Major river in Southeast Asia
POPULARITY
In this episode, What The Luxe dives into the world of Aqua Expeditions with its Founder & CEO, Francesco Galli Zugaro. Raised across 16 countries and driven by an innate spirit of exploration, Francesco has spent nearly two decades crafting highly intimate, design-led journeys for what he calls the affluent explorer — guests who crave authenticity, comfort and adventure in some of the world's most fragile ecosystems. Host Fred Moore explores how Aqua began with a single 12-cabin ship on the Peruvian Amazon and grew into a fleet spanning Indonesia, the Mekong, the Galápagos and soon East Africa and the Arctic. Francesco shares the realities behind that growth: the logistical improbability of building ships in remote regions, the family dynamics woven into the brand, and why Aqua will never chase scale for its own sake. Together they unpack: • The origins of Aqua's small-ship philosophy and why intimacy beats scale • Designing for high-touch luxury — from world-class dining to near 1:1 staff ratios • Creating moments of wonder for guests who are used to the exceptional • The rising appetite for multi-generational and younger expedition travellers • Conservation partnerships and operating responsibly in fragile ecosystems • Aqua's next chapter, including new routes and new vessels A rich conversation about adventure, restraint, craftsmanship and the discipline required to build a brand that stays true to its values.
Với nhiệt huyết của tuổi trẻ, hơn 5 năm qua, anh Nguyễn Văn Hổ, ngụ xã Hòn Đất, tỉnh An Giang đã không ngừng lan tỏa ngọn lửa yêu thương, khơi dậy tinh thần cống hiến trong cộng đồng bằng những việc làm tử tế. Những bước chân thiện nguyện của anh, dù lặng lẽ nhưng bền bỉ, đã chạm đến nhiều hoàn cảnh éo le, giúp họ vượt qua những giai đoạn khó khăn nhất.
Suốt 2 năm qua, giữa nhịp sống tất bật đời thường, ông Phan Thanh Kiệt, ngụ tại TP. Cần Thơ vẫn ngày ngày rong ruổi trên chiếc xe máy, chở theo những suất cơm chay miễn phí để phát cho những bà con có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn. Hành động giản dị ấy đã lan tỏa tinh thần sẻ chia, như những “hạt lành” được gieo giữa đời thường, để tình người miền Tây thêm đong đầy. Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý vị cùng gặp gỡ và lắng nghe câu chuyện của người đàn ông đã dành cả thời gian và tâm huyết để mang bữa cơm nóng hổi đến với bà con lao động khó khăn.
Giữa trung tâm TP Cần Thơ, suốt 13 năm qua, ông Nguyễn Văn Chương được mọi người trìu mến gọi là “ông bụt của đàn chim trời”. Ngày nào cũng vậy, ông lặng lẽ dùng thu nhập từ việc bán cây kiểng để chăm sóc hàng trăm chú chim bồ câu, ríu rít quanh góc phố. Hành động nhỏ của ông đã gieo vào lòng người dân Cần Thơ thông điệp đẹp đẽ về lòng nhân ái, tình yêu thiên nhiên và sự sẻ chia thầm lặng. Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý vị cùng trò chuyện với ông Nguyễn Văn Chương, cùng lắng nghe câu chuyện về những khoảnh khắc bình dị mà đầy ắp tình người giữa lòng Cần Thơ.
Dù bận rộn với công việc vận hành doanh nghiệp thủ công tại làng nghề đan đác xã Vĩnh Thuận Đông, thành phố Cần Thơ, thế nhưng, anh Hà Anh Trường, Giám đốc Công ty Cổ phần Ecoka vẫn miệt mài cùng các thành viên công ty lặng lẽ gieo từng hạt mầm tri thức vào đời sống con em thợ làng nghề. Từ xưởng thủ công đến lớp học miễn phí, mỗi trang sách, mỗi buổi học đều mang theo niềm tin: cho đi tri thức để nảy mầm thay đổi. Chuyên mục Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý vị cùng chúng tôi bước vào câu chuyện đẹp đẽ ấy, nơi kinh doanh và thiện nguyện gặp nhau ở điểm chung duy nhất: Trái tim dành cho cộng đồng.
El delta del Mekong, en Vietnam, está gravemente amenazado por el cambio climático. Esta fértil región agrícola, que produce la mitad de los alimentos del país, enfrenta la destrucción de sus cultivos de arroz debido al aumento del nivel del mar y la intrusión de agua salada. Los cambios en el paisaje están alterando también el equilibrio de todo su ecosistema. Reportaje de William de Tamaris, Aruna Popuri, Mélodie Sforza y Justin McCurry para France 24.
¡Algunos ríos alrededor del mundo son incluso más peligrosos que el Amazonas! Primero, está el río Congo en África, con sus aguas aterradoramente profundas y fuertes corrientes que podrían arrastrar incluso a grandes embarcaciones. Luego está el río Nilo, que podría parecer tranquilo en algunas partes, pero tiene cocodrilos mortales e hipopótamos listos para defender su territorio. El río Mississippi en Estados Unidos puede parecer pacífico, pero tiene fuertes corrientes, remolinos ocultos e inundaciones frecuentes que lo hacen peligroso. En Asia, el río Yangtsé es otro río arriesgado con inundaciones repentinas y corrientes que han cobrado innumerables vidas. Y finalmente, el río Mekong, que se extiende a través de varios países, está lleno de peligros submarinos y bagres gigantes que podrían igualar cualquier historia de terror en un río. Learn more about your ad choices. Visit megaphone.fm/adchoices
Cuộc chiến với bệnh tật cam go ngang ngửa với cuộc chiến đói nghèo. Nhưng vừa nghèo lại vừa bệnh thì là một trang đời kém may mắn và đáng thương. Thấu hiểu những hoàn cảnh khó khăn, mắc bệnh mãn tính mà phải chạy từng liều thuốc lẻ, một vị lương y 82 tuổi tại TP. Cần Thơ đã dành hết những ngày tháng tuổi hưu của mình để đi khắp nơi khám bệnh và cấp thuốc từ thiện.Sự có mặt của bà là điểm tựa để người nghèo chiến thắng chính mình, thoát khỏi bệnh tật. Bà là bác sĩ Nguyễn Thu Vân – Nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện đa khoa TP. Cần Thơ.
VOV1 - Hội nghị Quốc tế về Phát triển Du lịch Bền vững Tiểu vùng Sông Mê Công mở rộng (GMS) 2025 vừa diễn ra tại Ninh Bình, do Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam và Tổng cục Kinh tế Thụy Sỹ (SECO) thông qua Dự án “Du lịch Thụy Sỹ vì Sự Phát triển Bền vững tại Việt Nam” phối hợp tổ chức.
Nửa năm qua, quán mì 0 đồng của vợ chồng ông Nguyễn Minh Trung và bà Huỳnh Hồng Tuyết tại phường Cái Khế, thành phố Cần Thơ đã trở thành điểm đến quen thuộc của nhiều bà con khó khăn trên địa bàn. Từng tô mì ấm nóng, từng ly trà đá miễn phí được trao tay, không chỉ làm ấm lòng những mảnh đời khốn khó mà còn san sẻ yêu thương đầy nghĩa tình của người dân vùng đất Tây Đô.
Giữa nhịp sống sôi động của TP. Cần Thơ, có một cơ sở nhỏ, nơi từng mũi đan, từng đường thêu của các học viên khuyết tật trở thành cầu nối đưa các bạn đến với công việc, thu nhập và niềm tin vào bản thân. Bà Lê Thị Hồng Hoa, người sáng lập cơ sở và gắn bó nhiều năm với công việc dạy nghề thêu móc, chính là người đã gieo hy vọng, giúp học trò tự tin kiếm sống và khẳng định giá trị riêng, hòa nhập cộng đồng.
Trong những năm gần đây, tình trạng nông sản rớt giá vào vụ thu hoạch đã trở thành nỗi lo thường trực của người nông dân. Từ thực tế ấy, anh Trương Ngọc Ẩn – một người con của vùng đất nông nghiệp đã trăn trở tìm cách “giải cứu” nông sản địa phương bằng con đường chế biến sâu. Nhờ sự kiên trì nghiên cứu và sáng tạo, anh đã cho ra đời nhiều sản phẩm từ hành tím, củ cải trắng đạt chuẩn OCOP, góp phần mở ra hướng đi bền vững cho nông dân. Trong chuyên mục Cảm hứng Mekong hôm nay, mời quý vị cùng lắng nghe cuộc trò chuyện của phóng viên chương trình với anh Trương Ngọc Ẩn để nghe anh chia sẻ về hành trình biến những nông sản tưởng chừng “ế ẩm” thành sản phẩm có giá trị cao và được người tiêu dùng đón nhận rộng rãi.
Hơn chục năm qua, với niềm say mê dạy học và khát khao mang tri thức đến mọi trẻ em nơi mình sinh sống, cô Lê Thị Bích Thủy, giáo viên tiểu học về hưu tại xã Lương Thế Trân, tỉnh Cà Mau, đã duy trì lớp học miễn phí, mở ra cơ hội học tập cho trẻ em và cả người lớn ở địa phương. Lớp học của cô không chỉ là nơi học chữ mà còn gieo mầm hy vọng, trao cơ hội học tập cho những học viên chưa từng có cơ hội đến trường.
Đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), nằm ở vùng cực nam Việt Nam, cũng là vùng sản xuất nông nghiệp then chốt của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản. Thế nhưng, trong những năm gần đây, đồng bằng sông Cửu Long đang phải đối mặt với tình trạng xâm nhập mặn ngày càng phức tạp, không chỉ tác động đến đời sống con người và sinh thái, mà còn ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, khiến nhà nông phải tìm cách chuyển đổi để thích nghi với tình hình. Nhưng đâu là những nguyên nhân và thực trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long ? Để hiểu thêm tình hình, RFI có cuộc trao đổi với tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Đâu là nguyên nhân gây ra mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về mặn đối với cây trồng ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là đối với sản xuất lúa, người ta chia làm hai loại mặn. Thứ nhất là mặn do nước biển tràn vào. Cái mặn này thường xuất hiện trong mùa khô, khi mà nước ngọt từ sông Cửu Long hoặc lượng nước mưa không đủ để đẩy nước mặn, thì mặn xâm nhập từ biển vào. Loại mặn thứ hai là mặn từ trong đất : chúng ta hình dung là phù sa của sông Mekong đi ra ngoài biển biển thì biến dần thành phù sa mặn. Khi phù sa này quay bồi tụ thì hình thành đất mặn. Đó là đất đó đã có sẵn muối trong đó rồi. Nói nôm na, chúng ta phân biệt làm hai loại mặn, mặn do nước biển và mặn có sẵn từ trong đất. RFI tiếng Việt : Người xưa đã thích ứng với chuyện mặn này như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người xưa, khi đến định cư ở đồng bằng sông Cửu Long này, vùng Duyên Hải sát với phía biển, người ta chia chuyện sử dụng nước làm bốn loại. Thứ nhất là loại nước để ăn uống, đa phần người ta dựa vào nước mưa. Dễ thấy nhất khi xuống những vùng như thế này là thấy là người dân trữ nước mưa trong lu để dọc theo nhà. Mình có thể đếm số lu là có thể đoán biết là trong nhà đó có mấy người. Cái nước thứ hai là nước sinh hoạt, ví dụ để người ta tắm giặt … Phổ biến nhất là khi xây nhà, người ta đào cái ao kế bên nhà để trữ nước ngọt, thường gọi là ao rửa ăn. Và trong một vài trường hợp thì người ta đào những cái ao này xa trong ruộng, gọi là những cái đìa, hoặc là người ta đào những cái ao lớn để cho cả cộng đồng sử dụng, như những cái ao chùa hoặc là những cái ao ở những nơi tập thể. Hiện nay một số nơi còn biệt danh đó, ví như ao Bà Hom ở Trà Vinh. Đó là những cái ao rất lớn để giữ nước ngọt cho cả cộng đồng xài. Loại nước thứ ba gọi là nước sản xuất. Người ta dựa vào chất lượng nước và quyết định loại hình sản xuất. Ví dụ như nơi nào mà nước nó quá mặn thì người ta sử dụng để sản xuất muối. Còn nơi nào mà nước mặn trung bình hoặc là mặn vừa thì người ta để nuôi tôm, nuôi cua. Còn nơi nào mà nước không mặn thì người ta mới trồng lúa hoặc người ta kết hợp với nuôi cá đồng. Cái cuối cùng là nước sinh thái, người ta giữ để cho cây cối xanh tươi, để