POPULARITY
Categories
Chcesz zrozumieć, jak wygląda rzeczywistość liderek w IT i skąd czerpią one siłę do tworzenia zmian? Wysłuchaj naszej rozmowy z Anitą Kijanką (twórczynią raportu Strong Women in IT 2025), Barbarą Mierzwińską (GdziePoLek.pl) oraz Oleną Kolikhovą (Campus AI) rozmawiamy na temat trendów, wyzwań i siły kobiet w sektorze technologicznym.Dyskutujemy o tym, co zaskoczyło w tegorocznym raporcie – przede wszystkim ogromna miłość kobiet do technologii i ich zaangażowanie w zmiany, które ona wprowadza. Choć kobiety są beneficjentkami i zarazem kreatorkami technologii, wciąż borykają się z poważnym problemem niewystarczającej reprezentacji (kobiety zajmują ok. 16% stanowisk specjalistycznych w IT).Ważnym i kontrowersyjnym wątkiem jest luka płacowa. Czy kobiety same rezygnują z wyższych zarobków na rzecz "naprawiania świata"? Gościnie stanowczo odrzucają tę tezę, podkreślając, że poczucie misji i chęć wpływu społecznego nie powinny wykluczać równego wynagrodzenia. Co więcej, raport wskazuje, że ten problem jest bardziej nasilony w startupach niż w korporacjach.Rozmówczynie:Anita Kijanka - właścicielka Come Creations Group z wykształcenia doktor nauk społecznych. Na co dzień wkłada swoje serce w komunikację medialną firm zajmujących się najnowszymi technologiami. O rzeczach skomplikowanych mówi przystępnie w kreatywny sposób. Fitness oraz wspinaczka górska to sporty w których zatraca się bez reszty. W wolnym czasie pasjonatka życia, rozmów z ludźmi i sztuki.Barbara Mierzwińska - wiceprezeska platformy oferującej produkty dla zdrowia i urody GdziePoLek.pl oraz mentorką. Absolwentka SGH na kierunkach Finanse i Bankowość oraz Zarządzanie i Marketing, a także programu CEMS Master's in International Management, posiada międzynarodową kwalifikację ACCA. Ma kilkunastoletnie doświadczenie na stanowiskach C-level w e-commerce, sprzedaży, marketingu i doradztwie strategicznym, w międzynarodowych korporacjach i start-upach. Olena Kolikhova - entuzjastka technologii, pasjonatka innowacji i przedsiębiorczości, ekspertka w dziedzinie nowych technologii dla biznesu. Na co dzień Olena działa w Campus AI. Przez ponad 7 lat Olena pracowała w Microsoft jako Head of Startups w Polsce, gdzie doradzała firmom technologicznym w obszarach związanych z nowymi technologiami i rozwojem biznesu, a także współpracowała z kadrą zarządzającą polskich i międzynarodowych korporacji, wspierając je w transformacji cyfrowej.
Chính với nhạc phẩm kinh điển « Jamaica Farewell » (Giã từ Jamaica), Gerard Joling mở màn vòng lưu diễn châu Âu vào mùa thu 2025. Nam danh ca người Hà Lan đã chọn sân khấu làm nơi ăn mừng với giới hâm mộ 40 năm sự nghiệp. Trong số những giai điệu ăn khách của ông, một số bài từng được đặt thêm lời Việt như « Cho em về miền nắng ấm » của nhạc sĩ Phú Quang hay « Lời yêu thương » của tác giả Đức Huy. Năm nay 65 tuổi, Gerard Joling nổi tiếng tại Hà Lan từ giữa những năm 1980, ban đầu như một ca sĩ và sau đó như một người dẫn chương trình truyền hình. Sinh trưởng tại thị trấn Schagen, (phía bắc Hà Lan) cách thành phố Amsterdam hơn 60 cây số, Gerard Joling ban đầu vào nghề sân khấu như một diễn viên múa, xuất hiện trong nhiều video nhạc pop của các nhóm nhạc trẻ ăn khách tại Hà Lan thời bấy giờ như Earth & Fire hay Dolly Dots. Dịp may đến với ông vào năm 1985, nhờ lọt vào vòng chung kết chương trình thi hát SoundMixshow của Henny Huisman, Gerard Joling ký được hợp đồng ghi âm chuyên nghiệp đầu tiên. Tuy không về đầu cuộc thi, nhưng Gerard Joling sau đó lại nổi tiếng hơn cả giọng ca đoạt giải nhất. Hai đĩa đơn ghi âm vào năm 1985, bao gồm « Love Is In Your Eyes » (Tình yêu trong đôi mắt) và « Ticket To The Tropics » (Về miền nắng ấm) giúp cho Gerard Joling từng bước chinh phục hạng nhất thị trường Hà Lan. Bốn năm sau khi thành công tại nước nhà, Gerard Joling thực hiện bước đột phá trên thị trường quốc tế với album phòng thu thứ tư. Tập nhạc « No more bolero's » (1989) thành công lớn tại Hà Lan cũng như ở nước ngoài. Album này đứng đầu bảng xếp hạng tại nhiều nước châu Âu trong nhiều tuần liên tục. Sau khi được mời làm giọng ca đại diện cho Hà Lan nhân Cuộc thi hát Truyền hình châu Âu Eurovision vào năm 1988, Gerard Joling chinh phục thêm thị trường châu Á vào đầu thập niên 1990, trở thành nghệ sĩ Hà Lan ăn khách nhất ở nước ngoài. Nhân một cuộc phỏng vấn gần đây trên kênh truyền hình RTL, Gerard Joling cho biết là tính đến nay anh đã bán được hơn 30 triệu đĩa nhạc, trong đó có một nửa là nhờ vào thành công trên các thị trường châu Á từ cuối những năm 1980. Song song với nghề ca hát, Gerard Joling càng thêm nổi tiếng một thập niên sau đó nhờ dẫn nhiều show truyền hình, hay làm giám khảo trong các cuộc thi tuyển lựa tài năng mới như « Popstars », Giọng ca hay nhất Hà Lan « The Voice Senior of Holland » hay Ca sĩ mặt nạ « The Masked Singer » …Ban đầu khởi nghiệp hát solo, ông còn nổi tiếng nhờ hợp tac với nhiều tên tuổi khác trong làng giải trí : trong đó thành công nhất vẫn là ban nhạc De Toppers được thành lập lần đầu tiên vào năm 2005, cách đây vừa đúng hai thập niên. Khi Gerard Joling hợp tác với hai ca sĩ trứ danh khác là René Froger và Gordon Heuckeroth, kế hoạch ban đầu của họ là tổ chức một đêm nhạc chủ đề với những ca khúc nổi tiếng, ba ca sĩ hát luân phiên, tiếp sức cho nhau và thường chỉ biểu diễn một lần duy nhất trên sân vận động. Thế nhưng trước sự thành công vang dội, vượt ngoài mọi dự đoán, nhóm De Toppers tổ chức biểu diễn ở quy mô lớn thường xuyên hơn. Các đêm nhạc của họ trở thành điểm hẹn hàng năm của giới yêu nhạc nhẹ. Đội hình của nhóm đã thay đổi sau hai thập niên hoạt động và hiện bao gồm Gerard Joling, René Froger, Jeroen Van Der Boom và Jan Smit, chứ không còn có sự tham gia của Gordon Heuckeroth. Mặc dù khá bận rộn với lịch diễn tại châu Âu, nhưng Gerard Joling vẫn sẽ có mặt tại buổi trình diễn của nhóm De Toppers vào mùa Giáng Sinh năm 2025 trên sân vận động thành phố Rotterdam. Trong vòng 40 năm sự nghiệp, Gerard Joling đã ghi âm khoảng 20 album solo và hàng chục album cộng tác với nhiều nghệ sĩ khác. Một trong những tập nhạc hay nhất của ông mang tựa đề « Nostalgia » (Hoài niệm) khi ông thể hiện lại những giai điệu kinh điển trữ tình bằng chất giọng tenor ấm áp du dương của mình. Những bài ca nồng ấm kỷ niệm, từ « Unchained Melody » giai điệu tái sinh cho đến « Love Story» muôn thuở một chuyện tình.
Chính với nhạc phẩm kinh điển « Jamaica Farewell » (Giã từ Jamaica), Gerard Joling mở màn vòng lưu diễn châu Âu vào mùa thu 2025. Nam danh ca người Hà Lan đã chọn sân khấu làm nơi ăn mừng với giới hâm mộ 40 năm sự nghiệp. Trong số những giai điệu ăn khách của ông, một số bài từng được đặt thêm lời Việt như « Cho em về miền nắng ấm » của nhạc sĩ Phú Quang hay « Lời yêu thương » của tác giả Đức Huy. Năm nay 65 tuổi, Gerard Joling nổi tiếng tại Hà Lan từ giữa những năm 1980, ban đầu như một ca sĩ và sau đó như một người dẫn chương trình truyền hình. Sinh trưởng tại thị trấn Schagen, (phía bắc Hà Lan) cách thành phố Amsterdam hơn 60 cây số, Gerard Joling ban đầu vào nghề sân khấu như một diễn viên múa, xuất hiện trong nhiều video nhạc pop của các nhóm nhạc trẻ ăn khách tại Hà Lan thời bấy giờ như Earth & Fire hay Dolly Dots. Dịp may đến với ông vào năm 1985, nhờ lọt vào vòng chung kết chương trình thi hát SoundMixshow của Henny Huisman, Gerard Joling ký được hợp đồng ghi âm chuyên nghiệp đầu tiên. Tuy không về đầu cuộc thi, nhưng Gerard Joling sau đó lại nổi tiếng hơn cả giọng ca đoạt giải nhất. Hai đĩa đơn ghi âm vào năm 1985, bao gồm « Love Is In Your Eyes » (Tình yêu trong đôi mắt) và « Ticket To The Tropics » (Về miền nắng ấm) giúp cho Gerard Joling từng bước chinh phục hạng nhất thị trường Hà Lan. Bốn năm sau khi thành công tại nước nhà, Gerard Joling thực hiện bước đột phá trên thị trường quốc tế với album phòng thu thứ tư. Tập nhạc « No more bolero's » (1989) thành công lớn tại Hà Lan cũng như ở nước ngoài. Album này đứng đầu bảng xếp hạng tại nhiều nước châu Âu trong nhiều tuần liên tục. Sau khi được mời làm giọng ca đại diện cho Hà Lan nhân Cuộc thi hát Truyền hình châu Âu Eurovision vào năm 1988, Gerard Joling chinh phục thêm thị trường châu Á vào đầu thập niên 1990, trở thành nghệ sĩ Hà Lan ăn khách nhất ở nước ngoài. Nhân một cuộc phỏng vấn gần đây trên kênh truyền hình RTL, Gerard Joling cho biết là tính đến nay anh đã bán được hơn 30 triệu đĩa nhạc, trong đó có một nửa là nhờ vào thành công trên các thị trường châu Á từ cuối những năm 1980. Song song với nghề ca hát, Gerard Joling càng thêm nổi tiếng một thập niên sau đó nhờ dẫn nhiều show truyền hình, hay làm giám khảo trong các cuộc thi tuyển lựa tài năng mới như « Popstars », Giọng ca hay nhất Hà Lan « The Voice Senior of Holland » hay Ca sĩ mặt nạ « The Masked Singer » …Ban đầu khởi nghiệp hát solo, ông còn nổi tiếng nhờ hợp tac với nhiều tên tuổi khác trong làng giải trí : trong đó thành công nhất vẫn là ban nhạc De Toppers được thành lập lần đầu tiên vào năm 2005, cách đây vừa đúng hai thập niên. Khi Gerard Joling hợp tác với hai ca sĩ trứ danh khác là René Froger và Gordon Heuckeroth, kế hoạch ban đầu của họ là tổ chức một đêm nhạc chủ đề với những ca khúc nổi tiếng, ba ca sĩ hát luân phiên, tiếp sức cho nhau và thường chỉ biểu diễn một lần duy nhất trên sân vận động. Thế nhưng trước sự thành công vang dội, vượt ngoài mọi dự đoán, nhóm De Toppers tổ chức biểu diễn ở quy mô lớn thường xuyên hơn. Các đêm nhạc của họ trở thành điểm hẹn hàng năm của giới yêu nhạc nhẹ. Đội hình của nhóm đã thay đổi sau hai thập niên hoạt động và hiện bao gồm Gerard Joling, René Froger, Jeroen Van Der Boom và Jan Smit, chứ không còn có sự tham gia của Gordon Heuckeroth. Mặc dù khá bận rộn với lịch diễn tại châu Âu, nhưng Gerard Joling vẫn sẽ có mặt tại buổi trình diễn của nhóm De Toppers vào mùa Giáng Sinh năm 2025 trên sân vận động thành phố Rotterdam. Trong vòng 40 năm sự nghiệp, Gerard Joling đã ghi âm khoảng 20 album solo và hàng chục album cộng tác với nhiều nghệ sĩ khác. Một trong những tập nhạc hay nhất của ông mang tựa đề « Nostalgia » (Hoài niệm) khi ông thể hiện lại những giai điệu kinh điển trữ tình bằng chất giọng tenor ấm áp du dương của mình. Những bài ca nồng ấm kỷ niệm, từ « Unchained Melody » giai điệu tái sinh cho đến « Love Story» muôn thuở một chuyện tình.
Kế hoạch hòa bình cho Gaza của tổng thống Mỹ Donald Trump được các bên xung đột chấp thuận và giai đoạn một đã nhanh chóng được triển khai vào giữa tháng 10/2025. Lần đầu từ kể khi xung đột bùng nổ cách nay hai năm, viễn cảnh hòa bình lâu dài cho Gaza hé mở. Giải giáp lực lượng quân sự của Hamas là đòi hỏi chủ yếu của Israel để tổ chức mà nhiều nước phương Tây coi là « khủng bố » này không còn là mối đe dọa với Nhà nước Do Thái. Tổ chức Hamas không tự nguyện buông súng và để ngỏ khả năng gắn liền vấn đề này với sự ra đời của một Nhà nước Palestine có chủ quyền. Theo giới quan sát, viễn cảnh giải giáp lực lượng Hamas, một nội dung chính trong kế hoạch hòa bình 20 điểm của tổng thống Mỹ, có khả năng thực thi được hay không là một vấn đề còn hoàn toàn để ngỏ. Hamas suy yếu, buộc phải chấp nhận thỏa thuận « hạ vũ khí » Sau khi kế hoạch 20 điểm của tổng thống Mỹ được công bố, chuyên gia về chiến tranh đô thị John Spencer, Học viện Quân sự Hoa Kỳ tại West Point, một người thân cận với thủ tướng Israel Netanyahu, tỏ ra rất tin tưởng vào viễn cảnh thực thi việc tước vũ khí của Hamas: « Kế hoạch 20 điểm được thảo ra là một kế hoạch hòa bình toàn diện, hoàn toàn loại bỏ Hamas khỏi vai trò là một tác nhân. Nếu mọi điểm của kế hoạch đó được tuân thủ thì sẽ không còn Hamas nữa. Hamas sẽ không có vai trò gì trong các nỗ lực chính trị, thậm chí là trong các hoạt động xây dựng xã hội trong tương lai. Điều quan trọng nữa là các quốc gia với đa số là người Ả Rập và Hồi giáo đã ký kết vào kế hoạch này. Đây không phải là một thương vụ để đàm phán, mà là một kế hoạch 20 điểm để thực hiện… Dải Gaza sẽ được phi cực đoan hóa và phi quân sự hóa. Hamas sẽ phải từ bỏ tất cả vũ khí. Chắc chắn kế hoạch này là chiến thắng hoàn toàn của Israel, nhưng cũng phục vụ các lợi ích của người Palestine không thuộc Hamas. Người Palestine sẽ có một chính phủ mới. Sẽ có một chương trình giáo dục giải cực đoan, và thậm chí cả con đường hướng tới quyền tự quyết của người Palestine nói chung. Kế hoạch này mang lại nhiều tiềm năng nhất cho hòa bình, không chỉ cho Gaza mà còn cho người dân Palestine. » Đọc thêm : Israel và Hamas đạt thỏa thuận về giai đoạn đầu trong kế hoạch hòa bình của Trump cho Gaza Tuy nhiên, thách thức của việc thực thi mục tiêu giải giới lực lượng vũ trang Hamas nằm ngay trong các điều khoản của kế hoạch này. Theo nhà nghiên cứu David Rigoulet-Roze, Viện Phân tích Chiến lược Pháp (IFAS), chuyên gia về các cuộc xung đột ở Trung Đông, điều 13 của kế hoạch quy định việc « phi quân sự hóa » bao gồm phá hủy cơ sở hạ tầng quân sự (đường hầm, kho vũ khí và xưởng sản xuất vũ khí), nhưng hiện tại vẫn chưa có thỏa thuận cụ thể về việc giám sát quá trình này. Trong chuyến công du mới đây tại Israel, phó tổng thống Mỹ J.D Vance thừa nhận là không có thời hạn cụ thể cho việc giải giáp Hamas. Sau hai năm chiến tranh, Hamas vẫn là một thế lực Theo giới chuyên gia, hai năm sau khi xung đột bắt đầu, lực lượng Hamas vẫn bám trụ vững chắc ở dải Gaza, mặc dù suy yếu nhiều. Hiện chưa có số liệu thống kê chính xác về tổn thất của phong trào Hồi giáo này. Nhiều nguồn tin đưa ra con số từ 8.000 đến 12.000 chiến binh thiệt mạng trong hai năm chiến tranh, trên tổng số 25.000 đến 30.000 chiến binh Palestine trước vụ khủng bố ngày 07/10/2023. Hamas có thể vẫn tiếp tục tuyển mộ thêm đến 15.000 chiến binh trong thời gian chiến tranh chống Israel, theo một số nguồn tin Mỹ, được trang mạng Bỉ RTL trích dẫn. Theo truyền thông Anh quốc, chỉ vài giờ sau khi lệnh ngừng bắn được thực thi, Hamas đã ngay lập tức triển khai đến 7.000 chiến binh trên những vùng đất mà Israel rút quân. Một số giới chức Hamas cho biết mục tiêu là để bảo đảm an ninh chống lại những kẻ trộm cướp và các băng đảng người Palestine được sự hậu thuẫn của quân đội Israel trước đây. Đọc thêm - Trung Đông : Phe Hamas từ chối cam kết giải giáp Hamas sở hữu một kho vũ khí đa dạng, bao gồm vũ khí hạng nhẹ, hỏa tiễn tự chế và drone thô sơ. Theo ghi nhận năm 2018 của Small Arms Survey, một chương trình nghiên cứu chuyên về vũ khí của Thụy Sĩ, Hamas từ lâu đã phát triển một ngành công nghiệp tại chỗ để sản xuất hỏa tiễn từ các vật liệu dân dụng. Dự trữ vũ khí của Hamas được đánh giá là phân tán, rất khó truy tìm. Sức mạnh Hamas (1) : Hệ thống đường hầm hàng trăm cây số Sức mạnh quân sự của Hamas một phần chủ yếu dựa vào các hệ thống đường hầm nằm sâu trong lòng đất dài hàng trăm cây số, và các đô thị ở dải Gaza được Hamas dày công xây dựng để biến thành các thành lũy khó chinh phục. Chuyên gia về chiến tranh đô thị John Spencer nhận định hệ thống đường hầm quân sự nhưng gắn liền với các công trình dân sự, và hệ thống phòng thủ đô thị nói chung ở Gaza là độc nhất vô nhị : « Hamas cai quản dải Gaza từ năm 2005 đã chi hơn một tỷ đô la cho hệ thống đường hầm phức hợp ước tính dài hơn 350 dặm, dành cho mục đích quân sự, nằm bên dưới các khu vực đô thị của Gaza, bắt đầu từ ngay dưới các tòa nhà cho đến hơn độ sâu khoảng 60 mét dưới lòng đất. Không chỉ đường hầm, mà mọi khía cạnh của môi trường Gaza đã được Hamas chuẩn bị cho chiến tranh trong vòng 20 năm, kể từ khi họ nắm quyền vào năm 2007. Nhưng trước đó nữa, ngay cả trong giai đoạn Israel chiếm đóng dải Gaza (cho đến năm 2005), Hamas đã xây dựng nhiều đường hầm vì mục tiêu quân sự. Đó là một điều rất độc đáo và thực sự độc nhất vô nhị trong lịch sử chiến tranh đô thị. Trong lịch sử, hầu hết các trận chiến đô thị đều là nơi mà bên phòng thủ có rất ít thời gian chuẩn bị. Càng có nhiều thời gian chuẩn bị phòng thủ thì chiến tranh càng kéo dài và càng tàn khốc. Một số trận chiến lớn nhất trong lịch sử chiến tranh đô thị như Stalingrad về cơ bản là giao tranh giữa hai lực lượng quân đội trên địa hình đô thị. Trận chiến đô thị lớn nhất kể từ Đệ nhị Thế chiến II, trước chiến tranh Ukraina, là trận Mosul, một trận chiến kéo dài chín tháng để giành lại thành phố từ tay tổ chức Nhà nước Hồi giáo. Phải huy động đến hơn 100.000 quân, lực lượng an ninh Irak mới giành lại được thành phố (có từ 3.000 đến 5.000 quân cố thủ), vì Daech đã có hai năm chuẩn bị phòng thủ. Trong khi tại thành phố lớn như Gaza, Hamas đã có 20 năm chuẩn bị. Bên dưới mỗi bước chân người đi đường đều có một đường hầm. Về cơ bản, mọi ngôi nhà đều đã được quân sự hóa, hầu hết đều có kho chứa bom, thiết bị nổ tự chế hoặc vị trí bắn tỉa. » Sau hai năm chiến tranh, với khoảng 80% khu vực Gaza bị phá hủy, và 90% vũ khí hạng nặng của Hamas bị tiêu hủy, theo quân đội Israel, Hamas không còn là mối đe dọa trực tiếp với Israel, nhưng 60% của hệ thống đường hầm 500, 600 km vẫn còn nguyên vẹn, theo số liệu của chính Israel. Sức mạnh của Hamas không chỉ ở hệ thống đường hầm quân sự độc nhất vô nhị này, mà một phần chủ yếu nằm ở việc tại dải Gaza, Hamas không có đối thủ cạnh tranh. Theo nhà nghiên cứu Hugh Lovatt, chuyên về Trung Đông và Bắc Phi tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Châu Âu, Hamas không thể sụp đổ, do các nhóm đối địch « không có đủ sức mạnh quân sự để đạt được điều này » và « cũng không có được sự ủng hộ của người Palestine, nhất là khi họ bị mất uy tín do mối quan hệ với Israel ». Sức mạnh Hamas (2): Từ phong trào thuần túy tôn giáo đến bàn tay sắt tại Gaza Về nguồn gốc của tổ chức độc quyền thống trị dải Gaza từ năm 2006, nhà xã hội học chính trị Laetitia Bucaille, Viện INALCO và Trung tâm CESMA, tác giả cuốn « Gaza quel avenir ? » (Tương lai nào cho Gaza ?) vừa ra mắt, nhấn mạnh đến quan hệ với Huynh đệ Hồi giáo, một tổ chức tôn giáo với tham vọng chính trị mang tầm vóc khu vực (Radio France) : « Hamas là từ viết tắt tiếng Ả Rập của Phong trào Kháng chiến Hồi giáo, được thành lập vào cuối năm 1987, thời điểm bắt đầu Intifada lần thứ nhất, tức phong trào phản kháng của người Palestine chống lại ách cai trị của Isarel. Phong trào này là một nhánh chính trị của tổ chức Huynh đệ Hồi Giáo. Chúng ta biết là Huynh đệ Hồi giáo bắt đầu thành lập các mạng lưới