giản dị nhưng nhưng lại có sức lay động mạnh mẽ về sự sẻ chia và trách nhiệm với cộng đồng.

Tạp chí Việt Nam
Việt Nam: Đồng bằng sông Cửu Long tìm giải pháp cho tình trạng ngập úng

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Dec 15, 2025 12:58


Theo các chuyên gia, vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nhiều nguy cơ với các hiện tượng triều cường, sụt lún và sạt lở đồng loạt gia tăng. Không chỉ gây ngập úng diện rộng, các hiện tượng này còn làm suy yếu hệ thống đê bao, có thể dẫn đến những sự cố nghiêm trọng nếu không có giải pháp ứng phó kịp thời. Theo báo chí trong nước, trong những ngày đầu tháng 10 âm lịch vừa qua, nhiều khu vực ở Đồng Tháp liên tục ngập sâu do triều cường lên mức cao nhất từ đầu năm. Triều cường mạnh cũng có nguy cơ làm vỡ đê. Cùng thời điểm, Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam (VAWR) cảnh báo nhiều khu vực trong vùng có khả năng tiếp tục bị ngập úng do kết hợp giữa triều cường, mưa trái mùa và dòng chảy yếu từ thượng nguồn. Trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ ngày 12/12/2025, tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, Đại học Cần Thơ và là chủ tịch Quỹ bảo tồn Mekong MCF, giải thích: "Nói về ngập, chúng ta phân biệt ba thông số. Thứ nhất là diện tích ngập, thứ hai là độ sâu ngập và thứ ba là thời gian ngập. Ví dụ các tỉnh ven phía Biển Đông như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều, thành thử khi bị ngập thì sẽ ngập rất nhanh, nhưng mà rút rất là lẹ, tại vì một ngày một đêm có tới hai lần nước ròng, hai lần nước kém. Các tỉnh khác như Kiên Giang, Cà Mau thì lại bị ảnh hưởng chế độ nhật triều, ngập thì cũng ngập nhanh, nhưng lại rút rất chậm, bởi vì một ngày một đêm chỉ có một lần nước ròng thôi. Những tỉnh đầu nguồn như Đồng Tháp, An Giang thì lại ít bị ảnh hưởng bởi chế độ thủy triều từ Biển Đông, mà bị ảnh hưởng hoàn toàn bởi lượng nước đổ về của sông Mekong và lượng mưa tại chỗ. Ở những nơi đây có mùa nước mà người ta hay gọi là mùa nước nổi, khoảng giữa rằm tháng 7 thì nước dâng lên từ từ nhưng lại kéo dài cho tới khoảng cuối tháng 9 âm lịch thì nước mới bắt đầu rút được. Còn những tỉnh nằm giữa như Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang thì lại bị ảnh hưởng bởi hai phần. Một phần là các tỉnh phía thượng nguồn như Đồng Tháp, An Giang và một phần khác là các tỉnh ven biển như Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu... Nếu xảy ra ngập lụt ở Cần Thơ và nếu các tỉnh phía bên trên như Đồng Tháp, An Giang không có nước đổ về tiếp tục và trong khi đó phía Sóc Trăng và Trà Vinh không bị ngập, thì Cần Thơ bị ngập không đáng kể, có nghĩa là ngập, nhưng sau đó nước sẽ rút rất nhanh. Nhưng ngược lại, nếu các tỉnh ven biển như Trà Vinh, Sóc Trăng cũng bị ngập và cộng thêm các tỉnh đầu nguồn như Đồng Tháp, An Giang lại ngập nữa, thì lúc bây giờ các tỉnh phía giữa như Vĩnh Long và Cần Thơ sẽ ngập rất sâu. Khi muốn đánh giá ngập ở một chỗ nào thì có rất nhiều nguyên nhân, chứ không đơn thuần một hai nguyên nhân. Và bản chất của chuyện ngập là hoàn toàn khác nhau giữa tỉnh này với tỉnh khác. Nó không chịu một ảnh hưởng nguyên nhân chung, mà mỗi tỉnh có một nguyên nhân riêng. Thậm chí những địa phương trong cùng một tỉnh cũng có những nguyên nhân ngập khác nhau. Và điều đó tác động lên ba thông số mà tôi vừa trình bày: Diện tích ngập, độ sâu ngập và thời gian ngập." Tình trạng sụt lún Không chỉ đối mặt với ngập úng, vùng Đồng bằng sông Cửu Long còn đang chịu tác động của sụt lún đất và sạt lở bờ sông, bờ biển. Mưa lớn, dòng chảy thay đổi và tác động của triều cường khiến các điểm sạt lở xuất hiện với tần suất dày hơn. Tại một số khu vực, sạt lở đã ăn sâu vào sát chân đê, làm tăng nguy cơ mất an toàn cho cả tuyến đê lẫn người dân sinh sống ven sông. Phân tích của các chuyên gia VAWR cho thấy việc khai thác nước ngầm kéo dài đã khiến nền đất hạ thấp. Khi nền đất lún xuống, mực nước vốn chỉ ngang bờ kênh nay có thể gây ngập ngay cả khi triều không quá cao. Theo phân tích của tiến sĩ Dương Văn Ni, có rất nhiều nguyên nhân giải thích tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long: "Đồng bằng chúng ta là một vùng đất non trẻ, trước khi hình thành chỉ là những bãi bùn rất là nhão. Sau đó đất bắt đầu dần dần săn chắc và như vậy có một quá trình gọi là 'sụt lún tự nhiên'. Hiện tượng này khác nhau ở từng vùng. Do điều kiện địa chất, có những nơi thì sụt lún tự nhiên khoảng chừng 5 cm, có những nơi thì chỉ sụt một vài cm thôi. Nó hoàn toàn lệ thuộc vào cấu tạo địa chất của lớp trầm tích nằm bên dưới. Nhưng một nguyên nhân thứ hai đó là do chúng ta khai thác nước ngầm. Mà lý do căn bản của chuyện khai thác nước ngầm không phải là người ta thiếu nước ngọt mà là thiếu nước có đủ chất lượng để mà sản xuất và sinh hoạt. Bấy lâu nay chúng ta thâm canh, chúng ta đã sử dụng quá nhiều phân bón, thuốc trừ sâu và như vậy tạo ra một lượng dư thừa đổ xuống sông rạch và làm ô nhiễm nước mặt. Đặc biệt là trong quá trình xây đê điều, cống đập để ngăn mặn, ngăn lũ, điều tiết nước thì chúng ta cản trở dòng chảy rất là lớn. Do đó bây giờ gần như người dân nông thôn không còn uống nước dưới sông nữa, hoặc là không còn sinh hoạt, tắm giặt dưới sông nữa, bởi vì người ta sợ ô nhiễm. Và chính vì sợ ô nhiễm như vậy, người ta phải khoan rất nhiều giếng để lấy nước ngầm lên xài. Nghiêm trọng hơn là ở những vùng ven biển, khi người ta nuôi tôm thì người ta cần những độ mặn thích hợp cho quá trình con tôm tăng trưởng. Thành thử người ta phải cần rất nhiều nước ngọt  pha loãng với nước mặn để có độ mặn lý tưởng. Và người ta sử dụng một lượng nước ngầm vô cùng lớn không phải chỉ để sinh hoạt, mà cho cả sản xuất, góp phần rất đáng kể vào chuyện làm sụt lún mặt đất. Và nguyên nhân cuối cùng là các công trình xây dựng của chúng ta càng ngày càng dày đặc. Những thành phố ngày xưa chỉ là những nhà thấp thì bây giờ xuất hiện rất nhiều nhà cao tầng, thậm chí những nhà cao tầng đó tập trung rất dày đặc. Với trọng lượng rất là lớn trên mặt đất như vậy nó ép xuống và như vậy cũng sẽ làm tăng mức độ sụt lún chung cho cả vùng. Bao nhiêu năm nay khi nói là nước biển dâng, biến đổi khí hậu, nhưng mà nước biển chỉ dâng chừng vài mm trong vòng 1, 2 năm, trong khi tốc độ sụt lún của chúng ta tới mấy chục mm trong vòng 1 năm.Và như vậy chúng ta thấy là thiên tai đến chậm, nhưng nhân tai đến nhanh hơn!" Sống chung với lũ Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, trước viễn cảnh đồng bằng sông Cửu Long sẽ tiếp tục ngập úng diện rộng trong thời gian dài, thay vì chế ngự nguồn nước bằng đê điều như vẫn làm từ trước đến nay, chính quyền địa phương nên giúp cho người dân ở vùng này học cách sống chung với lũ: "Những năm gần đây, chúng ta thấy rõ ràng ngay cả trong các văn bản của nhà nước cũng không còn mạnh dạn nói chuyện chống hạn, chống mặn, chống lũ nữa, mà đang dần dần khuyến khích người dân sống chung với lũ, sống chung với mặn. Thách thức hiện nay đó là nhiều khi giải pháp sống chung đó chưa được phát triển một cách đầy đủ. Và như vậy người dân và các cấp chính quyền ở địa phương khá lúng túng khi áp dụng những mô hình cụ thể vào cuộc sống hàng ngày. Ở những tỉnh đầu nguồn như An Giang, Đồng Tháp vài chục năm trước người ta bao những đê triệt để, không cho nước lũ tràn vào trong mùa mưa, để người ta thâm canh lúa vụ ba nhằm tăng sản lượng lúa. Nhưng sau hàng chục năm sử dụng mô hình đó, bây giờ người ta đã thấy một điều rất rõ là ở những vùng đó gần như đất bị kiệt quệ về dinh dưỡng và người sản xuất phải bón phân ngày càng nhiều. Năng suất lúa thì không tăng bao nhiêu nhưng lượng phân bón phải tăng lên rất cao, do đó lợi nhuận của sản xuất lúa vụ ba này gần như không còn. Người dân ý thức được chuyện đó, chính quyền địa phương và mọi người ý thức được chuyện đó, nhưng bây giờ muốn xả nước trở lại để lấy phù sa, để lấy dinh dưỡng trở lại tự nhiên cho đất, thì đó là một vấn đề không dễ. Trong hàng chục năm qua, vì chúng ta đã giữ mực nước thấp như vậy, thành thử nhà cửa, chuồng trại, vườn tược, thậm chí mồ mả cũng xây thấp lè tè bằng với mực nước. Bây giờ nếu xả nước trở lại thì tất cả những công trình này sẽ bị chìm ngập hết. Và như vậy người dân không đồng thuận mặc dù người ta ý thức rất rõ là bây giờ phải xả nước trở lại để cho đất đai nó màu mỡ trở lại. Chúng ta cũng phải đi từng bước chứ không thể một ngày một buổi mà có giải pháp tổng thể được. Thứ nhất, phải chuyển đổi cách sử dụng đất làm thế nào để bảo đảm được thu nhập cho người dân ổn định hàng tháng, hàng năm chuyển đổi từ sinh kế không lệ thuộc vào nguồn nước sang thích nghi tốt với những nguồn nước. Khi chuyển đổi được những sinh kế cho bà con ở một vùng nào đó rồi đó thì bước tiếp theo  là phải lần lần rút người dân ra khỏi những vùng không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nữa, ví dụ như những vùng bưng biền mà ngày xưa nó ngập rất lâu, khi mùa nước tới là nước nó ngập ba bốn mét. Những vùng này trong bao nhiêu năm qua chúng ta bao đê khô triệt để cho người dân sống trong đó, nhưng mà người ta sống với một tâm thế rất là phập phồng rủi ro, không biết đê bao bị vỡ gây ngập lụt bất cứ lúc nào, tài sản người ta xây dựng hàng chục năm có thể đổ sông đổ biển trong vòng một vài tiếng đồng hồ. Thứ ba là chúng ta cũng phải định hình lại chiến lược phát triển tổng thể của Đồng bằng sông Cửu Long và chiến lược đó phải phân khu vực. Những nơi nào mà bắt buộc chúng ta phải không cho nước nó ngập bất cứ lúc nào, thì những  khu đó, với khoa học công nghệ hiện đại, chúng ta hoàn toàn có đủ khả năng kiểm soát hoàn toàn mực nước, để không có chuyện ngập tràn lan. Dĩ nhiên là những khu này phải tương xứng với cái trình độ phát triển và phải đóng góp rất  lớn cho nền kinh tế của cả khu vực. Bởi vì đầu tư cho những khu vực này là vô cùng tốn kém và quản lý những khu này lại càng tốn kém hơn nữa. Đó là những khu vực đặc biệt phải ưu tiên, ví dụ như những khu công nghiệp, những nơi có những công trình phúc lợi công cộng như trường học, bệnh viện... Còn lại những khu vực không đóng góp thực sự lớn cho nền kinh tế thì chúng ta phải xem xét từng bước trả nó trở về với thiên nhiên. Khi chúng ta làm được điều đó đó thì tự bản thân cộng đồng đã thích nghi được rồi. Kinh nghiệm của Hà Lan Tiến sĩ Dương Văn Ni nêu ví dụ của Hà Lan, một quốc gia có giàu kinh nghiệm sống với nước, đồng thời có trình độ khoa học kỹ thuật rất cao trong việc xây dựng các đê điều và quản lý đê điều. Tuy nhiên, những năm sau này, họ thấy là cần thấy phải trả lại không gian cho dòng sông, cho nên họ đưa ra một chương trình rất lớn gọi là 'room for the river': Trong những năm mà mưa thuận gió hòa thì người ta vẫn canh tác được trên những vùng đất đó. Nhưng những năm nào mà dự đoán là thời tiết cực đoan, hay có thể xảy ra nước ngập nghiêm trọng, thì những vùng đó được cảnh báo và người ta không canh tác trong vùng đó. Vùng đó trở thành không gian để người ta chứa nước dư thừa của dòng sông. Theo tiến sĩ Dương Văn Ni, có thể áp dụng kinh nghiệm của Hà Lan cho đồng bằng sông Cửu Long : "Ở đồng bằng sông Cửu Long thật ra có hai vùng rất lớn. Một vùng là ở Tứ Giác Long Xuyên của các tỉnh như Kiên Giang và An Giang. Vùng thứ hai là vùng Đồng Tháp Mười của các tỉnh Đồng Tháp, Long An và Tiền Giang. Hai vùng này, trong tự nhiên có thể trữ được khoảng 8 đến 9 tỷ mét khối nước trong mùa mưa. Với khả năng trữ một lượng nước khổng lồ như vậy, chúng ta hoàn toàn không phải lo chuyện ngập úng của những vùng bên dưới. Mấy năm gần đây chúng ta đã biến những vùng này thành những vùng thâm canh nông nghiệp và như vậy là toàn bộ lượng nước thay vì có một không gian để tràn thì bây giờ phải tràn xuống những vùng bên dưới, gây ra ngập lụt thường xuyên, đặc biệt là ngập lụt ở những thành phố mà trong lịch sử chưa từng bị ngập, như Cần Thơ chẳng hạn. Khái niệm 'room for the river' đối với Hà Lan thì dễ làm hơn là vì cộng đồng của họ thưa thớt, họ dễ quy hoạch, dễ tính toán. Còn hiện nay những vùng như Đồng Tháp Mười hoặc Tứ Giác Long Xuyên của chúng ta thì đã có hàng triệu người dân sinh sống và đã ổn định nhà cửa cũng như vườn tược, chuồng trại. Và như vậy việc sử dụng hai vùng này mà tôi gọi là 'room for the delta' là một thách thức rất lớn, cần một nỗ lực rất lớn của toàn xã hội."   "