cho cá tép có chỗ sống, và để cho ghe xuồng có thể đi lại được trên kinh rạch, làm cho không khí mát mẻ. Tôi muốn lưu ý là người xưa cũng đã từng ngăn mặn. Nhưng mà người ta chỉ ngăn mặn từ ở dưới sông tràn lên trên ruộng thôi, chứ không ai ngăn mặn trên những con sông hay con rạch, bởi vì ông bà xưa đã từng dặn là có 2 điều rất là tội lỗi, không nên làm : đó là ngăn sông và cấm chợ. RFI tiếng Việt : Tình hình mặn năm 2025 ra sao và theo ông xu thế tương lai thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về tình hình mặn hiện nay đó thì cái mặn xâm nhập từ biển vào, phần lớn được kiểm soát bởi các công trình như là đê ngăn mặn hoặc là cống đập ngăn mặn. Nhưng mà thực sự thì cái mặn mà không kiểm soát được là cái mặn từ trong đất đi ra, bởi vì do điều kiện địa chất hình thành vùng đất của mình, tầng đất ở bên dưới đã nhiễm mặn rồi. Thành thử khi mà thiếu cái nguồn nước ngọt bổ sung để rửa mặn hay là ém mặn từ bên trên thì cái mặn từ các cái tầng dưới sẽ mau dẫn lên và làm cho mặn trên mặt đất. Xu hướng mặn từ trong đất xì ra càng ngày càng tăng, bởi vì biến đổi khí hậu làm cho lượng nước ngọt càng ngày càng giảm. Về điều này, nhìn chung là theo xu hướng hiện nay cũng như là trong tương lai, diện tích của đất bị ảnh hưởng bởi mặn chỉ có tăng thôi chứ không có giảm. RFI tiếng Việt : Tình hình cụ thể năm nay so với, ví dụ như năm 2023 hay 2024, cái cái mặn này có tăng lên nhiều không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra thì cái mặn đã có sẵn trong nước và trong đất. Nó là tự nhiên. Vấn đề khi là đánh giá là năm nay mặn nhiều hơn năm rồi hay là mặn ít hơn năm rồi thì chủ yếu là người ta dựa vào diện tích canh tác bị thiệt hại. Mà ở đây cụ thể là diện tích canh tác lúa. Cái đỉnh mà gọi là bị xâm nhập mặn trầm trọng nhất là năm 2015 và 2016, mặn xâm nhập rất là sâu vào trong đất liền và ảnh hưởng rất nhiều đến diện tích trồng lúa. Có 2 nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là mặn xâm nhập sớm, người ta trở tay không kịp. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là người ta đã lấn, người ta đã đưa cây trồng vật nuôi không phù hợp với nước mặn, mở rộng diện tích ra gần biển quá nhiều trong những năm trước. Và như vậy khi mặn xâm nhập thì sẽ gây ra diện tích thiệt hại càng lớn. Và theo hướng đó thì những năm sau 2016 đến nay, cũng có những năm như 2020, 2022 mặn cũng khá nhiều nhưng mà thiệt hại, chủ yếu là thiệt hại trên diện tích canh tác lúa, không tăng bởi vì người dân đã có kinh nghiệm. Có nghĩa là những diện tích này không còn phù hợp để cho trồng lúa nữa và người ta giảm diện tích lúa cũng như là giảm mùa và vụ xuống. Thay vì hồi xưa trồng 2-3 vụ thì bây giờ người ta chỉ trồng một vụ thôi, do đó né được cái mặn. Hay nói nôm na là người ta có kinh nghiệm để tránh mặn. RFI tiếng Việt : Đâu là những nguyên nhân chính làm cho mặn có thể trở nên trầm trọng hơn? Liệu biến đổi khí hậu có góp phần vào nạn này không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Nói về nguyên nhân làm cho mặn có thể trầm trọng hơn thì chúng ta có thể liệt kê ra 4 nhóm nguyên nhân chính. Thế nhưng, nguyên nhân đầu tiên vẫn là kiểu sử dụng đất của người nông dân, có nghĩa là người nông dân đã chọn cây trồng vật nuôi đó có tính tới chuyện cây trồng vật nuôi đó có chịu mặn được hay không ? Và quy trình quản lý cây trồng vật nuôi đó có giúp ngăn chặn được tác hại của mặn hay không? Cái thứ hai là chuyện vận hành hệ thống công trình như là đê điều cống đập. Hiện nay cách vận hành đó còn manh mún và chưa đồng bộ, thành thử thí dụ một nơi này thì đóng cống để mà ngăn nước mặn, nhưng mà nơi kia thì lại mở cống, thành thử mặn nó sẽ xâm nhập phía sau, phía trước. Đó là vấn đề thứ hai. Vấn đề thứ ba là nguồn nước ngọt từ sông Mekong. Chúng ta biết là nguồn nước ngọt ở thượng nguồn bây giờ đang bị khai phá rất là nhiều cho sản xuất, nên đôi khi trong mùa nắng thì mình thiếu nguồn nước ngọt để đẩy nước mặn xâm nhập vào đồng bằng đi ra ngoài xa. Và cuối cùng là biến đổi khí hậu, ở đây cụ thể là sự phân bố thất thường lượng nước mưa. Nếu lượng mưa phân bố thất thường, thì tại những vùng chủ yếu rửa mặn từ nước mưa, thì người ta không có đủ nước để rửa cho đất, những nơi đó là ảnh hưởng mặn càng ngày càng tăng nghiêm trọng hơn. RFI tiếng Việt : Mực nước biển dâng do biến đổi khí hậu có phải là một nguyên nhân đẩy nước mặn vào sâu trong đồng bằng sông Cửu Long hơn ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra nếu nói về chuyện mực nước biển dâng, thì tác động không nhiều bằng mà chuyện lún sụt mặt đất ở trong đất liền, bởi vì vận tốc sụt lún mặt đất ở trong đất liền hiện nay trung cũng khoảng chừng 1-2cm/năm, đặc biệt là có những vùng nhiều hơn, trong khi mực nước biển dâng chỉ có không phẩy mấy cm trong vòng 2-3 năm. Nên thực ra mực nước biển dâng có góp phần gây xâm nhập mặn, nhưng đó là một tiến trình lâu dài, chứ không xuất hiện từng năm, mà vận tốc tăng cũng rất chậm, trong khi sụt lún mặt đất của chúng ta trầm trọng hơn vì tốc độ nhanh hơn, nên làm nước mặn xâm nhập vô đất liền nhiều hơn. RFI tiếng Việt : Vậy sụt lún mặt đất có phải phần nào cũng là do việc người dân hút mạch nước ngầm lên, ví dụ để sử dụng phục vụ tưới tiêu sản xuất ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Sụt lún mặt đất thì chúng ta phải xét trên trên nhiều góc độ. Thứ nhất là chúng ta phải hiểu là đồng bằng của chúng ta hình thành được là do quá trình bồi lấn phù sa nhiều hơn là quá trình xói lở phù sa, nên mới tạo ra được mặt đất. Nếu quá trình bồi lấn phù sa đó nhỏ hơn quá trình sạt lở phù sa thì mặt đất của chúng ta tự nó cũng đã thấp xuống mỗi năm. Tôi cho rằng chuyện thiếu hụt phù sa bù đất cho những vùng đất hiện nay là yếu tố chính, bởi vì nhiều lý do liên quan tới kiểu sử dụng đất của người dân. Ví dụ như hồi trước có nhiều vùng qua mùa nước lũ người ta còn mở đê để lấy nước, phù sa còn bồi lấn trên đồng. Còn hiện nay, người ta quản lý nước chặt chẽ để canh tác suốt năm, phù sa không có cơ hội đi vào đồng ruộng, nên đồng ruộng không được bồi lấn tự nhiên lên, do đó mặt đất càng ngày càng sụt xuống. Cái thứ hai là chuyện trưởng thành của loại đất. Đất ở đồng bằng của chúng ta nó thuộc về đất non trẻ và đối với một đất non trẻ này thì tự nó khi mà nó săn chắc lại thì nó co ngót lại và cũng tạo ra một độ sụt lún tự nhiên. Và nguyên nhân thứ ba thì chắc chắn là do bây giờ người ta lấy quá nhiều nước ngầm. Ngày xưa người ta chỉ lấy để làm nước sinh hoạt và ăn uống trong giai đoạn thiếu nước thôi, còn ngày nay người ta lấy nước ngầm để phục vụ cho sản xuất nữa, thành thử lượng nước ngầm khai thác mỗi nơi phục vụ cho sản xuất rất lớn, gấp mấy chục lần lượng nước cần thiết để sinh hoạt. Đây là cũng là nguyên nhân làm cho mặt đất sụt lún rất nhanh. RFI tiếng Việt : Trường hợp mặn của đồng bằng sông Cửu Long thì có phải là cá biệt trên thế giới hay không ? Hay cũng có một số khu vực trên thế giới cũng có tình trạng giống như đồng bằng sông Cửu Long ? Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với những khu vực đó không ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật sự mà nói tất cả đồng bằng trên thế giới này đều có những thách thức tương tự như đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng mà đồng bằng sông Cửu Long thì được xếp một trong 3 đồng bằng chịu tổn thương nhiều nhất. Thành thử những kinh nghiệm, bài học mà chúng ta có được hoàn toàn có thể chia sẻ cho những đồng bằng khác, bởi vì mức độ nghiêm trọng của họ không nhiều như mình. Đồng bằng sông Cửu Long bị áp lực từ tự nhiên cho đến chuyện phát triển kinh tế xã hội trong khu vực. Lý do thứ nhất là sông Cửu Long chảy qua 6 nước : qua Trung Quốc, Miến Điện, rồi Lào, Thái Lan, Campuchia rồi cuối cùng mới đi đến Việt Nam. Đồng bằng là phần mà sự thay đổi phụ thuộc hoàn toàn vào lưu vực của con sông. Tất cả những cái gì xảy ra trên lưu vực của con sông đó thì đều ảnh hưởng đến đồng bằng này. Chuyện các quốc gia này ngồi lại để thương lượng về các chuyện, ví dụ sử dụng nguồn nước thế nào cho hợp lý, đều rất khó khăn. Nó không có đơn giản như là đồng bằng sông Mississippi của Hoa Kỳ, chảy qua nhiều bang, nhưng đều nằm trong một quốc gia, thành thử ra họ ngồi lại với nhau tương đối dễ dàng hơn. Nhưng riêng về chuyện xâm nhập mặn thì thật sự mà nói là có nhiều quốc gia hiện nay cái mặn không đơn thuần chỉ là mặn trong nước biển hay là trong đất thôi, mà đôi khi đó còn là cái mặn do những khu công nghiệp hoặc là nơi sản xuất, đặc biệt là những chỗ luyện kim … Cái mặn này tạo ra một loại muối khác, không phải là muối mình ăn được như muối biển tự nhiên, mà đây là cái mặn từ nguồn nước thải công nghiệp sản xuất. Cái đó nó tác động, làm đất bị nhiễm mặn và cái mặn đó mới là nguy hiểm. Cải tạo cái mặn đó mới khó. RFI tiếng Việt chân thành cảm ơn tiến sĩ Dương Văn Ni đã tham gia chương trình !
Gần hai chục năm qua, tại cù lao Tân Lộc, TP Cần Thơ, anh Trần Minh Trung cùng các thành viên trong đội của mình đã miệt mài vá những con đường xuống cấp giúp bà con đi lại an toàn. Họ làm việc hoàn toàn bằng tình yêu quê hương và tinh thần tự nguyện vì cộng đồng, mong giữ cho con đường làng luôn sạch, đẹp và an toàn.
Xót xa trước cảnh hành tím rớt giá mỗi khi vào vụ, chàng sinh viên Sơn Trần Minh Mẫn cùng các bạn học của mình tại Trường Đại học Trà Vinh đã tìm cách “cứu” loại nông sản quê mình theo hướng rất riêng: biến củ hành tím thành nước mắm chay độc đáo, vừa nâng cao giá trị sản phẩm vừa mở hướng đi mới cho bà con quê nhà. Nước mắm chay từ hành tím không chỉ là câu chuyện sáng tạo của các bạn trẻ mà còn là minh chứng cho tinh thần khởi nghiệp xanh và khát vọng nâng tầm nông sản ĐBSCL.
“Liệu 10 năm, 20 năm hay nhiều năm hơn nữa, các loại bánh dân gian gắn với ký ức tuổi thơ của bao thế hệ có còn ai nhớ?”. Một câu hỏi mang tính hoài niệm và trăn trở, không chỉ bàn về ẩm thực, mà còn chạm đến nỗi lo về sự mai một văn hoá truyền thống với những món bánh đặc sắc của quê hương, của tuổi thơ. Đó là nguồn cảm hứng để Nguyễn Minh Công, một nhà thiết kế trẻ quê Vĩnh Long sử dụng cho các sáng tạo nghệ thuật của mình. Bằng những chất liệu mang đậm nét văn hóa miền Tây Nam Bộ, Nguyễn Minh Công đã khiến nhiều người mê đắm các thiết kế thời trang tưởng chừng mộc mạc nhưng rất ấn tượng của mình.
Trải dài gần 5.000km từ cao nguyên Tây Tạng đến Biển Đông, sông Mekong được xem là “huyết mạch” canh tác của hàng chục triệu dân ở những nơi mà nó đi qua.
Từ thói quen pha ly cà phê mỗi sáng cho gia đình, một ý tưởng giản dị đã nảy nở và dần trở thành sản phẩm đặc trưng mang dấu ấn riêng của chị Trần Hồng Nhiên, ngụ xã Tân Hòa, thành phố Cần Thơ. Với niềm đam mê và sự kiên trì, chị Nhiên đã biến sở thích cá nhân thành hành trình khởi nghiệp đầy cảm hứng, đưa cà phê dừa từ căn bếp nhỏ lên sàn thương mại điện tử, chạm đến nhiều người yêu cà phê trên khắp cả nước.
Nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến vừa cho ra mắt cuốn sách mới về lịch sử Sài Gòn, thành phố mà sự hình thành và phát triển vẫn gắn liền với con sông Sài Gòn và cả một hệ thống kênh rạch. Cuốn sách tựa đề Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước đưa độc giả trở về cội nguồn của Sài Gòn, từ lâu đã là nơi buôn bán phồn thịnh nhờ thế mạnh sông nước, từng là thủ đô Liên Bang Đông Dương, rồi Quốc Gia Việt Nam, từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Ngoài cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, Trần Hữu Phúc Tiến còn là tác giả của những cuốn sách khác về Sài Gòn và Đông Dương xưa, như Sài Gòn không phải ngày hôm qua ( 2016 ), Sài Gòn hai đầu thế kỷ ( 2017 ), Kiến trúc Pháp-Đông Dương, những viên ngọc quý tại Hà Nội ( 2021 ), Du lịch Đông Dương xưa ( 2224 ), Kiến trúc Pháp Đông Dương, dấu tích Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông ( 2025 ). Sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, do Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, ấn hành, bao gồm 3 chương và phần phụ lục, với hơn 312 trang. Phần mở đầu trích dẫn các nhận xét của người xưa trong và ngoài nước từ về vẻ đẹp cảng thị và phố thị của Sài Gòn. Sách giới thiệu nhiều hình ảnh, bản đồ tư liệu sưu tầm công phu từ nhiều nguồn, trong đó có hình ảnh do tác giả chụp ở nhiều năm tháng khác nhau. Tác giả là người sinh trưởng tại Sài Gòn, thuở nhỏ đã thấy thành phố nguy nga lớn mạnh bên sông biển, kinh rạch. Lớn lên được học Sử và làm báo, tác giả có thêm cơ hội học hỏi các thời kỳ phát triển của thành phố, đồng thời khám phá các chốn phố phường, chợ búa, bến tàu, học đường và nhiều công trình di sản. Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, "dòng sông Sài Gòn không phải là dòng sông khuất nẻo mà là dòng sông vươn ra biển lớn, dòng sông sinh thành cảng thị và phố thị đông vui, thu hút tinh hoa xa gần". Công sức lớn lao của người Việt từ thế kỷ 17 đến nay đã làm nên Sài Gòn, một kinh đô lịch lãm và kiều diễm. Thông qua nhiều chi tiết cụ thể, cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước điểm lại quá trình hình thành các thế mạnh của Sài Gòn từ sông biển, địa linh, nhân kiệt, đến kinh tế, dịch vụ, công nghiệp, đào tạo. Đặc biệt với sự mở rộng của thành phố, tác giả chú trọng giới thiệu các tiềm năng về kinh tế biển và kinh tế di sản. Thế nhưng, giống như nhiều đô thị lớn đang trong cơn sốt bùng nổ dân cư và kinh tế, thành phố này cũng đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm, lũ lụt, đòi hỏi nhà nước phải có những giải pháp cấp bách cũng như dài hạn. Trả lời RFI Việt ngữ nhân dịp sang Paris để giới thiệu sách của ông, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến trước hết cho biết, từ trước khi được người Pháp xây dựng thành một thành phố hiện đại, Sài Gòn đã là một chốn phồn hoa đô hội: “Sài Gòn Kinh Đô có nghĩa là Sài Gòn trong lịch sử đã từng là thủ đô, là thủ phủ, là trung tâm không chỉ của Nam Bộ, mà là của cả nước. Kinh Đô Sông Nước có nghĩa là một đại cảng thị, một đại phố thị lớn mạnh bên dòng sông Sài Gòn và đặc biệt vị trí của Sài Gòn là rất gần biển và nối kết với khu vực miền Đông Nam Bộ, cũng như miền Tây Nam Bộ, nối kết với miền Nam Đông Dương, rồi ra biển để đi đến với thế giới. Thật sự là từ thế kỷ 17, với công sức của người Việt Nam khai phá các miền đất mới, vai trò của Sài Gòn như là một trung tâm kinh tế, giao thương, phồn hoa đô thị rất là lớn. Trước khi người Pháp đến, Sài Gòn đã được hình thành như một trung tâm lớn và đặc biệt là từ 1788 - 1790, Sài Gòn đã được Chúa Nguyễn Ánh, sau này là Vua Gia Long, đặt tên là Gia Định Kinh, có nghĩa là Kinh Đô Gia Định. Ngay vào thời điểm đó thì một số chuyên gia Pháp đã giúp Nguyễn Ánh - Gia Long thiết kế Sài Gòn như là một thành phố kết hợp yếu tố phương Đông với yếu tố phương Tây, đặc biệt là coi trọng vị trí cảng thị của Sài Gòn. Khi vào xâm chiếm Việt Nam, người Pháp đã hiện đại hóa Sài Gòn kế thừa những sự phát triển sẵn có của Gia Định Kinh và người Pháp tổ chức những quy hoạch xây dựng rất là bài bản, rất là chuyên nghiệp, để thành phố này không những là một trung tâm về giao thương, mà đặc biệt còn là một trung tâm về giao thông và dịch vụ.” Vậy thì từ bao giờ thành phố Sài Gòn bắt đầu được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, nhà nghiên cứu Phúc Tiến giải thích: “Theo chúng tôi tìm hiểu, lúc đó người Pháp coi như là chỉ mới quản trị chủ yếu là phần Nam Bộ, Nam Kỳ, sau này họ mới phát triển ra toàn miền Bắc, rồi cả Đông Dương. Nhưng lúc đó họ đã đặt kế hoạch phát triển kinh tế, trong đó vấn đề giao thông có một mũi nhọn trên thế giới lúc đó cũng bắt đầu phát triển lớn mạnh đó là đường sắt. Vào năm 1881, thị trưởng Pháp của Sài Gòn Jules Blancsubé khi trả lời báo chí đã nói rằng người Pháp muốn phát triển hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương từ Sài Gòn ra đến miền Bắc và đi đến đến Nam Trung Hoa, rồi có thể mở ra phía Lào, phía Cam Bốt, rồi các nước Đông Nam Á lục địa. Nếu hệ thống đường sắt này mà được hình thành thành công, thì Sài Gòn, với cảng Sài Gòn, sẽ có thêm vị trí quan trọng, có nghĩa là hàng hóa của nguyên khu vực Nam Trung Quốc và khu khu vực Đông Nam Á sẽ đổ về cảng Sài Gòn để mà xuất khẩu đi các nước. Ngược lại thì những hàng hóa từ các nước cũng từ Sài Gòn theo đường sắt, đường bộ, đường sông để mà ra với các nước trong khu vực. Và do vậy, ông nói, lúc đó Sài Gòn sẽ trở thành một Hòn Ngọc Viễn Đông. Tôi cho rằng là lời tiên đoán đó vào năm 1881 thực sự đã thể hiện một chiến lược quy hoạch kinh tế lớn lao và người Pháp lúc đó đã nhìn thấy được thế mạnh sông nước của Sài Gòn. Sau này, sang đầu thế kỷ 20, chúng ta thấy không chỉ có đường sắt, mà đường hàng không cũng phát triển và bây giờ nhìn toàn cục thì chúng ta có thể thấy là chữ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông đã được mở rộng từ vấn đề kinh tế sang vấn đề kiến trúc, văn hóa, giáo dục, con người. Bây giờ thì từ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông sang thế kỷ 20, sang thời kỳ trước 75, đã trở thành một tên gọi thân yêu để cho thấy một thành phố không những đẹp về mặt mỹ quan, đẹp về sự duyên dáng, yếu tố Đông Tây kết hợp, mà còn đẹp vì thế mạnh của nó, về kinh tế, đẹp về tinh thần cởi mở hội nhập quốc tế. Từ thời còn là Kinh Đô Gia Định ( 1789-1802 ), Thủ đô Liên bang Đông Dương ( 1887-1902 ), cho đến Thủ đô Quốc gia Việt Nam ( 1949-1955 ) và thủ đô Việt Nam Cộng Hòa ( 1955-1975 ), Sài Gòn luôn luôn là “đầu máy hùng mạnh” về nhiều mặt của cả nước, không chỉ về kinh tế, mà còn tiên phong cả về văn hóa - xã hội trong nhiều thời kỳ, theo ghi nhận của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến. Đó chính là nhờ thế mạnh về sông nước của thành phố này: “Ngược dòng lịch sử thì chúng ta biết sông Đồng Nai là một hệ thống sông rất lớn, song song với hệ thống sông Tiền và sông Hậu, tức là hệ thống sông Mekong. Hai hệ thống sông này lại có một cầu nối là Sài Gòn. Hay nói cách khác là giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ thì Sài Gòn lúc nào cũng nằm ở trung điểm và Sài Gòn lại được xây dựng bên dòng sông Sài Gòn, một chi lưu của hệ thống sông Đồng Nai. Có thể có gần 200 km bắt đầu từ Tây Ninh rồi đi qua Bình Dương, đi qua Đồng Nai rồi xuống Sài Gòn để thoát ra được cửa biển. Trước ngày 1 tháng 7 năm 2025, đoạn sông đó đi qua diện tích lãnh thổ của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh hơn 80 cây số. Và điều rất quan trọng là nó đi ra cửa biển Cần Giờ. Cửa biển Cần Giờ là khoảng hơn 20 cây số bờ biển. Nhưng sau ngày 1 tháng 7 năm 2025, với sự hợp nhất Sài Gòn với Bình Dương và Vũng Tàu - Bà Rịa, thế mạnh sông biển của Sài Gòn gia tăng rất lớn. Chỉ tính riêng về bờ biển thì bây giờ Sài Gòn có gần 400 km bờ biển và đặc biệt là có Côn Đảo bây giờ thuộc về siêu đô thị này. Và thêm nữa là hơn 100.000 km2 thềm lục địa, mà chúng ta biết là về thềm lục địa Biển Đông, trong ngành dầu khí họ nói là có hai vùng trũng là vùng Nam Côn Sơn và vùng Mekong, thì Sài Gòn nằm rất gần khu vực gọi là Nam Côn Sơn. Thế thì riêng về mặt kinh tế biển, thành phố đã phát triển. Đương nhiên người Pháp khi đến Việt Nam năm 1858, với tầm nhìn của một đế chế công nghiệp, họ nhận ra tài nguyên của Sài Gòn không phải là hàng hóa, mà là vị trí thuận lợi để giao thương kết nối được nhiều miền. Đặc biệt họ đưa ra tầm nhìn là Sài Gòn thuộc về khu vực Nam Đông Dương, nói cách khác chính là Đông Nam Á. Tôi còn nhớ là trong nhật ký của một sĩ quan Pháp tham gia trận đánh vào Sài Gòn năm 1859, ông này có ghi rằng vị trí Sài Gòn không khác gì Batavia, nay là Jakarta của Indonesia, như là Singapore hay là Hồng Kông và nó có những điểm độc đáo riêng. Chính vì vậy, theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, một trong những mũi nhọn kinh tế mà người Pháp xây dựng ở Sài Gòn không phải là công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất hàng hóa, mà điều rất quan trọng là dịch vụ. Trong quyển sách, tác giả kể ra đến 6 ngành, gọi là 6 “cổ máy không khói” của Sài Gòn từ thời Pháp: Thứ nhất là hàng hải, bao gồm sửa chữa tàu biển và hải cảng. Thế mạnh thứ hai là giao thương, tổ chức thương mại, chế biến nông sản để xuất ra nước ngoài. Thứ ba là một trung tâm tài chính, vì đương nhiên là xuất khẩu thì phải cần có sự trợ giúp của ngân hàng, bảo lãnh tín dụng, vân vân…Ngay từ cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một trung tâm tài chính, với khá nhiều ngân hàng quốc tế cũng như các hãng bảo hiểm đóng tại Sài Gòn và hình thành một khu phố tài chính. Thế mạnh thứ tư là về viễn thông. Ngay trung tâm thành phố, ngay bên cạnh nhà thờ Đức Bà, có nhà bưu điện rất lớn, rất đẹp và đã được coi là kiến trúc nhà bưu điện đẹp thứ hai trên thế giới. Thế mạnh viễn thông của Sài Gòn thì phải nói rất là sớm. Năm 1865, 1870, người Pháp đã bắt đầu thiết lập đường điện tín cáp quang để liên thông giữa Sài Gòn với Paris, nối cáp dưới dưới biển đi qua Singapore và sau đó làm đường ngược lên Hồng Kông để liên thông với cả khu vực châu Mỹ. Kế đến là hệ thống giao thông vận tải, Sài Gòn có đủ phương tiện, từ đường bộ, đường sắt, rồi đường biển, đường thủy. Cái độc đáo của Sài Gòn lúc đó là người Pháp đã tổ chức những đội tàu, không những đi dọc theo bờ biển để đi ra Hải Phòng, đi ra phía Bắc, mà còn làm hệ thống tàu thuyền để chở khách đi khắp đồng bằng sông Cửu Long, rồi đi lên được cả Phnom Penh, thậm chí là đến được cả Bangkok. Ngay cả bây giờ, đường thủy lên Phnom Penh và đường thủy lên Bangkok, chúng ta vẫn chưa thực hiện lại được đầy đủ. Đặc biệt là khi ngành hàng không thế giới ra đời và được đẩy mạnh sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sân bay Tân Sơn Nhất đã được xây dựng từ năm 1914. Lúc đó người Pháp đã gom ba làng là Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Tam để làm sân bay rất lớn, phục vụ cho đến thế kỷ 21. Một thế mạnh nữa của Sài Gòn: Đây là trung tâm về khoa học, đào tạo, với những trường dạy nghề đầu tiên cũng như Viện Pasteur. Nơi mà chúng ta hay gọi là Sở thú còn có tên là Sở bông, vì còn là nơi ươm trồng những giống cây mới. Kể cả cây cao su ở Việt Nam cũng chính là đã được trồng thử nghiệm ở Sài Gòn. Sài Gòn dù không phải là một cảng biển, chỉ là cảng sông, nhưng dòng sông thì sâu. Tại vị trí ở quận 1 đối diện với Thủ Thiêm, độ sâu nhất là khoảng 40 m và khoảng cách giữa hai bờ Thủ Thiêm và bến Bạch Đằng, ở khu vực Nhà Rồng là khoảng 300 m, nên tàu bè đi vào rất là thuận tiện, có tới hai ngã đường sông từ Cần Giờ vào. Tàu thuyền các nước trên đường đi từ Singapore qua hoặc là đi từ Hồng Kông xuống thì ghé lại Sài Gòn để lấy hàng, đồng thời lấy nước ngọt, lấy thêm nhân lực. Chính những điều đó đã giúp cho Sài Gòn phát triển và những thế mạnh này lại tiếp tục xuyên suốt thế kỷ 20 và bây giờ bắt đầu phải được đẩy mạnh hơn trong thế kỷ 21.” Thế nhưng, cũng chính do có vị trí gắn liền với sông và biển, cùng với quá đô thị hóa quá nhanh mà lại thiếu quy hoạch chặt chẽ, bây giờ thêm tác động của biến đổi khí hậu, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nay lại phải đối đầu với tình trạng ngập lụt thường xuyên. Chính quyền của thành phố đang đối phó ra sao, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho biết: “Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ nhà nước cũng đã có một số cố gắng giải quyết các vấn nạn môi trường và liên quan đến sông nước. Tôi có thể kể ra một thành công trong vòng 50 năm nay là đã thiết kế, cải tạo lại hai hệ thống kênh lớn, thứ nhất là hệ thống Kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè, có sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới. Thứ hai là hệ thống Kênh Tàu Hủ Bến Nghé. Đồng thời hiện giờ một số con kênh ở khu vực trước đây gọi là Tân Bình, Tân Phú, hoặc những nơi xa hơn, hoặc là ở quận 6, ngay khu vực chợ Bình Tây có những con kênh trước đây bị lấp nay đã được khơi lại. Trong vài năm trở lại đây đã bắt đầu có những công trình thiết lập các cống để xả nước kịp thời khi có triều cường. Tuy nhiên phải nói rằng các nhà khoa học của thế giới cũng đã báo động cho Việt Nam không chỉ về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, mà toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam là một nước sẽ phải hứng chịu những tác động rất lớn của biến đổi khí hậu. Khu vực đã được báo động sẽ bị ảnh hưởng rất là nặng nề là Cần Giờ, Nhà Bè, Phú Mỹ Hưng, là nơi mà tiếp giáp với biển. Tôi thấy có điểm tích cực là các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, với các trường đại học ,cũng đã bắt đầu đẩy mạnh nghiên cứu, lên tiếng yêu cầu chính quyền có những giải pháp tốt hơn. Ngoài ra còn có một dự án là Kênh Xuyên Tâm, băng ngang từ phía Tây Nam lên phía Đông Bắc xuyên qua thành phố. Nếu nhìn trong toàn cảnh thì chúng ta chưa làm được nhiều và cần có sự hỗ trợ. Cũng đã có nhiều cuộc hội thảo mà nước ngoài tham gia, với mong muốn là thúc đẩy ( các dự án ). Đương nhiên là những chương trình đó cần một kinh phí lớn, nhưng điều quan trọng là dư luận xã hội cũng đã rất quan tâm. Báo chí cũng đã lên tiếng và trong chương trình hành động của chính quyền thành phố mà bây giờ được mở rộng ra, bao gồm cả Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu, có những dấu hiệu cho thấy phải xúc tiến càng nhanh càng tốt.” Về sự hỗ trợ của nước ngoài, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho rằng có những kinh nghiệm của nước Pháp về môi trường, về trị thủy có thể áp dụng được cho Sài Gòn. Ông hy vọng nước Pháp có thể hỗ trợ nhiều hơn cho Việt Nam và kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học Pháp cũng như nhà khoa học người Việt sống tại Pháp.
Nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến vừa cho ra mắt cuốn sách mới về lịch sử Sài Gòn, thành phố mà sự hình thành và phát triển vẫn gắn liền với con sông Sài Gòn và cả một hệ thống kênh rạch. Cuốn sách tựa đề Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước đưa độc giả trở về cội nguồn của Sài Gòn, từ lâu đã là nơi buôn bán phồn thịnh nhờ thế mạnh sông nước, từng là thủ đô Liên Bang Đông Dương, rồi Quốc Gia Việt Nam, từng được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Ngoài cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, Trần Hữu Phúc Tiến còn là tác giả của những cuốn sách khác về Sài Gòn và Đông Dương xưa, như Sài Gòn không phải ngày hôm qua ( 2016 ), Sài Gòn hai đầu thế kỷ ( 2017 ), Kiến trúc Pháp-Đông Dương, những viên ngọc quý tại Hà Nội ( 2021 ), Du lịch Đông Dương xưa ( 2224 ), Kiến trúc Pháp Đông Dương, dấu tích Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông ( 2025 ). Sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước, do Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, ấn hành, bao gồm 3 chương và phần phụ lục, với hơn 312 trang. Phần mở đầu trích dẫn các nhận xét của người xưa trong và ngoài nước từ về vẻ đẹp cảng thị và phố thị của Sài Gòn. Sách giới thiệu nhiều hình ảnh, bản đồ tư liệu sưu tầm công phu từ nhiều nguồn, trong đó có hình ảnh do tác giả chụp ở nhiều năm tháng khác nhau. Tác giả là người sinh trưởng tại Sài Gòn, thuở nhỏ đã thấy thành phố nguy nga lớn mạnh bên sông biển, kinh rạch. Lớn lên được học Sử và làm báo, tác giả có thêm cơ hội học hỏi các thời kỳ phát triển của thành phố, đồng thời khám phá các chốn phố phường, chợ búa, bến tàu, học đường và nhiều công trình di sản. Theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, "dòng sông Sài Gòn không phải là dòng sông khuất nẻo mà là dòng sông vươn ra biển lớn, dòng sông sinh thành cảng thị và phố thị đông vui, thu hút tinh hoa xa gần". Công sức lớn lao của người Việt từ thế kỷ 17 đến nay đã làm nên Sài Gòn, một kinh đô lịch lãm và kiều diễm. Thông qua nhiều chi tiết cụ thể, cuốn sách Sài Gòn Kinh Đô Sông Nước điểm lại quá trình hình thành các thế mạnh của Sài Gòn từ sông biển, địa linh, nhân kiệt, đến kinh tế, dịch vụ, công nghiệp, đào tạo. Đặc biệt với sự mở rộng của thành phố, tác giả chú trọng giới thiệu các tiềm năng về kinh tế biển và kinh tế di sản. Thế nhưng, giống như nhiều đô thị lớn đang trong cơn sốt bùng nổ dân cư và kinh tế, thành phố này cũng đang đối mặt với biến đổi khí hậu, ô nhiễm, lũ lụt, đòi hỏi nhà nước phải có những giải pháp cấp bách cũng như dài hạn. Trả lời RFI Việt ngữ nhân dịp sang Paris để giới thiệu sách của ông, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến trước hết cho biết, từ trước khi được người Pháp xây dựng thành một thành phố hiện đại, Sài Gòn đã là một chốn phồn hoa đô hội: “Sài Gòn Kinh Đô có nghĩa là Sài Gòn trong lịch sử đã từng là thủ đô, là thủ phủ, là trung tâm không chỉ của Nam Bộ, mà là của cả nước. Kinh Đô Sông Nước có nghĩa là một đại cảng thị, một đại phố thị lớn mạnh bên dòng sông Sài Gòn và đặc biệt vị trí của Sài Gòn là rất gần biển và nối kết với khu vực miền Đông Nam Bộ, cũng như miền Tây Nam Bộ, nối kết với miền Nam Đông Dương, rồi ra biển để đi đến với thế giới. Thật sự là từ thế kỷ 17, với công sức của người Việt Nam khai phá các miền đất mới, vai trò của Sài Gòn như là một trung tâm kinh tế, giao thương, phồn hoa đô thị rất là lớn. Trước khi người Pháp đến, Sài Gòn đã được hình thành như một trung tâm lớn và đặc biệt là từ 1788 - 1790, Sài Gòn đã được Chúa Nguyễn Ánh, sau này là Vua Gia Long, đặt tên là Gia Định Kinh, có nghĩa là Kinh Đô Gia Định. Ngay vào thời điểm đó thì một số chuyên gia Pháp đã giúp Nguyễn Ánh - Gia Long thiết kế Sài Gòn như là một thành phố kết hợp yếu tố phương Đông với yếu tố phương Tây, đặc biệt là coi trọng vị trí cảng thị của Sài Gòn. Khi vào xâm chiếm Việt Nam, người Pháp đã hiện đại hóa Sài Gòn kế thừa những sự phát triển sẵn có của Gia Định Kinh và người Pháp tổ chức những quy hoạch xây dựng rất là bài bản, rất là chuyên nghiệp, để thành phố này không những là một trung tâm về giao thương, mà đặc biệt còn là một trung tâm về giao thông và dịch vụ.” Vậy thì từ bao giờ thành phố Sài Gòn bắt đầu được mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông, nhà nghiên cứu Phúc Tiến giải thích: “Theo chúng tôi tìm hiểu, lúc đó người Pháp coi như là chỉ mới quản trị chủ yếu là phần Nam Bộ, Nam Kỳ, sau này họ mới phát triển ra toàn miền Bắc, rồi cả Đông Dương. Nhưng lúc đó họ đã đặt kế hoạch phát triển kinh tế, trong đó vấn đề giao thông có một mũi nhọn trên thế giới lúc đó cũng bắt đầu phát triển lớn mạnh đó là đường sắt. Vào năm 1881, thị trưởng Pháp của Sài Gòn Jules Blancsubé khi trả lời báo chí đã nói rằng người Pháp muốn phát triển hệ thống đường sắt xuyên Đông Dương từ Sài Gòn ra đến miền Bắc và đi đến đến Nam Trung Hoa, rồi có thể mở ra phía Lào, phía Cam Bốt, rồi các nước Đông Nam Á lục địa. Nếu hệ thống đường sắt này mà được hình thành thành công, thì Sài Gòn, với cảng Sài Gòn, sẽ có thêm vị trí quan trọng, có nghĩa là hàng hóa của nguyên khu vực Nam Trung Quốc và khu khu vực Đông Nam Á sẽ đổ về cảng Sài Gòn để mà xuất khẩu đi các nước. Ngược lại thì những hàng hóa từ các nước cũng từ Sài Gòn theo đường sắt, đường bộ, đường sông để mà ra với các nước trong khu vực. Và do vậy, ông nói, lúc đó Sài Gòn sẽ trở thành một Hòn Ngọc Viễn Đông. Tôi cho rằng là lời tiên đoán đó vào năm 1881 thực sự đã thể hiện một chiến lược quy hoạch kinh tế lớn lao và người Pháp lúc đó đã nhìn thấy được thế mạnh sông nước của Sài Gòn. Sau này, sang đầu thế kỷ 20, chúng ta thấy không chỉ có đường sắt, mà đường hàng không cũng phát triển và bây giờ nhìn toàn cục thì chúng ta có thể thấy là chữ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông đã được mở rộng từ vấn đề kinh tế sang vấn đề kiến trúc, văn hóa, giáo dục, con người. Bây giờ thì từ Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông sang thế kỷ 20, sang thời kỳ trước 75, đã trở thành một tên gọi thân yêu để cho thấy một thành phố không những đẹp về mặt mỹ quan, đẹp về sự duyên dáng, yếu tố Đông Tây kết hợp, mà còn đẹp vì thế mạnh của nó, về kinh tế, đẹp về tinh thần cởi mở hội nhập quốc tế. Từ thời còn là Kinh Đô Gia Định ( 1789-1802 ), Thủ đô Liên bang Đông Dương ( 1887-1902 ), cho đến Thủ đô Quốc gia Việt Nam ( 1949-1955 ) và thủ đô Việt Nam Cộng Hòa ( 1955-1975 ), Sài Gòn luôn luôn là “đầu máy hùng mạnh” về nhiều mặt của cả nước, không chỉ về kinh tế, mà còn tiên phong cả về văn hóa - xã hội trong nhiều thời kỳ, theo ghi nhận của tác giả Trần Hữu Phúc Tiến. Đó chính là nhờ thế mạnh về sông nước của thành phố này: “Ngược dòng lịch sử thì chúng ta biết sông Đồng Nai là một hệ thống sông rất lớn, song song với hệ thống sông Tiền và sông Hậu, tức là hệ thống sông Mekong. Hai hệ thống sông này lại có một cầu nối là Sài Gòn. Hay nói cách khác là giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ thì Sài Gòn lúc nào cũng nằm ở trung điểm và Sài Gòn lại được xây dựng bên dòng sông Sài Gòn, một chi lưu của hệ thống sông Đồng Nai. Có thể có gần 200 km bắt đầu từ Tây Ninh rồi đi qua Bình Dương, đi qua Đồng Nai rồi xuống Sài Gòn để thoát ra được cửa biển. Trước ngày 1 tháng 7 năm 2025, đoạn sông đó đi qua diện tích lãnh thổ của Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh hơn 80 cây số. Và điều rất quan trọng là nó đi ra cửa biển Cần Giờ. Cửa biển Cần Giờ là khoảng hơn 20 cây số bờ biển. Nhưng sau ngày 1 tháng 7 năm 2025, với sự hợp nhất Sài Gòn với Bình Dương và Vũng Tàu - Bà Rịa, thế mạnh sông biển của Sài Gòn gia tăng rất lớn. Chỉ tính riêng về bờ biển thì bây giờ Sài Gòn có gần 400 km bờ biển và đặc biệt là có Côn Đảo bây giờ thuộc về siêu đô thị này. Và thêm nữa là hơn 100.000 km2 thềm lục địa, mà chúng ta biết là về thềm lục địa Biển Đông, trong ngành dầu khí họ nói là có hai vùng trũng là vùng Nam Côn Sơn và vùng Mekong, thì Sài Gòn nằm rất gần khu vực gọi là Nam Côn Sơn. Thế thì riêng về mặt kinh tế biển, thành phố đã phát triển. Đương nhiên người Pháp khi đến Việt Nam năm 1858, với tầm nhìn của một đế chế công nghiệp, họ nhận ra tài nguyên của Sài Gòn không phải là hàng hóa, mà là vị trí thuận lợi để giao thương kết nối được nhiều miền. Đặc biệt họ đưa ra tầm nhìn là Sài Gòn thuộc về khu vực Nam Đông Dương, nói cách khác chính là Đông Nam Á. Tôi còn nhớ là trong nhật ký của một sĩ quan Pháp tham gia trận đánh vào Sài Gòn năm 1859, ông này có ghi rằng vị trí Sài Gòn không khác gì Batavia, nay là Jakarta của Indonesia, như là Singapore hay là Hồng Kông và nó có những điểm độc đáo riêng. Chính vì vậy, theo nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến, một trong những mũi nhọn kinh tế mà người Pháp xây dựng ở Sài Gòn không phải là công nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất hàng hóa, mà điều rất quan trọng là dịch vụ. Trong quyển sách, tác giả kể ra đến 6 ngành, gọi là 6 “cổ máy không khói” của Sài Gòn từ thời Pháp: Thứ nhất là hàng hải, bao gồm sửa chữa tàu biển và hải cảng. Thế mạnh thứ hai là giao thương, tổ chức thương mại, chế biến nông sản để xuất ra nước ngoài. Thứ ba là một trung tâm tài chính, vì đương nhiên là xuất khẩu thì phải cần có sự trợ giúp của ngân hàng, bảo lãnh tín dụng, vân vân…Ngay từ cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã là một trung tâm tài chính, với khá nhiều ngân hàng quốc tế cũng như các hãng bảo hiểm đóng tại Sài Gòn và hình thành một khu phố tài chính. Thế mạnh thứ tư là về viễn thông. Ngay trung tâm thành phố, ngay bên cạnh nhà thờ Đức Bà, có nhà bưu điện rất lớn, rất đẹp và đã được coi là kiến trúc nhà bưu điện đẹp thứ hai trên thế giới. Thế mạnh viễn thông của Sài Gòn thì phải nói rất là sớm. Năm 1865, 1870, người Pháp đã bắt đầu thiết lập đường điện tín cáp quang để liên thông giữa Sài Gòn với Paris, nối cáp dưới dưới biển đi qua Singapore và sau đó làm đường ngược lên Hồng Kông để liên thông với cả khu vực châu Mỹ. Kế đến là hệ thống giao thông vận tải, Sài Gòn có đủ phương tiện, từ đường bộ, đường sắt, rồi đường biển, đường thủy. Cái độc đáo của Sài Gòn lúc đó là người Pháp đã tổ chức những đội tàu, không những đi dọc theo bờ biển để đi ra Hải Phòng, đi ra phía Bắc, mà còn làm hệ thống tàu thuyền để chở khách đi khắp đồng bằng sông Cửu Long, rồi đi lên được cả Phnom Penh, thậm chí là đến được cả Bangkok. Ngay cả bây giờ, đường thủy lên Phnom Penh và đường thủy lên Bangkok, chúng ta vẫn chưa thực hiện lại được đầy đủ. Đặc biệt là khi ngành hàng không thế giới ra đời và được đẩy mạnh sau chiến tranh thế giới thứ nhất, sân bay Tân Sơn Nhất đã được xây dựng từ năm 1914. Lúc đó người Pháp đã gom ba làng là Tân Sơn Nhất, Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Tam để làm sân bay rất lớn, phục vụ cho đến thế kỷ 21. Một thế mạnh nữa của Sài Gòn: Đây là trung tâm về khoa học, đào tạo, với những trường dạy nghề đầu tiên cũng như Viện Pasteur. Nơi mà chúng ta hay gọi là Sở thú còn có tên là Sở bông, vì còn là nơi ươm trồng những giống cây mới. Kể cả cây cao su ở Việt Nam cũng chính là