hoạt động tại các vùng lãnh thổ Palestine vào cuối những năm 1970, được Ả Rập Xê Út và Koweit tài trợ. Các thế lực này dựa vào việc tái Hồi giáo hóa xã hội để chuẩn bị về dài hạn tái chiếm Palestine. Với họ, chủ nghĩa dân tộc Ả Rập thế tục đã thất bại, và họ tin tưởng lực lượng tiếp nối giúp đạt được mục tiêu này chính là Hồi giáo. » Hamas độc quyền thống trị tại dải Gaza sau cuộc bầu cử năm 2006. Nhà nhân chủng học Đức Susanne Schroter, trong bộ phim tài liệu « Hệ thống Hamas » (của Arte), mô tả « sau chiến thắng bầu cử, họ đã tấn công Fatah, một phong trào chính trị yếu hơn, bằng những hành động cực kỳ tàn bạo. Bắn người tại nơi làm việc, buộc họ phải rời bỏ nhà cửa, trục xuất họ khỏi đất nước. Hamas đã bộc lộ bản chất thật sự của mình và gửi một thông điệp rõ ràng đến người dân Palestine: Không có sự phản đối nào được dung thứ. » Đọc thêm - Điểm lại lịch sử tranh đấu vì độc lập: Từ "20 năm bị xóa sổ" đến Nhà nước Palestine Nhà sử học Đức Ulrik Becker, cũng trong bộ phim tài liệu nói trên, nhấn mạnh đến việc tổ chức Hồi giáo này, trong thời gian độc quyền kiểm soát Gaza, đã truyền bá rộng rãi tư tưởng thánh chiến dân tộc chủ nghĩa chống Israel cho trẻ em, ngay từ trong nhà trường : « Điều tôi thấy bi thảm và đặc biệt khủng khiếp là hệ tư tưởng hiếu chiến và bài Do Thái này đang được gieo rắc vào đầu óc trẻ em từ rất nhỏ. Thật đáng sợ khi thấy ý tưởng hy sinh bản thân vì lý tưởng thánh chiến lại xuất hiện trong sách giáo khoa và trong mọi môn học. Ví dụ, trong môn toán, có những bài tập như, ‘‘chênh lệch giữa số liệt sĩ bị giết trong cuộc Intifada đầu tiên với cuộc Intifada thứ hai là bao nhiêu ?'' hoặc trong môn vật lý, ‘‘dùng ná cao su để nhắm vào người Israel, cần tính toán góc bắn như thế nào'' ». Vòng xoáy hận thù Israel – Palestine: Mảnh đất màu mỡ cho Hamas và quyền lực của Netanyahu Kế hoạch hòa bình 20 điểm cho Gaza của tổng thống Mỹ không xác định rõ lộ trình giải giáp Hamas, không có thời hạn cho việc phi quân sự hóa Gaza. Sau hai năm chiến tranh, bất chấp các tổn thất nặng nề, lực lượng quân sự Hồi giáo dân tộc chủ nghĩa Hamas vẫn còn sở hữu hàng trăm cây số đường hầm, được coi là căn cứ địa vững chắc. Đông đảo người dân Palestine tại vùng đất này, đặc biệt là giới trẻ dường như vẫn tin theo tư tưởng dân tộc chủ nghĩa Hồi giáo chống Israel mà Hamas truyền bá sâu rộng. Chưa kể các hậu thuẫn to lớn từ Qatar hay Thổ Nhĩ Kỳ (xem thêm : Thổ Nhĩ Kỳ và Palestine bàn cách viện trợ nhân đạo cho Gaza không qua Israel, RFI). Làm thế nào có thể giải giới được tổ chức Hamas tại dải Gaza trong những điều kiện như vậy ? Đọc thêm : Hòa bình cho Gaza: Vì sao « kế hoạch » của Trump có nguy cơ đổ bể ? Theo nhiều chuyên gia, để chấm dứt vòng xoáy hận thù miên viễn, cần trở lại cái gốc của vấn đề. Đó là đòi hỏi công nhận một nhà nước Palestine có chủ quyền tại các vùng đất đã được quốc tế nhìn nhận. Cho đến nay, cản trở cho hòa bình đến từ cả hai phía. Chuyên gia về xung đột Palestine – Israel Laetitia Bucaille nhận định : « Kể từ Hiệp định Oslo, Hamas đã cố gắng khẳng định vị thế của mình trên chính trường với tư cách là một đối tác chính trị. Nhưng họ chưa bao giờ trở thành một đối tác như vậy với cả Israel lẫn phương Tây, bởi đòi hỏi trước hết là Hamas phải từ bỏ bạo lực, công nhận Hiệp định Oslo và công nhận Israel. Nhưng rõ ràng, Hamas không muốn thực hiện ba điều kiện này nếu không nhận lại bất cứ điều gì. Vì vậy, họ chưa bao giờ làm được điều đó. » Một số chuyên gia, như nhà nghiên cứu Sébastien Boussois (La Tribune), chỉ trích việc chính quyền Israel của thủ tướng Netanyahu trong một thời gian dài xem việc dung dưỡng Hamas như là một thủ đoạn ngăn cản việc khẳng định một nhà nước Palestine độc lập, góp phần làm tình hình thêm trầm trọng. “Hoà bình bằng vũ lực” hay Chung sống hòa bình ? Việc Israel muốn chấm dứt mối đe dọa Hamas cần gắn liền với việc Tel Aviv công nhận Nhà nước Palestine, đình chỉ việc xâm chiếm các vùng đất Palestine. Trả lời RFI, chuyên gia về Trung Đông, giáo sư Jean-Paul Chagnollaud, chủ tịch Viện Nghiên cứu về Trung Đông – Địa Trung Hải (IReMMO) nhận định : « Nếu có một điều không bao giờ hiệu quả, đó là hòa bình bằng vũ lực. Hành động kiểu này sẽ chỉ tạo ra các lực lượng đối kháng và bạo lực đối kháng. Hòa bình thực sự chỉ có thể được thiết lập khi lợi ích của tất cả các bên được xem xét trong một thỏa hiệp rộng rãi mang tầm vóc lịch sử. Nếu chỉ là hòa bình bằng vũ lực, bằng cách ném bom Liban, ném bom Syria, v.v., chúng ta sẽ có một giai đoạn mà đối phương bị khuất phục, điều không thể phủ nhận được. Nhưng đó chỉ là sự thống trị của kẻ ngạo mạn. Sau đó, một khi khói lửa lắng xuống, người ta sẽ lại phải đối diện với cùng các vấn đề tương tự, nhưng trầm trọng hơn. Đọc thêm - Hòa bình cho Gaza và lợi ích của gia đình Trump : Một công đôi việc Câu hỏi đầu tiên mà chúng ta đặt ra là lệnh ngừng bắn và thỏa thuận đình chiến này sẽ hướng đến điều gì ? Sẽ đi theo hướng thuần túy kinh tế-thương mại như tổng thống Mỹ Donald Trump đã vạch ra ? Hay từ đây chúng ta sẽ nghĩ đến một điều gì khác mang tính toàn thể hơn, như hướng đến thực thi giải pháp hai Nhà nước Israel và Palestine cùng tồn tại ? Đối với tôi, đó là lựa chọn khả dĩ duy nhất. Nhưng hiện tại không có gì là chắc chắn cả. »
– Nowa władza żyje z naszych inwestycji i przecina nasze wstęgi – mówi w Poranku Radia Wnet Kacper Płażyński. Krytykuje stagnację w portach i brak wizji rozwoju polskiej gospodarki morskiej. Polska ma potencjał, by stać się gazowym centrum Europy Środkowej, ale potrzebna jest długofalowa strategia i kontynuacja inwestycji– ocenił poseł Kacper Płażyński (Prawo i Sprawiedliwość) w rozmowie z Radiem Wnet. Jego zdaniem obecny rząd „żyje z inwestycji poprzedników” i zaniedbuje nowe projekty gospodarki morskiej.Nowa ekipa kończy to, co my zaczęliśmy. Często z opóźnieniem, a niektóre ważne projekty po prostu zarzuciła– dodał.Płażyński odniósł się także do inicjatywy prezydenta Karola Nawrockiego „Tak! Dla Polskich Portów”, która jest strategicznym wizją polskiej gospodarki morskiej.Pan prezydent popiera program Prawa i Sprawiedliwości, który my realizowaliśmy od lat. Dziś nowa ekipa po prostu kończy to, co my zaczęliśmy – czasem z opóźnieniem, czasem w ogóle rezygnując z kluczowych projektów– komentuje Płażyński.Odra i Elbląg wstrzymane, porty w zadyszcePoseł PiS przypomniał, że część kluczowych przedsięwzięć infrastrukturalnych, w tym budowa drogi wodnej na Odrze, została zatrzymana. To najtańsza i najszybsza droga transportu cargo do portów. Niestety, rząd nie chce jej realizować, być może pod wpływem tzw. zielonego lobby lub nacisków Niemiec– stwierdził.Według Płażyńskiego, po zmianie władzy polskie porty „złapały zadyszkę”. Choć część inwestycji jest kończona, w 2024 roku po raz pierwszy od dekady spadł ogólny wolumen przeładunków.Wiceminister chwali się wzrostem kontenerów, ale pomija resztę danych. Fakty są takie, że łączny ruch w portach spadł– zaznaczył.W jego ocenie, Elbląg jest przykładem niewywiązania się rządu z obietnic.Zapowiadano 70 milionów złotych na inwestycje w porcie, ale do dziś nie wydano ani złotówki. Tor wodny wciąż niepogłębiony, a do portu wpływają tylko jachty– powiedział parlamentarzysta.Polska szansą dla regionuPłażyński zwrócił uwagę, że Polska może stać się hubem gazowym Europy Środkowej, obsługując dostawy gazu skroplonego z USA i Kataru.Czesi i Słowacy już dziś deklarują chęć współpracy. Od 2028 roku Unia Europejska zakazuje importu rosyjskiego gazu, także skroplonego. Jeśli przygotujemy infrastrukturę, Polska może zarabiać miliardy rocznie– powiedział.Polityk podkreślił, że strategię energetyczną i portową należy planować z wyprzedzeniem.Takie inwestycje buduje się na dekady. Jeśli nie zaczniemy teraz, inni przejmą długoterminowe kontrakty i stracimy szansę– ocenił.Nowe szlaki handlowePłażyński pozytywnie ocenił dopłynięcie do Gdańska pierwszego w historii statku z Chin trasą arktyczną.To wydarzenie symboliczne. Skraca drogę przez Kanał Sueski o połowę i pokazuje rosnącą rolę Gdańska na mapie światowego handlu– podkreślił.Nierównowaga z UkrainąPoseł PiS zwrócił też uwagę na rosnącą obecność ukraińskich przewoźników kolejowych w Polsce i brak wzajemności w dostępie do rynku.Ukraińskie Cargo rozwija działalność w Polsce, podczas gdy nasi przewoźnicy nie są wpuszczani na Ukrainę. To nierówne warunki konkurencji– mówił.Jego zdaniem, jeśli rząd nie podejmie działań dyplomatycznych, PKP Cargo może stracić w najbliższych latach nawet kilkadziesiąt procent udziałów w rynku.Pomoc Ukrainie jest potrzebna, ale w gospodarce trzeba bronić własnych interesów– zaznaczył Płażyński.
Historia Artura Rubinsteina, jednego z najwybitniejszych pianistów XX wieku genialnego pianisty i ambasadora polskiej kultury, którego życie i twórczość wciąż inspirują kolejne pokolenia. Urodził się w 1887 roku w Łodzi. Już jako dziecko zachwycał muzykalnością i słuchem absolutnym. W wieku 6 lat zagrał pierwszy koncert, a nagrodą był kosz czekolady Wedla. Kształcił się w Warszawie i Berlinie, a jako 17-latek ruszył w świat, podbijając Paryż, Hiszpanię i Amerykę Południową. Słynął z interpretacji Chopina i Szymanowskiego, którego był przyjacielem. Choć mieszkał za granicą, zawsze z dumą podkreślał polskie korzenie. Łódź pielęgnuje jego pamięć, organizując coroczny Rubinstein Piano Festival.
Từ tuổi thơ nhiều thiếu thốn, một chàng trai trẻ đã lựa chọn cách trả ơn cuộc đời bằng hành trình gieo mầm yêu thương cho những đứa trẻ có hoàn cảnh giống mình năm xưa. Đó là Thạch Ngọc Hải, sinh năm 2002, người sáng lập Dự án Cho em, Hải còn là tấm gương sáng về lòng nhân ái, nghị lực và tinh thần cống hiến vì cộng đồng. Mời quý vị cùng theo dõi những chia sẻ từ Thạch Ngọc Hải và hành trình sống tử tế của anh.
Small Talk! With Alec Cuenca - Motivation, Inspiration, Pinoy Podcast
In this Small Talk episode, Cho Lim returns to share the hardest season of his life—a moment when life took away his control and forced him to grow. After years of chasing success and avoiding responsibility, he hit a breaking point that didn't just hurt him… it changed him.Cho opens up about the identity crisis he hid, the pain he tried to outrun, and the shift from ego to surrender. He reveals the truth about growth: sometimes you don't choose it—life forces it. From fatherhood to faith, maturity to mindset, he shares how real transformation begins when you finally let go.If you've ever felt lost, overwhelmed, or at the edge of yourself, this episode will remind you: rock bottom can be the turning point.When life forces you to change, it might be saving you.Follow the podcast on IG: @smalltalkpodcasts with @aleccuenca_ and @cholimofficial Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.
W tym odcinku kontynuujemy rozmowę o tym, czym tak naprawdę jest Ajurweda i odpowiadamy na pytania, których wiele osób nie odważa się zadać. Choć mogą wydawać się bardzo podstawowe, w praktyce okazuje się, że wiele osób nie ma tej wiedzy. To nagranie możesz polecić swoim znajomym, bliskim czy sąsiadom, którzy chcą się wreszcie dowiedzieć, czym właściwie jest Ajurweda. Serdecznie zapraszam do posłuchania. Jak zawsze znajdziesz nas w formie podcastu lub możesz obejrzeć rozmowę na YouTube. Notatki do podcastu znajdziesz na stronie:https://agni-ajurweda.pl/321 Październik to idealny moment, żeby zająć się balansowaniem Vaty. Właśnie rozpoczęły się zapisy na bezpłatne 3-częściowe szkolenie online „Klucze do balansowania Vaty”. Zaczynamy już we wtorek 21 października. Tutaj możesz dołączyć: https://webinar.agni-ajurweda.pl/klucze_balansowania_vaty Szkolenie otworzy zapisy do programu Księga Życia dla Vaty: https://kurs.agni-ajurweda.pl/ksiega-zycia-dla-vatyTrwają zapisy na listopadowe warsztaty kulinarne z Michałem „Sezonowość w kuchni ajurwedyjskiej” w dniach 7 - 9 listopada, w Białymstoku. Tutaj znajdziesz wszystkie szczegóły: https://kurs.agni-ajurweda.pl/warsztaty-kulinarne-bialystokJeśli tak jak nas fascynuje Cię podejście Ajurwedy do zdrowia i życia, chciałabyś zgłębiać tę wiedzę w Szkole Ajurwedy, to zapraszam Cię do zapisu na listę osób zainteresowanych kolejną edycją Szkoły. Nie przegap i bądź na bieżąco dzięki liście oczekujących, którą znajdziesz tutaj: https://agni-ajurweda.pl/sa-lo/
Japan's Top Business Interviews Podcast By Dale Carnegie Training Tokyo, Japan
“Listening is easy; listening intently is leadership.” “In Japan, trust isn't a KPI — it's earned through presence, patience, and predictable behaviour.” “Leaders here must be gatekeepers of governance and ambassadors for people, culture, and brand.” “Don't copy-paste playbooks; calibrate the boss, context, and cadence.” “Win hearts first, then heads — only then will ideas and decisions truly flow.” Loïc Pecondon-Lacroix is President and Country Holding Officer (CHO) of ABB Japan, responsible for governance, compliance, and the enabling infrastructure that keeps ABB's Japan entities operating within law, regulation, and internal policy. A French national educated primarily in sales, he built his career as a business controller and CFO across local, regional, and global roles, developing a reputation for process discipline and decision support. Before ABB, he spent a decade in the automotive sector, including senior roles at German powerhouse Mahle, where he moved between France, Germany, China, and Japan. His first Japan posting was as a general manager in the automotive industry; his second brought him back to Tokyo, where — after his spouse's executive opportunity catalysed the move — he was recruited in-market by ABB directly into the CHO role. What makes leadership in Japan unique? Japan is a high-context, consensus-first environment. Leaders must prioritise nemawashi before ringi-sho, invest in psychological safety, and value presence over performative activity. Engagement is not a survey score but an accumulation of trust signalled by consistent behaviour, calibrated communication, and respect for cadence and etiquette. Decision intelligence here blends informal alignment with formal governance so progress sticks rather than bounces. Why do global executives struggle? Many arrive with “fix it fast” mandates, underestimate uncertainty avoidance, and over-rely on imported playbooks. They communicate problems upward without solutions and fail to “manage the boss” — i.e., calibrate global expectations to local timeframes. Skipping nemawashi, they trigger resistance, burn political capital, and misread engagement metrics that don't map neatly across cultures. Is Japan truly risk-averse? It's less risk-averse than uncertainty-averse. Leaders can reduce uncertainty with clearer problem framing, milestones, and prototypes, thereby enabling motion without violating safety and quality norms. The practical move is to de-risk through staged decisions, transparent governance, and strong internal controls — an approach especially congruent with ABB's integrity and compliance culture. What leadership style actually works? Begin with humility and intense listening, then coach. Win hearts before heads, model the behaviours you seek, and make middle managers masters of feedback and retention. Use direct channels (town halls, internal social platforms) to complement cascades. Choose battles, protect cadence, and be explicit about “why this, why now.” Influence beats authority in matrix settings; patience beats bravado. How can technology help? Internal communities and collaboration platforms create lateral flow so ideas don't stall under middle-management “concrete.” Analytics can enrich decision intelligence by signalling hotspots in retention and development. In ABB's domain, digital twins and automation are metaphors for leadership too: simulate options, align stakeholders, then execute with control plans that keep quality and compliance intact. Does language proficiency matter? Fluency helps but isn't decisive. Context literacy — reading air, watching body language, knowing relationship histories — often yields more truth than words alone. Leaders can operate in English while respecting Japanese protocols, provided they invest in nemawashi, maintain constancy, and avoid breaking trust with premature declarations or unilateral moves. What's the ultimate leadership lesson? “Win hearts, then heads.” Authenticity tempered with empathy, disciplined listening, and careful boss-calibration turns culture from obstacle to engine. When people feel safe and seen, they move — applying for stretch roles, sharing ideas, and compounding organisational capability over long cycles. Author Credentials Dr. Greg Story, Ph.D. in Japanese Decision-Making, is President of Dale Carnegie Tokyo Training and Adjunct Professor at Griffith University. He is a two-time winner of the Dale Carnegie “One Carnegie Award” (2018, 2021) and recipient of the Griffith University Business School Outstanding Alumnus Award (2012). As a Dale Carnegie Master Trainer, Greg is certified to deliver globally across all leadership, communication, sales, and presentation programs, including Leadership Training for Results. He has written several books, including three best-sellers — Japan Business Mastery, Japan Sales Mastery, and Japan Presentations Mastery — along with Japan Leadership Mastery and How to Stop Wasting Money on Training. His works have also been translated into Japanese, including Za Eigyō (ザ営業), Purezen no Tatsujin (プレゼンの達人), Torēningu de Okane o Muda ni Suru no wa Yamemashō (トレーニングでお金を無駄にするのはやめましょう), and Gendaiban “Hito o Ugokasu” Rīdā (現代版「人を動かす」リーダー). In addition to his books, Greg publishes daily blogs on LinkedIn, Facebook, and Twitter, offering practical insights on leadership, communication, and Japanese business culture. He is also the host of six weekly podcasts, including The Leadership Japan Series, The Sales Japan Series, The Presentations Japan Series, Japan Business Mastery, and Japan's Top Business Interviews. On YouTube, he produces three weekly shows — The Cutting Edge Japan Business Show, Japan Business Mastery, and Japan's Top Business Interviews — which have become leading resources for executives seeking strategies for success in Japan.