Have A Sip
Giáo sư Chung Hoàng Chương: Nước mạnh khi người dân biết sử dụng sức mạnh của "nước" - Have A Sip #241

Have A Sip

Play Episode Listen Later Dec 12, 2025 82:34


Have A Sip tuần này, chào đón sự tham gia của Giáo sư Chung Hoàng Chương - nghiên cứu viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế, Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn (Đại học Quốc gia TP. HCM). Ông đồng thời cũng là chuyên gia của tổ chức International Rivers và từng là giảng viên Khoa Á Mỹ học, Đại học Tiểu bang San Francisco. Hơn nửa thế kỷ sống, học và làm việc giữa nhiều nền văn hóa, ông dành trọn tâm huyết để lý giải mối liên hệ sâu thẳm giữa con người Việt Nam và nước.Cuộc trò chuyện mở ra hành trình độc đáo của Giáo sư Chung Hoàng Chương: từ tuổi thơ ở miền Tây, những năm tháng du học tại Châu Âu và Mỹ, đến hành trình tìm lại nguồn cội sau 1975. Sống giữa nhiều nền văn hóa, ông trải qua những xung đột bản sắc và mang trong mình nỗi lo về sự phai nhạt của các giá trị truyền thống trong nhịp sống hiện đại. Niềm đam mê dành cho sông Mekong, văn minh lúa nước và tương lai của Đồng bằng sông Cửu Long trở thành mạch xuyên suốt trong nghiên cứu của ông.#HaveASip #Vietcetera #Vietcetera_Podcast #HAS241—Cảm ơn Every Half Coffee Roasters Nam Phúc (Phú Mỹ Hưng, Tân Phú, TP.HCM) đã đồng hành cùng Vietcetera trong tập podcast này.—Đừng quên có thể xem bản video của podcast này tại: ⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠YouTube⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠Và đọc những bài viết thú vị tại website: ⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠Vietcetera⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠—Yêu thích tập podcast này, bạn có thể donate tại:● Patreon: ⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠https://www.patreon.com/vietcetera⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠● Buy me a coffee: ⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠https://www.buymeacoffee.com/vietcetera⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠Nếu có bất cứ góp ý, phản hồi hay mong muốn hợp tác, bạn có thể gửi email về địa chỉ ⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠⁠team@vietcetera.com

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Hành trình khởi nghiệp độc đáo từ lá chúc của 9X An Giang

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 12, 2025 10:53


Trong khi nhiều người trẻ ngày nay ấp ủ giấc mơ lập nghiệp tại các thành phố lớn, chàng trai Trịnh Minh Khang, 29 tuổi lại quyết định trở về quê nhà và lựa chọn lá chúc- một loại lá quen thuộc ở vùng biên giới An Giang để bắt đầu hành trình khởi nghiệp.Sau hai năm miệt mài nghiên cứu, lủi thủi trong căn bếp nhỏ với những mẻ nước chấm đầu tiên còn thiếu sót, đến khoảnh khắc được xướng tên tại cuộc thi “Dự án khởi nghiệp thanh niên nông thôn” năm 2025. Hành trình của Khang không chỉ là sự sáng tạo, mà còn chứa đựng cả tình yêu đậm sâu dành cho quê hương. 

Planeta vivo
Planeta vivo - El mar como vertedero - 10/12/25

Planeta vivo

Play Episode Listen Later Dec 10, 2025 1:38


Ya es casi imposible hallar un mar o un océano que no esté afectado por los desechos marinos y buena parte de los contaminantes llegan por vía fluvial. Los ríos que vierten más desechos son los del sureste asiático como el Amur, Hai, Amarillo, Yangtsé, de las Perlas, Mekong, el sistema del Ganges y el Indo y los africanos Níger y el Nilo.También arrastran enormes cantidades de desechos al océano algunos fenómenos extraordinarios y catastróficos, como el tsunami del este de Japón de abril de 2011. Además de la pesca y otras actividades que generan restos de redes, palangres, boyas y neumáticos utilizados como defensas de las embarcaciones.En el Mediterráneo, un mar rodeado de humanidad, las cantidades de desechos son elevadas en superficie, en la columna de agua y, sobre todo, en el fondo. Algunos lugares, como el estrecho de Mesina, entre Sicilia y el sur de Italia, son verdaderos vertederos submarinos. Cuando hay episodios de lluvias fuertes, el agua arrastra hacia las hondonadas marinas grandes cantidades de desechos vertidos previamente en los barrancos costeros por los residentes, incluyendo los objetos más inverosímiles, desde neveras hasta automóviles, y desde juguetes hasta bolsas de basura.En los países en vías de desarrollo, el vertido de desechos al medio natural es moneda corriente. Aunque todos los países quieren un medio ambiente más saludable, en los países pobres la prioridad de alimentar a la población pasa por delante de la protección del medio ambiente.Es por ello que desde la Cátedra de la UB de Economía Azul Sostenible se apuesta por aplicar un sistema de monitorización global, consensuar el uso de métodos y protocolos comunes para obtener y contrastar datos, incluir la basura marina en todos los acuerdos y directrices de protección medioambiental y lograr una mayor implicación de la clase política para evitar que los desechos marinos se sigan acumulando en los océanos y, especialmente, en los fondos marinos, parte de los cuales son ya auténticos vertederos.Escuchar audio

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Cô giáo của những ước mơ nhỏ nơi phên dậu Tổ quốc

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 9, 2025 10:28


Gần hai thập kỷ gắn bó với trẻ em vùng biên giới, cô giáo Hồ Cẩm Kim (An Giang) vẫn bền bỉ miệt mài với nghề bằng tất cả tình yêu và sự tận tâm. Những ngày đầu gieo chữ cho học trò Khmer giữa điều kiện thiếu thốn đủ bề, cô Kim từng bước trở thành điểm tựa, là người thắp sáng khát vọng đến trường cho trẻ nhỏ nơi đây.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Thanh niên trẻ thắp lửa kỹ năng, lan tỏa yêu thương vì cộng đồng

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 8, 2025 10:08


Trong những năm qua, phong trào thanh niên vì cộng đồng ở tỉnh An Giang ngày càng lan tỏa mạnh mẽ, thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên tham gia. Trong hành trình đó, có những người âm thầm cống hiến, tạo nên những sân chơi bổ ích cho thế hệ trẻ. Một trong số đó là anh Trần Gia Đạt, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Kỹ năng Thất Sơn, tấm gương tiêu biểu về sự nhiệt huyết, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm. Cùng gặp gỡ với anh Trần Gia Đạt để hiểu rõ hơn về những đóng góp của anh và Câu lạc bộ trong việc bồi dưỡng kỹ năng, hình thành môi trường phát triển lành mạnh cho thiếu nhi An Giang.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Bữa ăn yêu thương

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 7, 2025 9:03


Giữa lòng đô thị Cần Thơ đang từng ngày đổi mới, vẫn có những xóm trọ, nơi những đứa trẻ lớn lên cùng sự thiếu thốn, chật vật cơm áo, gạo tiền. Và cũng chính ở nơi ấy, có những người bình dị đang lặng lẽ trao đi yêu thương, giúp bà con khó khăn, các em nhỏ vơi bớt nhọc nhằn. Câu chuyện chúng tôi muốn gửi tới quý vị hôm nay là hành trình của chị Trần Thị Trúc Ly, ngụ phường Cái Khế, người đã chọn cho mình việc thiện, gieo từng mầm thiện lành vào cuộc sống.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Ấm áp bếp yêu thương

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 4, 2025 10:17


Giữa cuộc sống còn nhiều khó khăn của những phận người mưu sinh nơi vùng quê xã Nhơn Ái, TP. Cần Thơ, vẫn có những tấm lòng âm thầm thắp lên hơi ấm của tình người. Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý thính giả cùng chúng tôi ghé thăm một bếp cơm chay đặc biệt do ông Lê Trung Nghĩa, 71 tuổi, ngụ xã Nhơn Ái, TP. Cần Thơ khởi xướng, nơi mà mỗi hộp cơm không chỉ làm no lòng khi đói mà còn làm đầy cả niềm tin vào sự tử tế.

What The Luxe
S5E28: Building for the Affluent Explorer: Inside Aqua Expeditions with Founder & CEO Francesco Galli Zugaro

What The Luxe

Play Episode Listen Later Dec 2, 2025 41:43


In this episode, What The Luxe dives into the world of Aqua Expeditions with its Founder & CEO, Francesco Galli Zugaro. Raised across 16 countries and driven by an innate spirit of exploration, Francesco has spent nearly two decades crafting highly intimate, design-led journeys for what he calls the affluent explorer — guests who crave authenticity, comfort and adventure in some of the world's most fragile ecosystems. Host Fred Moore explores how Aqua began with a single 12-cabin ship on the Peruvian Amazon and grew into a fleet spanning Indonesia, the Mekong, the Galápagos and soon East Africa and the Arctic. Francesco shares the realities behind that growth: the logistical improbability of building ships in remote regions, the family dynamics woven into the brand, and why Aqua will never chase scale for its own sake. Together they unpack: • The origins of Aqua's small-ship philosophy and why intimacy beats scale • Designing for high-touch luxury — from world-class dining to near 1:1 staff ratios • Creating moments of wonder for guests who are used to the exceptional • The rising appetite for multi-generational and younger expedition travellers • Conservation partnerships and operating responsibly in fragile ecosystems • Aqua's next chapter, including new routes and new vessels A rich conversation about adventure, restraint, craftsmanship and the discipline required to build a brand that stays true to its values.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Vượt lên nghịch cảnh, cống hiến giúp đời

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Dec 1, 2025 10:30


Với nhiệt huyết của tuổi trẻ, hơn 5 năm qua, anh Nguyễn Văn Hổ, ngụ xã Hòn Đất, tỉnh An Giang đã không ngừng lan tỏa ngọn lửa yêu thương, khơi dậy tinh thần cống hiến trong cộng đồng bằng những việc làm tử tế. Những bước chân thiện nguyện của anh, dù lặng lẽ nhưng bền bỉ, đã chạm đến nhiều hoàn cảnh éo le, giúp họ vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất. 

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Người gieo hạt lành giữa phố chợ Cần Thơ

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 29, 2025 10:06


Suốt 2 năm qua, giữa nhịp sống tất bật đời thường, ông Phan Thanh Kiệt, ngụ tại TP. Cần Thơ vẫn ngày ngày rong ruổi trên chiếc xe máy, chở theo những suất cơm chay miễn phí để phát cho những bà con có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn. Hành động giản dị ấy đã lan tỏa tinh thần sẻ chia, như những “hạt lành” được gieo giữa đời thường, để tình người miền Tây thêm đong đầy. Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý vị cùng gặp gỡ và lắng nghe câu chuyện của người đàn ông đã dành cả thời gian và tâm huyết để mang bữa cơm nóng hổi đến với bà con lao động khó khăn.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Ông Bụt của đàn chim

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 26, 2025 9:38


Giữa trung tâm TP Cần Thơ, suốt 13 năm qua, ông Nguyễn Văn Chương được mọi người trìu mến gọi là “ông bụt của đàn chim trời”. Ngày nào cũng vậy, ông lặng lẽ dùng thu nhập từ việc bán cây kiểng để chăm sóc hàng trăm chú chim bồ câu, ríu rít quanh góc phố. Hành động nhỏ của ông đã gieo vào lòng người dân Cần Thơ thông điệp đẹp đẽ về lòng nhân ái, tình yêu thiên nhiên và sự sẻ chia thầm lặng. Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý vị cùng trò chuyện với ông Nguyễn Văn Chương, cùng lắng nghe câu chuyện về những khoảnh khắc bình dị mà đầy ắp tình người giữa lòng Cần Thơ.

En Foco
En Vietnam, el delta del Mekong se ve amenazado por el aumento del nivel del mar

En Foco

Play Episode Listen Later Nov 25, 2025 4:59


El delta del Mekong, en Vietnam, está gravemente amenazado por el cambio climático. Esta fértil región agrícola, que produce la mitad de los alimentos del país, enfrenta la destrucción de sus cultivos de arroz debido al aumento del nivel del mar y la intrusión de agua salada. Los cambios en el paisaje están alterando también el equilibrio de todo su ecosistema. Reportaje de William de Tamaris, Aruna Popuri, Mélodie Sforza y ​​Justin McCurry para France 24.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Từ xưởng thủ công đến lớp học miễn phí

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 25, 2025 10:15


Dù bận rộn với công việc vận hành doanh nghiệp thủ công tại làng nghề đan đác xã Vĩnh Thuận Đông, thành phố Cần Thơ, thế nhưng, anh Hà Anh Trường, Giám đốc Công ty Cổ phần Ecoka vẫn miệt mài cùng các thành viên công ty lặng lẽ gieo từng hạt mầm tri thức vào đời sống con em thợ làng nghề. Từ xưởng thủ công đến lớp học miễn phí, mỗi trang sách, mỗi buổi học đều mang theo niềm tin: cho đi tri thức để nảy mầm thay đổi. Chuyên mục Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý vị cùng chúng tôi bước vào câu chuyện đẹp đẽ ấy, nơi kinh doanh và thiện nguyện gặp nhau ở điểm chung duy nhất: Trái tim dành cho cộng đồng.

GENIAL
Este río es incluso más peligroso que el Amazonas

GENIAL

Play Episode Listen Later Nov 24, 2025 13:05


¡Algunos ríos alrededor del mundo son incluso más peligrosos que el Amazonas! Primero, está el río Congo en África, con sus aguas aterradoramente profundas y fuertes corrientes que podrían arrastrar incluso a grandes embarcaciones. Luego está el río Nilo, que podría parecer tranquilo en algunas partes, pero tiene cocodrilos mortales e hipopótamos listos para defender su territorio. El río Mississippi en Estados Unidos puede parecer pacífico, pero tiene fuertes corrientes, remolinos ocultos e inundaciones frecuentes que lo hacen peligroso. En Asia, el río Yangtsé es otro río arriesgado con inundaciones repentinas y corrientes que han cobrado innumerables vidas. Y finalmente, el río Mekong, que se extiende a través de varios países, está lleno de peligros submarinos y bagres gigantes que podrían igualar cualquier historia de terror en un río. Learn more about your ad choices. Visit megaphone.fm/adchoices

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Bác sĩ Nguyễn Thu Vân và hành trình không để bệnh nhân nghèo bị bỏ lại phía sau

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 21, 2025 13:22


Cuộc chiến với bệnh tật cam go ngang ngửa với cuộc chiến đói nghèo. Nhưng vừa nghèo lại vừa bệnh thì là một trang đời kém may mắn và đáng thương. Thấu hiểu những hoàn cảnh khó khăn, mắc bệnh mãn tính mà phải chạy từng liều thuốc lẻ, một vị lương y 82 tuổi tại TP. Cần Thơ đã dành hết những ngày tháng tuổi hưu của mình để đi khắp nơi khám bệnh và cấp thuốc từ thiện.Sự có mặt của bà là điểm tựa để người nghèo chiến thắng chính mình, thoát khỏi bệnh tật. Bà là bác sĩ Nguyễn Thu Vân – Nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện đa khoa TP. Cần Thơ. 