đã được trồng thử nghiệm ở Sài Gòn. Sài Gòn dù không phải là một cảng biển, chỉ là cảng sông, nhưng dòng sông thì sâu. Tại vị trí ở quận 1 đối diện với Thủ Thiêm, độ sâu nhất là khoảng 40 m và khoảng cách giữa hai bờ Thủ Thiêm và bến Bạch Đằng, ở khu vực Nhà Rồng là khoảng 300 m, nên tàu bè đi vào rất là thuận tiện, có tới hai ngã đường sông từ Cần Giờ vào. Tàu thuyền các nước trên đường đi từ Singapore qua hoặc là đi từ Hồng Kông xuống thì ghé lại Sài Gòn để lấy hàng, đồng thời lấy nước ngọt, lấy thêm nhân lực. Chính những điều đó đã giúp cho Sài Gòn phát triển và những thế mạnh này lại tiếp tục xuyên suốt thế kỷ 20 và bây giờ bắt đầu phải được đẩy mạnh hơn trong thế kỷ 21.” Thế nhưng, cũng chính do có vị trí gắn liền với sông và biển, cùng với quá đô thị hóa quá nhanh mà lại thiếu quy hoạch chặt chẽ, bây giờ thêm tác động của biến đổi khí hậu, Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh nay lại phải đối đầu với tình trạng ngập lụt thường xuyên. Chính quyền của thành phố đang đối phó ra sao, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho biết: “Tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện giờ nhà nước cũng đã có một số cố gắng giải quyết các vấn nạn môi trường và liên quan đến sông nước. Tôi có thể kể ra một thành công trong vòng 50 năm nay là đã thiết kế, cải tạo lại hai hệ thống kênh lớn, thứ nhất là hệ thống Kênh Nhiêu Lộc Thị Nghè, có sự trợ giúp của Ngân hàng Thế giới. Thứ hai là hệ thống Kênh Tàu Hủ Bến Nghé. Đồng thời hiện giờ một số con kênh ở khu vực trước đây gọi là Tân Bình, Tân Phú, hoặc những nơi xa hơn, hoặc là ở quận 6, ngay khu vực chợ Bình Tây có những con kênh trước đây bị lấp nay đã được khơi lại. Trong vài năm trở lại đây đã bắt đầu có những công trình thiết lập các cống để xả nước kịp thời khi có triều cường. Tuy nhiên phải nói rằng các nhà khoa học của thế giới cũng đã báo động cho Việt Nam không chỉ về Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, mà toàn bộ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Việt Nam là một nước sẽ phải hứng chịu những tác động rất lớn của biến đổi khí hậu. Khu vực đã được báo động sẽ bị ảnh hưởng rất là nặng nề là Cần Giờ, Nhà Bè, Phú Mỹ Hưng, là nơi mà tiếp giáp với biển. Tôi thấy có điểm tích cực là các nhà khoa học từ các viện nghiên cứu, với các trường đại học ,cũng đã bắt đầu đẩy mạnh nghiên cứu, lên tiếng yêu cầu chính quyền có những giải pháp tốt hơn. Ngoài ra còn có một dự án là Kênh Xuyên Tâm, băng ngang từ phía Tây Nam lên phía Đông Bắc xuyên qua thành phố. Nếu nhìn trong toàn cảnh thì chúng ta chưa làm được nhiều và cần có sự hỗ trợ. Cũng đã có nhiều cuộc hội thảo mà nước ngoài tham gia, với mong muốn là thúc đẩy ( các dự án ). Đương nhiên là những chương trình đó cần một kinh phí lớn, nhưng điều quan trọng là dư luận xã hội cũng đã rất quan tâm. Báo chí cũng đã lên tiếng và trong chương trình hành động của chính quyền thành phố mà bây giờ được mở rộng ra, bao gồm cả Bình Dương và Bà Rịa Vũng Tàu, có những dấu hiệu cho thấy phải xúc tiến càng nhanh càng tốt.” Về sự hỗ trợ của nước ngoài, nhà nghiên cứu Trần Hữu Phúc Tiến cho rằng có những kinh nghiệm của nước Pháp về môi trường, về trị thủy có thể áp dụng được cho Sài Gòn. Ông hy vọng nước Pháp có thể hỗ trợ nhiều hơn cho Việt Nam và kêu gọi sự tham gia của các nhà khoa học Pháp cũng như nhà khoa học người Việt sống tại Pháp.
Đêm trăn trở nghe câu hò “Biển mặn”Chốn quê nghèo dù biển cạn vẫn còn mưaHọc nữa đi em cho đời “bớt mặn”Học mãi nghe em cho mắt mẹ sáng ngờiĐó là những câu thơ được chắt ra từ tận đáy lòng, cũng là lời tâm tình tha thiết của thầy giáo Đặng Văn Bửu – Giáo viên trường THCS Hưng Phong, tỉnh Vĩnh Long. Những câu thơ mộc mạc nhưng đã neo lại trong tâm trí bao thế hệ học trò ở một cù lao nghèo xã nhỏ. Trên mảnh đất cù lao còn lắm những nhọc nhằn, gian khó ấy, câu chuyện về ông giáo ngoài ngũ tuần với chiếc nạng gỗ chai sạn dấu thời gian đã trở thành biểu tượng sống động cho sự tận tụy, cống hiến và một tình yêu lớn lao về hành trình gieo chữ.
Dân gian Nam Bộ có câu: “ngước mặt lên trời thấy cò bay lả lướt, cúi mặt xuống đồng đã thấy nhay nháy cá tôm”. Câu nói đã toát lên vẻ trù phú của vùng đất phương Nam cuối dòng Mekong hùng vĩ.
Từ tuổi thơ nhiều thiếu thốn, một chàng trai trẻ đã lựa chọn cách trả ơn cuộc đời bằng hành trình gieo mầm yêu thương cho những đứa trẻ có hoàn cảnh giống mình năm xưa. Đó là Thạch Ngọc Hải, sinh năm 2002, người sáng lập Dự án Cho em, Hải còn là tấm gương sáng về lòng nhân ái, nghị lực và tinh thần cống hiến vì cộng đồng. Mời quý vị cùng theo dõi những chia sẻ từ Thạch Ngọc Hải và hành trình sống tử tế của anh.
On 19 July 2025, China began construction on a 60,000-megawatt hydropower project at Medog, with three times the output of Three Gorges and roughly the UK's entire annual power production. This is a 1.2-trillion-yuan investment (USD 170 B) that Beijing frames as clean energy and development. It is located in southeast Tibert, and only 30km upstream of India. Delhi hears strategic risk. Tibetans see cultural erasure. And over 100 million people downstream are wondering who controls their tomorrow.Today, we are joined by Brian Eyler and Palmo Tenzin. Brian is the Director of the Stimson Center's Southeast Asia and Energy, Water and Sustainability programs. He is widely recognised as a leading voice and expert on transboundary water-energy-food nexus security issues in the Mekong River basin, having spent more than 15 years living and working in China. He is the co-lead on the Mekong Dam Monitor, an award-winning open-source platform providing near-real-time monitoring of dams and environmental impacts along the Mekong.Palmo is an Advocacy Officer and Senior Researcher for the International Campaign for Tibet. Her research specialises in Chinese politics and contemporary Tibet, Sino-Tibetan relations and Asia-Pacific security. Before working at the ICT, Palmo held a position working in the Australian government and the Australian Strategic Policy Institute. She is the author of the report published in December 2024 titled, ‘Chinese Hydropower: Damning Tibet's Culture, Community and Environment', which she has presented at the UN Human Rights Council in March, the European Parliament in May and most recently at World Water Week in Sweden.The International Risk Podcast brings you conversations with global experts, frontline practitioners, and senior decision-makers who are shaping how we understand and respond to international risk. From geopolitical volatility and organised crime, to cybersecurity threats and hybrid warfare, each episode explores the forces transforming our world and what smart leaders must do to navigate them. Whether you're a board member, policymaker, or risk professional, The International Risk Podcast delivers actionable insights, sharp analysis, and real-world stories that matter.Dominic Bowen is the host of The International Risk Podcast and Europe's leading expert on international risk and crisis management. As Head of Strategic Advisory and Partner at one of Europe's leading risk management consulting firms, Dominic advises CEOs, boards, and senior executives across the continent on how to prepare for uncertainty and act with intent. He has spent decades working in war zones, advising multinational companies, and supporting Europe's business leaders. Dominic is the go-to business advisor for leaders navigating risk, crisis, and strategy; trusted for his clarity, calmness under pressure, and ability to turn volatility into competitive advantage. Dominic equips today's business leaders with the insight and confidence to lead through disruption and deliver sustained strategic advantage.Tell us what you liked!
Dans cet épisode, nous vous emmenons au Cambodge.Situé au cœur de l'Asie du Sud-Est, le Cambodge est un pays fascinant mêlant héritage historique, paysages exotiques et temples majestueux. Le Cambodge séduit aussi par la beauté de ses rizières, ses villages flottants et les sourires chaleureux de sa population.Siem ReapSi vous décidez [de réaliser un circuit au Cambodge: https://www.selectour.com/cambodge/circuit et que vous vous demandez par où commencer, nous vous conseillons de débuter par Siem Reap.Démarrez par les temples d'Angkor qui datent du XIIe au XIVe siècle. Concentrez l'attention sur Angkor Thom, avec la porte sud et la chaussée des géants, le temple-montagne du Bayon, l'imposant Baphûon, la Terrasse des Éléphants et la Terrasse du roi Lépreux, sans oublier Ta Prohm, Angkor Vat et le musée national. Allez à la rencontre des artisans et visitez la ferme de la soie. Restez pour le dîner spectacle, le Cambodian Circus, rendez-vous incontournable et solidaire. BattambangPromenez-vous à pied au travers des ruelles et de ces bâtiments historiques, mais également le long de la rivière entre architecture Khmer et ambiance coloniale. Découvrez Ponleu Selpak, le lieu originel sur lequel a été préparé le Cambodian Circus. Profitez d'un moment d'échange avec ces jeunes artistes et participez aux cours avec eux le temps de la visite de cette école. Phnom PenhCapitale du Cambodge, c'est un lieu d'effervescence animé. Visitez le temple du Wat Phnom, lieu de légende et de prière. Baladez-vous sur la promenade animée de Sisowath Quay le long du Mekong. Profitez aussi d'une promenade en tuktuk électrique pour un parcours guidé à travers l'histoire de Phnom Penh. Puis visitez le musée Tuol Sleng, ancien lycée et surtout lieu de détention pendant la période du régime de Pol Pot des Khmer Rouges.KampotCapitale mondiale du poivre, vous trouverez des plantes essentielles de fermes biologiques très réputées. Vous pourrez vous balader au cœur des plantations, mais également découvrir les méthodes de production et déguster les poivres et épices de Kampot.Extension balnéaire : Koh Rong SanloemSi vous souhaitez prolonger ce circuit de 11 jours au Cambodge, nous vous proposons de partir à Koh Rong Sanloem pour une extension balnéaire de 3 jours. L'île de Koh Rong, très préservée, est encore peu connu des touristes. C'est une très jolie plage de sable blond, où il y a un petit resort avec tout le confort nécessaire pour profiter d'un moment de détente en bord de plage.Pourquoi voyager au Cambodge ?Le meilleur argument que nous pourrions vous donner, c'est de ne pas tarder. Dans les années à venir, les temples vont être fortement fréquentés. Comme c'est une région très culturelle, nous ne sommes pas sur des fréquentations aussi lourdes que ce qu'on peut identifier sur certains sites balnéaires. Mais pour autant, c'est le bon moment pour s'y rendre.Si vous souhaitez en savoir plus sur la destination et, pourquoi pas, préparer votre prochain [circuit au Cambodge: https://www.selectour.com/cambodge/circuit, n'hésitez pas à faire appel à nos [experts: https://www.selectour.com/agent/recherche?postalCode=&city=&favoriteDestination=KH&page=1] !À bientôt dans le cockpit !Hébergé par Ausha. Visitez ausha.co/politique-de-confidentialite pour plus d'informations.