Kościół nie boi się sztucznej inteligencji, ale ostrzega przed jej skutkami. – Będziemy głupsi, jeśli przestaniemy myśleć – mówi w Radiu Wnet ks. Mateusz Szerszeń, redaktor „Któż jak Bóg”.Kościół nie boi się sztucznej inteligencji, ale patrzy na nią z rezerwą, twierdzi gość Radia Wnet.Sztuczna inteligencja to emanacja ludzkiego lenistwa– mówi ks. Mateusz Szerszeń, michalita, redaktor dwumiesięcznika „Któż jak Bóg”. W rozmowie o teologii i technologii ostrzega przed pokusą niemyślenia i utratą odpowiedzialności.Kościół i Dolina KrzemowaSamo pojęcie „sztuczna inteligencja” jest na wyrost. To chwyt marketingowy– zaznacza duchowny.Przypomina, że Kościół z jednej strony zachęca do rozwoju techniki, a z drugiej widzi zagrożenia. Wskazuje też, że nawet naukowcy z Doliny Krzemowej przyznają, iż termin „AI” nie oddaje rzeczywistości.Ks. Szerszeń tłumaczy, że pod nazwą „sztucznej inteligencji” kryją się trzy zjawiska: sieci neuronowe, uczenie maszynowe i duże modele językowe.Problem zaczyna się wtedy, gdy zaczynamy przypisywać komputerowi ludzkie cechy, traktować rozmowę z maszyną jak rozmowę z człowiekiem– zaznacza.Pokusa niemyśleniaOd początku istnienia człowieka towarzyszy nam pokusa niemyślenia. Myślenie boli, wymaga wysiłku. A komputer myśli szybciej. I właśnie dlatego jest to niebezpieczne– mówi duchowny.Jego zdaniem zwolnienie ludzi z myślenia prowadzi do duchowej i intelektualnej degradacji. – Wystarczy odłączyć prąd i ktoś, kto uczył się tylko z czatem GPT, staje się bezradny. Kiedy raz zrywamy to jabłko z drzewa poznania, trudno wrócić – dodaje.Inteligencja to coś więcejKościół, podkreśla ks. Szerszeń, rozumie inteligencję szerzej niż świat technologii.W inteligencji mieści się nie tylko logiczne rozumowanie, ale także wola, zdolność kochania i branie odpowiedzialności. A maszyna nie bierze odpowiedzialności– zaznacza.Duchowny wskazuje na moralne dylematy, jak choćby w przypadku samochodów autonomicznych: kto odpowiada za decyzję maszyny, gdy dochodzi do tragedii?Czy to naprawdę rewolucja?Choć niektórzy mówią o „czwartej rewolucji przemysłowej”, Kościół zachowuje ostrożność.Byłbym sceptyczny wobec słowa „rewolucja”. Coraz częściej widzimy, że sztuczna inteligencja się degeneruje. Systemy wcześniejsze bywały lepsze niż te, które mamy dziś– zauważa ksiądz.Nie lękajcie się technologii– Nie boję się sztucznej inteligencji. Jest dobra i pożyteczna, o ile służy człowiekowi – mówi ks. Szerszeń. Wskazuje na jej pozytywne zastosowania w medycynie i nauce, ale ostrzega przed rozleniwieniem.Będziemy głupsi. Nieumiejętność myślenia spowoduje, że się rozleniwimy. Nawet czat GPT był mądrzejszy rok temu– dodaje z uśmiechem.Cytuje św. Tomasza z Akwinu: „Na świecie jest tylko jeden grzech – głupota.”Po raz pierwszy stworzyliśmy urządzenie, które naprawdę zaczyna nas przypominać– zauważa.Cielesność – ostatnia granicaDla Kościoła prawdziwa granica między człowiekiem a maszyną leży w cielesności.Nie mamy maszyny, która przypominałaby mózg ludzki – żywy, biologiczny, zalewany hormonami. To nasz największy skarb i najlepsza inteligencja– mówi duchowny.To właśnie ciało, jego kruchość i śmiertelność, przypominają człowiekowi o jego duchowym wymiarze. W głębi duszy jesteśmy nieśmiertelni, tylko w to nie wierzymy– dodaje ks. Szerszeń. Zaznacza też, że „poszukiwanie nieśmiertelności na tym świecie nie ma sensu, ale w świecie przyszłym będziemy mieli ciało – zmartwychwstaniemy. To będzie ciało premium – żadna siłownia takiego nie da”.Ludzie przeżyć, nie słowaZdaniem michality religijność XXI wieku stoi przed nowym wyzwaniem.Przestajemy być ludźmi słowa, a stajemy się ludźmi przeżyć. A przecież chrześcijaństwo to religia Słowa– mówi i przypomina: Na początku było Słowo – Logos.
Nepal, Indonezja, Bangladesz, Timor Wschodni, Filipiny, Sri Lanka – te państwa Azji w ostatnim czasie połączyły protesty młodych ludzi. Powody były różne, ale niezadowolenie tak samo silne.W Nepalu, Bangladeszu i Sri Lance młodzi ludzie – głównie z pokolenia Z – wywołali protesty, które doprowadziły do upadku rządów. W Nepalu protesty rozpoczęły się po zakazie mediów społecznościowych, w Bangladeszu – od sprzeciwu wobec niesprawiedliwych limitów zatrudnienia, w Sri Lance – z powodu załamania gospodarki. Wszystkie ruchy cechowały się decentralizacją, cyfrową organizacją (np. przez Discord) i silnym przekazem antynepotycznym. Młodzi wykorzystywali media społecznościowe do mobilizacji, mimo blokad rządowych.Choć przyczyny demonstracji były lokalnie różne, wspólnym mianownikiem stała się frustracja wobec elit politycznych oderwanych od realiów młodego pokolenia, brak perspektyw dla młodych, rosnące nierówności i obrazki luksusu elit w mediach społecznościowych. Eksperci podkreślają, że ruchy te inspirują się wzajemnie i odzwierciedlają pokoleniowy bunt przeciwko systemom, które nie spełniają aspiracji młodych. Protestujący żądają sprawiedliwości społecznej, przejrzystości oraz reprezentacji i nie zamierzają się wycofać.W tym odcinku podcastu rozmawiamy o demonstracjach młodych ludzi w Azji, jak wygląda przemiana pokoleniowa i czego pokolenie Z oczekują od rządzących. A naszym gościem jest prof. Piotr Balcerowicz, filozof, orientalista i kulturoznawca.
Ula Paprocka to biegaczka twardo stąpająca po ziemi i bardzo skromna, dlatego nie ma jej dużo w społecznościówkach i pewnie dla wielu z Was może to być pierwsza okazja, aby dowiedzieć się jaką jest osobą. Choć sama nie dorabia do tego przesadnej ideologii, to łączy bieganie na wysokim poziomie z bardzo wymagającą fizycznie i mentalnie pracą pielęgniarki.Z Ulą rozmawiałem kilka godzin po zakończeniu finału Golden Trail World Series, na którego mecie zameldowała się jako 25-ta kobieta oraz 7-ma open (poza elitą).***Partnerem podcastu jest nowoczesnysport.pl - znajdziecie tu suplementy, akcesoria i urządzenia fitness dla aktywnych fizycznie. Kod zniżkowy "racepace" daje 10% rabatu wszystkim słuchaczom [reklama]Podcast zrealizowaliśmy dzięki Transa-M zajmującej się sprzedażą, serwisem i wypożyczalnią przyczep towarowych i kamperów [reklama]Partnerem odcinka jest Salomon [reklama]
In this episode of the Epigenetics Podcast, we talked with Ryan Corces from the Gladstone Institutes about his work on the impact of chromatin architecture on Alzheimer's and Parkinson's Disease. The discussion begins in discussing he start of Dr. Corces research career and he shares his groundbreaking findings in acute myeloid leukemia (AML), demonstrating how mutations occurring in hematopoietic stem cells lead to the evolution of this disease. He emphasizes the pivotal role of epigenetic modifiers and how these insights steered his focus towards epigenetic research. As the conversation progresses, Dr. Corces covers his transition to a postdoctoral role, emphasizing his collaborative work employing the ATAC-seq technique. He details how refinements to this protocol not only improved data quality but also paved the way for more expansive research within the fields of hematology and cancer genetics. Additionally, he discusses his excitement for developing new computational tools for single-cell analysis, aiming to address the critical challenge of distinguishing between cellular states effectively. The episode also explores the fascinating intersection of Alzheimer's and Parkinson's diseases. Dr. Corces explains the rationale for studying both conditions simultaneously, shedding light on the shared and divergent pathological features that emerge in patients. He argues for the importance of understanding mixed pathologies, which reflect the reality for many individuals diagnosed with these neurodegenerative diseases. References Corces, M. R., Trevino, A. E., Hamilton, E. G., Greenside, P. G., Sinnott-Armstrong, N. A., Vesuna, S., Satpathy, A. T., Rubin, A. J., Montine, K. S., Wu, B., Kathiria, A., Cho, S. W., Mumbach, M. R., Carter, A. C., Kasowski, M., Orloff, L. A., Risca, V. I., Kundaje, A., Khavari, P. A., Montine, T. J., … Chang, H. Y. (2017). An improved ATAC-seq protocol reduces background and enables interrogation of frozen tissues. Nature methods, 14(10), 959–962. https://doi.org/10.1038/nmeth.4396 Corces, M. R., Granja, J. M., Shams, S., Louie, B. H., Seoane, J. A., Zhou, W., Silva, T. C., Groeneveld, C., Wong, C. K., Cho, S. W., Satpathy, A. T., Mumbach, M. R., Hoadley, K. A., Robertson, A. G., Sheffield, N. C., Felau, I., Castro, M. A. A., Berman, B. P., Staudt, L. M., Zenklusen, J. C., … Chang, H. Y. (2018). The chromatin accessibility landscape of primary human cancers. Science (New York, N.Y.), 362(6413), eaav1898. https://doi.org/10.1126/science.aav1898 Corces, M. R., Trevino, A. E., Hamilton, E. G., Greenside, P. G., Sinnott-Armstrong, N. A., Vesuna, S., Satpathy, A. T., Rubin, A. J., Montine, K. S., Wu, B., Kathiria, A., Cho, S. W., Mumbach, M. R., Carter, A. C., Kasowski, M., Orloff, L. A., Risca, V. I., Kundaje, A., Khavari, P. A., Montine, T. J., … Chang, H. Y. (2017). An improved ATAC-seq protocol reduces background and enables interrogation of frozen tissues. Nature methods, 14(10), 959–962. https://doi.org/10.1038/nmeth.4396 Sant, C., Mucke, L., & Corces, M. R. (2025). CHOIR improves significance-based detection of cell types and states from single-cell data. Nature genetics, 57(5), 1309–1319. https://doi.org/10.1038/s41588-025-02148-8 Related Episodes ATAC-Seq, scATAC-Seq and Chromatin Dynamics in Single-Cells (Jason Buenrostro) Multiple challenges of ATAC-Seq, Points to Consider (Yuan Xue) Contact Epigenetics Podcast on Mastodon Epigenetics Podcast on Bluesky Dr. Stefan Dillinger on LinkedIn Active Motif on LinkedIn Active Motif on Bluesky Email: podcast@activemotif.com
Choć nie istnieje jedna, oficjalna definicja „małego miasta”, najczęściej przyjmuje się, że to miejscowości posiadające prawa miejskie i liczące mniej niż 20 tysięcy mieszkańców. W Polsce jest ich ponad 800, co stanowi około 80% wszystkich miast. Mieszka w nich ponad 5 milionów osób – to niepozorny, ale znaczący fragment na mapie Polski.Razem z Martą Grybś - Kabocik i Agnieszką Warzybok, badaczkami PTBRiO, i uczestniczkami projektu "Małomiasteczkowy" wyruszymy w badawczą podróż po małomiasteczkowej Polsce, omawiając wnioski obserwacje z etnografii terenowej i netnografii - omawiajac moduły "Zakupy i Codzienność". W gratisie Marta i Kuba podzielą się swoimi wrażeniami z badań terenowych. Projekt MAŁOMIASTECZKOWY koordynuje Aleksandra Gębarowska, a za projektem stoi zespół kilkudziesięciu badaczek i badaczy, którzy współtworzą ten eksperyment wspólnie z mieszkańcami i mieszkankami polskich miasteczek.
Small Talk! With Alec Cuenca - Motivation, Inspiration, Pinoy Podcast
In this episode of Small Talk, Alec Cuenca sits down with Cho Lim: whose story is not about instant success, but about wasted years, hidden pain, and the one moment that forced him to finally change. Before becoming one of the most influential coaches in the country, Cho spent years drifting with no direction: stuck in comfort, vices, parties, and the belief that “there's still time.” But everything shifted when he became a father. The guilt, the pressure, and the responsibility woke him up, and ignited a transformation that would lead him to rebuild his life, pursue growth with intensity, and eventually impact thousands through purpose-driven work.If you've ever felt lost, behind, or ashamed of where you are in life, Cho's story will show you that rock bottom can become the foundation for your greatest breakthrough.Follow the podcast on IG: @smalltalkpodcasts with @aleccuenca_ and @cholimofficial Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.
Cho bạn mượn tên để làm hồ sơ xin tiền hỗ trợ mua nhà lần đầu của chính phủ, khai độc thân dù đã kết hôn để được nhận hỗ trợ hai lần, hay mua nhà nhưng vẫn cho thuê trong năm đầu tiên…Tất cả những điều này đều có thể khiến bạn mất toàn bộ khoản hỗ trợ mua nhà lần đầu, thậm chí còn phải đóng phạt cho Cơ quan Thuế vụ Bất động sản Tiểu bang (SRO).