VOV - Việt Nam và Thế giới
Thế Giới với Việt Nam - Việt Nam khẳng định vai trò tiên phong thúc đẩy du lịch bền vững trong Tiểu vùng Mekong mở rộng

VOV - Việt Nam và Thế giới

Play Episode Listen Later Nov 20, 2025 1:35


VOV1 - Hội nghị Quốc tế về Phát triển Du lịch Bền vững Tiểu vùng Sông Mê Công mở rộng (GMS) 2025 vừa diễn ra tại Ninh Bình, do Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam và Tổng cục Kinh tế Thụy Sỹ (SECO) thông qua Dự án “Du lịch Thụy Sỹ vì Sự Phát triển Bền vững tại Việt Nam” phối hợp tổ chức.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Quán mì 0 đồng ấm lòng đất Tây Đô

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 19, 2025 9:46


Nửa năm qua, quán mì 0 đồng của vợ chồng ông Nguyễn Minh Trung và bà Huỳnh Hồng Tuyết tại phường Cái Khế, thành phố Cần Thơ đã trở thành điểm đến quen thuộc của nhiều bà con khó khăn trên địa bàn. Từng tô mì ấm nóng, từng ly trà đá miễn phí được trao tay, không chỉ làm ấm lòng những mảnh đời khốn khó mà còn san sẻ yêu thương đầy nghĩa tình của người dân vùng đất Tây Đô. 

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Những mũi đan hy vọng của bà giáo Hồng Hoa

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 17, 2025 11:09


Giữa nhịp sống sôi động của TP. Cần Thơ, có một cơ sở nhỏ, nơi từng mũi đan, từng đường thêu của các học viên khuyết tật trở thành cầu nối đưa các bạn đến với công việc, thu nhập và niềm tin vào bản thân. Bà Lê Thị Hồng Hoa, người sáng lập cơ sở và gắn bó nhiều năm với công việc dạy nghề thêu móc, chính là người đã gieo hy vọng, giúp học trò tự tin kiếm sống và khẳng định giá trị riêng, hòa nhập cộng đồng. 

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Đổi đời nhờ đổi mới

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 13, 2025 11:31


Trong những năm gần đây, tình trạng nông sản rớt giá vào vụ thu hoạch đã trở thành nỗi lo thường trực của người nông dân. Từ thực tế ấy, anh Trương Ngọc Ẩn – một người con của vùng đất nông nghiệp đã trăn trở tìm cách “giải cứu” nông sản địa phương bằng con đường chế biến sâu. Nhờ sự kiên trì nghiên cứu và sáng tạo, anh đã cho ra đời nhiều sản phẩm từ hành tím, củ cải trắng đạt chuẩn OCOP, góp phần mở ra hướng đi bền vững cho nông dân. Trong chuyên mục Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý vị cùng lắng nghe cuộc trò chuyện của phóng viên chương trình với anh Trương Ngọc Ẩn để nghe anh chia sẻ về hành trình biến những nông sản tưởng chừng “ế ẩm” thành sản phẩm có giá trị cao và được người tiêu dùng đón nhận rộng rãi.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Người gieo chữ nơi cuối đất

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 12, 2025 10:00


Hơn chục năm qua, với niềm say mê dạy học và khát khao mang tri thức đến mọi trẻ em nơi mình sinh sống, cô Lê Thị Bích Thủy, giáo viên tiểu học về hưu tại xã Lương Thế Trân, tỉnh Cà Mau, đã duy trì lớp học miễn phí, mở ra cơ hội học tập cho trẻ em và cả người lớn ở địa phương. Lớp học của cô không chỉ là nơi học chữ mà còn gieo mầm hy vọng, trao cơ hội học tập cho những học viên chưa từng có cơ hội đến trường.

TẠP CHÍ XÃ HỘI
Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Hoạt động của con người tác động nhiều hơn biến đổi khí hậu

TẠP CHÍ XÃ HỘI

Play Episode Listen Later Nov 12, 2025 14:32


Đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), nằm ở vùng cực nam Việt Nam, cũng là vùng sản xuất nông nghiệp then chốt của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thế nhưng, trong những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn ngày càng phức tạp, không chỉ tác động đến đời sống con người và sinh thái, mà còn ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, khiến nhà nông phải tìm cách chuyển đổi để thích nghi với tình hình.   Nhưng đâu là những nguyên nhân và thực trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long ? Để hiểu thêm tình hình, RFI có cuộc trao đổi với tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Đâu là nguyên nhân gây ra mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long ?   Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là đối với sản xuất lúa, người ta chia làm hai loại mặn. Thứ nhất là mặn do nước biển tràn vào. Cái mặn này thường xuất hiện trong mùa khô, khi mà nước ngọt từ sông Cửu Long hoặc lượng nước mưa không đủ để đẩy nước mặn, thì mặn xâm nhập từ biển vào. Loại mặn thứ hai là mặn từ trong đất : chúng ta hình dung là phù sa của sông Mekong đi ra ngoài biển biển thì biến dần thành phù sa mặn. Khi phù sa này quay bồi tụ thì hình thành đất mặn. Đó là đất đó đã có sẵn muối trong đó rồi. Nói nôm na, chúng ta phân biệt làm hai loại mặn, mặn do nước biển và mặn có sẵn từ trong đất. RFI tiếng Việt : Người xưa đã thích ứng với chuyện mặn này như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người xưa, khi đến định cư ở đồng bằng sông Cửu Long này, vùng Duyên Hải sát với phía biển, người ta chia chuyện sử dụng nước làm bốn loại. Thứ nhất là loại nước để ăn uống, đa phần người ta dựa vào nước mưa. Dễ thấy nhất khi xuống những vùng như thế này là thấy là người dân trữ nước mưa trong lu để dọc theo nhà. Mình có thể đếm số lu là có thể đoán biết là trong nhà đó có mấy người. Cái nước thứ hai là nước sinh hoạt, ví dụ để người ta tắm giặt … Phổ biến nhất là khi xây nhà, người ta đào cái ao kế bên nhà để trữ nước ngọt, thường gọi là ao rửa ăn. Và trong một vài trường hợp thì người ta đào những cái ao này xa trong ruộng, gọi là những cái đìa, hoặc là người ta đào những cái ao lớn để cho cả cộng đồng sử dụng, như những cái ao chùa hoặc là những cái ao ở những nơi tập thể. Hiện nay một số nơi còn biệt danh đó, ví như ao Bà Hom ở Trà Vinh. Đó là những cái ao rất lớn để giữ nước ngọt cho cả cộng đồng xài. Loại nước thứ ba gọi là nước sản xuất. Người ta dựa vào chất lượng nước và quyết định loại hình sản xuất. Ví dụ như nơi nào mà nước nó quá mặn thì người ta sử dụng để sản xuất muối. Còn nơi nào mà nước mặn trung bình hoặc là mặn vừa thì người ta để nuôi tôm, nuôi cua. Còn nơi nào mà nước không mặn thì người ta mới trồng lúa hoặc người ta kết hợp với nuôi cá đồng. Cái cuối cùng là nước sinh thái, người ta giữ để cho cây cối xanh tươi, để cho cá tép có chỗ sống, và để cho ghe xuồng có thể đi lại được trên kinh rạch, làm cho không khí mát mẻ. Tôi muốn lưu ý là người xưa cũng đã từng ngăn mặn. Nhưng mà người ta chỉ ngăn mặn từ ở dưới sông tràn lên trên ruộng thôi, chứ không ai ngăn mặn trên những con sông hay con rạch, bởi vì ông bà xưa đã từng dặn là có 2 điều rất là tội lỗi, không nên làm : đó là ngăn sông và cấm chợ. RFI tiếng Việt : Tình hình mặn năm 2025 ra sao và theo ông xu thế tương lai thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về tình hình mặn hiện nay đó thì cái mặn xâm nhập từ biển vào, phần lớn được kiểm soát bởi các công trình như là đê ngăn mặn hoặc là cống đập ngăn mặn. Nhưng mà thực sự thì cái mặn mà không kiểm soát được là cái mặn từ trong đất đi ra, bởi vì do điều kiện địa chất hình thành vùng đất của mình, tầng đất ở bên dưới đã nhiễm mặn rồi. Thành thử khi mà thiếu cái nguồn nước ngọt bổ sung để rửa mặn hay là ém mặn từ bên trên thì cái mặn từ các cái tầng dưới sẽ mau dẫn lên và làm cho mặn trên mặt đất. Xu hướng mặn từ trong đất xì ra càng ngày càng tăng, bởi vì biến đổi khí hậu làm cho lượng nước ngọt càng ngày càng giảm. Về điều này, nhìn chung là theo xu hướng hiện nay cũng như là trong tương lai, diện tích của đất bị ảnh hưởng bởi mặn chỉ có tăng thôi chứ không có giảm. RFI tiếng Việt : Tình hình cụ thể năm nay so với, ví dụ như năm 2023 hay 2024, cái cái mặn này có tăng lên nhiều không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra thì cái mặn đã có sẵn trong nước và trong đất. Nó là tự nhiên. Vấn đề khi là đánh giá là năm nay mặn nhiều hơn năm rồi hay là mặn ít hơn năm rồi thì chủ yếu là người ta dựa vào diện tích canh tác bị thiệt hại. Mà ở đây cụ thể là diện tích canh tác lúa. Cái đỉnh mà gọi là bị xâm nhập mặn trầm trọng nhất là năm 2015 và 2016, mặn xâm nhập rất là sâu vào trong đất liền và ảnh hưởng rất nhiều đến diện tích trồng lúa. Có 2 nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là mặn xâm nhập sớm, người ta trở tay không kịp. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là người ta đã lấn, người ta đã đưa cây trồng vật nuôi không phù hợp với nước mặn, mở rộng diện tích ra gần biển quá nhiều trong những năm trước. Và như vậy khi mặn xâm nhập thì sẽ gây ra diện tích thiệt hại càng lớn. Và theo hướng đó thì những năm sau 2016 đến nay, cũng có những năm như 2020, 2022 mặn cũng khá nhiều nhưng mà thiệt hại, chủ yếu là thiệt hại trên diện tích canh tác lúa, không tăng bởi vì người dân đã có kinh nghiệm. Có nghĩa là những diện tích này không còn phù hợp để cho trồng lúa nữa và người ta giảm diện tích lúa cũng như là giảm mùa và vụ xuống. Thay vì hồi xưa trồng 2-3 vụ thì bây giờ người ta chỉ trồng một vụ thôi, do đó né được cái mặn. Hay nói nôm na là người ta có kinh nghiệm để tránh mặn. RFI tiếng Việt : Đâu là những nguyên nhân chính làm cho mặn có thể trở nên trầm trọng hơn? Liệu biến đổi khí hậu có góp phần vào nạn này không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về nguyên nhân làm cho mặn có thể trầm trọng hơn thì chúng ta có thể liệt kê ra 4 nhóm nguyên nhân chính. Thế nhưng, nguyên nhân đầu tiên vẫn là kiểu sử dụng đất của người nông dân, có nghĩa là người nông dân đã chọn cây trồng vật nuôi đó có tính tới chuyện cây trồng vật nuôi đó có chịu mặn được hay không ? Và quy trình quản lý cây trồng vật nuôi đó có giúp ngăn chặn được tác hại của mặn hay không? Cái thứ hai là chuyện vận hành hệ thống công trình như là đê điều cống đập. Hiện nay cách vận hành đó còn manh mún và chưa đồng bộ, thành thử thí dụ một nơi này thì đóng cống để mà ngăn nước mặn, nhưng mà nơi kia thì lại mở cống, thành thử mặn nó sẽ xâm nhập phía sau, phía trước. Đó là vấn đề thứ hai. Vấn đề thứ ba là nguồn nước ngọt từ sông Mekong. Chúng ta biết là nguồn nước ngọt ở thượng nguồn bây giờ đang bị khai phá rất là nhiều cho sản xuất, nên đôi khi trong mùa nắng thì mình thiếu nguồn nước ngọt để đẩy nước mặn xâm nhập vào đồng bằng đi ra ngoài xa. Và cuối cùng là biến đổi khí hậu, ở đây cụ thể là sự phân bố thất thường lượng nước mưa. Nếu lượng mưa phân bố thất thường, thì tại những vùng chủ yếu rửa mặn từ nước mưa, thì người ta không có đủ nước để rửa cho đất, những nơi đó là ảnh hưởng mặn càng ngày càng tăng nghiêm trọng hơn. RFI tiếng Việt : Mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu có phải là một nguyên nhân đẩy nước mặn vào sâu trong đồng bằng sông Cửu Long hơn ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra nếu nói về chuyện mực nước biển dâng, thì tác động không nhiều bằng mà chuyện lún sụt mặt đất ở trong đất liền, bởi vì vận tốc sụt lún mặt đất ở trong đất liền hiện nay trung cũng khoảng chừng 1-2cm/năm, đặc biệt là có những vùng nhiều hơn, trong khi mực nước biển dâng chỉ có không phẩy mấy cm trong vòng 2-3 năm. Nên thực ra mực nước biển dâng có góp phần gây xâm nhập mặn, nhưng đó là một tiến trình lâu dài, chứ không xuất hiện từng năm, mà vận tốc tăng cũng rất chậm, trong khi sụt lún mặt đất của chúng ta trầm trọng hơn vì tốc độ nhanh hơn, nên làm nước mặn xâm nhập vô đất liền nhiều hơn. RFI tiếng Việt : Vậy sụt lún mặt đất có phải phần nào cũng là do việc người dân hút mạch nước ngầm lên, ví dụ để sử dụng phục vụ tưới tiêu sản xuất ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Sụt lún mặt đất thì chúng ta phải xét trên trên nhiều góc độ. Thứ nhất là chúng ta phải hiểu là đồng bằng của chúng ta hình thành được là do quá trình bồi lấn phù sa nhiều hơn là quá trình xói lở phù sa, nên mới tạo ra được mặt đất. Nếu quá trình bồi lấn phù sa đó nhỏ hơn quá trình sạt lở phù sa thì mặt đất của chúng ta tự nó cũng đã thấp xuống mỗi năm. Tôi cho rằng chuyện thiếu hụt phù sa bù đất cho những vùng đất hiện nay là yếu tố chính, bởi vì nhiều lý do liên quan tới kiểu sử dụng đất của người dân. Ví dụ như hồi trước có nhiều vùng qua mùa nước lũ người ta còn mở đê để lấy nước, phù sa còn bồi lấn trên đồng. Còn hiện nay, người ta quản lý nước chặt chẽ để canh tác suốt năm, phù sa không có cơ hội đi vào đồng ruộng, nên đồng ruộng không được bồi lấn tự nhiên lên, do đó mặt đất càng ngày càng sụt xuống. Cái thứ hai là chuyện trưởng thành của loại đất. Đất ở đồng bằng của chúng ta nó thuộc về đất non trẻ và đối với một đất non trẻ này thì tự nó khi mà nó săn chắc lại thì nó co ngót lại và cũng tạo ra một độ sụt lún tự nhiên. Và nguyên nhân thứ ba thì chắc chắn là do bây giờ người ta lấy quá nhiều nước ngầm. Ngày xưa người ta chỉ lấy để làm nước sinh hoạt và ăn uống trong giai đoạn thiếu nước thôi, còn ngày nay người ta lấy nước ngầm để phục vụ cho sản xuất nữa, thành thử lượng nước ngầm khai thác mỗi nơi phục vụ cho sản xuất rất lớn, gấp mấy chục lần lượng nước cần thiết để sinh hoạt. Đây là cũng là nguyên nhân làm cho mặt đất sụt lún rất nhanh. RFI tiếng Việt : Trường hợp mặn của đồng bằng sông Cửu Long thì có phải là cá biệt trên thế giới hay không ? Hay cũng có một số khu vực trên thế giới cũng có tình trạng giống như đồng bằng sông Cửu Long ? Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với những khu vực đó không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật sự mà nói tất cả đồng bằng trên thế giới này đều có những thách thức tương tự như đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng mà đồng bằng sông Cửu Long thì được xếp một trong 3 đồng bằng chịu tổn thương nhiều nhất. Thành thử những kinh nghiệm, bài học mà chúng ta có được hoàn toàn có thể chia sẻ cho những đồng bằng khác, bởi vì mức độ nghiêm trọng của họ không nhiều như mình. Đồng bằng sông Cửu Long bị áp lực từ tự nhiên cho đến chuyện phát triển kinh tế xã hội trong khu vực. Lý do thứ nhất là sông Cửu Long chảy qua 6 nước : qua Trung Quốc, Miến Điện, rồi Lào, Thái Lan, Campuchia rồi cuối cùng mới đi đến Việt Nam. Đồng bằng là phần mà sự thay đổi phụ thuộc hoàn toàn vào lưu vực của con sông. Tất cả những cái gì xảy ra trên lưu vực của con sông đó thì đều ảnh hưởng đến đồng bằng này. Chuyện các quốc gia này ngồi lại để thương lượng về các chuyện, ví dụ sử dụng nguồn nước thế nào cho hợp lý, đều rất khó khăn. Nó không có đơn giản như là đồng bằng sông Mississippi của Hoa Kỳ, chảy qua nhiều bang, nhưng đều nằm trong một quốc gia, thành thử ra họ ngồi lại với nhau tương đối dễ dàng hơn. Nhưng riêng về chuyện xâm nhập mặn thì thật sự mà nói là có nhiều quốc gia hiện nay cái mặn không đơn thuần chỉ là mặn trong nước biển hay là trong đất thôi, mà đôi khi đó còn là cái mặn do những khu công nghiệp hoặc là nơi sản xuất, đặc biệt là những chỗ luyện kim … Cái mặn này tạo ra một loại muối khác, không phải là muối mình ăn được như muối biển tự nhiên, mà đây là cái mặn từ nguồn nước thải công nghiệp sản xuất. Cái đó nó tác động, làm đất bị nhiễm mặn và cái mặn đó mới là nguy hiểm. Cải tạo cái mặn đó mới khó. RFI tiếng Việt chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni đã tham gia chương trình !