Những ngày này, khi cả nước đang hướng về đồng bào các tỉnh chịu ảnh hưởng bởi bão lũ, người dân miền Tây cũng đang góp sức bằng những hành động thiết thực, sẻ chia từng phần nhỏ bé nhưng chan chứa yêu thương. Từ những tấm lòng hảo tâm ấy, tinh thần “lá lành đùm lá rách” lại một lần nữa được lan tỏa mạnh mẽ - để tình người nơi miền sông nước Cửu Long mãi dạt dào, ấm áp. Sau đây, mời quý thính giả cùng nghe chia sẻ của anh Phương Tấn Đạt, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ học sinh, sinh viên TP Cần Thơ về hoạt động ý nghĩa này.
Sau thời gian kiên trì lai tạo, anh Trần Văn Phục, ngụ xã Cù Lao Dung, TP. Cần Thơ đã thành công và cho ra đời một thương hiệu mới: mận hồng Sân Tiên. Không chỉ ngon, sạch mà sản phẩm này còn được các chuỗi trái cây cao cấp bao tiêu toàn bộ, dù sản lượng mỗi năm đã lên tới hàng trăm tấn. Mô hình sản xuất này đươc kỳ vọng sẽ mở ra hướng đi bền vững cho nông dân địa phương.
Dù mang trong mình khiếm khuyết do di chứng bại liệt từ thuở nhỏ, anh Dương Quí Nghĩa ở phường Long Xuyên, tỉnh An Giang đã không đầu hàng số phận. Từ những chiếc gáo dừa tưởng chừng vô tri, anh đã thổi hồn sáng tạo thành hàng chục sản phẩm thủ công mỹ nghệ độc đáo. Hơn cả một sinh kế, đó là hành trình nghị lực, vượt lên nghịch cảnh để khẳng định giá trị bản thân và truyền cảm hứng sống cho những người trẻ hôm nay.
When we think about flashpoints between India and Pakistan, most people picture borders, bombs, or Kashmir. But the most strategic weapon in South Asia today may not be nuclear—it's water.The Indus Water Treaty has been called one of the world's most successful peace agreements, surviving wars, nuclear standoffs, and decades of political hostility. But in April this year, India suspended the treaty after a terrorist attack in Kashmir, effectively threatening to choke off the lifeline of Pakistan's agriculture and economy. For the first time in 65 years, the Indus—an ancient river system that sustains over 250 million people—has been turned into a tool of coercion.This is more than a regional spat. It's a live experiment in how climate stress, nationalism, and security fears can dismantle one of the last bastions of cooperation between nuclear rivals. And if water becomes a weapon here, what does it mean for other fragile river basins—the Nile, the Mekong, the Jordan—where upstream states already hold the cards?Today, I'm joined by Professor Ashok Swain, UNESCO Chair on International Water Cooperation and Head of Peace and Conflict Research at Uppsala University. He has authored and edited 20 books and more than 150 journal articles, and he is also the Founding Editor-in-Chief of the peer-reviewed journal Environment and Security, published by Sage. He has also served as a consultant on environmental and development issues, advising various international organisations, including UN agencies, OCSE, NATO, EU, IISS, the Arab League and Oxfam, as well as the governments of Sweden, the Netherlands, the United Kingdom and Singapore. Few people understand more about how rivers can both unite and divide nations. His work spans transboundary water politics, climate security, and conflict dynamics, and he has been one of the most vocal critics of India's suspension of the Indus Water Treaty.The International Risk Podcast brings you conversations with global experts, frontline practitioners, and senior decision-makers who are shaping how we understand and respond to international risk. From geopolitical volatility and organised crime, to cybersecurity threats and hybrid warfare, each episode explores the forces transforming our world and what smart leaders must do to navigate them. Whether you're a board member, policymaker, or risk professional, The International Risk Podcast delivers actionable insights, sharp analysis, and real-world stories that matter.Dominic Bowen is the host of The International Risk Podcast and Europe's leading expert on international risk and crisis management. As Head of Strategic Advisory and Partner at one of Europe's leading risk management consulting firms, Dominic advises CEOs, boards, and senior executives across the continent on how to prepare for uncertainty and act with intent. He has spent decades working in war zones, advising multinational companies, and supporting Europe's business leaders. Dominic is the go-to business advisor for leaders navigating risk, crisis, and strategy; trusted for his clarity, calmness under pressure, and ability to turn volatility into competitive advantage. Dominic equips today's business leaders with the insight and confidence to lead through disruption and deliver sustained strategic advantage.Tell us what you liked!
Giữa lòng thành phố Cần Thơ, có một tiệm vẽ áo dài khiến bất kỳ ai ghé qua cũng không khỏi ngạc nhiên và khâm phục. Tại đây, những tà áo dài đơn sơ qua bàn tay khéo léo của họa sĩ khuyết tật Trần Hùng Bảo đã được khoác lên họa tiết tinh tế, sáng tạo. Mỗi chiếc áo hoàn thành đã góp phần lan tỏa câu chuyện nghị lực phi thường của người họa sĩ tài hoa này.
Is the awe-inspiring open ocean or an undulating river calling your name? Today's cruise ships are floating realms where each sunrise leads to a new adventure. From cozy thermal spas to adrenaline-pumping slides, there are cruise amenities for every kind of traveler.In this episode, Traveling with AAA host Angie Orth welcomes cruise super-fan and travel journalist Meena Thiruvengadam to reveal the latest trends in cruising in 2025 and beyond. With nearly 20 sailings under her belt, she's here to decode what's next at sea, along rivers, and in ports.You'll learn about chef-driven dining, mood-boosting wellness sanctuaries, next-gen technology, and bucket-list itineraries ranging from Antarctica to the Mekong. You'll also hear about smaller expedition-style ships that put passengers closer to nature, proving that the new era of cruising can be immersive, intimate, and luxurious. What You'll Learn:05:00 Why cruising really has something for every style of traveler12:30 Game-changing shipboard tech 20:15 What it's really like to cruise Antarctica 27:45 How to choose between big-ship thrills and small-ship intimacy35:10 Emerging destinations and next-wave trendsConnect with Meena Thiruvengadam:Website: https://travelwithmeena.com/Instagram: https://www.instagram.com/meenathiruCTA: What cruise destination or amenity are YOU most excited about? Tell us in the comments! Connect with AAA:Book travel: https://aaa-text.co/travelingwithaaa LinkedIn: https://www.linkedin.com/company/aaa-auto-club-enterprisesInstagram: https://www.instagram.com/AAAAutoClubEnterprisesFacebook: https://www.facebook.com/AAAAutoClubEnterprises
Nằm ở vùng cực nam Việt Nam, là khu vực then chốt về sản xuất nông nghiệp của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản, nhưng những năm gần đây đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), đã phải chuyển đổi nông nghiêp để thích nghi với tình hình nước mặt và đất bị mặn xâm nhập. Đây cũng là giai đoạn đồng bằng sông Cửu Long phải tìm hướng biến nước mặn từ là kẻ thù phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế, thành nguồn tài nguyên để khai thác, trong bối cảnh nhiều nơi không còn phù hợp để trồng lúa. RFI tiếng Việt phỏng vấn tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Tác hại của tình trạng mặn đối với sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, hiện nay như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra diện tích canh tác lúa thì có giảm, bởi vì những vùng ven biển duyên hải đó hiện nay thì gần như không còn phù hợp cho chuyện trồng lúa, nên tổng diện tích về canh tác lúa có giảm. Nhưng mà tổng sản lượng lúa cho cả đồng bằng sông Cửu Long thì không giảm nhiều, bởi vì những vùng mà trước đây chúng ta lấn ra ngoài biển để cố canh tác lúa thì không phải là những vùng trọng điểm để sản xuất lúa, năng xuất lúa cũng không cao, nên không ảnh hưởng lớn đến tổng sản lượng lúa của cả đồng bằng sông Cửu Long. RFI tiếng Việt : Đài báo phương Tây thường khi nói đến tình trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long thì thường nói đến thiệt hại hay là ảnh hưởng, tác động đối với sản xuất lúa nước của Việt Nam, và họ cho rằng có rất nhiều tác hại, nhưng theo như tiến sĩ vừa nói thì những tác hại đối với ngành trồng lúa nước là không quá đáng kể … Tiến sĩ Dương Văn Ni : Tôi muốn lưu ý thứ nhất là thường thường người ta đưa tin theo một xu thế. Ví dụ như nói rằng 2/3 đồng bằng sông Cửu Long này sẽ chìm dưới mực nước biển trong 100 năm tới. Tất cả những chuyện này dựa trên cơ sở dữ liệu trong quá khứ và sử dụng các mô hình toán để dự đoán cho tương lai. Về mặt khoa học không có gì sai, nhưng mà về mặt thực tiển thì chúng ta thấy rõ ràng là chuyện đó còn tùy thuộc vào một yếu tố nữa, đó là sự điều chỉnh của con người, điều chỉnh từ chính sách cho đến điều chỉnh loại cây trồng vật nuôi của người dân. Cái này cần phải được tính tới và thường thường trong những mô hình hay là trong những kế hoạch thì chúng ta không tính tới những chuyện này. Thành thử nói là 100 năm nữa 2/3 đồng bằng này chìm dưới mặt nước biển chỉ là một giả định. Từ giả định đó người ta mới suy ngược lại là 2/3 diện tích mà chìm dưới mực nước biển thì đâu còn bao nhiêu diện tích để trồng lúa nữa. Nhưng mà trong thực tế chúng ta thấy rõ ràng, ví dụ như năm 2015-2016, thiệt hại về lúa do mặn xâm nhập bất chợt mà người ta không biết trước thì thiệt hại khoảng nửa triệu ha. Trong 500.000 hecta đó thì thiệt hại lúa rất là nặng nề, bởi vì người ta không có tinh thần chuẩn bị, bấy lâu nay người ta thấy rằng đầy đủ nước mưa, đầy đủ nước ngọt, do đó người ta cứ tiếp tục trồng lúa nhưng mà đùng một cái mặn nó lên nhiều quá, người ta trở tay không kịp. Nhưng mà rõ ràng là từ những năm 2016 đến nay, và cụ thể nhất là giai đoạn 2020-2022 mặn không thua gì những năm 2015-2016, nhưng mà thiệt hại về lúa gần như không đáng kể nữa, bởi vì người dân ta đã có kinh nghiệm rồi. Và chính quyền địa phương và các ngành chức năng người ta cũng thấy rằng không nên ép người dân phải trồng lúa vào những vùng không phù hợp để trồng lúa nữa. Thế nên tôi cho rằng sự điều chỉnh của con người kịp thời là sẽ giúp giảm các tác hại đó. Mình không nên suy diễn rằng 2/3 diện tích đồng bằng này chìm dưới mực nước biển thì sản lượng lúa sẽ giảm 2/3 tương ứng. Cái đó thì thật ra không đúng. RFI tiếng Việt : Vậy nông dân trồng lúa của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay thích nghi với tình trạng mặn như thế nào ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người dân sống ven theo biển thì chúng ta cần chia ra làm ba giai đoạn. Dễ thấy nhất là giai đoạn từ năm 1975 cho đến khoảng năm 1990. Trong giai đoạn này, người ta cố gắng trồng lúa bằng mọi giá để có nguồn lương thực. Trồng lúa không tính lời lỗ, mà trồng lúa như là một nhu cầu bắt buộc để có cái ăn. Còn từ năm 1990 tới về sau này đó, đặc biệt là từ giai đoạn 1990-2015 thì người ta bắt đầu biết tính lời lỗ, có nghĩa là trồng cây lúa như thế nào để cho có lời. Sau hạn mặn khốc liệt của năm 2015 - 2016, thì nhiều diện tích được đánh giá là không còn khả năng sản xuất lúa có hiệu quả kinh tế nữa, nên người dân không trồng lúa nữa và chuyển qua cây trồng vật nuôi khác thích nghi với mặn hơn. Sau năm 2016 cho đến nay thì đối với những diện tích mà người dân cảm thấy là trồng lúa không có lời nữa thì người ta cố trồng lúa nữa. Nhìn chung, về chuyện thích nghi đó, thì có thất bại, có trả giá thì mới có bài học, và người dân mình đã có những cái bài học như vậy. Do đó, người ta biết được những chỗ nào nên làm và chỗ nào không không nên làm nữa. Thứ hai nữa là trong những năm gần đây, so với những mặt hàng khác thì giá gạo không tăng và thậm chí còn có xu hướng giảm, làm cho hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa lại càng thấp hơn so với những hoạt động sản xuất khác, góp phần khiến người ta cân nhắc chuyện tiếp tục trồng lúa trên mảnh đất của mình hay là phải đổi cây trồng vật nuôi khác. RFI tiếng Việt : Vậy chủ trương của nhà nước hiện nay ra sao ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về chủ trương thì đó là một định hướng lâu dài của nhà nước. Tôi muốn nêu 2 mốc thời gian hết sức quan trọng. Thứ nhất là năm 2017, nghị quyết 120 ra đời, rất nhiều người gọi đây là một nghị quyết thuận thiên. Lý do là lần đầu tiên trong lịch sử ở trong văn bản được ghi một cách rất là cụ thể là coi nước mặn, nước lợ và nước lũ đều là tài nguyên. Còn trước đó, đối với đồng bằng và đối nền sản xuất của mình, thậm chí trong tất cả những chính sách của mình thì nước mặn hay là nước lũ đều là kẻ thù, phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế. Cái quan trọng thứ hai là từ cái khái niệm đó, mình đã có một bản đồ quy hoạch tích hợp về phát triển đồng bằng sông Cửu Long từ đây cho tới năm 2050 để thích nghi với biến đổi khí hậu. Và trong bản đồ tích hợp đó, lần đầu tiên chúng ta áp dụng luật quy hoạch để hoạch định ra một chính sách dài hạn cho chuyện sử dụng đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long. Trước đó, chúng ta có nhiều quy hoạch mà phần lớn là quy hoạch nhỏ lẻ theo địa phương, hoặc là quy hoạch theo ngành, hoặc là