Kể từ ngày 01/07/2025, Việt Nam không còn áp dụng án tử hình đối với 8 tội danh, theo xu thế chung hiện nay của thế giới là dần dần xóa bỏ án tử hình. Việt Nam là một trong số ít quốc gia còn duy trì án tử hình. Như mọi năm, ngày 10/10/2025 đã là Ngày Thế giới Chống Án Tử hình. Ngày này do tổ chức Liên minh thế giới chống án tử hình tổ chức lần đầu tiên vào năm 2003 nhằm thống nhất phong trào bãi bỏ án tử hình toàn cầu và huy động xã hội dân sự, các nhà lãnh đạo chính trị, luật sư, dư luận xã hội… ủng hộ lời kêu gọi bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới. Theo thống kê từ tổ chức Ân xá Quốc tế, 113 quốc gia đã bãi bỏ án tử hình đối với tất cả các loại tội phạm, 23 quốc gia đang bãi bỏ án tử hình trong thực tế, 54 quốc gia đang duy trì án tử hình, trong đó có Việt Nam. Tuy nằm trong số các nước vẫn còn duy trì án tử hình, Việt Nam nay cũng đã giảm bớt số tội danh lãnh án tử hình. Cụ thể, ngày 25/06/2025, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, trong đó bỏ án tử hình với 8 tội kể từ 01/07, đồng thời chuyển sang tù chung thân với người bị tuyên tử hình về các tội này trước ngày 01/07. Tám tội danh không còn bị kết án tử hình bao gồm: Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109); Phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114); Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (Điều 194); Vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421); Gián điệp (Điều 110); Tham ô tài sản (Điều 353); Nhận hối lộ (Điều 354). Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ Công An Việt Nam đã nêu lên 4 lý do. Thứ nhất, thực tiễn cho thấy, “các tội danh này đã được đa số các nước trên thế giới không quy định hình phạt tử hình hoặc đang có xu hướng bỏ hình phạt tử hình.” Thứ hai, “nhiều nước trên thế giới đã yêu cầu Việt Nam phải cam kết không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tuyên nhưng không thi hành án tử hình đối với những vụ án về tham nhũng, chức vụ, nhưng Việt Nam chưa cam kết, cho nên khi Việt Nam yêu cầu tương trợ tư pháp có liên quan đến án tử hình thì gần như không có phản hồi.” Thứ ba, đây cũng là “xu thế chung của thế giới”, hiện nay đa số các quốc gia đều không áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội không phải là “tội ác”. Thứ tư, bỏ án tử hình cũng là nhằm “đảm bảo hiệu quả thu hồi tài sản, đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa; đồng thời khuyến khích người phạm tội hợp tác với cơ quan chức năng” Trả lời RFI Việt ngữ, luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt Luật ở Sài Gòn, nhận định: “Chúng tôi cho rằng việc Việt Nam bỏ án tử hình là một xu thế mà tất cả các quốc gia đều hướng tới. Thứ nhất là mang tính nhân văn, thứ hai là tránh oan sai, vì thông thường một quốc gia nào cho dù có tối tân về máy móc và chuyên môn đến đâu thì cũng dễ dẫn tới những oan sai về tội tử hình. Nếu mà đã tử hình rồi thì hậu quả là không lường được và không thể khắc phục được. Chúng ta thấy là càng về trước thì những hình phạt càng nghiêm khắc, gần giống như là “trả thù” người phạm tội, chẳng hạn như cho vào vạc dầu, tứ mã phanh thây, rồi tùng xẻo, hoặc là tử hình bằng cách làm cho người phạm tội đau đớn nhất. Nhưng càng văn minh thì người ta càng bỏ những hình phạt mang tính độc ác như vậy. Cho nên hướng tới là Việt Nam cũng hòa nhập với xu thế của thế giới. Việc Việt Nam bỏ bản tử hình là một điều hết sức mang tính văn minh và hội nhập quốc tế cao. Có một điều mà tôi thấy các quốc gia cũng hay áp dụng, đó là tuy bỏ hình phạt tử hình nhưng thay vào đó là một án chung thân không giảm án, có nghĩa là tránh oan sai cho người phạm tội đó. Tôi cho rằng quy định đó cũng hợp lý: Không tước đi mạng sống của người phạm tội, nhưng họ vẫn phải chịu một hình phạt, đó là phạt tù mà không bao giờ giảm án. Việt Nam cũng có một sự tiến bộ là bỏ án tử hình nhưng có một hình phạt là không giảm án. Tôi cho đấy là cũng phù hợp với xu thế chung của các quốc gia.” Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ trưởng Tư Pháp Nguyễn Hải Ninh đã cho biết một phần là trong thời gian qua Việt Nam trên thực tế không áp dụng án tử hình với các tội đó. Việc bỏ hình phạt tử hình với các tội này cũng là nhằm “phục vụ hoạt động hợp tác quốc tế, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy các quan hệ ngày càng bền chặt và tin tưởng lẫn nhau.” Trong số các tội danh được bỏ án tử hình, có tội Vận chuyển ma túy. Nhiều người cho tới nay chỉ vì nhẹ dạ cả tin, hoặc vì túng quẫn làm liều, hoặc hám lời, đã nhận vận chuyển dùm cho các đường dây buôn ma túy nên phải chịu hình phạt cao nhất là tử hình. Luật sư Hoàng Cao Sang giải thích: “Trong nhóm tội phạm ma túy, trước đây có ba hành vi đưa đến mức cao nhất của khung hình phạt đó là tử hình: Tội sản xuất ma túy, tội mua bán ma túy và tội vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, đến lần sửa đổi luật vừa rồi thì Việt Nam bỏ tội vận chuyển ma túy, còn tội sản xuất và tội mua bán thì vẫn giữ ở khung hình phạt tử hình. Tôi cho rằng đối với 3 hành vi nghiêm trọng có mức khung hình phạt tử hình thì vận chuyển là hành vi nhẹ nhất, ít gây nguy hiểm nhất so với hai hành vi kia. Cho nên nhà nước bỏ tội tử hình đối với hành vi vận chuyển cũng là hợp lý.” Một điểm đáng chú ý khác đó là trong danh sách các tội không còn áp dụng án tử hình, có tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109). Theo các tổ chức nhân quyền quốc tế, điều 109 là một trong những điều luật có nội dung mơ hồ và có thể diễn giải tùy tiện trong Bộ Luật Hình sự mà chính quyền Việt Nam thường sử dụng kết án tù các nhà hoạt động chính trị và tôn giáo, với hình phạt cao nhất là chung thân và tử hình. Các tổ chức nhân quyền đã từng kêu gọi Hà Nội hủy bỏ hoặc sửa đổi điều luật này cho phù hợp với các nghĩa vụ Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị. Có lẽ chính là dưới áp lực của quốc tế mà Việt Nam đã bỏ án tử hình đối với tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Về điểm này, luật sư Hoàng Cao Sang ghi nhận: “Xu thế của các quốc gia trên thế giới đều là không áp dụng hình phạt tử hình. Cho nên trong tội hoạt động lật đổ chính quyền, họ cũng yêu cầu không thực hiện việc tử hình đối với hành vi mà trước đây Bộ Luật hình sự Việt Nam cho là một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, cần phải tách ly người này ra khỏi cuộc sống xã hội. Tôi cho rằng bây giờ xã hội đã ổn định hơn và theo xu thế hội nhập thì cũng phải bỏ tội danh đấy và tôi nghĩ thế giới cũng tránh việc một bộ luật lạm dụng điều đó để khống chế hoạt động của người dân nhằm phát triển quyền của con người. Trong thời gian qua, khi bộ luật có sửa đổi với việc bỏ 8 tội danh này thì tôi thấy là dư luận hay nhắc đến tội tham ô, nhận hối lộ, rồi tội vận chuyển trái phép chất ma túy, còn đối với các tội danh khác thì người dân ít quan tâm, hoặc là vì một lý do nhạy cảm nào đó người dân ít nhắc tới. Nhiều khi hành vi cũng không quá nghiêm trọng, nhưng rớt vào điều 109 này, tôi nghĩ nếu áp dụng khung hình phạt tử hình thì cũng hơi nghiêm khắc, cho nên tôi cho rằng bỏ cái hình phạt tử hình đối với tội danh hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân dân cũng là hợp lý.” Riêng với tội Tham ô tài sản và tội Nhận hối lộ, sau khi bỏ hình phạt tử hình, "nhằm bảo đảm thu hồi tài sản và khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo", luật sửa đổi có quy định người bị kết án tù chung thân có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt “khi chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng.” Nhưng như vậy thì phải chăng các quan chức cứ việc tham ô, nhận hối lộ, nhất là nay không còn án tử hình nữa và nếu có bị phát giác, bị đưa ra xử thì chỉ cần hoàn trả lại tiền tham nhũng là được giảm án? Luật sư Hoàng Cao Sang nêu ý kiến: “Tôi thì thì lại không hiểu như vậy, vì tất cả mọi điều luật đều có quy định rằng khắc phục hậu quả thì sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi truy tố xét xử. Cho nên đối với người phạm tội tham ô mà có đóng lại khoản tiền, xem đó là tình tiết giảm nhẹ để giảm án thì tôi cho rằng cũng phù hợp với các tội danh khác. Tuy nhiên, trong thời thời gian vừa rồi, có những trường hợp mà đóng tiền lại thì được giảm án quá "sâu" so với quy định thì dư luận cũng không đồng tình. Trước mắt, vì là người phạm tội bị kết án tử hình trước ngày 01/07, bà TRươngMỹ Lan, chủ tịch tập đoàn Đại Thịnh Phát, trên nguyên tắc có thể được xem xét chuyển hình phạt từ tử hình xuống chung thân, nhưng việc bà "khắc phục hậu quả" như thế nào chắc chắn sẽ được dư luật tiếp tục quan tâm. Quốc tế dĩ nhiên đã hoan nghênh việc Việt Nam xóa bỏ án tử hình đối với 8 tội danh, chẳng hạn vào ngày 08/08/2025, đồng chủ tịch Viện Nhân quyền thuộc Hiệp hội Luật sư Quốc tế (IBAHRI) Mark Stephens đã ra thông cáo nhấn mạnh: "Bước đi lịch sử này của Việt Nam đánh dấu một bước phát triển đáng kể, hòa nhập hơn với xu hướng xóa bỏ án tử hình trên toàn cầu. Với nghĩa vụ không trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ án tử hình theo Điều 6(6) của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), IBAHRI kêu gọi Việt Nam tiến tới xóa bỏ hoàn toàn án tử hình đối với mọi tội phạm." Việt Nam hiện vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với các tội phản quốc (Điều 108); tội nổi loạn (Điều 112); tội khủng bố nhằm chống Chính phủ (Điều 113); tội giết người (Điều 123); tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); tội khủng bố (Điều 299); tội ác chống nhân loại (Điều 422); và tội ác chiến tranh (Điều 423). Theo IHBARI, dữ liệu về việc áp dụng án tử hình tại Việt Nam được cho là bí mật nhà nước, gây khó khăn cho việc xác định số liệu chính xác về việc áp dụng hình phạt này. Cũng trong thông cáo nói trên, đồng chủ tịch IBAHRI, bà Hina Jilani, kêu gọi Việt Nam “ tăng cường minh bạch trong việc áp dụng án tử hình, bao gồm việc cung cấp dữ liệu đầy đủ và chính xác về các bản án tử hình, các vụ hành quyết và các điều kiện giam giữ tại khu tử tù.”
Kể từ ngày 01/07/2025, Việt Nam không còn áp dụng án tử hình đối với 8 tội danh, theo xu thế chung hiện nay của thế giới là dần dần xóa bỏ án tử hình. Việt Nam là một trong số ít quốc gia còn duy trì án tử hình. Như mọi năm, ngày 10/10/2025 đã là Ngày Thế giới Chống Án Tử hình. Ngày này do tổ chức Liên minh thế giới chống án tử hình tổ chức lần đầu tiên vào năm 2003 nhằm thống nhất phong trào bãi bỏ án tử hình toàn cầu và huy động xã hội dân sự, các nhà lãnh đạo chính trị, luật sư, dư luận xã hội… ủng hộ lời kêu gọi bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới. Theo thống kê từ tổ chức Ân xá Quốc tế, 113 quốc gia đã bãi bỏ án tử hình đối với tất cả các loại tội phạm, 23 quốc gia đang bãi bỏ án tử hình trong thực tế, 54 quốc gia đang duy trì án tử hình, trong đó có Việt Nam. Tuy nằm trong số các nước vẫn còn duy trì án tử hình, Việt Nam nay cũng đã giảm bớt số tội danh lãnh án tử hình. Cụ thể, ngày 25/06/2025, Quốc Hội Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, trong đó bỏ án tử hình với 8 tội kể từ 01/07, đồng thời chuyển sang tù chung thân với người bị tuyên tử hình về các tội này trước ngày 01/07. Tám tội danh không còn bị kết án tử hình bao gồm: Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109); Phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 114); Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, phòng bệnh (Điều 194); Vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250); Phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 421); Gián điệp (Điều 110); Tham ô tài sản (Điều 353); Nhận hối lộ (Điều 354). Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ Công An Việt Nam đã nêu lên 4 lý do. Thứ nhất, thực tiễn cho thấy, “các tội danh này đã được đa số các nước trên thế giới không quy định hình phạt tử hình hoặc đang có xu hướng bỏ hình phạt tử hình.” Thứ hai, “nhiều nước trên thế giới đã yêu cầu Việt Nam phải cam kết không áp dụng hình phạt tử hình hoặc tuyên nhưng không thi hành án tử hình đối với những vụ án về tham nhũng, chức vụ, nhưng Việt Nam chưa cam kết, cho nên khi Việt Nam yêu cầu tương trợ tư pháp có liên quan đến án tử hình thì gần như không có phản hồi.” Thứ ba, đây cũng là “xu thế chung của thế giới”, hiện nay đa số các quốc gia đều không áp dụng hình phạt tử hình đối với các tội không phải là “tội ác”. Thứ tư, bỏ án tử hình cũng là nhằm “đảm bảo hiệu quả thu hồi tài sản, đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa; đồng thời khuyến khích người phạm tội hợp tác với cơ quan chức năng” Trả lời RFI Việt ngữ, luật sư Hoàng Cao Sang, Văn phòng Luật sư Hoàng Việt Luật ở Sài Gòn, nhận định: “Chúng tôi cho rằng việc Việt Nam bỏ án tử hình là một xu thế mà tất cả các quốc gia đều hướng tới. Thứ nhất là mang tính nhân văn, thứ hai là tránh oan sai, vì thông thường một quốc gia nào cho dù có tối tân về máy móc và chuyên môn đến đâu thì cũng dễ dẫn tới những oan sai về tội tử hình. Nếu mà đã tử hình rồi thì hậu quả là không lường được và không thể khắc phục được. Chúng ta thấy là càng về trước thì những hình phạt càng nghiêm khắc, gần giống như là “trả thù” người phạm tội, chẳng hạn như cho vào vạc dầu, tứ mã phanh thây, rồi tùng xẻo, hoặc là tử hình bằng cách làm cho người phạm tội đau đớn nhất. Nhưng càng văn minh thì người ta càng bỏ những hình phạt mang tính độc ác như vậy. Cho nên hướng tới là Việt Nam cũng hòa nhập với xu thế của thế giới. Việc Việt Nam bỏ bản tử hình là một điều hết sức mang tính văn minh và hội nhập quốc tế cao. Có một điều mà tôi thấy các quốc gia cũng hay áp dụng, đó là tuy bỏ hình phạt tử hình nhưng thay vào đó là một án chung thân không giảm án, có nghĩa là tránh oan sai cho người phạm tội đó. Tôi cho rằng quy định đó cũng hợp lý: Không tước đi mạng sống của người phạm tội, nhưng họ vẫn phải chịu một hình phạt, đó là phạt tù mà không bao giờ giảm án. Việt Nam cũng có một sự tiến bộ là bỏ án tử hình nhưng có một hình phạt là không giảm án. Tôi cho đấy là cũng phù hợp với xu thế chung của các quốc gia.” Theo báo chí trong nước, giải thích về việc bỏ án tử hình với 8 tội danh, bộ trưởng Tư Pháp Nguyễn Hải Ninh đã cho biết một phần là trong thời gian qua Việt Nam trên thực tế không áp dụng án tử hình với các tội đó. Việc bỏ hình phạt tử hình với các tội này cũng là nhằm “phục vụ hoạt động hợp tác quốc tế, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang thúc đẩy các quan hệ ngày càng bền chặt và tin tưởng lẫn nhau.” Trong số các tội danh được bỏ án tử hình, có tội Vận chuyển ma túy. Nhiều người cho tới nay chỉ vì nhẹ dạ cả tin, hoặc vì túng quẫn làm liều, hoặc hám lời, đã nhận vận chuyển dùm cho các đường dây buôn ma túy nên phải chịu hình phạt cao nhất là tử hình. Luật sư Hoàng Cao Sang giải thích: “Trong nhóm tội phạm ma túy, trước đây có ba hành vi đưa đến mức cao nhất của khung hình phạt đó là tử hình: Tội sản xuất ma túy, tội mua bán ma túy và tội vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, đến lần sửa đổi luật vừa rồi thì Việt Nam bỏ tội vận chuyển ma túy, còn tội sản xuất và tội mua bán thì vẫn giữ ở khung hình phạt tử hình. Tôi cho rằng đối với 3 hành vi nghiêm trọng có mức khung hình phạt tử hình thì vận chuyển là hành vi nhẹ nhất, ít gây nguy hiểm nhất so với hai hành vi kia. Cho nên nhà nước bỏ tội tử hình đối với hành vi vận chuyển cũng là hợp lý.” Một điểm đáng chú ý khác đó là trong danh sách các tội không còn áp dụng án tử hình, có tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109). Theo các tổ chức nhân quyền quốc tế, điều 109 là một trong những điều luật có nội dung mơ hồ và có thể diễn giải tùy tiện trong Bộ Luật Hình sự mà chính quyền Việt Nam thường sử dụng kết án tù các nhà hoạt động chính trị và tôn giáo, với hình phạt cao nhất là chung thân và tử hình. Các tổ chức nhân quyền đã từng kêu gọi Hà Nội hủy bỏ hoặc sửa đổi điều luật này cho phù hợp với các nghĩa vụ Việt Nam theo Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị. Có lẽ chính là dưới áp lực của quốc tế mà Việt Nam đã bỏ án tử hình đối với tội danh Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Về điểm này, luật sư Hoàng Cao Sang ghi nhận: “Xu thế của các quốc gia trên thế giới đều là không áp dụng hình phạt tử hình. Cho nên trong tội hoạt động lật đổ chính quyền, họ cũng yêu cầu không thực hiện việc tử hình đối với hành vi mà trước đây Bộ Luật hình sự Việt Nam cho là một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, cần phải tách ly người này ra khỏi cuộc sống xã hội. Tôi cho rằng bây giờ xã hội đã ổn định hơn và theo xu thế hội nhập thì cũng phải bỏ tội danh đấy và tôi nghĩ thế giới cũng tránh việc một bộ luật lạm dụng điều đó để khống chế hoạt động của người dân nhằm phát triển quyền của con người. Trong thời gian qua, khi bộ luật có sửa đổi với việc bỏ 8 tội danh này thì tôi thấy là dư luận hay nhắc đến tội tham ô, nhận hối lộ, rồi tội vận chuyển trái phép chất ma túy, còn đối với các tội danh khác thì người dân ít quan tâm, hoặc là vì một lý do nhạy cảm nào đó người dân ít nhắc tới. Nhiều khi hành vi cũng không quá nghiêm trọng, nhưng rớt vào điều 109 này, tôi nghĩ nếu áp dụng khung hình phạt tử hình thì cũng hơi nghiêm khắc, cho nên tôi cho rằng bỏ cái hình phạt tử hình đối với tội danh hoạt động nhằm lật đổ chính quyền dân dân cũng là hợp lý.” Riêng với tội Tham ô tài sản và tội Nhận hối lộ, sau khi bỏ hình phạt tử hình, "nhằm bảo đảm thu hồi tài sản và khuyến khích người phạm tội tích cực khai báo", luật sửa đổi có quy định người bị kết án tù chung thân có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt “khi chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng.” Nhưng như vậy thì phải chăng các quan chức cứ việc tham ô, nhận hối lộ, nhất là nay không còn án tử hình nữa và nếu có bị phát giác, bị đưa ra xử thì chỉ cần hoàn trả lại tiền tham nhũng là được giảm án? Luật sư Hoàng Cao Sang nêu ý kiến: “Tôi thì thì lại không hiểu như vậy, vì tất cả mọi điều luật đều có quy định rằng khắc phục hậu quả thì sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ khi truy tố xét xử. Cho nên đối với người phạm tội tham ô mà có đóng lại khoản tiền, xem đó là tình tiết giảm nhẹ để giảm án thì tôi cho rằng cũng phù hợp với các tội danh khác. Tuy nhiên, trong thời thời gian vừa rồi, có những trường hợp mà đóng tiền lại thì được giảm án quá "sâu" so với quy định thì dư luận cũng không đồng tình. Trước mắt, vì là người phạm tội bị kết án tử hình trước ngày 01/07, bà TRươngMỹ Lan, chủ tịch tập đoàn Đại Thịnh Phát, trên nguyên tắc có thể được xem xét chuyển hình phạt từ tử hình xuống chung thân, nhưng việc bà "khắc phục hậu quả" như thế nào chắc chắn sẽ được dư luật tiếp tục quan tâm. Quốc tế dĩ nhiên đã hoan nghênh việc Việt Nam xóa bỏ án tử hình đối với 8 tội danh, chẳng hạn vào ngày 08/08/2025, đồng chủ tịch Viện Nhân quyền thuộc Hiệp hội Luật sư Quốc tế (IBAHRI) Mark Stephens đã ra thông cáo nhấn mạnh: "Bước đi lịch sử này của Việt Nam đánh dấu một bước phát triển đáng kể, hòa nhập hơn với xu hướng xóa bỏ án tử hình trên toàn cầu. Với nghĩa vụ không trì hoãn hoặc ngăn cản việc xóa bỏ án tử hình theo Điều 6(6) của Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), IBAHRI kêu gọi Việt Nam tiến tới xóa bỏ hoàn toàn án tử hình đối với mọi tội phạm." Việt Nam hiện vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với các tội phản quốc (Điều 108); tội nổi loạn (Điều 112); tội khủng bố nhằm chống Chính phủ (Điều 113); tội giết người (Điều 123); tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); tội khủng bố (Điều 299); tội ác chống nhân loại (Điều 422); và tội ác chiến tranh (Điều 423). Theo IHBARI, dữ liệu về việc áp dụng án tử hình tại Việt Nam được cho là bí mật nhà nước, gây khó khăn cho việc xác định số liệu chính xác về việc áp dụng hình phạt này. Cũng trong thông cáo nói trên, đồng chủ tịch IBAHRI, bà Hina Jilani, kêu gọi Việt Nam “ tăng cường minh bạch trong việc áp dụng án tử hình, bao gồm việc cung cấp dữ liệu đầy đủ và chính xác về các bản án tử hình, các vụ hành quyết và các điều kiện giam giữ tại khu tử tù.”
W tym odcinku podcastu portalu biegowe.pl gościmy Monikę Mrozowską – aktorkę, mamę i autorkę książek kulinarnych, która w ciągu zaledwie kilkunastu miesięcy przeszła drogę od pierwszych 5 kilometrów do dwóch ukończonych maratonów!Choć zaczynała od frustracji i „negatywnego monologu w głowie”, dziś z uśmiechem mówi o treningach, regularności i sile grupy, która pozwoliła jej rozwinąć skrzydła. Monika opowiada o debiucie w maratonie w Rzymie (4:34:49), a także o spektakularnym starcie w 47. Nationale-Nederlanden Maratonie Warszawskim (3:42:31), gdzie poprawiła życiówkę o ponad 50 minut!Z rozmowy dowiesz się:
W tym odcinku miałem nadawać ze Stanów Zjednoczonych. Zamiast tego, nagrywam go z powrotem w Polsce. Na kilka dni przed startem prestiżowego programu International Visitor Leadership Program (IVLP), moje zaproszenie zostało cofnięte. Choć oficjalnie powód nie został podany, w tym odcinku ujawniam to, co udało mi się ustalić nieoficjalnie. Ten odcinek to nie jest skarga. To deklaracja: nie dam się uciszyć i nie zamierzam rezygnować z poglądów ani pracy, która doprowadziła do tej sytuacji. Rolą mediów jest patrzeć władzy i grupom interesu na ręce, bez względu na konsekwencje. Z tego miejsca chcę też ogromnie podziękować za falę wsparcia, która napłynęła do mnie z każdej strony sceny publicznej.