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Biệt đội vá đường, hành động nhỏ tạo nên sức mạnh lớn

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 10, 2025 8:29


Gần hai chục năm qua, tại cù lao Tân Lộc, TP Cần Thơ, anh Trần Minh Trung cùng các thành viên trong đội của mình đã miệt mài vá những con đường xuống cấp giúp bà con đi lại an toàn. Họ làm việc hoàn toàn bằng tình yêu quê hương và tinh thần tự nguyện vì cộng đồng, mong giữ cho con đường làng luôn sạch, đẹp và an toàn. 

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Sơn Trần Minh Mẫn và hành trình nâng tầm giá trị cho nông sản quê hương

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 7, 2025 10:03


Xót xa trước cảnh hành tím rớt giá mỗi khi vào vụ, chàng sinh viên Sơn Trần Minh Mẫn cùng các bạn học của mình tại Trường Đại học Trà Vinh đã tìm cách “cứu” loại nông sản quê mình theo hướng rất riêng: biến củ hành tím thành nước mắm chay độc đáo, vừa nâng cao giá trị sản phẩm vừa mở hướng đi mới cho bà con quê nhà. Nước mắm chay từ hành tím không chỉ là câu chuyện sáng tạo của các bạn trẻ mà còn là minh chứng cho tinh thần khởi nghiệp xanh và khát vọng nâng tầm nông sản ĐBSCL.

mekong qu h minh m tr vinh bscl
Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Hành trình đưa văn hóa miền Tây vào thời trang Việt

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 5, 2025 12:05


“Liệu 10 năm, 20 năm hay nhiều năm hơn nữa, các loại bánh dân gian gắn với ký ức tuổi thơ của bao thế hệ có còn ai nhớ?”. Một câu hỏi mang tính hoài niệm và trăn trở, không chỉ bàn về ẩm thực, mà còn chạm đến nỗi lo về sự mai một văn hoá truyền thống với những món bánh đặc sắc của quê hương, của tuổi thơ. Đó là nguồn cảm hứng để Nguyễn Minh Công, một nhà thiết kế trẻ quê Vĩnh Long sử dụng cho các sáng tạo nghệ thuật của mình. Bằng những chất liệu mang đậm nét văn hóa miền Tây Nam Bộ, Nguyễn Minh Công đã khiến nhiều người mê đắm các thiết kế thời trang tưởng chừng mộc mạc nhưng rất ấn tượng của mình. 

Chuyện Mekong
Người cũ cảnh xưa: Chim trời, cá nước, rau đồng Bài 3: Đỏ đèn săn cá Bông Lau

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 5, 2025 11:33


Trải dài gần 5.000km từ cao nguyên Tây Tạng đến Biển Đông, sông Mekong được xem là “huyết mạch” canh tác của hàng chục triệu dân ở những nơi mà nó đi qua.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Từ gian bếp nhỏ đến hương vị cà phê khiến cả vùng thương nhớ

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Nov 4, 2025 9:18


Từ thói quen pha ly cà phê mỗi sáng cho gia đình, một ý tưởng giản dị đã nảy nở và dần trở thành sản phẩm đặc trưng mang dấu ấn riêng của chị Trần Hồng Nhiên, ngụ xã Tân Hòa, thành phố Cần Thơ. Với niềm đam mê và sự kiên trì, chị Nhiên đã biến sở thích cá nhân thành hành trình khởi nghiệp đầy cảm hứng, đưa cà phê dừa từ căn bếp nhỏ lên sàn thương mại điện tử, chạm đến nhiều người yêu cà phê trên khắp cả nước.

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Lịch sử phát triển thành phố Sài Gòn: Dựa trên thế mạnh sông nước

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Oct 27, 2025 15:02


Nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến vừa cho ra mắt cuốn sách mới về lịch sử Sài Gòn, thành phố mà sự hình thành và phát triển vẫn gắn liền với con sông Sài Gòn và cả một hệ thống kênh rạch. Cuốn sách tựa đề Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước đưa độc giả trở về cội nguồn của Sài Gòn, từ lâu đã là nơi buôn bán phồn thịnh nhờ thế mạnh sông nước, từng là thủ đô Liên Bang Đông Dương, rồi Quốc Gia Việt Nam, từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Ngoài cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, Trần Hữu Phúc Tiến còn là tác giả của những cuốn sách khác về Sài Gòn và Đông Dương xưa, như Sài Gòn không phải ngày hôm qua ( 2016 ), Sài Gòn hai đầu thế kỷ ( 2017 ), Kiến trúc Pháp-Đông Dương, những viên ngọc quý tại Hà Nội ( 2021 ), Du lịch Đông Dương xưa ( 2224 ), Kiến trúc Pháp Đông Dương, dấu tích Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông ( 2025 ). Sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, do Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, ấn hành, bao gồm 3 chương và phần phụ lục, với hơn 312 trang. Phần mở đầu trích dẫn các nhận xét của người xưa trong và ngoài nước từ về vẻ đẹp cảng thị và phố thị của Sài Gòn. Sách giới thiệu nhiều hình ảnh, bản đồ tư liệu sưu tầm công phu từ nhiều nguồn, trong đó có  hình ảnh do tác giả chụp ở nhiều năm tháng khác nhau. Tác giả là người sinh trưởng tại Sài Gòn, thuở nhỏ đã thấy thành phố nguy nga lớn mạnh bên sông biển, kinh rạch. Lớn lên được học Sử và làm báo, tác giả có thêm cơ hội học hỏi các thời kỳ phát triển của thành phố, đồng thời khám phá các chốn phố phường, chợ búa, bến tàu, học đường và nhiều công trình di sản. Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, "dòng sông Sài Gòn không phải là dòng sông khuất nẻo mà là dòng sông vươn ra biển lớn, dòng sông sinh thành cảng thị và phố thị đông vui, thu hút tinh hoa xa gần". Công sức lớn lao của người Việt từ thế kỷ 17 đến nay đã làm nên Sài Gòn, một kinh đô lịch lãm và kiều diễm. Thông qua nhiều chi tiết cụ thể, cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước điểm lại quá trình hình thành các thế mạnh của Sài Gòn từ sông biển, địa linh, nhân kiệt, đến kinh tế, dịch vụ, công nghiệp, đào tạo. Đặc biệt với sự mở rộng của thành phố, tác giả chú trọng giới thiệu các tiềm năng về kinh tế biển và kinh tế di sản. Thế nhưng, giống như nhiều đô thị lớn đang trong cơn sốt bùng nổ dân cư và kinh tế, thành phố này cũng đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm, lũ lụt, đòi hỏi nhà nước phải có những giải pháp cấp bách cũng như dài hạn. Trả lời RFI Việt ngữ nhân dịp sang Paris để giới thiệu sách của ông, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến trước hết cho biết, từ trước khi được người Pháp xây dựng thành một thành phố hiện đại, Sài Gòn đã là một chốn phồn hoa đô hội: “Sài Gòn Kinh Đô có nghĩa là Sài Gòn trong lịch sử đã từng là thủ đô, là thủ phủ, là trung tâm không chỉ của Nam Bộ, mà là của cả nước. Kinh Đô Sông Nước có nghĩa là một đại cảng thị, một đại phố thị lớn mạnh bên dòng sông Sài Gòn và đặc biệt vị trí của Sài Gòn là rất gần biển và nối kết với khu vực miền Đông Nam Bộ, cũng như miền Tây Nam Bộ, nối kết với miền Nam Đông Dương, rồi ra biển để đi đến với thế giới. Thật sự là từ thế kỷ 17, với công sức của người Việt Nam khai phá các miền đất mới, vai trò của Sài Gòn như là một trung tâm kinh tế, giao thương, phồn hoa đô thị rất là lớn. Trước khi người Pháp đến, Sài Gòn đã được hình thành như một trung tâm lớn và đặc biệt là từ 1788 - 1790, Sài Gòn đã được Chúa Nguyễn Ánh, sau này là Vua Gia Long, đặt tên là Gia Định Kinh, có nghĩa là Kinh Đô Gia Định. Ngay vào thời điểm đó thì một số chuyên gia Pháp đã giúp Nguyễn Ánh - Gia Long thiết kế Sài Gòn như là một thành phố kết hợp yếu tố phương Đông với yếu tố phương Tây, đặc biệt là coi trọng vị trí cảng thị của Sài Gòn. Khi vào xâm chiếm Việt Nam, người Pháp đã hiện đại hóa Sài Gòn kế thừa những sự phát triển sẵn có của Gia Định Kinh và người Pháp tổ chức những quy hoạch xây dựng rất là bài bản, rất là chuyên nghiệp, để thành phố này không những là một trung tâm về giao thương,  mà đặc biệt còn là một trung tâm về giao thông và dịch vụ.”  Vậy thì từ bao giờ thành phố Sài Gòn bắt đầu được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, nhà nghiên cứu Phúc Tiến giải thích: “Theo chúng tôi tìm hiểu, lúc đó người Pháp coi như là chỉ mới quản trị chủ yếu là phần Nam Bộ, Nam Kỳ, sau này họ mới phát triển ra toàn miền Bắc, rồi cả Đông Dương. Nhưng  lúc đó họ đã đặt kế hoạch phát triển kinh tế, trong đó vấn đề giao thông có một mũi nhọn trên thế giới lúc đó cũng bắt đầu phát triển lớn mạnh đó là đường sắt. Vào năm 1881, thị trưởng Pháp của Sài Gòn Jules Blancsubé khi trả lời báo chí đã nói rằng người Pháp muốn phát triển hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương từ Sài Gòn ra đến miền Bắc và đi đến đến Nam Trung Hoa, rồi có thể mở ra phía Lào, phía Cam Bốt, rồi các nước Đông Nam Á lục địa. Nếu hệ thống đường sắt này mà được hình thành thành công, thì Sài Gòn, với cảng Sài Gòn, sẽ có thêm vị trí quan trọng, có nghĩa là hàng hóa của nguyên khu vực Nam Trung Quốc và khu khu vực Đông Nam Á sẽ đổ về cảng Sài Gòn để mà xuất khẩu đi các nước. Ngược lại thì những hàng hóa từ các nước cũng từ Sài Gòn theo đường sắt, đường bộ, đường sông để mà ra với các nước trong khu vực. Và do vậy, ông nói, lúc đó Sài Gòn sẽ trở thành một Hòn Ngọc Viễn Đông. Tôi cho rằng là lời tiên đoán đó vào năm 1881 thực sự đã thể hiện một chiến lược quy hoạch kinh tế lớn lao và người Pháp lúc đó đã nhìn thấy được thế mạnh sông nước của Sài Gòn. Sau này, sang đầu thế kỷ 20, chúng ta thấy không chỉ có đường sắt, mà đường hàng không cũng phát triển và bây giờ nhìn toàn cục thì chúng ta có thể thấy là chữ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông đã được mở rộng từ vấn đề kinh tế sang vấn đề kiến trúc, văn hóa, giáo dục, con người. Bây giờ thì từ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông sang thế kỷ 20, sang thời kỳ trước 75, đã trở thành một tên gọi thân yêu để cho thấy một thành phố không những đẹp về mặt mỹ quan, đẹp về sự duyên dáng, yếu tố Đông Tây kết hợp, mà còn đẹp vì thế mạnh của nó, về kinh tế, đẹp về tinh thần cởi mở hội nhập quốc tế.  Từ thời còn là Kinh Đô Gia Định ( 1789-1802 ), Thủ đô Liên bang Đông Dương ( 1887-1902 ), cho đến Thủ đô Quốc gia Việt Nam ( 1949-1955 ) và thủ đô Việt Nam Cộng Hòa ( 1955-1975 ), Sài Gòn luôn luôn là “đầu máy hùng mạnh” về nhiều mặt của cả nước, không chỉ về kinh tế, mà còn tiên phong cả về văn hóa - xã hội trong nhiều thời kỳ, theo ghi nhận của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến. Đó chính là nhờ thế mạnh về sông nước của thành phố này:  “Ngược dòng lịch sử thì chúng ta biết sông Đồng Nai là một hệ thống sông rất lớn, song song với hệ thống sông Tiền và sông Hậu, tức là hệ thống sông Mekong. Hai hệ thống sông này lại có một cầu nối là Sài Gòn. Hay nói cách khác là giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ thì Sài Gòn lúc nào cũng nằm ở trung điểm và Sài Gòn lại được xây dựng bên dòng sông Sài Gòn, một chi lưu của hệ thống sông Đồng Nai. Có thể có gần 200 km bắt đầu từ Tây Ninh rồi đi qua Bình Dương, đi qua Đồng Nai rồi xuống Sài Gòn để thoát ra được cửa biển. Trước ngày 1 tháng 7 năm 2025,  đoạn sông đó đi qua diện tích lãnh thổ của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh hơn 80 cây số. Và điều rất quan trọng là nó đi ra cửa biển Cần Giờ. Cửa biển Cần Giờ là khoảng hơn 20 cây số bờ biển. Nhưng sau ngày 1 tháng 7 năm 2025, với sự hợp nhất Sài Gòn với Bình Dương và Vũng Tàu - Bà Rịa, thế mạnh sông biển của Sài Gòn gia tăng rất lớn. Chỉ tính riêng về bờ biển thì bây giờ Sài Gòn có gần 400 km bờ biển và đặc biệt là có Côn Đảo bây giờ thuộc về siêu đô thị này. Và thêm nữa là hơn 100.000 km2 thềm lục địa, mà chúng ta biết là về thềm lục địa Biển Đông, trong ngành dầu khí họ nói là có hai vùng trũng là vùng Nam Côn Sơn và vùng Mekong, thì Sài Gòn nằm rất gần khu vực gọi là Nam Côn Sơn. Thế thì riêng về mặt kinh tế biển, thành phố đã phát triển. Đương nhiên người Pháp khi đến Việt Nam năm 1858, với tầm nhìn của một đế chế công nghiệp, họ nhận ra tài nguyên của Sài Gòn không phải là hàng hóa, mà là vị trí thuận lợi để giao thương kết nối được nhiều miền. Đặc biệt họ đưa ra tầm nhìn là Sài Gòn thuộc về khu vực Nam Đông Dương, nói cách khác chính là Đông Nam Á. Tôi còn nhớ là trong nhật ký của một sĩ quan Pháp tham gia trận đánh vào Sài Gòn năm 1859, ông này có ghi rằng vị trí Sài Gòn không khác gì Batavia, nay là Jakarta của Indonesia, như là Singapore hay là Hồng Kông và nó có những điểm độc đáo riêng. Chính vì vậy, theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, một trong những mũi nhọn kinh tế mà người Pháp xây dựng ở Sài Gòn không phải là công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất hàng hóa, mà điều rất quan trọng là dịch vụ. Trong quyển sách, tác giả kể ra đến 6 ngành, gọi là 6 “cổ máy không khói” của Sài Gòn từ thời Pháp:  Thứ nhất là hàng hải, bao gồm sửa chữa tàu biển và hải cảng.  Thế mạnh thứ hai là giao thương, tổ chức thương mại, chế biến nông sản để xuất ra nước ngoài.  Thứ ba là một trung tâm tài chính, vì đương nhiên là xuất khẩu thì phải cần có sự trợ giúp của ngân hàng, bảo lãnh tín dụng, vân vân…Ngay từ cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một trung tâm tài chính, với khá nhiều ngân hàng quốc tế cũng như các hãng bảo hiểm đóng tại Sài Gòn và hình thành một khu phố tài chính.  Thế mạnh thứ tư là về viễn thông. Ngay trung tâm thành phố, ngay bên cạnh nhà thờ Đức Bà, có nhà bưu điện rất lớn, rất đẹp và đã được coi là kiến trúc nhà bưu điện đẹp thứ hai trên thế giới. Thế mạnh viễn thông của Sài Gòn thì phải nói rất là sớm. Năm 1865, 1870, người Pháp đã bắt đầu thiết lập đường điện tín cáp quang để liên thông giữa Sài Gòn với Paris, nối cáp dưới dưới biển đi qua Singapore và sau đó làm đường ngược lên Hồng Kông để liên thông với cả khu vực châu Mỹ. Kế đến là hệ thống giao thông vận tải, Sài Gòn có đủ phương tiện, từ đường bộ, đường sắt, rồi đường biển, đường thủy. Cái độc đáo của Sài Gòn lúc đó là người Pháp đã tổ chức những đội tàu, không những đi dọc theo bờ biển để đi ra Hải Phòng, đi ra phía Bắc, mà còn  làm hệ thống tàu thuyền để chở khách đi khắp đồng bằng sông Cửu Long, rồi đi lên được cả Phnom Penh, thậm chí là đến được cả Bangkok. Ngay cả bây giờ, đường thủy lên Phnom Penh và đường thủy lên Bangkok, chúng ta vẫn chưa thực hiện lại được đầy đủ. Đặc biệt là khi ngành hàng không thế giới ra đời và được đẩy mạnh sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sân bay Tân Sơn Nhất đã được xây dựng từ năm 1914. Lúc đó người Pháp đã gom ba làng là Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Tam để làm sân bay rất lớn, phục vụ cho đến thế kỷ 21.  Một thế mạnh nữa của Sài Gòn: Đây là trung tâm về khoa học, đào tạo, với những trường dạy nghề đầu tiên cũng như Viện Pasteur. Nơi mà chúng ta hay gọi là Sở thú còn có tên là Sở bông, vì còn là nơi ươm trồng những giống cây mới. Kể cả cây cao su ở Việt Nam cũng chính là đã được trồng thử nghiệm ở Sài Gòn.  Sài Gòn dù không phải là một cảng biển, chỉ là cảng sông, nhưng dòng sông thì sâu. Tại vị trí ở quận 1 đối diện với Thủ Thiêm, độ sâu nhất là khoảng 40 m và khoảng cách giữa hai bờ Thủ Thiêm và bến Bạch Đằng, ở khu vực Nhà Rồng là khoảng 300 m, nên tàu bè đi vào rất là thuận tiện, có tới hai ngã đường sông từ Cần Giờ vào. Tàu thuyền các nước trên đường đi từ Singapore qua hoặc là đi từ Hồng Kông xuống thì ghé lại Sài Gòn để lấy hàng, đồng thời lấy nước ngọt, lấy thêm nhân lực. Chính những điều đó đã giúp cho Sài Gòn phát triển và những thế mạnh này lại tiếp tục xuyên suốt thế kỷ 20 và bây giờ bắt đầu phải được đẩy mạnh hơn trong thế kỷ 21.” Thế nhưng, cũng chính do có vị trí gắn liền với sông và biển, cùng với quá đô thị hóa quá nhanh mà lại thiếu quy hoạch chặt chẽ, bây giờ thêm tác động của biến đổi khí hậu, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nay lại phải đối đầu với tình trạng ngập lụt thường xuyên. Chính quyền của thành phố đang đối phó ra sao, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho biết: “Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ nhà nước cũng đã có một số cố gắng giải quyết các vấn nạn môi trường và liên quan đến sông nước. Tôi có thể kể ra một thành công trong vòng 50 năm nay là đã thiết kế, cải tạo lại hai hệ thống kênh lớn, thứ nhất là hệ thống Kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè, có sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới. Thứ hai là hệ thống Kênh Tàu Hủ Bến Nghé. Đồng thời  hiện giờ một số con kênh ở khu vực trước đây gọi là Tân Bình, Tân Phú, hoặc những nơi xa hơn, hoặc là ở quận 6, ngay khu vực chợ Bình Tây có những con kênh trước đây bị lấp nay đã được khơi lại. Trong vài năm trở lại đây đã bắt đầu có những công trình thiết lập các cống để xả nước kịp thời khi có triều cường. Tuy nhiên phải nói rằng các nhà khoa học của thế giới cũng đã báo động cho Việt Nam không chỉ về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, mà toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam là một nước sẽ phải hứng chịu những tác động rất lớn của biến đổi khí hậu. Khu vực đã được báo động sẽ bị ảnh hưởng rất là nặng nề là Cần Giờ, Nhà Bè, Phú Mỹ Hưng, là nơi mà tiếp giáp với biển. Tôi thấy có điểm tích cực là các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, với các trường đại học ,cũng đã bắt đầu đẩy mạnh nghiên cứu, lên tiếng yêu cầu chính quyền có những giải pháp tốt hơn. Ngoài ra còn có một dự án là Kênh Xuyên Tâm, băng ngang từ phía Tây Nam lên phía Đông Bắc xuyên qua thành phố. Nếu nhìn trong toàn cảnh thì chúng ta chưa làm được nhiều và cần có sự hỗ trợ. Cũng đã có nhiều cuộc hội thảo mà nước ngoài tham gia, với mong muốn là thúc đẩy ( các dự án ). Đương nhiên là những chương trình đó cần một kinh phí lớn, nhưng điều quan trọng là dư luận xã hội cũng đã rất quan tâm. Báo chí cũng đã lên tiếng và trong chương trình hành động của chính quyền thành phố mà bây giờ được mở rộng ra, bao gồm cả Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu, có những dấu hiệu cho thấy phải xúc tiến càng nhanh càng tốt.” Về sự hỗ trợ của nước ngoài, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho rằng có những kinh nghiệm của nước Pháp về môi trường, về trị thủy có thể áp dụng được cho Sài Gòn. Ông hy vọng nước Pháp có thể hỗ trợ nhiều hơn cho Việt Nam và kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học Pháp cũng như nhà khoa học người Việt sống tại Pháp.