quy hoạch theo vùng, theo lãnh vực, nhưng không tích hợp tất cả mục tiêu lại với nhau. Trong quy hoạch tích hợp đó, người ta chia đồng bằng này theo 3 vùng dựa vào chất lượng nước. Vùng thứ nhất là vùng nước mặn, ưu tiên cho những sản xuất phù hợp với nước mặn. Vùng thứ hai là vùng nước lợ, có đặc điểm là trong mùa mưa có thể có nước ngọt, và trong mùa nắng có thể có nước mặn, nên chúng ta chọn cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện như vậy. Và vùng thứ 3 là vùng nước ngọt. Đây là vùng trọng điểm để sản xuất lúa hay lương thực. Tôi nghĩ rằng về mặt pháp lý thì nhà nước đã định hình rất rõ và có một định hướng từ đây tới năm 2050 cũng rất cụ thể cho các vùng miền. Vấn đề còn lại là làm thế nào để người dân và chính quyền địa phương, ở những cấp thấp nhất, ví dụ cấp xã cấp huyện, tiếp cận được với những khái niệm khoa học hoặc những chính sách được hỗ trợ đó, để người ta biết vận dụng cái đó vào trong sản xuất và quản lý. Tôi cho rằng đó mới là vấn đề quan trọng. Có một nghị quyết rất là hay hoặc là một bản đồ quy hoạch rất là tốt, nhưng không đi vào thực hiện được thì nó cũng không có giá trị gì. RFI tiếng Việt : Đối với những vùng bị mặn đó, theo tiến sĩ thì đâu là những loại vật nuôi hay cây trồng phù hợp hơn để thay cho cây lúa ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chuyện chọn cây trồng vật nuôi phù hợp cho vùng mặn như thế nào thì chúng ta phải hoàn toàn tính toán từ góc độ thị trường và góc độ người sử dụng. Chẳng hạn như trong 5 năm vừa qua, chúng tôi có làm một chương trình là đầu tiên chọn vùng đất không còn khả năng để trồng lúa nữa bởi vì muối đã tích lũy trong đất quá nhiều rồi, chúng tôi chọn một vài loại cây phù hợp cho vùng đất này. Cụ thể là chúng tôi chọn loại cỏ mọc rất là nhiều trước đây, trước khi đồng bằng được khẩn quang để chuyển sang trồng lúa hay nuôi tôm. Khi chuyển qua trồng lúa, nuôi tôm, người ta diệt hết loại cỏ đó. Chúng tôi đem loại cỏ đó phục hồi và trồng lại, cây đó tiếng địa phương ta kêu là cây năn tượng. Ngoài chuyện cải tạo đất, cải tạo môi trường thì chúng tôi sử dụng nguyên liệu từ loại cỏ đó để phát triển những ngành hàng về thủ công mỹ nghệ, giúp cho những người dân địa phương có được công ăn việc làm tại nhà. Người ta có được nguồn nguyên liệu tại chỗ và người ta bán được sản rồi mua lại gạo để ăn. Và điều này đó chắc chắn hơn rất là nhiều so với chuyện trồng lúa. Trồng lúa bấp bênh, có thể là năm trúng năm thất, mặc dù trồng lúa nhưng mà lại có những năm không đủ gạo ăn. Nhưng mà bây giờ trồng cỏ thì lại luôn có gạo ăn. Như vậy rõ ràng chuyện mà bấy lâu nay chính sách gọi là an ninh lương thực của chúng ta chỉ chăm chăm vào chuyện phát triển diện tích trồng lúa, nhưng rõ ràng lương thực không phải chỉ có lúa gạo. Lương thực có nhiều cách làm và có nhiều con đường để chúng ta có đủ lúa gạo mà ăn chứ không phải lúc nào cũng phải trồng lúa mới có gạo mà ăn. RFI tiếng Việt : Như tiến sĩ vừa mới nói, thì nước mặn, nước lợ hay nước lũ hoàn toàn có thể là tài nguyên. Vậy thì trong những năm vừa qua, để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu thì Việt Nam và cụ thể là đồng bằng sông Cửu Long đã có những hành động, những chương trình cụ thể gì để biến nước mặn, nước lũ, nước lợ thành tài nguyên ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chúng ta có một nghị quyết thuận thiên, một bản quy hoạch, một bản đồ phân vùng rất cụ thể, vùng nào ưu tiên nước mặn, vùng nào ưu tiên nước lợ, vùng nào ưu tiên nước ngọt ... Nhưng điểm yếu là chúng ta không có những cái triển khai cụ thể. Tôi lấy ví dụ là nếu chúng ta xem nước mặn cũng là một tài nguyên, vậy thì bây giờ đó chúng ta phải có một nguồn kinh phí để hỗ trợ những nhà khoa học ở các viện, trường để họ tập trung vào chuyển những giống cây con thích nghi với nước mặn, để xây dựng quy trình sản xuất, để rồi chuyển giao quy trình sản xuất đó cho người nông dân và người nông dân mới bắt tay vô sản xuất, mới tạo ra được một hàng hóa lớn cho nhân dân chẳng hạn. Cái đó chúng ta vẫn thiếu. Tôi mong rằng là với một ví dụ mà chúng tôi đã làm trong mấy năm nay, tại vùng không trồng lúa được thì chúng ta có thể trồng cỏ và sử dụng cỏ đó để làm tiểu thủ công nghiệp và giúp cho người dân có ngành nghề tại chỗ rồi bán người có thu nhập rồi chẳng hạn người dân lấy tiền mua lại gạo để ăn … Bây giờ không phải là trồng những cái cây ăn được mới gọi là trồng là gọi là nông nghiệp. Tôi trồng cỏ, nhưng mà tôi trồng cỏ thì người dân vẫn có gạo ăn. Và thậm chí có gạo ăn tốt hơn là người ta tự trồng lúa. Tôi tin rằng đó sẽ là tiền đề để cho người ta thấy rằng chuyện mà chúng ta nói nước lũ, nước lợ, nước mặn là tài nguyên không phải chỉ là chúng ta nói trên giấy mà chúng ta đã có những mô hình thực tiễn rồi, và như vậy tôi mong rằng trong tương lai từ mô hình thực tiễn đó chúng ta có thể mở rộng ra cho những vùng khác. RFI tiếng Việt : Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long có nhận được sự hỗ trợ về nghiên cứu khoa học của các cơ quan tổ chức khoa học trên thế giới về chống biến đổi khí hậu, chống mặn ? Tiến sĩ Dương Văn Ni : Có, trong giai đoạn chúng tôi xây dựng những mô hình để xác định vùng khó khăn nhất không còn trồng lúa được, coi mức độ mặn như thế nào để chọn loại cây trồng phù hợp và xây dựng kế hoạch để đào tạo nghề cho người dân nông thôn … thì đến năm 2023 chúng tôi được chính phủ Úc tài trợ khoảng 550.000 đô la Úc để mở rộng mô hình này. Và hiện nay nhiều địa phương và doanh nghiệp cũng đang nhờ chúng tôi xây dựng cho họ những vùng trồng, xây những làng nghề … Tôi mong rằng chuyện kết hợp một cách hài hòa và thực chất giữa người nông dân, giới làm nghiên cứu rồi đặc biệt là các doanh nghiệp để đưa ra những mô hình thực tiễn, và từ mô hình thực tiễn đó chúng ta rút ra được những bài học tổng quát và sử dụng những bài học tổng quát đó để hình thành những chính sách và định hướng lâu dài cho các khu vực. Được như thế thì tôi cho rằng chúng ta đang bắt đầu đi đúng hướng.
Chinese Foreign Minister Wang Yi will chair the tenth Lancang-Mekong Cooperation Foreign Ministers' Meeting in southwest China. The Chinese Foreign Ministry says Beijing hopes the main meeting will help enhance regional stability.
Episode #377: “Myanmar is a source of inspiration everywhere! This is me speaking directly to friends in Myanmar, that they should understand that they are the source of inspiration, and the source of ideas and reflections, to a level that they don't recognize, because there are a lot of reflections going on in the corners of Vietnam, Cambodia, Laos, that are not there on media.” Tee is a Vietnamese activist devoted to regional peacebuilding, and is particularly connected to Myanmar. His solidarity is deeply personal, not about grand gestures but about sharing in the struggles of his friends. As he says, “I am from Vietnam... but I think my identity is much more connected to being a Southeast Asian.” Tee draws parallels between Myanmar's struggle for democracy and Vietnam's history of resistance. Looking at the present situation, he notes how Myanmar's revolutionary forces are not just resisting military rule; they are building a future with fair power-sharing and inclusion of ethnic minorities—ideas that resonate deeply with activist communities across Southeast Asia. Tee critiques Vietnam's role in Myanmar's crisis, particularly through the country's telecom giant, Viettel. This company maintains close and supportive relations with the Myanmar military through its Burmese subsidiary, Mytel, thereby undermining the democratic movement and complicating life for the Burmese people. Tee also addresses migration issues across the Mekong region, in particular, the recent lack of empathetic response in countries like Thailand. He bemoans the erosion of any collective memory regarding the regional solidarity Southeast Asian countries once felt during the colonial and post-colonial eras. Despite these challenges, Tee remains hopeful. He emphasizes that Myanmar's struggle inspires people across the region, even if that impact is not always visible. “Solidarity right now is a big word and it has become a buzzword. But go down to the essence of solidarity, and it's really just about being there. The solidarity that I have with my friends is simply that they were the friends I met after the coup in Myanmar.”
VOV1 - Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và Bộ trưởng Ngoại giao Thái Lan sẽ đồng chủ trì Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Mekong - Lan Thương (MLC) lần thứ 10 tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc vào ngày 15/8/2025.
Come glide down the muddy Mekong river in Vietnam with staff writer Chin Liang, and discover the scents, scenes and sweetness of coconut candy and a river boat ride. Visit a bee farm for a honey treat and feel what it's like to have royal jelly massaged on your hands. Join us as we venture into the serene beauty of the Mekong Delta in Vietnam, leaving behind the hustle of Ho Chi Minh City for a day filled with exploration and indulgence. In this episode, we accompany senior writer Chin Liang on a captivating trip that highlights the region's lush landscapes, vibrant culture, and delightful flavors. From the sun-dappled orchards bursting with tropical fruits to the tranquil boat rides across the chocolate-hued river, every moment is a sensory experience. We visit a bee farm to enjoy honey tea and learn about the benefits of royal jelly, and witness the process of making coconut candy at a local factory. As we navigate through narrow canals and vibrant celebrations at the Grand Vinh Trang Pagoda, we are reminded of the importance of slowing down and savoring the simple joys that the Mekong has to offer.Chin Liang TehTeh Chin Liang is a long-time travel journal contributor to Dave's Travel Corner and Global Travel Insider. Besides travel journals, he loves writing prose and poetry. When he is not writing, he enjoys reading and traveling to get inspiration for his writing. He lives in Penang, Malaysia, a scenic island city that is also a UNESCO heritage site.Mentioned in this episode:Check out the new Smart Travel Podcast.This week's show is supported by the new Smart Travel Podcast. Travel smarter — and spend less — with help from NerdWallet. Check out Smart Travel at the Link below:Smart Travel Podcast
Welcome to Art is Awesome, the show where we talk with an artist or art worker with a connection to the San Francisco Bay Area. In this week's Episode, Emily features a discussion with artist Pao Houa Her. Pao's exhibit, 'The Imaginative Landscape,' showcases her exploration of the Hmong community's history and culture through photography and art. The artist details her inspiration from family stories, her travels back to Laos, and her work's focus on themes like home, community, and deception. They also discuss Pao's background, including her education and achievements, and her desire to tell visual stories that resonate with the Hmong community. About Artist Pao Houa Her:Pao Houa Her was born somewhere in the northern jungles of Laos. She fled Laos with her family when she was a baby, crossed the Mekong on her mother's back, was fed opium to keep from crying, lived in the refugee camps in Thailand and landed in America on a silver metal bird in the mid 1980s. She is a visual artist in Minnesota who works within multiple genres of photography. Her received her BFA from the Minneapolis College of Art and Design and her MFA from Yale University. Visit Pao's Website: PaoHHer.comFollow Pao on Instagram: @PaoHouaHerFor more about Pao's Exhibit: "The Imaginitive Landscape" - San Jose Museum of Art and John Michael Kohler Arts Center--About Podcast Host Emily Wilson:Emily a writer in San Francisco, with work in outlets including Hyperallergic, Artforum, 48 Hills, the Daily Beast, California Magazine, Latino USA, and Women's Media Center. She often writes about the arts. For years, she taught adults getting their high school diplomas at City College of San Francisco.Follow Emily on Instagram: @PureEWilFollow Art Is Awesome on Instagram: @ArtIsAwesome_Podcast--CREDITS:Art Is Awesome is Hosted, Created & Executive Produced by Emily Wilson. Theme Music "Loopster" Courtesy of Kevin MacLeod (incompetech.com)Licensed under Creative Commons: By Attribution 4.0 LicenseThe Podcast is Co-Produced, Developed & Edited by Charlene Goto of @GoToProductions. For more info, visit Go-ToProductions.com
Since the Covid-19 pandemic, cyber scams have surged across the Mekong region. Abandoned casinos and hotels have been turned into “scam compounds” serving as bases for romance scams, fake call centres, Ponzi schemes, and voice-phishing operations. These schemes have tricked hundreds of people to transfer money into mule accounts.But the problem goes far deeper. Criminal networks are profiting from tax evasion, smuggling, and large-scale embezzlement. In 2024, Vietnamese billionaire Truong My Lan was sentenced to death (since converted to life in prison) for embezzling $12 billion from the Saigon Commercial Bank.But what's driving the rise in financial crime across Southeast Asia? And what connects these cases?