Zdjęcie trzech chłopców w żółtych kamizelkach obiegło internet lotem błyskawicy, zmieniając się w wiral. Samozwańcze patrole oceniające i piętnujące dziewczęta z powodu ich ubioru trafiły do mediów tradycyjnych i stały się przedmiotem publicznej debaty. Choć zjawisko jest przerażające, warto zastanowić się co za nim stoi i co sprawiło że młodzi ludzie postanowili tropić i hejtować własne koleżanki. Jak bumerang wraca temat zaangażowania w wychowanie oraz relacji dzieci i rodziców. Pojawia się też kwestia edukacji: nie tylko tej zdrowotnej, ale także medialnej oraz umiejętności świadomego korzystania z internetu. Zasadne jest również pytanie dotyczące radykalizacji poglądów na temat kobiet oraz rosnących podziałów między kobietami a mężczyznami. O tym skąd na ulicach polskich miast wzięły się „szon patrole”, jakie mogą być ich konsekwencje i co robić by podobny wiral już się nie pojawił, mówiła w Drogowskazach Magdalena Chorzewska, psycholożka, seksuolożka, psychoterapeutka. Do wysłuchania rozmowy zaprasza Aleksandra Galant.
Trong số 20.000 người Việt Nam được đưa đến Pháp làm việc trong giai đoạn 1940-1944, khoảng 4.000 được đưa đến làm việc tại nhà máy thuốc súng ở Bergerac, sau đó bị đưa đi làm thuê trong các trang trại quanh vùng sau khi chính phủ Vichy hợp tác với Đức. Họ sống như bị giam lỏng trong trại, thiếu ăn, bệnh tật do điều kiện sống khổ cực, bị phân biệt đối xử. Họ bị kẹt ở "Mẫu quốc" vì cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra ở Việt Nam. Cuộc sống của họ được ghi lại trong khoảng 1.000 bức ảnh của Robert Bondier, ông chủ một tiệm ảnh ở Bergerac trong thập niên 1930-1970. Lần đầu tiên, những bức ảnh này được giới thiệu trong triển lãm "Từ Mêkông đến sông Vézère, những người bị lãng quên trong lịch sử : Lính thợ Đông Dương ở Dordogne 1940-1948" (Du Mékong à la Vézère, les oubliés de l'Histoire : Travailleurs indochinois en Dordogne 1940-1948). Đây là một trong bốn công trình được sử gia Pierre Daum, nhà báo của nguyệt san Le Monde Diplomatique, và ông Michel Lecat, hiện sở hữu bộ sưu tập ảnh của ông nội Robert Bondier, thực hiện để những người lính thợ Đông Dương không còn bị quên lãng trong lịch sử. Công trình thứ hai là gắn bia ghi công 62 người lính thợ Đông Dương qua đời ở Bergerac, được tổ chức ngày 10/10/2025. Sử gia Pierre Daum đã dành cho RFI Tiếng Việt một buổi phỏng vấn về chủ đề này. RFI : Khoảng 4.000 người Việt Nam đã được đưa đến Bergerac ở Périgord từ năm 1940 đến năm 1944. Vậy trong bối cảnh nào và tại sao họ lại đến Pháp, đặc biệt là ở Périgord và Bergerac? Sử gia Pierre Daum : Năm 1939, khi Pháp tham chiến tranh, chính quyền thực dân Pháp đã tuyển mộ, tự nguyện hoặc cưỡng bức, 20.000 nông dân Việt Nam từ tất cả các làng mạc ở nước Việt Nam thuộc địa. Những người này được đưa lên thuyền, đến Marseille, và ở đó họ được phân bổ khắp nước Pháp đến các nhà máy vũ khí, đặc biệt là các nhà máy thuốc súng. Ở Bergerac, từ một thế kỷ qua đã có một nhà máy thuốc súng rất lớn, và đó là lý do tại sao 4.000 người trong số họ được đưa đến nhà máy thuốc súng Bergerac. Đọc thêm"Lính thợ Đông Dương" : Những người lính thầm lặng tại Pháp trong Thế Chiến II RFI : Vậy họ làm những công việc gì ở Bergerac? Pierre Daum : Khi họ đến, vì là nông dân nên công việc giao cho họ ở nhà máy thuốc súng cũng khá đơn giản, chỉ là nạp thuốc súng vào vỏ đạn. Công việc này tuy đơn giản nhưng lại rất nguy hiểm và gây tổn thương cho da rất nhiều vì thuốc súng rất khó chịu. Vào tháng 06/1940, quân đội Pháp thua quân đội Đức, nên tất cả các nhà máy sản xuất thuốc súng ở Pháp đều đóng cửa. Sau đó, những người này bị giữ lại nhiều năm trong một trại ở Bergerac, và Nhà nước Pháp cho họ đi làm thuê ở các trang trại hoặc doanh nghiệp nhỏ, kể cả những doanh nghiệp chặt gỗ và biến thành than củi, những nhà thu hoạch hạt dẻ, và trong các vườn nho vì Dordogne cũng là vùng sản xuất rượu vang. Và đúng là họ đã tìm được công việc phù hợp hơn với xuất thân nhà nông của họ, chủ yếu là trồng lúa. Ở Dordogne không có ruộng lúa nhưng nhiều đồng hương của họ trồng lúa nước ở vùng Camargue, còn ở Dordogne, công việc tập trung vào cây nho, hạt dẻ và gỗ nhiều hơn. RFI : Ông từng nhấn mạnh là lính thợ Đông Dương bị đối xử bất công, bị ngược đãi ở Bergerac. Tại sao lại có sự phân biệt đối xử đó và tại sao họ phải sống trong những điều kiện như vậy? Pierre Daum : Người lao động Đông Dương ở Bergerac, cũng giống như mọi nơi khác ở Pháp, đều trong tình trạng bị áp bức thuộc địa ngay trên đất Pháp. Đó là tình trạng áp bức thuộc địa, phân biệt chủng tộc thuộc địa tương tự như những gì họ đã trải qua ở Việt Nam. Ngoại trừ ở đây, họ được đưa đến Pháp, và ví dụ tại Bergerac, họ bị nhốt trong trại. Họ có thể ra ngoài vài giờ mỗi ngày và phải nằm dưới quyền điều hành của một đội quản lý Pháp, thường bao gồm các sĩ quan và hạ sĩ quan từ quân đội thuộc địa ở Đông Dương, những người tin rằng họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, giống như lính Pháp tin rằng họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn ở Việt Nam. Vì vậy, ngay khi một người Việt Nam chỉ trích chỉ huy của họ hoặc phàn nàn về việc không được ăn uống đầy đủ, họ sẽ bị đánh bằng gậy. Thậm chí bên trong trại Bergerac còn có một hầm ngục, và ít nhất một nửa số người Việt Nam ở Bergerac đã bị nhốt trong hầm ngục này hàng tuần liền. Ngoài ra phải kể đến một điều rất quan trọng, đội quản lý Pháp, trong suốt những năm đó, đã không ngần ngại ăn cắp lương thực dành cho những người Việt Nam này. Vì vậy, những người Việt Nam này bị đói thực sự. Còn các dãy nhà thì không hề được sưởi ấm, nên rất, rất lạnh. Kết quả là vì đói, lạnh, bắt nạt, áp bức, số người chết bên trong trại Bergerac cao gấp bốn lần so với người dân Pháp ở thị trấn Bergerac. Đọc thêmPháp : Bảo tồn ký ức lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến II RFI : Thứ Sáu ngày 10/10/2025, thành phố Bergerac khánh thành một tấm bia tưởng niệm 62 lính thợ Đông Dương. Tại sao lại là 62 người? Phải chăng họ bị lãng quên trong lịch sử của vùng và lịch sử nước Pháp? Pierre Daum : Như tôi đã nói, tỷ lệ tử vong trong trại Bergerac cao gấp bốn lần so với bên ngoài. Vì vậy, những người đàn ông bị bệnh, và tình trạng quá tải đã khiến bệnh tật lây lan trong cộng đồng lính thợ Đông Dương, đặc biệt là bệnh lao. Hầu hết những người bị bệnh được đưa đến các bệnh viện lớn ở Bordeaux và Marseille, và trên thực tế, nhiều người đã chết ở Bordeaux và Marseille. 62 người trong số họ đã chết ở Bergerac. Ban đầu, họ được chôn cất tại một nghĩa trang, tên là nghĩa trang Pont Saint-Jean. Mộ của họ rất đẹp, tôi đã tìm được nhiều tấm ảnh chụp những ngôi mộ đó ở nghĩa trang này. Năm 1972, chính quyền thành phố Bergerac cần phải lấy lại không gian trong nghĩa trang đó nên các nhân viên thành phố đã đào tất cả các ngôi mộ lên. Họ đặt hài cốt của 62 người đàn ông này gọn gàng trong những chiếc hộp gỗ nhỏ, có đánh số và lập danh sách với số hiệu và tên của 62 người. Sau đó, 62 chiếc hộp được chuyển đến một nghĩa trang khác ở Bergerac, nơi có một lăng mộ Đông Dương tưởng niệm những người đã chết trong Thế Chiến I. Và 62 chiếc hộp đó được đặt dưới lăng mộ này. Tiếc là mọi người đã quên chúng, không ai nghĩ đến việc viết tên 62 người đã khuất lên trên lăng mộ đó để chúng ta nhớ rằng có 62 người yên nghỉ bên dưới. Khi tôi bắt đầu nghiên cứu cách đây 3 năm, tôi phát hiện ra câu chuyện này. Tôi đến gặp chính quyền thành phố Bergerac, nói với họ : “Từ 70 năm qua, có 62 người Việt Nam được chôn cất ở thành phố, nhưng không ai biết, không có tấm bia nào, không có gì cả. Họ đã bị lãng quên”. Chính quyền thành phố Bergerac đã nói với tôi là nếu tôi cung cấp danh sách chính xác tên của 62 người, họ sẽ mời một nhà chuyên nghiệp khắc tên 62 người quá cố lên một tấm bia đá cẩm thạch và sẽ đặt bia ở một vị trí nổi bật. Cho nên, thứ Sáu ngày 10/10, chúng tôi sẽ khánh thành tấm bia cẩm thạch để tưởng nhớ 62 người lính thợ Đông Dương ở Bergerac. RFI : Khi chiến tranh kết thúc, những người lao động Đông Dương khác có được hồi hương về Việt Nam không? Chuyện gì đến với họ? Pierre Daum : Khi Thế Chiến kết thúc, vào năm 1945, tất cả những người bị kẹt lại ở Pháp, bị giam cầm ở Pháp và ở Bergerac trong 5 năm, chỉ có một mong muốn duy nhất : được trở về nhà. Và họ chờ chính phủ Pháp tổ chức các chuyến hồi hương. Nhưng chính vào thời điểm đó, nhân dân Việt Nam đã nổi dậy chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Phản ứng của chính phủ Pháp, như chúng ta đã biết, là không chấp nhận nền độc lập của Việt Nam, như Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã yêu cầu. Tất cả tàu thuyền từng được lên kế hoạch để đưa những người lao động Đông Dương hồi hương cuối cùng lại bị quân đội Pháp trưng dụng để đưa quân lính đến đàn áp khát vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, những người lao động Đông Dương sẽ phải chờ thêm bốn năm nữa, tức là đến năm 1948, để cuối cùng, chính phủ Pháp bắt đầu tổ chức tàu thuyền đưa họ về Việt Nam. Quá trình hồi hương mất một thời gian dài, bắt đầu vào cuối năm 1948 và kết thúc vào năm 1952. Và trong số 20.000 người ban đầu được điều động đến Pháp vào năm 1939-1940, khoảng 16.000 người trở về, 1.000 người trong số họ đã chết, như tôi đã đề cập và từ 2.000 đến 3.000 người quyết định ở lại Pháp. Lý do chính là vì họ đã gặp một phụ nữ Pháp và bạn gái của họ mang thai. Phần lớn lúc đó là họ chưa kết hôn. Ở Pháp trong thập niên 1940, khi bạn gái mang thai, đó thực sự là một bi kịch. Vì vậy, hầu hết những người đàn ông đó đã đưa ra lựa chọn đau đớn là không trở về Việt Nam để ở lại Pháp làm trọng trách làm cha. Có khoảng 2.000 đến 3.000 gia đình Pháp-Việt được hình thành ở Pháp. Tôi biết rất nhiều, rất nhiều trong số họ. Và trong hầu hết các gia đình, con đầu lòng được sinh ra trước khi kết hôn. Sau khi đứa bé chào đời, cha mẹ đã làm giấy tờ hợp lệ và họ kết hôn, có thêm rất nhiều con. Đó là thường là những gia đình khá đông con. Đọc thêmNhững người Việt giúp cải tiến gạo Pháp ở Camargue trong Thế Chiến II RFI : Ông và ông Michel Lecat đang thực hiện một dự án lớn về ký ức của những người lính thợ Đông Dương ở Dordogne. Xin ông cho biết thêm đôi chút về dự án này! Pierre Daum : Michel Lecat là người Pháp đến từ Bergerac, ông đã nghỉ hưu. Ông nội của ông ấy là Robert Bondier, một nhiếp ảnh gia ở Bergerac. Ông Bondier có một cửa hàng ảnh trong 50 năm. Sau khi ông nội của ông qua đời, Michel Lecat đã phát hiện ra 150.000 bức ảnh hoặc phim âm bản trên gác xép của cửa hàng, ghi lại toàn bộ cuộc sống ở Bergerac từ năm 1930 đến năm 1970. Và trong số 150.000 bức ảnh đó, có 1.000 bức ảnh có người Việt Nam và đó là những người lính thợ Đông Dương, hầu hết bị ép đến đến Bergerac vào năm 1940. Họ chỉ có vài giờ tự do mỗi tuần, và nhiều người trong số họ đã đến gặp ông của Michel Lecat để chụp ảnh với ý định sau đó sẽ gửi bức ảnh này về Việt Nam để trấn an gia đình, bởi vì dĩ nhiên là gia đình họ rất lo lắng cho người con đang ở nơi rất xa, ở một châu Âu đang có chiến tranh và họ không có tin tức gì. Bức ảnh là một cách để nói với cha mẹ anh ấy rằng “Đừng lo lắng, nhìn này, con khỏe mạnh, con ăn mặc bảnh bao”… Thêm nữa, ông của Lecat cũng đã đến chụp ảnh trong trại người lao động Đông Dương. Đó là một bộ sưu tập ảnh cực kỳ thú vị và cực kỳ hiếm về chủ đề lính thợ Đông Dương. Ba năm trước, Michel Lecat đã liên lạc với tôi để đề nghị chúng tôi cùng làm việc và tôi đã đến Bergerac gặp ông ấy. Và với chất lượng đặc biệt của bộ sưu tập ảnh này, chúng tôi quyết định khởi động một dự án, được chia thành nhiều phần: có một triển lãm ảnh đang được tổ chức ở Dordogne và thậm chí có thể sẽ được triển lãm trên khắp nước Pháp ; xuất bản một cuốn sách mà tôi đang hoàn thiện, sẽ ra mắt vào tháng 01/2026; khánh thành một đài tưởng niệm rất lớn dành cho những lính thợ Đông Dương, dự kiến vào vào mùa xuân 2026; và gắn bia tưởng nhớ tại nghĩa trang Bergerac, nơi chôn cất 62 người lính thợ Đông Dương vô danh trong hơn nửa thế kỷ tại nghĩa trang này. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn sử gia Pierre Daum, chuyên gia về quá khứ thuộc địa và là nhà báo của nguyệt sang Le Monde Diplomatique. Đọc thêmNhững người lính Việt Nam “Hy sinh vì nước Pháp” trong Thế Chiến I
Trong số 20.000 người Việt Nam được đưa đến Pháp làm việc trong giai đoạn 1940-1944, khoảng 4.000 được đưa đến làm việc tại nhà máy thuốc súng ở Bergerac, sau đó bị đưa đi làm thuê trong các trang trại quanh vùng sau khi chính phủ Vichy hợp tác với Đức. Họ sống như bị giam lỏng trong trại, thiếu ăn, bệnh tật do điều kiện sống khổ cực, bị phân biệt đối xử. Họ bị kẹt ở "Mẫu quốc" vì cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra ở Việt Nam. Cuộc sống của họ được ghi lại trong khoảng 1.000 bức ảnh của Robert Bondier, ông chủ một tiệm ảnh ở Bergerac trong thập niên 1930-1970. Lần đầu tiên, những bức ảnh này được giới thiệu trong triển lãm "Từ Mêkông đến sông Vézère, những người bị lãng quên trong lịch sử : Lính thợ Đông Dương ở Dordogne 1940-1948" (Du Mékong à la Vézère, les oubliés de l'Histoire : Travailleurs indochinois en Dordogne 1940-1948). Đây là một trong bốn công trình được sử gia Pierre Daum, nhà báo của nguyệt san Le Monde Diplomatique, và ông Michel Lecat, hiện sở hữu bộ sưu tập ảnh của ông nội Robert Bondier, thực hiện để những người lính thợ Đông Dương không còn bị quên lãng trong lịch sử. Công trình thứ hai là gắn bia ghi công 62 người lính thợ Đông Dương qua đời ở Bergerac, được tổ chức ngày 10/10/2025. Sử gia Pierre Daum đã dành cho RFI Tiếng Việt một buổi phỏng vấn về chủ đề này. RFI : Khoảng 4.000 người Việt Nam đã được đưa đến Bergerac ở Périgord từ năm 1940 đến năm 1944. Vậy trong bối cảnh nào và tại sao họ lại đến Pháp, đặc biệt là ở Périgord và Bergerac? Sử gia Pierre Daum : Năm 1939, khi Pháp tham chiến tranh, chính quyền thực dân Pháp đã tuyển mộ, tự nguyện hoặc cưỡng bức, 20.000 nông dân Việt Nam từ tất cả các làng mạc ở nước Việt Nam thuộc địa. Những người này được đưa lên thuyền, đến Marseille, và ở đó họ được phân bổ khắp nước Pháp đến các nhà máy vũ khí, đặc biệt là các nhà máy thuốc súng. Ở Bergerac, từ một thế kỷ qua đã có một nhà máy thuốc súng rất lớn, và đó là lý do tại sao 4.000 người trong số họ được đưa đến nhà máy thuốc súng Bergerac. Đọc thêm"Lính thợ Đông Dương" : Những người lính thầm lặng tại Pháp trong Thế Chiến II RFI : Vậy họ làm những công việc gì ở Bergerac? Pierre Daum : Khi họ đến, vì là nông dân nên công việc giao cho họ ở nhà máy thuốc súng cũng khá đơn giản, chỉ là nạp thuốc súng vào vỏ đạn. Công việc này tuy đơn giản nhưng lại rất nguy hiểm và gây tổn thương cho da rất nhiều vì thuốc súng rất khó chịu. Vào tháng 06/1940, quân đội Pháp thua quân đội Đức, nên tất cả các nhà máy sản xuất thuốc súng ở Pháp đều đóng cửa. Sau đó, những người này bị giữ lại nhiều năm trong một trại ở Bergerac, và Nhà nước Pháp cho họ đi làm thuê ở các trang trại hoặc doanh nghiệp nhỏ, kể cả những doanh nghiệp chặt gỗ và biến thành than củi, những nhà thu hoạch hạt dẻ, và trong các vườn nho vì Dordogne cũng là vùng sản xuất rượu vang. Và đúng là họ đã tìm được công việc phù hợp hơn với xuất thân nhà nông của họ, chủ yếu là trồng lúa. Ở Dordogne không có ruộng lúa nhưng nhiều đồng hương của họ trồng lúa nước ở vùng Camargue, còn ở Dordogne, công việc tập trung vào cây nho, hạt dẻ và gỗ nhiều hơn. RFI : Ông từng nhấn mạnh là lính thợ Đông Dương bị đối xử bất công, bị ngược đãi ở Bergerac. Tại sao lại có sự phân biệt đối xử đó và tại sao họ phải sống trong những điều kiện như vậy? Pierre Daum : Người lao động Đông Dương ở Bergerac, cũng giống như mọi nơi khác ở Pháp, đều trong tình trạng bị áp bức thuộc địa ngay trên đất Pháp. Đó là tình trạng áp bức thuộc địa, phân biệt chủng tộc thuộc địa tương tự như những gì họ đã trải qua ở Việt Nam. Ngoại trừ ở đây, họ được đưa đến Pháp, và ví dụ tại Bergerac, họ bị nhốt trong trại. Họ có thể ra ngoài vài giờ mỗi ngày và phải nằm dưới quyền điều hành của một đội quản lý Pháp, thường bao gồm các sĩ quan và hạ sĩ quan từ quân đội thuộc địa ở Đông Dương, những người tin rằng họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn, giống như lính Pháp tin rằng họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn ở Việt Nam. Vì vậy, ngay khi một người Việt Nam chỉ trích chỉ huy của họ hoặc phàn nàn về việc không được ăn uống đầy đủ, họ sẽ bị đánh bằng gậy. Thậm chí bên trong trại Bergerac còn có một hầm ngục, và ít nhất một nửa số người Việt Nam ở Bergerac đã bị nhốt trong hầm ngục này hàng tuần liền. Ngoài ra phải kể đến một điều rất quan trọng, đội quản lý Pháp, trong suốt những năm đó, đã không ngần ngại ăn cắp lương thực dành cho những người Việt Nam này. Vì vậy, những người Việt Nam này bị đói thực sự. Còn các dãy nhà thì không hề được sưởi ấm, nên rất, rất lạnh. Kết quả là vì đói, lạnh, bắt nạt, áp bức, số người chết bên trong trại Bergerac cao gấp bốn lần so với người dân Pháp ở thị trấn Bergerac. Đọc thêmPháp : Bảo tồn ký ức lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến II RFI : Thứ Sáu ngày 10/10/2025, thành phố Bergerac khánh thành một tấm bia tưởng niệm 62 lính thợ Đông Dương. Tại sao lại là 62 người? Phải chăng họ bị lãng quên trong lịch sử của vùng và lịch sử nước Pháp? Pierre Daum : Như tôi đã nói, tỷ lệ tử vong trong trại Bergerac cao gấp bốn lần so với bên ngoài. Vì vậy, những người đàn ông bị bệnh, và tình trạng quá tải đã khiến bệnh tật lây lan trong cộng đồng lính thợ Đông Dương, đặc biệt là bệnh lao. Hầu hết những người bị bệnh được đưa đến các bệnh viện lớn ở Bordeaux và Marseille, và trên thực tế, nhiều người đã chết ở Bordeaux và Marseille. 62 người trong số họ đã chết ở Bergerac. Ban đầu, họ được chôn cất tại một nghĩa trang, tên là nghĩa trang Pont Saint-Jean. Mộ của họ rất đẹp, tôi đã tìm được nhiều tấm ảnh chụp những ngôi mộ đó ở nghĩa trang này. Năm 1972, chính quyền thành phố Bergerac cần phải lấy lại không gian trong nghĩa trang đó nên các nhân viên thành phố đã đào tất cả các ngôi mộ lên. Họ đặt hài cốt của 62 người đàn ông này gọn gàng trong những chiếc hộp gỗ nhỏ, có đánh số và lập danh sách với số hiệu và tên của 62 người. Sau đó, 62 chiếc hộp được chuyển đến một nghĩa trang khác ở Bergerac, nơi có một lăng mộ Đông Dương tưởng niệm những người đã chết trong Thế Chiến I. Và 62 chiếc hộp đó được đặt dưới lăng mộ này. Tiếc là mọi người đã quên chúng, không ai nghĩ đến việc viết tên 62 người đã khuất lên trên lăng mộ đó để chúng ta nhớ rằng có 62 người yên nghỉ bên dưới. Khi tôi bắt đầu nghiên cứu cách đây 3 năm, tôi phát hiện ra câu chuyện này. Tôi đến gặp chính quyền thành phố Bergerac, nói với họ : “Từ 70 năm qua, có 62 người Việt Nam được chôn cất ở thành phố, nhưng không ai biết, không có tấm bia nào, không có gì cả. Họ đã bị lãng quên”. Chính quyền thành phố Bergerac đã nói với tôi là nếu tôi cung cấp danh sách chính xác tên của 62 người, họ sẽ mời một nhà chuyên nghiệp khắc tên 62 người quá cố lên một tấm bia đá cẩm thạch và sẽ đặt bia ở một vị trí nổi bật. Cho nên, thứ Sáu ngày 10/10, chúng tôi sẽ khánh thành tấm bia cẩm thạch để tưởng nhớ 62 người lính thợ Đông Dương ở Bergerac. RFI : Khi chiến tranh kết thúc, những người lao động Đông Dương khác có được hồi hương về Việt Nam không? Chuyện gì đến với họ? Pierre Daum : Khi Thế Chiến kết thúc, vào năm 1945, tất cả những người bị kẹt lại ở Pháp, bị giam cầm ở Pháp và ở Bergerac trong 5 năm, chỉ có một mong muốn duy nhất : được trở về nhà. Và họ chờ chính phủ Pháp tổ chức các chuyến hồi hương. Nhưng chính vào thời điểm đó, nhân dân Việt Nam đã nổi dậy chống lại chủ nghĩa thực dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh. Phản ứng của chính phủ Pháp, như chúng ta đã biết, là không chấp nhận nền độc lập của Việt Nam, như Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã yêu cầu. Tất cả tàu thuyền từng được lên kế hoạch để đưa những người lao động Đông Dương hồi hương cuối cùng lại bị quân đội Pháp trưng dụng để đưa quân lính đến đàn áp khát vọng độc lập của nhân dân Việt Nam. Vì vậy, những người lao động Đông Dương sẽ phải chờ thêm bốn năm nữa, tức là đến năm 1948, để cuối cùng, chính phủ Pháp bắt đầu tổ chức tàu thuyền đưa họ về Việt Nam. Quá trình hồi hương mất một thời gian dài, bắt đầu vào cuối năm 1948 và kết thúc vào năm 1952. Và trong số 20.000 người ban đầu được điều động đến Pháp vào năm 1939-1940, khoảng 16.000 người trở về, 1.000 người trong số họ đã chết, như tôi đã đề cập và từ 2.000 đến 3.000 người quyết định ở lại Pháp. Lý do chính là vì họ đã gặp một phụ nữ Pháp và bạn gái của họ mang thai. Phần lớn lúc đó là họ chưa kết hôn. Ở Pháp trong thập niên 1940, khi bạn gái mang thai, đó thực sự là một bi kịch. Vì vậy, hầu hết những người đàn ông đó đã đưa ra lựa chọn đau đớn là không trở về Việt Nam để ở lại Pháp làm trọng trách làm cha. Có khoảng 2.000 đến 3.000 gia đình Pháp-Việt được hình thành ở Pháp. Tôi biết rất nhiều, rất nhiều trong số họ. Và trong hầu hết các gia đình, con đầu lòng được sinh ra trước khi kết hôn. Sau khi đứa bé chào đời, cha mẹ đã làm giấy tờ hợp lệ và họ kết hôn, có thêm rất nhiều con. Đó là thường là những gia đình khá đông con. Đọc thêmNhững người Việt giúp cải tiến gạo Pháp ở Camargue trong Thế Chiến II RFI : Ông và ông Michel Lecat đang thực hiện một dự án lớn về ký ức của những người lính thợ Đông Dương ở Dordogne. Xin ông cho biết thêm đôi chút về dự án này! Pierre Daum : Michel Lecat là người Pháp đến từ Bergerac, ông đã nghỉ hưu. Ông nội của ông ấy là Robert Bondier, một nhiếp ảnh gia ở Bergerac. Ông Bondier có một cửa hàng ảnh trong 50 năm. Sau khi ông nội của ông qua đời, Michel Lecat đã phát hiện ra 150.000 bức ảnh hoặc phim âm bản trên gác xép của cửa hàng, ghi lại toàn bộ cuộc sống ở Bergerac từ năm 1930 đến năm 1970. Và trong số 150.000 bức ảnh đó, có 1.000 bức ảnh có người Việt Nam và đó là những người lính thợ Đông Dương, hầu hết bị ép đến đến Bergerac vào năm 1940. Họ chỉ có vài giờ tự do mỗi tuần, và nhiều người trong số họ đã đến gặp ông của Michel Lecat để chụp ảnh với ý định sau đó sẽ gửi bức ảnh này về Việt Nam để trấn an gia đình, bởi vì dĩ nhiên là gia đình họ rất lo lắng cho người con đang ở nơi rất xa, ở một châu Âu đang có chiến tranh và họ không có tin tức gì. Bức ảnh là một cách để nói với cha mẹ anh ấy rằng “Đừng lo lắng, nhìn này, con khỏe mạnh, con ăn mặc bảnh bao”… Thêm nữa, ông của Lecat cũng đã đến chụp ảnh trong trại người lao động Đông Dương. Đó là một bộ sưu tập ảnh cực kỳ thú vị và cực kỳ hiếm về chủ đề lính thợ Đông Dương. Ba năm trước, Michel Lecat đã liên lạc với tôi để đề nghị chúng tôi cùng làm việc và tôi đã đến Bergerac gặp ông ấy. Và với chất lượng đặc biệt của bộ sưu tập ảnh này, chúng tôi quyết định khởi động một dự án, được chia thành nhiều phần: có một triển lãm ảnh đang được tổ chức ở Dordogne và thậm chí có thể sẽ được triển lãm trên khắp nước Pháp ; xuất bản một cuốn sách mà tôi đang hoàn thiện, sẽ ra mắt vào tháng 01/2026; khánh thành một đài tưởng niệm rất lớn dành cho những lính thợ Đông Dương, dự kiến vào vào mùa xuân 2026; và gắn bia tưởng nhớ tại nghĩa trang Bergerac, nơi chôn cất 62 người lính thợ Đông Dương vô danh trong hơn nửa thế kỷ tại nghĩa trang này. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn sử gia Pierre Daum, chuyên gia về quá khứ thuộc địa và là nhà báo của nguyệt sang Le Monde Diplomatique. Đọc thêmNhững người lính Việt Nam “Hy sinh vì nước Pháp” trong Thế Chiến I