Tạp chí Việt Nam
Lịch sử phát triển thành phố Sài Gòn: Dựa trên thế mạnh sông nước

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Oct 27, 2025 15:02


Nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến vừa cho ra mắt cuốn sách mới về lịch sử Sài Gòn, thành phố mà sự hình thành và phát triển vẫn gắn liền với con sông Sài Gòn và cả một hệ thống kênh rạch. Cuốn sách tựa đề Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước đưa độc giả trở về cội nguồn của Sài Gòn, từ lâu đã là nơi buôn bán phồn thịnh nhờ thế mạnh sông nước, từng là thủ đô Liên Bang Đông Dương, rồi Quốc Gia Việt Nam, từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Ngoài cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, Trần Hữu Phúc Tiến còn là tác giả của những cuốn sách khác về Sài Gòn và Đông Dương xưa, như Sài Gòn không phải ngày hôm qua ( 2016 ), Sài Gòn hai đầu thế kỷ ( 2017 ), Kiến trúc Pháp-Đông Dương, những viên ngọc quý tại Hà Nội ( 2021 ), Du lịch Đông Dương xưa ( 2224 ), Kiến trúc Pháp Đông Dương, dấu tích Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông ( 2025 ). Sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, do Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, ấn hành, bao gồm 3 chương và phần phụ lục, với hơn 312 trang. Phần mở đầu trích dẫn các nhận xét của người xưa trong và ngoài nước từ về vẻ đẹp cảng thị và phố thị của Sài Gòn. Sách giới thiệu nhiều hình ảnh, bản đồ tư liệu sưu tầm công phu từ nhiều nguồn, trong đó có  hình ảnh do tác giả chụp ở nhiều năm tháng khác nhau. Tác giả là người sinh trưởng tại Sài Gòn, thuở nhỏ đã thấy thành phố nguy nga lớn mạnh bên sông biển, kinh rạch. Lớn lên được học Sử và làm báo, tác giả có thêm cơ hội học hỏi các thời kỳ phát triển của thành phố, đồng thời khám phá các chốn phố phường, chợ búa, bến tàu, học đường và nhiều công trình di sản. Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, "dòng sông Sài Gòn không phải là dòng sông khuất nẻo mà là dòng sông vươn ra biển lớn, dòng sông sinh thành cảng thị và phố thị đông vui, thu hút tinh hoa xa gần". Công sức lớn lao của người Việt từ thế kỷ 17 đến nay đã làm nên Sài Gòn, một kinh đô lịch lãm và kiều diễm. Thông qua nhiều chi tiết cụ thể, cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước điểm lại quá trình hình thành các thế mạnh của Sài Gòn từ sông biển, địa linh, nhân kiệt, đến kinh tế, dịch vụ, công nghiệp, đào tạo. Đặc biệt với sự mở rộng của thành phố, tác giả chú trọng giới thiệu các tiềm năng về kinh tế biển và kinh tế di sản. Thế nhưng, giống như nhiều đô thị lớn đang trong cơn sốt bùng nổ dân cư và kinh tế, thành phố này cũng đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm, lũ lụt, đòi hỏi nhà nước phải có những giải pháp cấp bách cũng như dài hạn. Trả lời RFI Việt ngữ nhân dịp sang Paris để giới thiệu sách của ông, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến trước hết cho biết, từ trước khi được người Pháp xây dựng thành một thành phố hiện đại, Sài Gòn đã là một chốn phồn hoa đô hội: “Sài Gòn Kinh Đô có nghĩa là Sài Gòn trong lịch sử đã từng là thủ đô, là thủ phủ, là trung tâm không chỉ của Nam Bộ, mà là của cả nước. Kinh Đô Sông Nước có nghĩa là một đại cảng thị, một đại phố thị lớn mạnh bên dòng sông Sài Gòn và đặc biệt vị trí của Sài Gòn là rất gần biển và nối kết với khu vực miền Đông Nam Bộ, cũng như miền Tây Nam Bộ, nối kết với miền Nam Đông Dương, rồi ra biển để đi đến với thế giới. Thật sự là từ thế kỷ 17, với công sức của người Việt Nam khai phá các miền đất mới, vai trò của Sài Gòn như là một trung tâm kinh tế, giao thương, phồn hoa đô thị rất là lớn. Trước khi người Pháp đến, Sài Gòn đã được hình thành như một trung tâm lớn và đặc biệt là từ 1788 - 1790, Sài Gòn đã được Chúa Nguyễn Ánh, sau này là Vua Gia Long, đặt tên là Gia Định Kinh, có nghĩa là Kinh Đô Gia Định. Ngay vào thời điểm đó thì một số chuyên gia Pháp đã giúp Nguyễn Ánh - Gia Long thiết kế Sài Gòn như là một thành phố kết hợp yếu tố phương Đông với yếu tố phương Tây, đặc biệt là coi trọng vị trí cảng thị của Sài Gòn. Khi vào xâm chiếm Việt Nam, người Pháp đã hiện đại hóa Sài Gòn kế thừa những sự phát triển sẵn có của Gia Định Kinh và người Pháp tổ chức những quy hoạch xây dựng rất là bài bản, rất là chuyên nghiệp, để thành phố này không những là một trung tâm về giao thương,  mà đặc biệt còn là một trung tâm về giao thông và dịch vụ.”  Vậy thì từ bao giờ thành phố Sài Gòn bắt đầu được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, nhà nghiên cứu Phúc Tiến giải thích: “Theo chúng tôi tìm hiểu, lúc đó người Pháp coi như là chỉ mới quản trị chủ yếu là phần Nam Bộ, Nam Kỳ, sau này họ mới phát triển ra toàn miền Bắc, rồi cả Đông Dương. Nhưng  lúc đó họ đã đặt kế hoạch phát triển kinh tế, trong đó vấn đề giao thông có một mũi nhọn trên thế giới lúc đó cũng bắt đầu phát triển lớn mạnh đó là đường sắt. Vào năm 1881, thị trưởng Pháp của Sài Gòn Jules Blancsubé khi trả lời báo chí đã nói rằng người Pháp muốn phát triển hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương từ Sài Gòn ra đến miền Bắc và đi đến đến Nam Trung Hoa, rồi có thể mở ra phía Lào, phía Cam Bốt, rồi các nước Đông Nam Á lục địa. Nếu hệ thống đường sắt này mà được hình thành thành công, thì Sài Gòn, với cảng Sài Gòn, sẽ có thêm vị trí quan trọng, có nghĩa là hàng hóa của nguyên khu vực Nam Trung Quốc và khu khu vực Đông Nam Á sẽ đổ về cảng Sài Gòn để mà xuất khẩu đi các nước. Ngược lại thì những hàng hóa từ các nước cũng từ Sài Gòn theo đường sắt, đường bộ, đường sông để mà ra với các nước trong khu vực. Và do vậy, ông nói, lúc đó Sài Gòn sẽ trở thành một Hòn Ngọc Viễn Đông. Tôi cho rằng là lời tiên đoán đó vào năm 1881 thực sự đã thể hiện một chiến lược quy hoạch kinh tế lớn lao và người Pháp lúc đó đã nhìn thấy được thế mạnh sông nước của Sài Gòn. Sau này, sang đầu thế kỷ 20, chúng ta thấy không chỉ có đường sắt, mà đường hàng không cũng phát triển và bây giờ nhìn toàn cục thì chúng ta có thể thấy là chữ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông đã được mở rộng từ vấn đề kinh tế sang vấn đề kiến trúc, văn hóa, giáo dục, con người. Bây giờ thì từ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông sang thế kỷ 20, sang thời kỳ trước 75, đã trở thành một tên gọi thân yêu để cho thấy một thành phố không những đẹp về mặt mỹ quan, đẹp về sự duyên dáng, yếu tố Đông Tây kết hợp, mà còn đẹp vì thế mạnh của nó, về kinh tế, đẹp về tinh thần cởi mở hội nhập quốc tế.  Từ thời còn là Kinh Đô Gia Định ( 1789-1802 ), Thủ đô Liên bang Đông Dương ( 1887-1902 ), cho đến Thủ đô Quốc gia Việt Nam ( 1949-1955 ) và thủ đô Việt Nam Cộng Hòa ( 1955-1975 ), Sài Gòn luôn luôn là “đầu máy hùng mạnh” về nhiều mặt của cả nước, không chỉ về kinh tế, mà còn tiên phong cả về văn hóa - xã hội trong nhiều thời kỳ, theo ghi nhận của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến. Đó chính là nhờ thế mạnh về sông nước của thành phố này:  “Ngược dòng lịch sử thì chúng ta biết sông Đồng Nai là một hệ thống sông rất lớn, song song với hệ thống sông Tiền và sông Hậu, tức là hệ thống sông Mekong. Hai hệ thống sông này lại có một cầu nối là Sài Gòn. Hay nói cách khác là giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ thì Sài Gòn lúc nào cũng nằm ở trung điểm và Sài Gòn lại được xây dựng bên dòng sông Sài Gòn, một chi lưu của hệ thống sông Đồng Nai. Có thể có gần 200 km bắt đầu từ Tây Ninh rồi đi qua Bình Dương, đi qua Đồng Nai rồi xuống Sài Gòn để thoát ra được cửa biển. Trước ngày 1 tháng 7 năm 2025,  đoạn sông đó đi qua diện tích lãnh thổ của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh hơn 80 cây số. Và điều rất quan trọng là nó đi ra cửa biển Cần Giờ. Cửa biển Cần Giờ là khoảng hơn 20 cây số bờ biển. Nhưng sau ngày 1 tháng 7 năm 2025, với sự hợp nhất Sài Gòn với Bình Dương và Vũng Tàu - Bà Rịa, thế mạnh sông biển của Sài Gòn gia tăng rất lớn. Chỉ tính riêng về bờ biển thì bây giờ Sài Gòn có gần 400 km bờ biển và đặc biệt là có Côn Đảo bây giờ thuộc về siêu đô thị này. Và thêm nữa là hơn 100.000 km2 thềm lục địa, mà chúng ta biết là về thềm lục địa Biển Đông, trong ngành dầu khí họ nói là có hai vùng trũng là vùng Nam Côn Sơn và vùng Mekong, thì Sài Gòn nằm rất gần khu vực gọi là Nam Côn Sơn. Thế thì riêng về mặt kinh tế biển, thành phố đã phát triển. Đương nhiên người Pháp khi đến Việt Nam năm 1858, với tầm nhìn của một đế chế công nghiệp, họ nhận ra tài nguyên của Sài Gòn không phải là hàng hóa, mà là vị trí thuận lợi để giao thương kết nối được nhiều miền. Đặc biệt họ đưa ra tầm nhìn là Sài Gòn thuộc về khu vực Nam Đông Dương, nói cách khác chính là Đông Nam Á. Tôi còn nhớ là trong nhật ký của một sĩ quan Pháp tham gia trận đánh vào Sài Gòn năm 1859, ông này có ghi rằng vị trí Sài Gòn không khác gì Batavia, nay là Jakarta của Indonesia, như là Singapore hay là Hồng Kông và nó có những điểm độc đáo riêng. Chính vì vậy, theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, một trong những mũi nhọn kinh tế mà người Pháp xây dựng ở Sài Gòn không phải là công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất hàng hóa, mà điều rất quan trọng là dịch vụ. Trong quyển sách, tác giả kể ra đến 6 ngành, gọi là 6 “cổ máy không khói” của Sài Gòn từ thời Pháp:  Thứ nhất là hàng hải, bao gồm sửa chữa tàu biển và hải cảng.  Thế mạnh thứ hai là giao thương, tổ chức thương mại, chế biến nông sản để xuất ra nước ngoài.  Thứ ba là một trung tâm tài chính, vì đương nhiên là xuất khẩu thì phải cần có sự trợ giúp của ngân hàng, bảo lãnh tín dụng, vân vân…Ngay từ cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một trung tâm tài chính, với khá nhiều ngân hàng quốc tế cũng như các hãng bảo hiểm đóng tại Sài Gòn và hình thành một khu phố tài chính.  