Bienvenue dans notre rendez-vous hebdomadaire : le Club de C'est pas du vent. Des journalistes spécialistes de l'environnement, de RFI et d'ailleurs, reviennent sur les sujets environnementaux qui les ont marqués et partagent les coulisses de leur travail. L'occasion aussi de commenter les reportages produits par les vidéastes du réseau ePOP et les actions des Clubs RFI. Avec Audrey Garric, journaliste environnement au Monde nous parle de la baisse des émissions de gaz à effet de serre qui marque le pas en France, avec les chiffres 2025, le rapport du Haut Conseil pour le climat Thuy Duong Nguyen (service vietnamien) sur la salinisation du delta du Mekong, dans le sud du Vietnam, une des régions du monde les plus menacées par le changement climatique Simon Rozé (service environnement) sur la réunion de l'Onu à Séville (qui s'est tenue la semaine dernière) sur le financement du développement Géraud Bosman (service environnement de RFI) revient sur une étude australienne financée par The Metals Company qui confirme les impacts de l'exploitation minière des fonds marins. Chronique ePOP / (RFI Planète Radio/IRD) de Caroline Filliette Avec Alice Bauchat (Bolivie) pour son film « La sécheresse s'amplifie en Amazonie» Chronique culture de Caroline Filliette sur le Festival Avignon. Musiques diffusées pendant l'émission - TriggerFinger - I follow rivers - Brian Sigu - Dudu.
Join Jonathan Abro on the fifth of our Vietnam Travelogue series. This week he wanders along the Mekong river and tries more delicious food. Tune in to 'The Lunch Break' on RNIB Connect Radio every weekday from 12 noon to 1pm for more Travelogues. Image shows the RNIB Connect Radio logo. On a white background ‘RNIB' written in bold black capital letters and underline with a bold pink line. Underneath the line: ‘Connect Radio' is written in black in a smaller font.
Hãy mang TRUYỀN THỐNG nối liền với THỊ TRƯỜNG. @ Mekong Startup Forum 2024Đăng ký theo dõi Cấy Nền Radio: https://www.youtube.com/c/CayNenRadio-------------------------------ツ Kết nối với Cấy Nền Radio:► Tik Tok: https://www.tiktok.com/@caynenradio► Fanpage Facebook: https://www.facebook.com/caynenradio► Youtube duy nhất: https://www.youtube.com/@CayNenRadio► Spotify: https://bit.ly/CayNenRadio_Spotify ► Linkedin: https://www.linkedin.com/company/caynenradio► Group Facebook: https://www.facebook.com/groups/CayNenRadio/✔ Bản quyền Video thuộc về CẤY NỀN RADIO | Không re-up dưới mọi hình thức.Mọi vấn đề về bản quyền xin liên hệ:☞
Die Freundschaftsbrücke führt über den mächtigen Mekong und verbindet Thailand mit Laos. Hier beginnt Lorenz Schröter seine Reise, kurz vor seinem 65. Geburtstag und fast vierzig Jahre nach seiner Weltumradlung will er es noch einmal wissen und fährt mit dem Fahrrad in Richtung China über die wichtigste und längste Straße von Laos, die Nationalstraße 13. Vorbei an Reisfeldern, buddhistischen Tempeln, Tümpel mit Wasserbüffeln, Autowerkstätten und Garküchen. Die Straße passiert die Hauptstadt Vientiane und führt nach Luang Prabang, dem spirituellen und touristischem Zentrum des Landes mit seinen berühmten Tempeln und Nachtmarkt. Die ersten 400 Kilometer sind asphaltiert, dann nehmen die Schlaglöcher zu, die 13 wird zu einer breiten Stein- und Lehmpiste, die sich über die mit Wäldern bewachsenen Berge schlängelt. Kautschukplantagen und Bananenfelder verdrängen mehr und mehr den Urwald, in denen noch ein paar hundert Tiger, Elefanten und das geheimnisvolle Saola, eine Antilope, leben. Westlich liegt das Goldene Dreieck, immer noch ein wichtiges Anbaugebiet für Opium. Chinesen investieren im Land, sie übernehmen Fabriken, Plantagen, haben die neue Eisenbahn finanziert, und im Norden an der Grenze zu China eine Sonderwirtschaftszone eingerichtet. Das verschlafene Dorf Boten wurde so zu einer sündigen Boomtown, in dem chinesische Gesetze gelten. Die Nationalstraße 13 ist beliebt bei Langstreckenradlern, fünf hat der Autor unterwegs getroffen, auf deren Reise von Aachen, Warschau und Belgien nach Ost-Timor, China oder Australien. Sie alle suchen das Abenteuer und den besonderen Blick bei 20 km/h an der frischen Luft.
On this episode of Destination on the Left, I talk with John Nguyen, CEO of Heritage Line. In our conversation, John shares his passion for his home in Southeast Asia and describes his luxury cruise line, how he developed it, and how they deliver on unique experiences by going to places that most tour operators cannot access. John describes partnerships that he has built with competing river cruise companies to help develop sustainable practices and facilitate connections between locals and international visitors that make a positive impact. What You Will Learn in This Episode: How John Nguyen overcame losing his sight and used it as inspiration to launch two successful businesses in Southeast Asia's luxury travel sector Why honoring local communities and creating positive impacts in the destinations he visits is central to John's business philosophy What makes Heritage Line's luxury river cruises unique including access to hidden, off-the-beaten-path villages and authentic guest experiences How John developed partnerships and collaborations to promote sustainable practices and protect the villages visited by river cruises Why relationships, word-of-mouth, and tailored experiences have been fundamental to reaching high-end international travelers and building reputable brands How John and his teams implement philanthropic initiatives such as vocational training and literacy programs to support and empower local communities What inspires John's ongoing projects and new destination explorations, including his process for identifying and creating exceptional travel experiences in emerging regions Adversity to Industry Leader Growing up along the Perfume River in Hue, Vietnam, John was surrounded by a rich culture, history, and a profound sense of place. These early influences fueled his passion for boating and inspired the creation of guest experiences that combine authentic local connections with high-end service. After losing his sight in the late 1990s and faced with the daunting prospect of unemployment, John chose entrepreneurship instead. He launched his first venture, Trails of Indochina, in 1999, even before luxury tourism infrastructure existed in Vietnam. Despite the limited five-star accommodations available at the time, John believed that travelers would value unique, immersive experiences over amenities alone. “I was able to persuade people to stay at just decent hotels, but they got the opportunity to really experience authentic and unique experiences in the region.” This focus on access, storytelling, and local connection formed the foundation for his later river cruise company, Heritage Line. Small Ships with a Big Impact By operating boutique ships with as few as six to 27 cabins, Heritage Line is able to visit secluded villages and rarely accessed corners of the Mekong and other major waterways. This approach not only creates exclusivity for travelers but also preserves the intimacy and integrity of local communities. Guests may visit villages where electricity is a novelty, collaborate with locals on traditional crafts such as textile weaving and wood carving, and support philanthropic projects, including building wells and eradicating illiteracy. Travelers have the opportunity to really learn more about how locals live. Collaboration Over Competition As Southeast Asia's tourism profile has grown, John has witnessed an influx of international operators, some with larger, less community-integrated ships. Rather than seeing them strictly as rivals, John champions “coopetition.” Heritage Line works directly with other cruise companies to build sustainable practices and prevent the negative impacts of overtourism. By coordinating with these “friendly competitors,” John and his peers can spread the benefits of tourism more equitably, develop vocational and philanthropic programs, and ensure that the arrival of travelers enhances rather than disrupts local communities. Notably, Heritage Line has spearheaded projects to provide clean water, vocational training for marginalized groups, and even tackle illiteracy through book donations and mobile libraries. For John, the true essence of travel lies in its ability to forge meaningful, transformational connections. Whether helping a guest donate a sampan (boat) to a family, bringing books to a remote village, or enabling visitors to join local festivals, Heritage Line's experiences go beyond passive sightseeing. Resources: Website: https://heritage-line.com/ LinkedIn: https://www.linkedin.com/company/heritage-line/ We value your thoughts and feedback and would love to hear from you. Leave us a review on your favorite streaming platform to let us know what you want to hear more of. Here is a quick tutorial on how to leave us a rating and review on iTunes!
Tito Barbini"L'amore nell'età grande"Arkadia Editorewww.arkadieditore.itDopo una lunga serie di libri dedicati alla scoperta di terre lontane e personaggi particolari, Tito Barbini affronta il suo viaggio più difficile, quello interiore, nel piacere e nella sofferenza di una relazione d'amore tra un uomo e una donna di età molto diverse. La storia d'amore tra Paolo e Matilde, al di sopra del tempo e dello spazio, si fa paradigma di tutte quelle relazioni in cui la differenza anagrafica potrebbe apparire, a prima vista, un problema incolmabile. Nelle pagine di questo romanzo, in cui ogni capitolo diventa la cartina di tornasole di un rapporto bellissimo e al contempo difficilissimo, si coglie la necessità di raccontarsi, ma anche di dare un senso al trascorrere del tempo, al rispetto reciproco, al tentativo di costruire un futuro condiviso. E, ogni ricordo, aneddoto, storia diventa momento di riflessione. Un intreccio delicato, profondo, ricco di contraddizioni, cadute e risalite. E c'è la giovinezza, incarnata da Matilde, capace di dare nuovo slancio a una vita immaginata sul viale del tramonto. Con una scrittura incisiva, forte, Barbini regala ai suoi lettori una storia dei nostri tempi, fatta di speranza e di crescita.Tito BarbiniEx sindaco di Cortona e per molti anni nel governo della Regione Toscana, oramai da più di venti anni è a tempo pieno un acclamato scrittore di viaggi. I suoi libri, accolti sempre con favore dal pubblico, coniugano storie di luoghi e persone che si intrecciano indissolubilmente. Ha pubblicato Le nuvole non chiedono permesso (2006), Antartide (2008), Caduti dal muro (2009, con Paolo Ciampi), racconto epistolare a metà tra il reportage e la memorialistica, I giorni del riso e della pioggia (2010), sull'itinerario fluviale compiuto in Asia risalendo il Mekong, Il cacciatore di ombre. In viaggio con Don Patagonia (2011), Le rughe di Cortona (2013), Parole in viaggio (2014), L'amico francese (2021), sulla sua amicizia con F. Mitterrand, L'isola dalle ali di farfalla (2020), Il treno non si fermò a Kiev (2022). Per Arkadia Editore ha pubblicato Il fabbricante di giocattoli (2021), Storie di amori e migrazioni sull'isola dalle ali di farfalla (2024) e L'amore nell'età grande (2025).IL POSTO DELLE PAROLEascoltare fa pensarewww.ilpostodelleparole.itDiventa un supporter di questo podcast: https://www.spreaker.com/podcast/il-posto-delle-parole--1487855/support.
WWW.ADVENTUREFREAKSSS.COM ================================= How to work with me: =================================
Francesco Galli Zugaro, CEO of Aqua Expeditions, talks with James Shillinglaw of Insider Travel Report at Seatrade Global in Miami about his innovative collection of luxury river ships and yachts sailing the Amazon Peru, Mekong in Vietnam and seas around Indonesia. Zugaro also explains why he sold a big stake in his company to Ponant Explorations. For more information, visit www.aquaexpeditions.com. All our Insider Travel Report video interviews are archived and available on our Youtube channel (youtube.com/insidertravelreport), and as podcasts with the same title on: Spotify, Pandora, Stitcher, PlayerFM, Listen Notes, Podchaser, TuneIn + Alexa, Podbean, iHeartRadio, Google, Amazon Music/Audible, Deezer, Podcast Addict, and iTunes Apple Podcasts, which supports Overcast, Pocket Cast, Castro and Castbox.
Syria's new rulers pledge to protect minority Alawite community in Latakia after recent attacks. Also: Germany's chancellor loses vote of confidence, and hundreds of new species are found in Mekong in south east Asia.