Cho clit is undefeated. I've been ferry free forever for no particular reason. Dating tid bits. See omnystudio.com/listener for privacy information.
Harry Potter und das ungewollte DateEndlich wieder Hogwarts! Endlich wieder in der Bibliothek chillen! Endlich wieder peinliche Begegnungen mit Cho Chang!Hach ist das schön. Eigentlich sollte Harry zu Snape's Büro und mit ihm Okklumentik lernen. Aber vorher kommt eine der witzigsten und gleichzeit schrecklichen Unterhaltungen des ganzen Buches. Cho versucht Harry dazu zu bekommen sie nach hogsmeade einzuladen. AM FALENTINSTAG! Das sollte doch jeder verstehen! Aber wer bekommt das Memo wieder nicht? Harrys Hirn.Bei so langsamen Reaktionsfähigkeiten ist es schon fast die gerechte Strafe, dass Harry danach zu Snape in den "Nachhilfeunterricht" muss. Was dort passiert und wieso Sophia glaubt Snape sei nur wenige Zentimeter groß, erfahrt ihr in der neuen Folge.Viel Spaß beim Zuhören! :)UUUND ganz neu haben wir jetzt auch einen Whatsapp Kanal: https://whatsapp.com/channel/0029VbB8C00CRs1obJUivo2ZIhr wollt uns live sehen? Am 18.10.25 in Bochum habt ihr die Chance!Tickets gibt's hier:https://t.rausgegangen.de/tickets/happy-potter-bochumWir haben auch eine Patreon-Seite!Schaut doch mal vorbei, es gibt Bonus-Episoden, Sticker und andere aufregende Dinge! Besucht uns auf den sozialen Netzwerken, unserer Webseite und erzählt euren Freunden von uns! Vielleicht haben die ja auch Lust auf einen Harry-Potter-Podcast!Webseite: www.Happy-Potter.netPatreon: www.patreon.com/happypotterDiscord: https://discord.gg/2EajMaGXpcFacebook: www.facebook.com/happypotterpodcastInstagram: @happypotterpodUnd wir haben jetzt auch Playlists mit unseren Lieblingssongs:Martins Playlist:https://open.spotify.com/playlist/2IBxDsPVm1UdNBiW2QkgEJ?si=rU6HLkoFQfGGjvab8g8yEQ&pi=e-bKuIHap7RWCuSophias Playlist:https://open.spotify.com/playlist/0kuOP0TujMhrqOWzLwUH1O?si=9LIZkc2nQTOajHPaqpP_RA&pi=e-tc6w0NgQRo-W Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.
Hokeistki z klubu Kojotki Naprzód Janów to wicemistrzynie Polski. Choć podobnie, jak ich koledzy z lodowiska, młode kobiety trenują 6 razy w tygodniu, nie zarabiają, bo... są kobietami. Mimo to Sylwia Łaskawska, Karolina Churas i Julia Zyguła kochają to, co robią. Karierę młodych hokeistek z klubu "Kojotki Naprzód Janów" można śledzić na ich facebooku. Zapraszamy na reportaż Agnieszki Loch zatytułowany "Wymarzona praca " w realizacji Jacka Kurkowskiego.
Nowy rozdział w Loewe właśnie został otwarty. Choć wielu uparcie twierdzi, że Jonathan Anderson jest niezastąpiony, nowi dyrektorzy kreatywni hiszpańskiego domu mody właśnie udowodnili coś zupełnie innego. Jack McCollough i Lazaro Hernandez wcale nie zamierzają odcinać się od dziedzictwa swojego poprzednika, a wręcz przeciwnie – pielęgnować je. Tylko na własnych zasadach.Autorka: Ewelina KołodziejArtykuł przeczytasz pod linkiem: https://www.vogue.pl/a/loewe-kolekcja-wiosna-lato-2026
My Story Talk 28 Activities Beyond Europe Welcome to Talk 28 in our series where I'm reflecting on God's goodness to me throughout my life. Looking back on it, I suppose I travelled fairly widely during the time we were at Mattersey. Apart from the many places in Europe we visited, I found myself on the Lord's business in America, Africa, and Asia, though never, incidentally in Australia. These visits, which cover the period from 1982 to 2004, were either in connection with the Pentecostal World Conference which later became the Pentecostal World Fellowship or preaching trips The Pentecostal World Conference My reason for attending the Pentecostal World Conference in Oslo in 1992 was that, because it was being held in Europe, the PEF presidium had decided to hold a committee meeting there at the same time. Eileen and I had visited Norway for the first time two years previously where we had enjoyed a holiday there before attending the EPTA conference in Lillehammer. This time, however, I was alone. During one of the mornings, I was sitting high up at the back of the auditorium and was surprised to hear my name mentioned at the close of the session. Dr Ray Hughes was asking me to see him on the platform during the coffee break. I couldn't imagine why but, of course, went to see him as requested. This was not quite as easy as it sounds because to get there I had to make my way through hundreds of people who were exiting the venue and all walking in the opposite direct from me. When I finally got there, he said to me, Oh David, as you know, you've been appointed to the Advisory Committee, and we'd like you to sit on the platform with us for the rest of the conference. Well, I knew nothing about this appointment. It was a complete surprise and when a year or so later I was elected to the Presidium it was an even greater honour. The 1995 conference was particularly special because it was held in Jerusalem. And this time Eileen came with me. We had never been in Israel before and we made sure that we saw as many of the biblical sites as possible. We had booked a tour with a Christian company and travelled in a small coach with a group of Brits who were attending the conference, and it was there that we met Ivor and Jan Maddison who were pastoring the church in Ollerton, not far from Mattersey. (We got to know Jan very well when she came to live in Brixham after Ivor had died). The tour involved a visit to Tiberias on the shore of Lake Galilee from where we visited Capernaum, took a trip across the lake in a boat like those used by Jesus' disciples and from which he calmed the storm, and had a meal on the lake shore eating ‘St. Peter's fish', so called because of the occasion where he found a coin in the fish's mouth. We went to Caesarea Philippi, a beautiful place, where Peter confessed Jesus as the Christ. We visited the place in the river Jordan where Jesus is believed to have been baptised, and further south we had a brief stop in Jericho. We travelled up from there to Jerusalem in time for the conference and of course visited Bethlehem and all the places you would expect, many of which have been spoilt by centuries of tradition and tourism. Eileen got to see Nazareth, but I missed the trip because I had to be in a presidium meeting. Highlights in Jerusalem were the Garden of Gethsemane, and the via dolorosa. But without a doubt the visit to the garden tomb was by far the most moving. It may or may not have been the actual site of Jesus' burial and resurrection, although I like to think that it was, but it was certainly a powerful reminder of the truth – Jesus is not here, he is risen! And who could forget the visit to the Upper Room and joining with other Pentecostals in speaking in tongues as the first disciples did in Acts 2? After the conference we visited Masada, floated on the Dead Sea where it's impossible to sink, and went to the cave where the Dead Sea scrolls were discovered. It was there, I think, that we paid an Arab to let us take a photo of his camel! We also visited a museum where we saw a number of ancient seals, some dating back over three thousand years, and reminding us of Paul's teaching that after we believed we were sealed with the promised Holy Spirit. So during the trip there was much to remind us of Bible times and the truth of God's word. We were glad that we went but have never had a wish to return. Eileen is now enjoying the heavenly Jerusalem and one day I will join her there. And all because of Jesus! In 1998 the conference was held in Seoul, Korea, at the vast Yoido Full Gospel Church led by David Yongghi Cho, numbering at the time some 720,000 members. We had at first thought to extend the trip and visit China and the Great Wall. Eileen had always had a great interest in China, but when it turned out that the visit was not feasible she decided not to accompany me. I had met Cho at the London world conference in 1976 when I gave him a copy of my book, Know the Truth, later to be renamed You'd Better Believe It. I was naturally interested to visit his church and to experience one of the Sunday services there. There were, I think, six services each Sunday to accommodate the vast numbers. Everything had to be organised and left little if any room for the exercise of spiritual gifts like tongues, interpretation and prophecy which we might expect in a smaller congregation. Presumably there was opportunity for such gifts to be experienced in their many home groups. The final meeting of the conference was held in the Olympic Stadium where it was estimated that over 100,000 people were in attendance. I was privileged to read from the scriptures, which I found a little difficult on this occasion as I had somehow mislaid my glasses on a visit to the Prayer Mountain and was using a pair borrowed from an English brother who was staying in the same hotel as me. During the conference it was decided to hold the next presidium meeting in Hawaii in 1999. The reasoning seemed to be that as Hawaii is in the Pacific Ocean it was not too far from either Asia or America. However, no one considered the inconvenience for anyone travelling from Europe! But as I was the only European on the presidium I could hardly object. So that is how I came to fly to Hawaii, a 24 hour journey each way, for a three-day committee meeting! The purpose was to plan for the 2001 conference which was to be held in Los Angeles. Fortunately, the meeting finished a day early and I had a day to spare before flying home. This gave me the opportunity to take a minibus tour of the island, visiting among other things Pearl Harbour and a tropical rain forest. I also experienced macadamia nuts for the first time and learnt that the name comes a Scot named Macadam who first discovered them and who also invented tarmac! Eileen was able to travel with me for the Los Angeles conference in 2001 and in the week before the conference we both enjoyed a short holiday staying with Brian and Ann Lee, old friends from Retford who had emigrated to La Verne just a few miles from L.A. It was good to renew fellowship with them and to preach in their local AoG church. At the conference itself I had been asked to chair a theological seminar at which Roger Stronstad, a Canadian scholar whose writings I greatly admired, was to be one of the speakers. The subject was the baptism in the Holy Spirit, and at the last minute, I was asked to be the other speaker deputising for an American brother who was unable to attend. I was so grateful to the Lord for the opportunity he gave me to speak at the conference and the help he gave me to do so. The last world conference we attended was in South Africa in 2004. This conference was in many ways different from all the others. In the opening meeting the delegates were warmly welcomed by the President of South Africa, Thabo Mbeke who had been deputy president under Nelson Mandela from 1994 to 1999 and served as president from '99 to 2008. Eileen felt particularly honoured as she was seated right next to him on the front row! But much more important was the fact that so many participants were from African countries, and the meetings were marked by the freedom of expression so typical of African worship and so different from the formalism we have seen elsewhere even in some Pentecostal meetings. It was something we were to see much more of in later visits to Africa in the years that followed my retirement from Mattersey, After the conference we hired a car and travelled to the Africa School of Missions founded by Paul Alexander, my newly appointed successor at Mattersey. We broke our journey at Witbank where I preached at two services on the Sunday, travelling on to ASM on the Monday where we were warmly welcomed by the staff. They asked us if we were planning to visit the Kruger National Park, and, when we said no, one of them kindly phoned a relative who worked there and arranged for us to stay for a few nights at Skukuza, one of the safari lodges in the park. Our accommodation was in an extremely comfortable one-room apartment that looked something like a traditional African hut with a thatched roof. The restaurants served excellent food which was relatively inexpensive and offered views overlooking the wonderful wildlife. We enjoyed every moment we spent at Skukuza, especially when a company of mongooses ran across the compound in single file right in front of us. But of course it was driving outside the safari park that we saw most of the wildlife. It was early spring in the southern hemisphere, and the leaves had only just begun to appear on the trees and bushes, making it easy to spot whatever animals and birds happened to be in the area. We travelled miles each day, taking care to obey the instruction never to get out of the car except in specially designated safe places. We were also glad that the car had good air-conditioning because it was often important to ensure the windows were closed. On one occasion we stopped to watch a group of baboons in the road just ahead of us and I closed the electric windows. However, I had momentarily forgotten that, unlike our car at home, our hire car had electric windows only at the front. We only realised the back ones were still open when a large baboon leapt in onto the back seat attempting to steal our lunch! I turned round and shouted in a loud voice – Eileen later told the grandchildren that Grandad roared like a lion – and thank God, the animal obeyed! Both we and our lunch were safe. After that, we never opened the back windows again for the rest of the trip. Apart from that, the remainder of our stay there was relatively uneventful. We loved it so much that when I was back at ASM a few years later I borrowed a car and went back there. Our visit was far too short but was the highlight of our trip to South Africa. We were particularly grateful that in such a short time we had managed to see the big five – lion, leopard, elephant, rhino, and buffalo, a wonderful ending to our last Pentecostal World Conference. Preaching trips But of course my travels beyond Europe were not limited to my role in the Pentecostal World Fellowship. There were preaching trips as well. At first, these centred on the USA where I combined preaching with raising funds for our building project. An American AoG pastor named Paul Curtis had a burden for Britain came to see me on one of his trips to England and said he would like to help raise funds for our new Hall of Residence. So at Paul's invitation, in February '82 I spent ten days preaching in AoG churches in North Carolina with a view to returning in mid-May for a period of four weeks. I enjoyed the trip in February, and the Lord blessed my ministry, and about £1400 was raised towards our building fund. Hopefully the trip in May-June would be more fruitful in that respect. I was looking forward to it and had bought my flights in advance as that was more economical. But only a few weeks before the trip Paul contacted me to apologise and tell me that he had been unable to arrange a suitable itinerary for me and that he felt that the time was not right. But I had already bought non-refundable tickets for flights both ways! And I had already planned the timetable at Mattersey to enable me to be away from the college throughout that period! After praying about it I contacted John and Sara Miles who were by then living in Naperville, Illinois, and asked their advice. Sara suggested that I was in a situation like Abraham's when he set off not knowing where the Lord would lead him. So I used the air tickets to fly as far as New York and paid the extra to fly on to Chicago where John and Sara collected me from O'Hare airport on May the 18th. When I arrived they told me that they had contacted Richard Dortch, the Superintendent of the Illinois AoG, and that he was arranging an itinerary for me around Illinois where I was already known through my three visits back in the seventies. I stayed with John and Sara until 6th July preaching in churches in the Chicago area on Sundays and Wednesday evenings. These included Yorkville, Palatine, Dekalb, Naperville, and Lake Villa as well as Chicago itself. I also spent a day at Wheaton College, had lunch with John, who was now a French professor there, and with Peter Kuzmic from Yugoslavia, and saw the wardrobe made famous in C.S. Lewis's The Lion, the Witch, and the Wardrobe. On Thursday the 27th I flew via Denver to San José, California, to visit Bethany Bible College. Dick Foth, who had been the pastor in Urbana where I first preached on my visit to the States in 1972, was now the President of Bethany and I had a couple of useful days with him visiting the college and comparing notes. I had an interesting experience flying back on the Saturday. The weather was extremely hot and everyone else was dressed in shorts and T shirts. I, however, was still wearing my jacket. As I was waiting in the queue to check in, an airline official approached me and said, Excuse me, sir. I wonder if you can help me. We're overbooked in Economy Class, and as you seem to be a suitable gentleman, I wonder if you would mind travelling First Class. Would I mind! It was the first and only time I have travelled First Class and, although I could never justify the expense of doing so, I was more than happy to enjoy the experience at no extra cost to myself. On 6th June I left Naperville and flew to Urbana where I preached on the Sunday and where my old friend Jim Hall was now the pastor. The next day I flew to Springfield MO to visit two other AoG colleges, Evangel College and Central Bible College, as well as the Graduate School located in the AoG Headquarters in Boonville Avenue. When I returned to Urbana on the Friday, Jim Hall had arranged an English Evening where I talked about the spiritual state of the UK and taught the Americans how to make a proper cup of tea! On the Sunday morning, I preached in Normal, where Marvin Foulkes was the pastor. I had preached for Marvin back in '72 and '74 and was delighted to see how much the church had grown since then. In the evening, I preached in Decatur from where I flew back to Chicago ready for my return to England the next day. Looking back on it, I felt that the trip had been very worthwhile, not just because it raised about $5000 for our college, but because of the opportunity it gave me to visit and learn from other AoG colleges and expand my vision for Mattersey. I was very grateful to Richard Dortch for making it possible. A year later I met Dortch in Portugal at the opening of the new chapel in the Bible College in Fanhões, near Lisbon, and he shared with me that he was soon likely to become the Executive Vice-President at PTL, the centre of Jimmy and Tammy Bakker's ministry, and he invited me to preach for a week on their TV station. This took place in 1985 and during our stay Eileen, Jonathan, and I were treated to the luxurious accommodation of the Heritage Grand Hotel. And we came home with a significant sum of money for our building fund. We were, of course, very grateful for their hospitality and generosity, but I confess I was not really comfortable about so much luxury. Coming to terms with the cultural differences and levels of poverty or prosperity we see around the world is by no means easy. The riches of America were in stark contrast with the poverty I was to see in India less than a year later. But I'll tell you about that next time.