Thế mạnh thứ tư là về viễn thông. Ngay trung tâm thành phố, ngay bên cạnh nhà thờ Đức Bà, có nhà bưu điện rất lớn, rất đẹp và đã được coi là kiến trúc nhà bưu điện đẹp thứ hai trên thế giới. Thế mạnh viễn thông của Sài Gòn thì phải nói rất là sớm. Năm 1865, 1870, người Pháp đã bắt đầu thiết lập đường điện tín cáp quang để liên thông giữa Sài Gòn với Paris, nối cáp dưới dưới biển đi qua Singapore và sau đó làm đường ngược lên Hồng Kông để liên thông với cả khu vực châu Mỹ. Kế đến là hệ thống giao thông vận tải, Sài Gòn có đủ phương tiện, từ đường bộ, đường sắt, rồi đường biển, đường thủy. Cái độc đáo của Sài Gòn lúc đó là người Pháp đã tổ chức những đội tàu, không những đi dọc theo bờ biển để đi ra Hải Phòng, đi ra phía Bắc, mà còn  làm hệ thống tàu thuyền để chở khách đi khắp đồng bằng sông Cửu Long, rồi đi lên được cả Phnom Penh, thậm chí là đến được cả Bangkok. Ngay cả bây giờ, đường thủy lên Phnom Penh và đường thủy lên Bangkok, chúng ta vẫn chưa thực hiện lại được đầy đủ. Đặc biệt là khi ngành hàng không thế giới ra đời và được đẩy mạnh sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sân bay Tân Sơn Nhất đã được xây dựng từ năm 1914. Lúc đó người Pháp đã gom ba làng là Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Tam để làm sân bay rất lớn, phục vụ cho đến thế kỷ 21.  Một thế mạnh nữa của Sài Gòn: Đây là trung tâm về khoa học, đào tạo, với những trường dạy nghề đầu tiên cũng như Viện Pasteur. Nơi mà chúng ta hay gọi là Sở thú còn có tên là Sở bông, vì còn là nơi ươm trồng những giống cây mới. Kể cả cây cao su ở Việt Nam cũng chính là đã được trồng thử nghiệm ở Sài Gòn.  Sài Gòn dù không phải là một cảng biển, chỉ là cảng sông, nhưng dòng sông thì sâu. Tại vị trí ở quận 1 đối diện với Thủ Thiêm, độ sâu nhất là khoảng 40 m và khoảng cách giữa hai bờ Thủ Thiêm và bến Bạch Đằng, ở khu vực Nhà Rồng là khoảng 300 m, nên tàu bè đi vào rất là thuận tiện, có tới hai ngã đường sông từ Cần Giờ vào. Tàu thuyền các nước trên đường đi từ Singapore qua hoặc là đi từ Hồng Kông xuống thì ghé lại Sài Gòn để lấy hàng, đồng thời lấy nước ngọt, lấy thêm nhân lực. Chính những điều đó đã giúp cho Sài Gòn phát triển và những thế mạnh này lại tiếp tục xuyên suốt thế kỷ 20 và bây giờ bắt đầu phải được đẩy mạnh hơn trong thế kỷ 21.” Thế nhưng, cũng chính do có vị trí gắn liền với sông và biển, cùng với quá đô thị hóa quá nhanh mà lại thiếu quy hoạch chặt chẽ, bây giờ thêm tác động của biến đổi khí hậu, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nay lại phải đối đầu với tình trạng ngập lụt thường xuyên. Chính quyền của thành phố đang đối phó ra sao, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho biết: “Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ nhà nước cũng đã có một số cố gắng giải quyết các vấn nạn môi trường và liên quan đến sông nước. Tôi có thể kể ra một thành công trong vòng 50 năm nay là đã thiết kế, cải tạo lại hai hệ thống kênh lớn, thứ nhất là hệ thống Kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè, có sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới. Thứ hai là hệ thống Kênh Tàu Hủ Bến Nghé. Đồng thời  hiện giờ một số con kênh ở khu vực trước đây gọi là Tân Bình, Tân Phú, hoặc những nơi xa hơn, hoặc là ở quận 6, ngay khu vực chợ Bình Tây có những con kênh trước đây bị lấp nay đã được khơi lại. Trong vài năm trở lại đây đã bắt đầu có những công trình thiết lập các cống để xả nước kịp thời khi có triều cường. Tuy nhiên phải nói rằng các nhà khoa học của thế giới cũng đã báo động cho Việt Nam không chỉ về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, mà toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam là một nước sẽ phải hứng chịu những tác động rất lớn của biến đổi khí hậu. Khu vực đã được báo động sẽ bị ảnh hưởng rất là nặng nề là Cần Giờ, Nhà Bè, Phú Mỹ Hưng, là nơi mà tiếp giáp với biển. Tôi thấy có điểm tích cực là các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, với các trường đại học ,cũng đã bắt đầu đẩy mạnh nghiên cứu, lên tiếng yêu cầu chính quyền có những giải pháp tốt hơn. Ngoài ra còn có một dự án là Kênh Xuyên Tâm, băng ngang từ phía Tây Nam lên phía Đông Bắc xuyên qua thành phố. Nếu nhìn trong toàn cảnh thì chúng ta chưa làm được nhiều và cần có sự hỗ trợ. Cũng đã có nhiều cuộc hội thảo mà nước ngoài tham gia, với mong muốn là thúc đẩy ( các dự án ). Đương nhiên là những chương trình đó cần một kinh phí lớn, nhưng điều quan trọng là dư luận xã hội cũng đã rất quan tâm. Báo chí cũng đã lên tiếng và trong chương trình hành động của chính quyền thành phố mà bây giờ được mở rộng ra, bao gồm cả Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu, có những dấu hiệu cho thấy phải xúc tiến càng nhanh càng tốt.” Về sự hỗ trợ của nước ngoài, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho rằng có những kinh nghiệm của nước Pháp về môi trường, về trị thủy có thể áp dụng được cho Sài Gòn. Ông hy vọng nước Pháp có thể hỗ trợ nhiều hơn cho Việt Nam và kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học Pháp cũng như nhà khoa học người Việt sống tại Pháp.

Chuyện Mekong
Cảm hứng Mekong: Người thầy “nạng gỗ”

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Oct 27, 2025 14:31


 Đêm trăn trở nghe câu hò “Biển mặn”Chốn quê nghèo dù biển cạn vẫn còn mưaHọc nữa đi em cho đời “bớt mặn”Học mãi nghe em cho mắt mẹ sáng ngờiĐó là những câu thơ được chắt ra từ tận đáy lòng, cũng là lời tâm tình tha thiết của thầy giáo Đặng Văn Bửu – Giáo viên trường THCS Hưng Phong, tỉnh Vĩnh Long. Những câu thơ mộc mạc nhưng đã neo lại trong tâm trí bao thế hệ học trò ở một cù lao nghèo xã nhỏ. Trên mảnh đất cù lao còn lắm những nhọc nhằn, gian khó ấy, câu chuyện về ông giáo ngoài ngũ tuần với chiếc nạng gỗ chai sạn dấu thời gian đã trở thành biểu tượng sống động cho sự tận tụy, cống hiến và một tình yêu lớn lao về hành trình gieo chữ.

Chuyện Mekong
Người cũ cảnh xưa: Chim trời, cá nước, rau đồng Bài 1: Ai dìa rốn cá miền Tây

Chuyện Mekong

Play Episode Listen Later Oct 25, 2025 14:30


Dân gian Nam Bộ có câu: “ngước mặt lên trời thấy cò bay lả lướt, cúi mặt xuống đồng đã thấy nhay nháy cá tôm”. Câu nói đã toát lên vẻ trù phú của vùng đất phương Nam cuối dòng Mekong hùng vĩ.

The International Risk Podcast
Episode 276: China's Push to Build the World's Largest Hydropower Dam System in Tibet with Brian Eyler and Palmo Tenzin

The International Risk Podcast

Play Episode Listen Later Oct 20, 2025 32:59 Transcription Available


On 19 July 2025, China began construction on a 60,000-megawatt hydropower project at Medog, with three times the output of Three Gorges and roughly the UK's entire annual power production. This is a 1.2-trillion-yuan investment (USD 170 B) that Beijing frames as clean energy and development. It is located in southeast Tibert, and only 30km upstream of India. Delhi hears strategic risk. Tibetans see cultural erasure. And over 100 million people downstream are wondering who controls their tomorrow.Today, we are joined by Brian Eyler and Palmo Tenzin. Brian is the Director of the Stimson Center's Southeast Asia and Energy, Water and Sustainability programs. He is widely recognised as a leading voice and expert on transboundary water-energy-food nexus security issues in the Mekong River basin, having spent more than 15 years living and working in China. He is the co-lead on the Mekong Dam Monitor, an award-winning open-source platform providing near-real-time monitoring of dams and environmental impacts along the Mekong.Palmo is an Advocacy Officer and Senior Researcher for the International Campaign for Tibet. Her research specialises in Chinese politics and contemporary Tibet, Sino-Tibetan relations and Asia-Pacific security. Before working at the ICT, Palmo held a position working in the Australian government and the Australian Strategic Policy Institute. She is the author of the report published in December 2024 titled, ‘Chinese Hydropower: Damning Tibet's Culture, Community and Environment', which she has presented at the UN Human Rights Council in March, the European Parliament in May and most recently at World Water Week in Sweden.The International Risk Podcast brings you conversations with global experts, frontline practitioners, and senior decision-makers who are shaping how we understand and respond to international risk. From geopolitical volatility and organised crime, to cybersecurity threats and hybrid warfare, each episode explores the forces transforming our world and what smart leaders must do to navigate them. Whether you're a board member, policymaker, or risk professional, The International Risk Podcast delivers actionable insights, sharp analysis, and real-world stories that matter.Dominic Bowen is the host of The International Risk Podcast and Europe's leading expert on international risk and crisis management. As Head of Strategic Advisory and Partner at one of Europe's leading risk management consulting firms, Dominic advises CEOs, boards, and senior executives across the continent on how to prepare for uncertainty and act with intent. He has spent decades working in war zones, advising multinational companies, and supporting Europe's business leaders. Dominic is the go-to business advisor for leaders navigating risk, crisis, and strategy; trusted for his clarity, calmness under pressure, and ability to turn volatility into competitive advantage. Dominic equips today's business leaders with the insight and confidence to lead through disruption and deliver sustained strategic advantage.Tell us what you liked!

The International Risk Podcast
Episode 268: Implications of the Suspension of the Indus Water Treaty

The International Risk Podcast

Play Episode Listen Later Sep 22, 2025 27:36 Transcription Available


When we think about flashpoints between India and Pakistan, most people picture borders, bombs, or Kashmir. But the most strategic weapon in South Asia today may not be nuclear—it's water.The Indus Water Treaty has been called one of the world's most successful peace agreements, surviving wars, nuclear standoffs, and decades of political hostility. But in April this year, India suspended the treaty after a terrorist attack in Kashmir, effectively threatening to choke off the lifeline of Pakistan's agriculture and economy. For the first time in 65 years, the Indus—an ancient river system that sustains over 250 million people—has been turned into a tool of coercion.This is more than a regional spat. It's a live experiment in how climate stress, nationalism, and security fears can dismantle one of the last bastions of cooperation between nuclear rivals. And if water becomes a weapon here, what does it mean for other fragile river basins—the Nile, the Mekong, the Jordan—where upstream states already hold the cards?Today, I'm joined by Professor Ashok Swain, UNESCO Chair on International Water Cooperation and Head of Peace and Conflict Research at Uppsala University. He has authored and edited 20 books and more than 150 journal articles, and he is also the Founding Editor-in-Chief of the peer-reviewed journal Environment and Security, published by Sage. He has also served as a consultant on environmental and development issues, advising various international organisations, including UN agencies, OCSE, NATO, EU, IISS, the Arab League and Oxfam, as well as the governments of Sweden, the Netherlands, the United Kingdom and Singapore. Few people understand more about how rivers can both unite and divide nations. His work spans transboundary water politics, climate security, and conflict dynamics, and he has been one of the most vocal critics of India's suspension of the Indus Water Treaty.The International Risk Podcast brings you conversations with global experts, frontline practitioners, and senior decision-makers who are shaping how we understand and respond to international risk. From geopolitical volatility and organised crime, to cybersecurity threats and hybrid warfare, each episode explores the forces transforming our world and what smart leaders must do to navigate them. Whether you're a board member, policymaker, or risk professional, The International Risk Podcast delivers actionable insights, sharp analysis, and real-world stories that matter.Dominic Bowen is the host of The International Risk Podcast and Europe's leading expert on international risk and crisis management. As Head of Strategic Advisory and Partner at one of Europe's leading risk management consulting firms, Dominic advises CEOs, boards, and senior executives across the continent on how to prepare for uncertainty and act with intent. He has spent decades working in war zones, advising multinational companies, and supporting Europe's business leaders. Dominic is the go-to business advisor for leaders navigating risk, crisis, and strategy; trusted for his clarity, calmness under pressure, and ability to turn volatility into competitive advantage. Dominic equips today's business leaders with the insight and confidence to lead through disruption and deliver sustained strategic advantage.Tell us what you liked!

Traveling With AAA
What's New in Cruising with Meena Thiruvengadam

Traveling With AAA

Play Episode Listen Later Sep 18, 2025 37:14


Is the awe-inspiring open ocean or an undulating river calling your name? Today's cruise ships are floating realms where each sunrise leads to a new adventure. From cozy thermal spas to adrenaline-pumping slides, there are cruise amenities for every kind of traveler.In this episode, Traveling with AAA host Angie Orth welcomes cruise super-fan and travel journalist Meena Thiruvengadam to reveal the latest trends in cruising in 2025 and beyond. With nearly 20 sailings under her belt, she's here to decode what's next at sea, along rivers, and in ports.You'll learn about chef-driven dining,  mood-boosting wellness sanctuaries, next-gen technology, and bucket-list itineraries ranging from Antarctica to the Mekong. You'll also hear about smaller expedition-style ships that put passengers closer to nature, proving that the new era of cruising can be immersive, intimate, and luxurious. What You'll Learn:05:00 Why cruising really has something for every style of traveler12:30 Game-changing shipboard tech 20:15 What it's really like to cruise Antarctica 27:45 How to choose between big-ship thrills and small-ship intimacy35:10 Emerging destinations and next-wave trendsConnect with Meena Thiruvengadam:Website: https://travelwithmeena.com/Instagram: https://www.instagram.com/meenathiruCTA: What cruise destination or amenity are YOU most excited about? Tell us in the comments! Connect with AAA:Book travel: https://aaa-text.co/travelingwithaaa LinkedIn: https://www.linkedin.com/company/aaa-auto-club-enterprisesInstagram: https://www.instagram.com/AAAAutoClubEnterprisesFacebook: https://www.facebook.com/AAAAutoClubEnterprises

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Nước mặn từ kẻ thù của nhà nông có thể thành tài nguyên ?

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Sep 1, 2025 15:19


Nằm ở vùng cực nam Việt Nam, là khu vực then chốt về sản xuất nông nghiệp của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản, nhưng những năm gần đây đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), đã phải chuyển đổi nông nghiêp để thích nghi với tình hình nước mặt và đất bị mặn xâm nhập. Đây cũng là giai đoạn đồng bằng sông Cửu Long phải tìm hướng biến nước mặn từ là kẻ thù phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế, thành nguồn tài nguyên để khai thác, trong bối cảnh nhiều nơi không còn phù hợp để trồng lúa. RFI tiếng Việt phỏng vấn tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Tác hại của tình trạng mặn đối với sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, hiện nay như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra diện tích canh tác lúa thì có giảm, bởi vì những vùng ven biển duyên hải đó hiện nay thì gần như không còn phù hợp cho chuyện trồng lúa, nên tổng diện tích về canh tác lúa có giảm. Nhưng mà tổng sản lượng lúa cho cả đồng bằng sông Cửu Long thì không giảm nhiều, bởi vì những vùng mà trước đây chúng ta lấn ra ngoài biển để cố canh tác lúa thì không phải là những vùng trọng điểm để sản xuất lúa, năng xuất lúa cũng không cao, nên không ảnh hưởng lớn đến tổng sản lượng lúa của cả đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Đài báo phương Tây thường khi nói đến tình trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long thì thường nói đến thiệt hại hay là ảnh hưởng, tác động đối với sản xuất lúa nước của Việt Nam, và họ cho rằng có rất nhiều tác hại, nhưng theo như tiến sĩ vừa nói thì những tác hại đối với ngành trồng lúa nước là không quá đáng kể … Tiến sĩ Dương Văn Ni : Tôi muốn lưu ý thứ nhất là thường thường người ta đưa tin theo một xu thế. Ví dụ như nói rằng 2/3 đồng bằng sông Cửu Long này sẽ chìm dưới mực nước biển trong 100 năm tới. Tất cả những chuyện này dựa trên cơ sở dữ liệu trong quá khứ và sử dụng các mô hình toán để dự đoán cho tương lai. Về mặt khoa học không có gì sai, nhưng mà về mặt thực tiển thì chúng ta thấy rõ ràng là chuyện đó còn tùy thuộc vào một yếu tố nữa, đó là sự điều chỉnh của con người, điều chỉnh từ chính sách cho đến điều chỉnh loại cây trồng vật nuôi của người dân. Cái này cần phải được tính tới và thường thường trong những mô hình hay là trong những kế hoạch thì chúng ta không tính tới những chuyện này. Thành thử nói là 100 năm nữa 2/3 đồng bằng này chìm dưới mặt nước biển chỉ là một giả định. Từ giả định đó người ta mới suy ngược lại là 2/3 diện tích mà chìm dưới mực nước biển thì đâu còn bao nhiêu diện tích để trồng lúa nữa. Nhưng mà trong thực tế chúng ta thấy rõ ràng, ví dụ như năm 2015-2016, thiệt hại về lúa do mặn xâm nhập bất chợt mà người ta không biết trước thì thiệt hại khoảng nửa triệu ha. Trong 500.000 hecta đó thì thiệt hại lúa rất là nặng nề, bởi vì người ta không có tinh thần chuẩn bị, bấy lâu nay người ta thấy rằng đầy đủ nước mưa, đầy đủ nước ngọt, do đó người ta cứ tiếp tục trồng lúa nhưng mà đùng một cái mặn nó lên nhiều quá, người ta trở tay không kịp. Nhưng mà rõ ràng là từ những năm 2016 đến nay, và cụ thể nhất là giai đoạn 2020-2022 mặn không thua gì những năm 2015-2016, nhưng mà thiệt hại về lúa gần như không đáng kể nữa, bởi vì người dân ta đã có kinh nghiệm rồi. Và chính quyền địa phương và các ngành chức năng người ta cũng thấy rằng không nên ép người dân phải trồng lúa vào những vùng không phù hợp để trồng lúa nữa. Thế nên tôi cho rằng sự điều chỉnh của con người kịp thời là sẽ giúp giảm các tác hại đó. Mình không nên suy diễn rằng 2/3 diện tích đồng bằng này chìm dưới mực nước biển thì sản lượng lúa sẽ giảm 2/3 tương ứng. Cái đó thì thật ra không đúng. RFI tiếng Việt : Vậy nông dân trồng lúa của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay thích nghi với tình trạng mặn như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người dân sống ven theo biển thì chúng ta cần chia ra làm ba giai đoạn. Dễ thấy nhất là giai đoạn từ năm 1975 cho đến khoảng năm 1990. Trong giai đoạn này, người ta cố gắng trồng lúa bằng mọi giá để có nguồn lương thực. Trồng lúa không tính lời lỗ, mà trồng lúa như là một nhu cầu bắt buộc để có cái ăn. Còn từ năm 1990 tới về sau này đó, đặc biệt là từ giai đoạn 1990-2015 thì người ta bắt đầu biết tính lời lỗ, có nghĩa là trồng cây lúa như thế nào để cho có lời. Sau hạn mặn khốc liệt của năm 2015 - 2016, thì nhiều diện tích được đánh giá là không còn khả năng sản xuất lúa có hiệu quả kinh tế nữa, nên người dân không trồng lúa nữa và chuyển qua cây trồng vật nuôi khác thích nghi với mặn hơn. Sau năm 2016 cho đến nay thì đối với những diện tích mà người dân cảm thấy là trồng lúa không có lời nữa thì người ta cố trồng lúa nữa. Nhìn chung, về chuyện thích nghi đó, thì có thất bại, có trả giá thì mới có bài học, và người dân mình đã có những cái bài học như vậy. Do đó, người ta biết được những chỗ nào nên làm và chỗ nào không không nên làm nữa. Thứ hai nữa là trong những năm gần đây, so với những mặt hàng khác thì giá gạo không tăng và thậm chí còn có xu hướng giảm, làm cho hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa lại càng thấp hơn so với những hoạt động sản xuất khác, góp phần khiến người ta cân nhắc chuyện tiếp tục trồng lúa trên mảnh đất của mình hay là phải đổi cây trồng vật nuôi khác. RFI tiếng Việt : Vậy chủ trương của nhà nước hiện nay ra sao ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về chủ trương thì đó là một định hướng lâu dài của nhà nước. Tôi muốn nêu 2 mốc thời gian hết sức quan trọng. Thứ nhất là năm 2017, nghị quyết 120 ra đời, rất nhiều người gọi đây là một nghị quyết thuận thiên. Lý do là lần đầu tiên trong lịch sử ở trong văn bản được ghi một cách rất là cụ thể là coi nước mặn, nước lợ và nước lũ đều là tài nguyên. Còn trước đó, đối với đồng bằng và đối nền sản xuất của mình, thậm chí trong tất cả những chính sách của mình thì nước mặn hay là nước lũ đều là kẻ thù, phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế. Cái quan trọng thứ hai là từ cái khái niệm đó, mình đã có một bản đồ quy hoạch tích hợp về phát triển đồng bằng sông Cửu Long từ đây cho tới năm 2050 để thích nghi với biến đổi khí hậu. Và trong bản đồ tích hợp đó, lần đầu tiên chúng ta áp dụng luật quy hoạch để hoạch định ra một chính sách dài hạn cho chuyện sử dụng đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long. Trước đó, chúng ta có nhiều quy hoạch mà phần lớn là quy hoạch nhỏ lẻ theo địa phương, hoặc là quy hoạch theo ngành, hoặc là quy hoạch theo vùng, theo lãnh vực, nhưng không tích hợp tất cả mục tiêu lại với nhau. Trong quy hoạch tích hợp đó, người ta chia đồng bằng này theo 3 vùng dựa vào chất lượng nước. Vùng thứ nhất là vùng nước mặn, ưu tiên cho những sản xuất phù hợp với nước mặn. Vùng thứ hai là vùng nước lợ, có đặc điểm là trong mùa mưa có thể có nước ngọt, và trong mùa nắng có thể có nước mặn, nên chúng ta chọn cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện như vậy. Và vùng thứ 3 là vùng nước ngọt. Đây là vùng trọng điểm để sản xuất lúa hay lương thực. Tôi nghĩ rằng về mặt pháp lý thì nhà nước đã định hình rất rõ và có một định hướng từ đây tới năm 2050 cũng rất cụ thể cho các vùng miền. Vấn đề còn lại là làm thế nào để người dân và chính quyền địa phương, ở những cấp thấp nhất, ví dụ cấp xã cấp huyện, tiếp cận được với những khái niệm khoa học hoặc những chính sách được hỗ trợ đó, để người ta biết vận dụng cái đó vào trong sản xuất và quản lý. Tôi cho rằng đó mới là vấn đề quan trọng. Có một nghị quyết rất là hay hoặc là một bản đồ quy hoạch rất là tốt, nhưng không đi vào thực hiện được thì nó cũng không có giá trị gì. RFI tiếng Việt : Đối với những vùng bị mặn đó, theo tiến sĩ thì đâu là những loại vật nuôi hay cây trồng phù hợp hơn để thay cho cây lúa ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chuyện chọn cây trồng vật nuôi phù hợp cho vùng mặn như thế nào thì chúng ta phải hoàn toàn tính toán từ góc độ thị trường và góc độ người sử dụng. Chẳng hạn như trong 5 năm vừa qua, chúng tôi có làm một chương trình là đầu tiên chọn vùng đất không còn khả năng để trồng lúa nữa bởi vì muối đã tích lũy trong đất quá nhiều rồi, chúng tôi chọn một vài loại cây phù hợp cho vùng đất này. Cụ thể là chúng tôi chọn loại cỏ mọc rất là nhiều trước đây, trước khi đồng bằng được khẩn quang để chuyển sang trồng lúa hay nuôi tôm. Khi chuyển qua trồng lúa, nuôi tôm, người ta diệt hết loại cỏ đó. Chúng tôi đem loại cỏ đó phục hồi và trồng lại, cây đó tiếng địa phương ta kêu là cây năn tượng. Ngoài chuyện cải tạo đất, cải tạo môi trường thì chúng tôi sử dụng nguyên liệu từ loại cỏ đó để phát triển những ngành hàng về thủ công mỹ nghệ, giúp cho những người dân địa phương có được công ăn việc làm tại nhà. Người ta có được nguồn nguyên liệu tại chỗ và người ta bán được sản rồi mua lại gạo để ăn. Và điều này đó chắc chắn hơn rất là nhiều so với chuyện trồng lúa. Trồng lúa bấp bênh, có thể là năm trúng năm thất, mặc dù trồng lúa nhưng mà lại có những năm không đủ gạo ăn. Nhưng mà bây giờ trồng cỏ thì lại luôn có gạo ăn. Như vậy rõ ràng chuyện mà bấy lâu nay chính sách gọi là an ninh lương thực của chúng ta chỉ chăm chăm vào chuyện phát triển diện tích trồng lúa, nhưng rõ ràng lương thực không phải chỉ có lúa gạo. Lương thực có nhiều cách làm và có nhiều con đường để chúng ta có đủ lúa gạo mà ăn chứ không phải lúc nào cũng phải trồng lúa mới có gạo mà ăn. RFI tiếng Việt : Như tiến sĩ vừa mới nói, thì nước mặn, nước lợ hay nước lũ hoàn toàn có thể là tài nguyên. Vậy thì trong những năm vừa qua, để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu thì Việt Nam và cụ thể là đồng bằng sông Cửu Long đã có những hành động, những chương trình cụ thể gì để biến nước mặn, nước lũ, nước lợ thành tài nguyên ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chúng ta có một nghị quyết thuận thiên, một bản quy hoạch, một bản đồ phân vùng rất cụ thể, vùng nào ưu tiên nước mặn, vùng nào ưu tiên nước lợ, vùng nào ưu tiên nước ngọt ... Nhưng điểm yếu là chúng ta không có những cái triển khai cụ thể. Tôi lấy ví dụ là nếu chúng ta xem nước mặn cũng là một tài nguyên, vậy thì bây giờ đó chúng ta phải có một nguồn kinh phí để hỗ trợ những nhà khoa học ở các viện, trường để họ tập trung vào chuyển những giống cây con thích nghi với nước mặn, để xây dựng quy trình sản xuất, để rồi chuyển giao quy trình sản xuất đó cho người nông dân và người nông dân mới bắt tay vô sản xuất, mới tạo ra được một hàng hóa lớn cho nhân dân chẳng hạn. Cái đó chúng ta vẫn thiếu. Tôi mong rằng là với một ví dụ mà chúng tôi đã làm trong mấy năm nay, tại vùng không trồng lúa được thì chúng ta có thể trồng cỏ và sử dụng cỏ đó để làm tiểu thủ công nghiệp và giúp cho người dân có ngành nghề tại chỗ rồi bán người có thu nhập rồi chẳng hạn người dân lấy tiền mua lại gạo để ăn … Bây giờ không phải là trồng những cái cây ăn được mới gọi là trồng là gọi là nông nghiệp. Tôi trồng cỏ, nhưng mà tôi trồng cỏ thì người dân vẫn có gạo ăn. Và thậm chí có gạo ăn tốt hơn là người ta tự trồng lúa. Tôi tin rằng đó sẽ là tiền đề để cho người ta thấy rằng chuyện mà chúng ta nói nước lũ, nước lợ, nước mặn là tài nguyên không phải chỉ là chúng ta nói trên giấy mà chúng ta đã có những mô hình thực tiễn rồi, và như vậy tôi mong rằng trong tương lai từ mô hình thực tiễn đó chúng ta có thể mở rộng ra cho những vùng khác. RFI tiếng Việt : Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long có nhận được sự hỗ trợ về nghiên cứu khoa học của các cơ quan tổ chức khoa học trên thế giới về chống biến đổi khí hậu, chống mặn ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Có, trong giai đoạn chúng tôi xây dựng những mô hình để xác định vùng khó khăn nhất không còn trồng lúa được, coi mức độ mặn như thế nào để chọn loại cây trồng phù hợp và xây dựng kế hoạch để đào tạo nghề cho người dân nông thôn … thì đến năm 2023 chúng tôi được chính phủ Úc tài trợ khoảng 550.000 đô la Úc để mở rộng mô hình này. Và hiện nay nhiều địa phương và doanh nghiệp cũng đang nhờ chúng tôi xây dựng cho họ những vùng trồng, xây những làng nghề … Tôi mong rằng chuyện kết hợp một cách hài hòa và thực chất giữa người nông dân, giới làm nghiên cứu rồi đặc biệt là các doanh nghiệp để đưa ra những mô hình thực tiễn, và từ mô hình thực tiễn đó chúng ta rút ra được những bài học tổng quát và sử dụng những bài học tổng quát đó để hình thành những chính sách và định hướng lâu dài cho các khu vực. Được như thế thì tôi cho rằng chúng ta đang bắt đầu đi đúng hướng.