Adam i Ida mają po czterdzieści kilka lat. Kiedyś byli parą. Po ich związku zostały wspomnienia, kilka niezabliźnionych ran i... suka rasy Akita, która do dziś przypomina im o tym, co było. Choć od rozstania minęło już sporo czasu, oboje wciąż noszą w sobie przekonanie, że to, co ich łączyło, było czymś wyjątkowym. Teraz spotykają się przypadkiem. Adam, lekarz, wykonuje testy na Covid. Ida, chora, trafia właśnie do niego. Od tej chwili zaczynają rozmawiać codziennie. Oficjalnie, jako pacjentka i jej lekarz rodzinny. Nieoficjalnie, jako ludzie, którzy kiedyś byli sobie bardzo bliscy. I może wciąż są. Reżyseria: Katarzyna Łęcka. Reżyseria dźwięku: Andrzej Brzoska. Muzyka: Szymon Burnos. Kierownictwo produkcji: Beata Jankowska. Obsada: Grażyna Wolszczak i Bartosz Opania
- Choć od lat mówi się, że Polacy mają dość duopolu, to jednak PO i PiS razem wciąż zbierają ponad 60 proc. poparcia - komentował w Polskim Radiu 24 publicysta Jerzy Modlinger, odnosząc się do najnowszych sondaży.
HAPPY INDEPENDENCE DAY!This week's episode is very Power Puff Girl coded; FK & Jola are joined by Tosin, a Misan by Bamboo top user who's a makeup artist and business mogul. They start off chatting about moving apartments, an insane birthday night at Zaza featuring a giraffe and then tackle some very interesting dilemmas about parents prioritizing other people's feelings & wellbeing over their own children, weighing the cost of birthday gifts given and received, and the crucial choice of leaving your 9to5 to become an entrepreneur. They segue into parenting, discipline and learning life lessons on your own as a teenager. Enjoyyy this long, special, life-saving episode brought to you By Misan By Bamboo!Join FK & Jola on their Samsung journey and enjoy the brand new range of Samsung Foldables. Shop at https://www.samsung.com/africa_en/storelocator/Don't forget to use #ISWIS or #ISWISPodcast to share your thoughts while listening to the podcast on X! Rate the show 5 stars on whatever app you listen to and leave a review, share with everyone you know and if you also watch on YouTube, subscribe, like and leave a comment!Choose Bolden products for all your skincare needs like we do! Shop at Medplus Pharmacy, Nectar Beauty, Teeka4.com, Beauty Hut Africa, Cho & Zen (Abuja), Tulip Bodycare (Abuja).For listeners in areas the US, Canada, UK, and the rest of Europe, we've secured a special discount for you. Use the code ISWIS20 to receive 20% off all items on the site; www.boldenusa.comMake sure to follow us onTwitter: @ISWISPodcastInstagram: @isaidwhatisaidpodYoutube: @isaidwhatisaidpodHosted on Acast. See acast.com/privacy for more information. Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.
Ô nhiễm không khí và nắng nóng kéo dài không chỉ tác động đến sức khỏe và tỉ lệ tử vong, mà còn ảnh hưởng đến việc làm tại Việt Nam. Một bộ phận người lao động phải làm việc thêm 1 tiếng 45 phút và bị giảm thu nhập 129.000 đồng/tháng trong những giai đoạn như vậy. Đây là một trong những nhận định được nêu trong nghiên cứu “Nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm ảnh hưởng đến hiệu suất lao động ở Việt Nam như thế nào?” Nghiên cứu được ông Nguyễn Việt Cường, viện phó Viện Nghiên cứu Phát triển Mêkông và kinh tế gia Cecilia Poggi, Cơ quan Phát triển Pháp - AFD thực hiện trong khuôn khổ Dự án GEMMES Việt Nam và được đăng trong số 79 AFD Research Paper (Tài liệu Nghiên cứu của AFD), tháng 07/2025. Kinh tế gia Cecilia Poggi, điều phối các chương trình nghiên cứu liên quan đến bảo trợ xã hội, thế giới lao động và hòa nhập xã hội tại AFD, đã dành cho RFI Tiếng Việt buổi phỏng vấn về chủ đề này. RFI : Vào cuối tháng 7 trong Tài liệu Nghiên cứu của AFD, ông Nguyễn Việt Cường và bà đã xuất bản một nghiên cứu về "Tác động của nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm không khí đối với nguồn cung lao động và thu nhập: dữ liệu từ Việt Nam". Tình hình ở Việt Nam đáng báo động đến mức nào để một nghiên cứu như vậy được thực hiện ? Cecilia Poggi : Tình hình hiện nay vẫn chưa hoàn toàn đáng báo động. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng với việc các đợt nắng nóng cực đoan ngày càng trầm trọng, chẳng hạn như đợt nắng nóng 44°C được ghi nhận vào tháng 04/2024 ở miền Bắc Việt Nam, cùng với các đợt ô nhiễm ngày càng gia tăng, những câu hỏi như thế này cần được đặt ra. Các dữ liệu cũng cho thấy rõ điều đó. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, gây thiệt hại khoảng 3,2% GDP vào năm 2020. Và mặc dù đã có các chính sách chủ động nhằm giảm thiểu ô nhiễm không khí, Việt Nam vẫn luôn có mức độ bụi mịn PM2.5 cao, tương đương với Trung Quốc và cao hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu trong hơn 20 năm qua. Đọc thêmViệt Nam: Cá chết hàng loạt do nắng nóng khủng khiếp Những mối đe dọa môi trường này không phải là những rủi ro trừu tượng. Chúng gây ra hậu quả trực tiếp đến sức khỏe, khả năng làm việc và khả năng kiếm sống của người dân. Vì vậy, nghiên cứu của chúng tôi tìm hiểu tác động của nắng nóng cực đoan và ô nhiễm không khí đến công việc của người dân tại Việt Nam. Cụ thể, chúng tôi muốn tìm hiểu xem những hiện tượng đó đã khiến một số người ngừng làm việc hoặc ít tích cực tìm việc như thế nào, cũng như ảnh hưởng ra sao đến hiệu suất làm việc của họ, bằng cách phân tích dữ liệu từ tất cả khu vực tại Việt Nam từ 2015-2022. RFI : Nghiên cứu nêu rằng không thấy những tác động đáng kể của nhiệt độ cực đoan hoặc ô nhiễm không khí đến sự tham gia của lực lượng lao động nhưng các tác giả đã quan sát thấy nhiều tác động nhỏ nhưng đáng kể đến thời gian làm việc và thu nhập. Có thể giải thích hiện tượng này như thế nào ? Cecilia Poggi : Nhìn chung, mọi người không nghỉ việc vì những thay đổi bất thường về thời tiết hoặc ô nhiễm. Do đó, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động vẫn ổn định. Tuy nhiên, thực tế lại tế nhị hơn. Nắng nóng gay gắt hoặc một ngày ô nhiễm cao khiến khó có thể duy trì số giờ làm việc hoặc năng suất tương tự như bình thường. Điều này có thể được giải thích bởi những tác động đến sức khỏe, như mệt mỏi hoặc các vấn đề về hô hấp, hoặc chủ ý giảm tốc độ làm việc vì lý do an toàn. Và chúng tôi chứng minh rằng việc làm vẫn còn, nhưng khả năng làm việc với năng suất tương đương có thể bị ảnh hưởng, đặc biệt là trong giai đoạn ô nhiễm nghiêm trọng hơn mức bình thường. Đọc thêm Ô nhiễm không khí ở Hà Nội: Giải pháp không phải đơn giản Ví dụ, chúng tôi nhận thấy rằng một ngày nắng nóng mỗi tháng làm giảm khoảng 0,5% giờ làm việc hàng tuần và 0,7% thu nhập hàng tháng. Và tác động này thậm chí còn rõ rệt hơn khi liên quan đến ô nhiễm : Tăng thêm một microgam trên một mét khối hạt mịn PM2.5 dẫn đến giảm 1% số giờ làm việc, tương ứng với việc bị mất 1 tiếng 45 phút mỗi tháng. Ô nhiễm cũng tác động đến thu nhập hàng tháng, theo đánh giá trong nghiên cứu của chúng tôi là 1,7%, khoảng 129.000 đồng/tháng, tương đương từ 3 đến 4% mức lương tối thiểu thấp nhất theo chuẩn 2023. Xin lưu ý rằng hiện tại chúng tôi đang tiến hành bản phân tích thứ 10 để hiểu rõ hơn về tác động của ô nhiễm, cũng như nhiệt độ khắc nghiệt đối với sức khỏe. Bài báo nghiên cứu thứ hai sẽ phân tích tác động đến chi phí y tế và tỷ lệ tử vong. RFI : Trong nghiên cứu, bà và cộng sự cũng đề cập đến sự bất bình đẳng về tác động của ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan đối với người lao động. Tại sao lại có sự bất bình đẳng này ? Cecilia Poggi : Không phải tất cả người lao động đều bị tác động như nhau, và nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng không phải tất cả đều có thể thích nghi như nhau. Cho nên xuất hiện sự bất bình đẳng trước những hiện tượng này. Nghiên cứu cho thấy rằng người lao động thường xuyên phải làm việc theo giờ cố định không thể dễ dàng bù đắp số giờ bị mất, cho nên họ cảm nhận được tác động của ô nhiễm nhiều hơn so với những người lao động tự do vì những người này có thể phân bổ khối lượng công việc của họ trong nhiều ngày. Một điều đáng quan tâm là những người lao động ngoài trời, mặc dù tiếp xúc nhiều hơn với hiện tượng biến đổi khí hậu, nhưng thực sự lại ít bị ảnh hưởng hơn khi họ tự kinh doanh, làm việc độc lập bởi vì họ có thể sắp xếp lại công việc của mình. Ví dụ trường hợp của những nông dân tự do ở nông thôn hoặc những người bán hàng rong ở thành phố. Ngược lại, khi nhân viên phải làm việc ở ngoài trời, ví dụ trong ngành xây dựng, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy những tác động tiêu cực rõ rệt hơn nhiều. Đọc thêmCơ quan AFD của Pháp hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết khí hậu RFI : Liệu có một vùng hoặc nhiều vùng ở Việt Nam bị tác động nặng hơn cả từ những hiện tượng ô nhiễm không khí và nhiệt độ cực đoan này ? Cecilia Poggi : Để trả lời câu hỏi này, trước tiên tôi muốn nhắc lại rằng các vùng miền ở Việt Nam chịu mức độ ô nhiễm khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện thời tiết. Một nghiên cứu bổ sung mà đồng tác giả là phó giáo sư Nguyễn Thị Nhật Thanh thuộc trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy có sự biến động mạnh mẽ theo vùng về cách tình trạng ô nhiễm biển đổi tùy thuộc vào thời tiết hoặc hiện tượng khí tượng. Do đó câu trả lời không đơn giản như vậy, bởi vì, ví dụ, ở miền Bắc Việt Nam, những thay đổi về nhiệt độ và độ ẩm ảnh hưởng đến ô nhiễm không khí về lâu dài, trong khi lượng mưa và tốc độ gió lại có tác động ngay lập tức trong việc thay đổi nó. Tuy nhiên, những tác động này không giống ở miền Nam Việt Nam, nơi tất cả các tác động có xu hướng xảy ra ngay lập tức. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng ở cấp độ quốc gia, các tác động xấu của các hiện tượng nhiệt độ cực đoan và ô nhiễm đối với thời gian làm việc thể hiện rõ rệt ở khu vực thành thị hơn là khu vực nông thôn. Tiếp theo, nếu gộp các khu vực thành vùng lớn như miền Nam, miền Trung hoặc miền Bắc, chúng ta cũng thấy rằng trong cả hai trường hợp, tác động của những ngày nắng nóng hoặc các đợt ô nhiễm ở miền Nam rõ rệt hơn so với miền Bắc hoặc miền Trung. Và với những tác động này, chúng tôi khuyến nghị rằng các biện pháp đối phó, phòng ngừa nên được thực hiện tùy theo các khu vực và phải được thử nghiệm bởi các cơ quan chức năng, đặc biệt là về mặt bảo vệ việc làm trước những thách thức ô nhiễm. Đọc thêm“Xanh hóa” giao thông Hà Nội: Cần bỏ ôtô cá nhân thể hiện “thành đạt” và kết nối hệ thống công cộng RFI : Vậy, trước những hiện tượng này, các nhà nghiên cứu khuyến nghị chính phủ Việt Nam nên có những biện pháp nào để giải quyết ? Cecilia Poggi : Dựa trên kết quả nghiên cứu, trước tiên cần xem xét việc bổ sung các cách thức liên quan tới sức khỏe và an toàn lao động. Việt Nam hiện đã lập giới hạn nhiệt độ đối với công việc trong nhà, nhưng chưa có tiêu chuẩn nào về chất lượng không khí tại nơi làm việc. Đây là một lĩnh vực mà Việt Nam có thể tham khảo từ các quốc gia đã đặt ra ngưỡng phơi nhiễm ô nhiễm không khí tại nơi làm việc. Thứ hai, các nhà hoạch định chính sách có thể thử nghiệm các giải pháp về công việc đặc thù để ứng phó với các đợt ô nhiễm cao, có tính đến đặc điểm công việc của người lao động. Ví dụ, đối với người lao động ở các khu vực đô thị bị ô nhiễm, chúng ta có thể phân tích chi tiết hơn xem liệu thời gian làm việc linh hoạt hoặc làm việc từ xa có thể vẫn cho phép duy trì năng suất trong những ngày ô nhiễm cao hay không. Cuối cùng, để tiếp tục các chính sách về môi trường cũng cần giải quyết gốc rễ của ô nhiễm. Vì vậy, về lâu dài, việc tiếp tục thực hiện các chính sách môi trường đang triển khai sẽ góp phần cải thiện đời sống của mọi người với việc giảm phát thải, tăng cường giao thông công cộng bền vững và thêm không gian xanh. Bên cạnh đó cũng không được quên những thách thức quan trọng, ví dụ như cần hạn chế việc cứng hóa nền đất hay bê tông hóa quá mức trong quá trình đô thị hóa. Đọc thêmMoov'Hanoi : Đưa giao thông công cộng thành phương thức di chuyển hấp dẫn ở Hà Nội RFI : Nghiên cứu này nằm trong khuôn khổ chương trình GEMMES Việt Nam. Xin bà giải thích thêm về chương trình này và nghiên cứu của bà trong khuôn khổ chương trình ! Cecilia Poggi : GEMMES Việt Nam giai đoạn 2 là chương trình nghiên cứu ba năm do Cơ quan Phát triển Pháp - AFD tài trợ, phối hợp với Cục Biến đổi Khí hậu, bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam và được triển khai với sự hợp tác của các chuyên gia và tổ chức khoa học, đại học Việt Nam. Trong giai đoạn 1, chương trình tập trung vào vấn đề khí hậu. Giai đoạn 2 hiện nay hỗ trợ chính phủ thực hiện tham vọng trung hòa các-bon và đồng thời trở thành một quốc gia có thu nhập cao. Cụ thể hơn, chúng tôi có ba trục nghiên cứu. Trục đầu tiên tìm cách hiểu rõ hơn về các đợt nắng nóng cực đoan bằng cách nghiên cứu các mô hình khí hậu. Trục thứ hai xem xét các tác động kinh tế vĩ mô của quá trình chuyển đổi năng lượng. Trục thứ ba, trong đó có nghiên cứu mà chúng ta đang đề cập, xem xét cách biến đổi khí hậu và quá trình chuyển đổi năng lượng tác động đến người dân, hay đúng hơn là các khía cạnh xã hội của những quá trình chuyển đổi này. Chương trình này thực sự là một ví dụ về sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu và các tác nhân công và cho thấy rằng nghiên cứu có thể hỗ trợ việc xác định và triển khai các chính sách công cho quá trình chuyển đổi sinh thái. Toàn bộ kết quả sẽ được hoàn thiện vào mùa hè 2026. Công chúng quan tâm có thể truy cập vào trang web của AFD, trên đó có một trang dành riêng cho chương trình GEMMES Việt Nam 2. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn kinh tế gia Cecilia Poggi, Cơ quan Phát triển Pháp - AFD.