Headline News
Wang Yi to chair Lancang-Mekong Cooperation Foreign Ministers' Meeting

Headline News

Play Episode Listen Later Aug 13, 2025 4:45


Chinese Foreign Minister Wang Yi will chair the tenth Lancang-Mekong Cooperation Foreign Ministers' Meeting in southwest China. The Chinese Foreign Ministry says Beijing hopes the main meeting will help enhance regional stability.

Insight Myanmar
All Along the Mekong

Insight Myanmar

Play Episode Listen Later Aug 11, 2025 70:15


Episode #377: “Myanmar is a source of inspiration everywhere! This is me speaking directly to friends in Myanmar, that they should understand that they are the source of inspiration, and the source of ideas and reflections, to a level that they don't recognize, because there are a lot of reflections going on in the corners of Vietnam, Cambodia, Laos, that are not there on media.” Tee is a Vietnamese activist devoted to regional peacebuilding, and is particularly connected to Myanmar. His solidarity is deeply personal, not about grand gestures but about sharing in the struggles of his friends. As he says, “I am from Vietnam... but I think my identity is much more connected to being a Southeast Asian.” Tee draws parallels between Myanmar's struggle for democracy and Vietnam's history of resistance. Looking at the present situation, he notes how Myanmar's revolutionary forces are not just resisting military rule; they are building a future with fair power-sharing and inclusion of ethnic minorities—ideas that resonate deeply with activist communities across Southeast Asia. Tee critiques Vietnam's role in Myanmar's crisis, particularly through the country's telecom giant, Viettel. This company maintains close and supportive relations with the Myanmar military through its Burmese subsidiary, Mytel, thereby undermining the democratic movement and complicating life for the Burmese people. Tee also addresses migration issues across the Mekong region, in particular, the recent lack of empathetic response in countries like Thailand. He bemoans the erosion of any collective memory regarding the regional solidarity Southeast Asian countries once felt during the colonial and post-colonial eras. Despite these challenges, Tee remains hopeful. He emphasizes that Myanmar's struggle inspires people across the region, even if that impact is not always visible. “Solidarity right now is a big word and it has become a buzzword. But go down to the essence of solidarity, and it's really just about being there. The solidarity that I have with my friends is simply that they were the friends I met after the coup in Myanmar.”

VOV - Việt Nam và Thế giới
Tin quốc tế - Thái Lan đồng chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Mekong - Lan Thương lần thứ 10

VOV - Việt Nam và Thế giới

Play Episode Listen Later Aug 9, 2025 1:37


VOV1 - Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan sẽ đồng chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Mekong - Lan Thương (MLC) lần thứ 10 tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc vào ngày 15/8/2025.

GoNOMAD Travel Podcast
Bee Farms and Bamboo Pavilions: Delights of the Mekong Delta

GoNOMAD Travel Podcast

Play Episode Listen Later Aug 8, 2025 5:19 Transcription Available


Come glide down the muddy Mekong river in Vietnam with staff writer Chin Liang, and discover the scents, scenes and sweetness of coconut candy and a river boat ride. Visit a bee farm for a honey treat and feel what it's like to have royal jelly massaged on your hands. Join us as we venture into the serene beauty of the Mekong Delta in Vietnam, leaving behind the hustle of Ho Chi Minh City for a day filled with exploration and indulgence. In this episode, we accompany senior writer Chin Liang on a captivating trip that highlights the region's lush landscapes, vibrant culture, and delightful flavors. From the sun-dappled orchards bursting with tropical fruits to the tranquil boat rides across the chocolate-hued river, every moment is a sensory experience. We visit a bee farm to enjoy honey tea and learn about the benefits of royal jelly, and witness the process of making coconut candy at a local factory. As we navigate through narrow canals and vibrant celebrations at the Grand Vinh Trang Pagoda, we are reminded of the importance of slowing down and savoring the simple joys that the Mekong has to offer.Chin Liang TehTeh Chin Liang is a long-time travel journal contributor to Dave's Travel Corner and Global Travel Insider. Besides travel journals, he loves writing prose and poetry. When he is not writing, he enjoys reading and traveling to get inspiration for his writing. He lives in Penang, Malaysia, a scenic island city that is also a UNESCO heritage site.Mentioned in this episode:Check out the new Smart Travel Podcast.This week's show is supported by the new Smart Travel Podcast. Travel smarter — and spend less — with help from NerdWallet. Check out Smart Travel at the Link below:Smart Travel Podcast

Art Is Awesome with Emily Wilson
Pao Houa Her - Photographer

Art Is Awesome with Emily Wilson

Play Episode Listen Later Aug 5, 2025 17:56


Welcome to Art is Awesome, the show where we talk with an artist or art worker with a connection to the San Francisco Bay Area. In this week's Episode, Emily features a discussion with artist Pao Houa Her. Pao's exhibit, 'The Imaginative Landscape,' showcases her exploration of the Hmong community's history and culture through photography and art. The artist details her inspiration from family stories, her travels back to Laos, and her work's focus on themes like home, community, and deception. They also discuss Pao's background, including her education and achievements, and her desire to tell visual stories that resonate with the Hmong community. About Artist Pao Houa Her:Pao Houa Her was born somewhere in the northern jungles of Laos. She fled Laos with her family when she was a baby, crossed the Mekong on her mother's back, was fed opium to keep from crying, lived in the refugee camps in Thailand and landed in America on a silver metal bird in the mid 1980s. She is a visual artist in Minnesota who works within multiple genres of photography. Her received her BFA from the Minneapolis College of Art and Design and her MFA from Yale University. Visit Pao's Website:  PaoHHer.comFollow Pao on Instagram:  @PaoHouaHerFor more about Pao's Exhibit: "The Imaginitive Landscape" - San Jose Museum of Art  and John Michael Kohler Arts Center--About Podcast Host Emily Wilson:Emily a writer in San Francisco, with work in outlets including Hyperallergic, Artforum, 48 Hills, the Daily Beast, California Magazine, Latino USA, and Women's Media Center. She often writes about the arts. For years, she taught adults getting their high school diplomas at City College of San Francisco.Follow Emily on Instagram: @PureEWilFollow Art Is Awesome on Instagram: @ArtIsAwesome_Podcast--CREDITS:Art Is Awesome is Hosted, Created & Executive Produced by Emily Wilson. Theme Music "Loopster" Courtesy of Kevin MacLeod (incompetech.com)Licensed under Creative Commons: By Attribution 4.0 LicenseThe Podcast is Co-Produced, Developed & Edited by Charlene Goto of @GoToProductions. For more info, visit Go-ToProductions.com

NDR Info - Zwischen Hamburg und Haiti
Mit dem Fahrrad durch Laos

NDR Info - Zwischen Hamburg und Haiti

Play Episode Listen Later Jun 22, 2025 24:22


Die Freundschaftsbrücke führt über den mächtigen Mekong und verbindet Thailand mit Laos. Hier beginnt Lorenz Schröter seine Reise, kurz vor seinem 65. Geburtstag und fast vierzig Jahre nach seiner Weltumradlung will er es noch einmal wissen und fährt mit dem Fahrrad in Richtung China über die wichtigste und längste Straße von Laos, die Nationalstraße 13. Vorbei an Reisfeldern, buddhistischen Tempeln, Tümpel mit Wasserbüffeln, Autowerkstätten und Garküchen. Die Straße passiert die Hauptstadt Vientiane und führt nach Luang Prabang, dem spirituellen und touristischem Zentrum des Landes mit seinen berühmten Tempeln und Nachtmarkt. Die ersten 400 Kilometer sind asphaltiert, dann nehmen die Schlaglöcher zu, die 13 wird zu einer breiten Stein- und Lehmpiste, die sich über die mit Wäldern bewachsenen Berge schlängelt. Kautschukplantagen und Bananenfelder verdrängen mehr und mehr den Urwald, in denen noch ein paar hundert Tiger, Elefanten und das geheimnisvolle Saola, eine Antilope, leben. Westlich liegt das Goldene Dreieck, immer noch ein wichtiges Anbaugebiet für Opium. Chinesen investieren im Land, sie übernehmen Fabriken, Plantagen, haben die neue Eisenbahn finanziert, und im Norden an der Grenze zu China eine Sonderwirtschaftszone eingerichtet. Das verschlafene Dorf Boten wurde so zu einer sündigen Boomtown, in dem chinesische Gesetze gelten. Die Nationalstraße 13 ist beliebt bei Langstreckenradlern, fünf hat der Autor unterwegs getroffen, auf deren Reise von Aachen, Warschau und Belgien nach Ost-Timor, China oder Australien. Sie alle suchen das Abenteuer und den besonderen Blick bei 20 km/h an der frischen Luft.

Destination On The Left
433. Authentic Encounters and Sustainable Growth in Luxury Travel, with John Nguyen

Destination On The Left

Play Episode Listen Later Jun 18, 2025 30:51


On this episode of Destination on the Left, I talk with John Nguyen, CEO of Heritage Line. In our conversation, John shares his passion for his home in Southeast Asia and describes his luxury cruise line, how he developed it, and how they deliver on unique experiences by going to places that most tour operators cannot access. John describes partnerships that he has built with competing river cruise companies to help develop sustainable practices and facilitate connections between locals and international visitors that make a positive impact. What You Will Learn in This Episode: How John Nguyen overcame losing his sight and used it as inspiration to launch two successful businesses in Southeast Asia's luxury travel sector Why honoring local communities and creating positive impacts in the destinations he visits is central to John's business philosophy What makes Heritage Line's luxury river cruises unique including access to hidden, off-the-beaten-path villages and authentic guest experiences How John developed partnerships and collaborations to promote sustainable practices and protect the villages visited by river cruises Why relationships, word-of-mouth, and tailored experiences have been fundamental to reaching high-end international travelers and building reputable brands How John and his teams implement philanthropic initiatives such as vocational training and literacy programs to support and empower local communities What inspires John's ongoing projects and new destination explorations, including his process for identifying and creating exceptional travel experiences in emerging regions Adversity to Industry Leader Growing up along the Perfume River in Hue, Vietnam, John was surrounded by a rich culture, history, and a profound sense of place. These early influences fueled his passion for boating and inspired the creation of guest experiences that combine authentic local connections with high-end service. After losing his sight in the late 1990s and faced with the daunting prospect of unemployment, John chose entrepreneurship instead. He launched his first venture, Trails of Indochina, in 1999, even before luxury tourism infrastructure existed in Vietnam. Despite the limited five-star accommodations available at the time, John believed that travelers would value unique, immersive experiences over amenities alone. “I was able to persuade people to stay at just decent hotels, but they got the opportunity to really experience authentic and unique experiences in the region.” This focus on access, storytelling, and local connection formed the foundation for his later river cruise company, Heritage Line. Small Ships with a Big Impact By operating boutique ships with as few as six to 27 cabins, Heritage Line is able to visit secluded villages and rarely accessed corners of the Mekong and other major waterways. This approach not only creates exclusivity for travelers but also preserves the intimacy and integrity of local communities. Guests may visit villages where electricity is a novelty, collaborate with locals on traditional crafts such as textile weaving and wood carving, and support philanthropic projects, including building wells and eradicating illiteracy. Travelers have the opportunity to really learn more about how locals live. Collaboration Over Competition As Southeast Asia's tourism profile has grown, John has witnessed an influx of international operators, some with larger, less community-integrated ships. Rather than seeing them strictly as rivals, John champions “coopetition.” Heritage Line works directly with other cruise companies to build sustainable practices and prevent the negative impacts of overtourism. By coordinating with these “friendly competitors,” John and his peers can spread the benefits of tourism more equitably, develop vocational and philanthropic programs, and ensure that the arrival of travelers enhances rather than disrupts local communities. Notably, Heritage Line has spearheaded projects to provide clean water, vocational training for marginalized groups, and even tackle illiteracy through book donations and mobile libraries. For John, the true essence of travel lies in its ability to forge meaningful, transformational connections. Whether helping a guest donate a sampan (boat) to a family, bringing books to a remote village, or enabling visitors to join local festivals, Heritage Line's experiences go beyond passive sightseeing. Resources: Website: https://heritage-line.com/ LinkedIn: https://www.linkedin.com/company/heritage-line/ We value your thoughts and feedback and would love to hear from you. Leave us a review on your favorite streaming platform to let us know what you want to hear more o​f. Here is a quick tutorial on how to leave us a rating and review on iTunes!