Not again! Chip Kidd and Michael Cho are the latest comic book creators to find their way, literally, into comics. The Avengers in the Veracity Trap, published as part of the Marvel Arts imprint of Abrams ComicArts, propels the titular superheroes from their dimension into ours, revealing that Kidd and Cho control their free will. The oversized original graphic novel is a stunning-looking comic, thanks to Michael Cho making magic with sequentials, taking a short break from his usual stellar cover work. What is it about comics? Read enough of them, and suddenly you want to be in them. The medium invites invasion, calling folks like Stan Lee, Jack Kirby, Grant Morrison, Brian Michael Bendis, Ta-Nehisi Coates, and others to throw themselves upon the panels. Maybe it's because, as children, we wrap this flatland universe around us like a blanket. It's comfy and protective. It's where we want to go when the third dimension reveals itself as too damn physical with our soft little bodies. Chip Kidd joins the podcast this week to discuss how he once again wormed his way into comic book panels (yeah, this is not his first offense. See also, Batman: Death by Design and Alex Ross's Marvelocity). We discuss how "The Veracity Trap" has become a valuable concept for us personally as we struggle with the strings that direct our movements these days. As usual, the conversation gets philosophical, breaking down free will and the troubled waters between artist and audience. The Avengers in the Veracity Trap is now available wherever rad comics are sold. Make sure you follow Chip Kidd on Instagram. This Week's Sponsors Looking for sci-fi comics that go further than you've ever been before? Then you need 2000 AD – it's the Galaxy's Greatest Comic! Whether you're a new or returning reader, September is the perfect time to try out 2000 AD, with the launch of 2000 AD issue 2450 -- a jump-on issue with a fresh start for every story! Featuring a terrifying new Judge Dredd story by Rob Williams and Henry Flint, the issue also has a major new Rogue Trooper story from the team of Alex de Campi and Neil Edwards! Get a print subscription to 2000 AD and it'll arrive through your letterbox every week, and your first issue is free. Or, subscribe digitally and you can download DRM-free copies of each issue for only $9 a month. That's 128 pages of incredible comics every month for less than $10! For thirty years, Street Sharks has remained a fan-favorite franchise, but the fearless Bolton Brothers have been cruelly absent from comic book shops. Until now. This September, IDW Publishing launches a brand new five-issue Street Sharks mini-series from writer Stephanie Williams and artist Ariel Medel. The new series celebrates the JAW-SOME characters you already love while exploring new depths to their souls and universe. So, get ready to return to the chaotic streets of Fission City as Ripster, Jab, Streex, and Big Slammu fight to protect their home against twisted experiments gone wrong, including muscle-bound mutant lobsters, ruthless squids, and deranged scientists. Other Relevant Links to This Week's Episode: Subscribe to The Stacks, Comic Creators Name Their Favorite Comics Chip Kidd's Jurassic Park TED Talk Final Round of Plugs (PHEW): Support the Podcast by Joining OUR PATREON COMMUNITY. The Comic Book Couples Counseling TeePublic Merch Page. Don't forget to grab your tickets for our September 28th Alamo Drafthouse Winchester screening of Event Horizon, co-sponsored by Four Color Fantasies. And, of course, follow Comic Book Couples Counseling on Facebook, on Instagram, and on Bluesky @CBCCPodcast, and you can follow hosts Brad Gullickson @MouthDork & Lisa Gullickson @sidewalksiren. Send us your Words of Affirmation by leaving us a 5-star Review on Apple Podcasts. Continue your conversation with CBCC by hopping over to our website, where we have reviews, essays, and numerous interviews with comic book creators. Podcast logo by Jesse Lonergan and Hassan Otsmane-Elhaou.
Kup książkę „Chiny jednego dziecka” na stronie Empik: https://www.empik.com/chiny-jednego-dziecka-sochon-piotr-truszczynska-weronika-urban-nadia,p1666533204,ksiazka-p Kup książkę „Chiny jednego dziecka” na stronie wydawnictwa Znak: https://rcl.ink/nyD18Dołącz do grona Patronów tego podcastu na http://www.patronite.pl/maopowiedziane Sklep Mao Powiedziane https://maopowiedziane.pl/ Posłuchaj dalszej części odcinka na kanale Mao Powiedziane Plus na Spotify: https://open.spotify.com/show/0ySk7ZCQPHXRGLeC7IaZkj?si=ciUq8dgETyi4Hw4Zmkl5Ug Jak połączyć konto na Patronite ze Spotify https://patronite.pl/post/71266/polacz-konto-na-patronite-ze-spotify Teorie spiskowe najlepiej rozwijają się w atmosferze niewiedzy, tajemnicy i podejrzeń. Choć często kojarzymy je z demokratycznymi krajami liberalnego Zachodu, to także za Wielkim Murem znajdują dla siebie podatny grunt. W tym odcinku rozmawiamy o tym, co sprzyja powstawaniu teorii spiskowych w Chinach, oraz przybliżamy kilka z najpopularniejszych z nich. Dołącz do naszego Discorda (dla Patronów) https://patronite.pl/post/59230/jak-dolaczyc-do-naszego-discordaPostaw nam kawę na http://buycoffee.to/maopowiedzianeInstagram: http://instagram.com/maopowiedzianeInstagram Nadii: http://instagram.com/nadia.urbanInstagram Weroniki: http://instagram.com/wtruszczynskaNapisz do nas: kontakt@maopowiedziane.pl
- Chủ tịch nước Lương Cường tới Hoa Kỳ, bắt đầu các hoạt động ngoại giao song phương nhân dịp dự Phiên Thảo luận chung cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 80.- Khánh Hòa đề ra mục tiêu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm xã hội bình quân từ 11 đến 12% mỗi năm, thuộc nhóm 10 địa phương có tốc độ tăng trưởng cao nhất cả nước vào năm 2030.- Cho ý kiến về Dự án Luật Thương mại điện tử, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị tạo hành lang pháp lý thúc đẩy thương mại điện tử phát triển.- Ngày càng nhiều quốc gia công nhận Nhà nước Palestine - sự thay đổi lớn trong quan điểm quốc tế về tiến trình hòa bình Trung Đông.- Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un tuyên bố sẵn sàng tiếp tục đối thoại với Mỹ nếu Washington từ bỏ yêu cầu Bình Nhưỡng phi hạt nhân hóa.
- Chủ trì phiên họp thứ Nhất, Ban chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu chấn chỉnh việc găm hàng, đội giá, làm méo mó thị trường bất động sản.- Siêu bão Ragasa giật cấp 17 đang tiến gần Biển Đông. Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và địa phương chủ động triển khai biện pháp phòng chống ở mức cao nhất. Tại Philippine, chính quyền đã ra lệnh đóng cửa trường học và công sở ở Manila cùng 29 tỉnh, trong khi Trung Quốc cũng triển khai các biện pháp ứng phó với cơn bão này.- Cho ý kiến về dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi (sửa đổi), Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu tạo hành lang pháp lý rõ ràng để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền.- Kim ngạch xuất nhập khẩu nửa đầu tháng 9 này đạt trên 39 tỷ USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước tính từ đầu năm đến nay vượt 637 tỷ USD.- Tổng thống Syria Ahmad al-Sharaa đã tới New York, Mỹ để tham dự Đại hội đồng Liên hợp quốc. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1967, một Tổng thống Syri tham dự sự kiện quan trọng này. - Israel tiếp tục tấn công thành phố Gaza khiến ít nhất 60 người Palestine thiệt mạng. Trong khi đó, Liên minh hơn 60 tổ chức hòa bình kêu gọi công nhận Nhà nước Palestine.
Theo một báo cáo của tổ chức Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Châu Á AMTI, thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS ( Mỹ), được công bố ngày 22/08/2025, Việt Nam đã mở rộng đáng kể hoạt động xây dựng đảo tại các khu vực mà Hà Nội tuyên bố chủ quyền thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Theo báo cáo, những hoạt động này của Việt Nam “sẽ nhanh chóng ngang bằng, thậm chí có thể vượt qua” quy mô hoạt động tương tự của Trung Quốc tại khu vực đó. Các ảnh vệ tinh gần đây cho thấy, kể từ đầu năm nay, Việt Nam đã mở rộng hoạt động xây dựng đảo trên 8 thực thể, cụ thể là đã tiến hành nạo vét và san lấp tại Bãi Tốc Tan ( Alison Reef ), Đá Cô Lin ( Collins Reef ), Đá Đông ( East Reef ), Đá Len Đao ( Lansdowne Reef ) và Đá Núi Thị ( Petley Reef ). Như vậy là toàn bộ 21 bãi đá và bãi cạn lúc triều thấp mà Việt Nam chiếm hữu trong quần đảo Trường Sa hiện đã được mở rộng để bao gồm cả đất nhân tạo, trong khi bốn năm trước phần lớn chỉ là các công trình bê tông cốt thép biệt lập. Báo cáo cho biết hoạt động mở rộng mới cũng đã bắt đầu tại những đảo nhân tạo cỡ trung đã được xây dựng trong các đợt nạo vét trước đó: Đảo An Bang ( Amboyna Cay), Đảo Sinh Tồn Đông ( Grierson Reef ) và Đá Tây ( West Reef ). Theo báo cáo, "tính đến tháng 3 năm 2025, Việt Nam đã tạo ra khoảng 70% diện tích đất nhân tạo ở quần đảo Trường Sa so với Trung Quốc". Việc cải tạo tại tám thực thể mới này gần như đảm bảo rằng Việt Nam "sẽ ngang bằng - và có thể vượt qua - quy mô xây dựng đảo của Bắc Kinh." Theo báo cáo của AMTI, các hình ảnh cho thấy cơ sở hạ tầng, bao gồm các container chứa đạn dược, đang bắt đầu xuất hiện trên các rạn san hô mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền, những nơi mà công việc nạo vét sắp hoàn tất, chẳng hạn như Bãi Thuyền Chài ( Barque Canada ), Đá Lớn ( Discovery Great Reef ), Đá Lát ( Ladd Reef ), Đảo Nam Yết ( Namyit Reef ), Đảo Phan Vinh ( Pearson Reef ), Đảo Sơn Ca ( Sand Cay ) và Đá Tiên Nữ ( Tennent Reef ). Việt Nam chưa đưa ra bình luận công khai nào về hoạt động cải tạo mới nhất của mình, một sự im lặng phù hợp với cách tiếp cận kín đáo của Hà Nội ở Biển Đông. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 27/08/2025, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhận định: “Về chuyện này có vẻ chắc chắn là Việt Nam không bao giờ lên tiếng. Năm trước, Việt Nam đã bồi lấp và mở rộng, năm nay họ cũng đang làm như vậy thì tôi nghĩ cũng là hợp lý, bình thường thôi. Hiện nay, tất cả các công trình đó, theo AMTI, đã bằng 70% so với Trung Quốc. Có lẽ Việt Nam sẽ là một đối thủ quan trọng đối với Trung Quốc. Điều này đối với Việt Nam có thể là vừa có lợi và có hại. Cái lợi là Việt Nam có thể chống đỡ được khá nhiều với Trung Quốc, có thể mở rộng và cạnh tranh với Trung Quốc. Nhưng mặt khác, có thể Trung Quốc sẽ có phản ứng, thì Việt Nam cũng phải hứng chịu. Trên khu vực Biển Đông thì chúng ta biết quan điểm Trung Quốc từ xưa đến nay: Bao giờ họ cũng khẳng định toàn bộ Biển Đông đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Trung Quốc cũng không dựa trên cái gì cả, mà chỉ dựa trên cái gọi là đường chín đoạn, chiếm khoảng chừng 80% Biển Đông. Và gần đây thì họ còn mở rộng hơn rất nhiều. Theo thông tin của Mỹ, họ đã mở rộng đến khoảng 90% Biển Đông. Việt Nam cùng với nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á cũng đã đòi những vùng biển thuộc về họ, nhưng có lẽ chỉ có Việt Nam là tập trung sức lực và đủ sức cạnh tranh với Trung Quốc trên Biển Đông. Trung Quốc nói là không ai có quyền mở rộng Biển Đông ngoài họ, nhưng Trung Quốc không có cơ sở pháp lý nào hết, bởi vì từ những năm 1935, Trung Quốc còn chưa nghĩ tới chuyện đi buôn xa hơn và một số bản đồ của nhà Thanh cũng cho thấy Trung Quốc chỉ ở trong vùng phụ cận thôi chứ không có đi ra xa. Có lẽ sau này Trung Quốc cảm thấy những đảo này cần thiết, cho nên họ tìm mọi cách để đưa vào trong bản đồ, trong sách lịch sử cho trẻ con học, khiến cho người dân Trung Quốc cảm thấy Biển Đông là của họ, mặc dù họ không có bằng chứng nào cả và thậm chí bằng chứng của họ đã bị tòa án quốc tế năm 2016 ra phán quyết bác bỏ trong vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2013. Tuy nhiên chúng ta thấy rằng là Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ đường lưỡi bò. Gần đây, bản đồ của họ còn vẽ thêm thành 10 đoạn chứ không phải 9 đoạn, với một đoạn ở khu vực Đài Loan nữa. Họ vẫn cho thấy luật pháp quốc tế không là cái gì cả.” Báo cáo mới của AMTI được đưa ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Trung Quốc và Philippines trên Biển Đông. Gần đây nhất, vào tháng 7, ở phía bắc quần đảo Trường Sa gần Bãi cạn Scarborough, một tàu khu trục của hải quân Trung Quốc đã va chạm với một tàu Hải cảnh Trung Quốc khi các tàu này đang quấy rối một tàu của lực lượng tuần duyên Philippines trong vùng biển tranh chấp. Các nhà phân tích được kênh truyền hình Mỹ CNN trích dẫn ngày 29/08 cho rằng các xung đột giữa Trung Quốc và Philippines có thể đã tạo cho Việt Nam "một vỏ bọc tuyệt vời" cho hoạt động xây dựng trên các đảo mà họ kiểm soát. Collin Koh, nghiên cứu viên tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore, ghi nhận: “Hiện tại, phần lớn sự chú ý của Trung Quốc đang hướng về Philippines, và họ muốn duy trì một mặt trận ổn định với các đối thủ Đông Nam Á khác ở Biển Đông”. Ray Powell, giám đốc của SeaLight, một dự án minh bạch hàng hải tại Trung tâm Đổi mới An ninh Quốc gia Gordian Knot, thuộc Đại học Stanford, đồng tình với nhận xét của Collin Koh: “Dường như Bắc Kinh đã tính toán rằng nên giữ Philippines cô lập khỏi các bên có tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông hơn là ngăn cản Việt Nam đạt được những bước tiến đáng kể về lãnh thổ”. Thật ra thì Trung Quốc đã có lên tiếng phản đối Việt Nam về những hoạt động xây dựng đảo theo như báo cáo của AMTI. Ngày 25/08, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Ông Quách Gia Khôn tuyên bố: "Quần đảo Nam Sa (Trường Sa) là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc và Trung Quốc kiên quyết phản đối các hoạt động xây dựng của các quốc gia liên quan trên các đảo và rạn san hô bị chiếm đóng trái phép, đồng thời sẽ thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và quyền hàng hải của mình." Như vậy là sau báo cáo của AMTI, Biển Đông có thể sẽ khiến quan hệ Việt - Trung căng thẳng trở lại, trong lúc bang giao giữa hai nước đang trong giai đoạn nồng ấm. Tuy vậy, các nhà phân tích như Collin Koh, nghiên cứu viên cao cấp tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam ở Singapore, cho rằng chỉ riêng quy mô của những đảo nhân tạo này sẽ không làm thay đổi cán cân chiến lược của khu vực. Theo các nhà quan sát, Hà Nội có thể sẽ coi các hoạt động nói trên là mang tính phòng thủ, củng cố các thực thể mà họ đã chiếm hữu để đáp trả nhiều năm mà Trung Quốc quân sự hóa các đảo mà Bắc Kinh đang kiểm soát. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cũng có nhận định tương tự: “Chúng ta biết Việt Nam là một quốc gia kiên trì đấu tranh ở Biển Đông từ rất lâu. Nhiều năm trước, những năm 1980, Việt Nam cũng đã chịu nhiều áp bức từ phía Trung Quốc. Thế nhưng Việt Nam vẫn cố gắng và vẫn nghĩ có đầy đủ bằng chứng lịch sử, pháp lý để khẳng định chủ quyền của mình trên các đảo này. Cho nên Việt Nam hết sức bảo vệ. Hiện nay, quần đảo Hoàng Sa thì Việt Nam không thể giữ được nữa, nhưng ở quần đảo Trường Sa thì Việt Nam đã giữ khá nhiều cơ sở ở đó. Theo những con số mà của AMTI đưa ra, phía Việt Nam cũng đã mở rộng rất nhiều và thứ nhất là sẽ khiến cho ngư dân Việt Nam an tâm hơn. Khi đánh bắt xa bờ, nếu có chuyện gì thì họ có thể quay về trở về để tránh bão. Thứ hai, Việt Nam cũng nghĩ rằng những công trình xây dựng trên biển hay bị hư hại, không giống như trên đất liền, cho nên Việt Nam cũng phải sửa chữa. Và thứ ba là Việt Nam cũng muốn thể hiện cho Trung Quốc thấy rằng Việt Nam mạnh mẽ nhắc đến chủ quyền. Tôi nghĩ rằng nếu chúng ta có đủ bằng chứng, đủ căn cứ pháp lý để xây dựng, thì tại sao không xây dựng?” Tuy nhiên, theo nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 27/08, các nhà phân tích cảnh báo rằng việc Việt Nam mở rộng hoạt động xây dựng đảo ở Trường Sa “có thể làm gia tăng căng thẳng trong nội bộ ASEAN, khi các quốc gia thành viên và các bên có yêu sách đối nghịch nhau tìm cách cân bằng giữa tranh chấp chủ quyền với sự đoàn kết, thống nhất trong khối." Ngoài Việt Nam, các thành viên ASEAN khác là Philippines, Malaysia và Brunei đều có các tuyên bố chủ quyền đối lập, trong khi Bắc Kinh khẳng định chủ quyền đối với gần như toàn bộ Biển Đông. South China Morning Post trích dẫn ông Tô Minh Sơn, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Quốc gia Úc, chuyên nghiên cứu về quan hệ quốc tế Đông Nam Á: cho biết: "Hà Nội sẽ kết hợp điều đó với việc ủng hộ các cuộc đàm phán về Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) và về Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), cùng với việc quản lý song phương một cách kín đáo với các bên có yêu sách khác, đồng thời duy trì các kênh liên lạc với Trung Quốc". Ông Tô Minh Sơn nói thêm, mặc dù hoạt động nạo vét của Việt Nam "sẽ khiến việc truyền tải thông điệp của ASEAN trở nên khó khăn hơn [...] nhưng nó sẽ không chia rẽ khối này". Đồng thời ông lưu ý rằng các bên yêu sách khác như Philippines cũng tập trung vào hành vi của Trung Quốc. Việc thắt chặt quan hệ giữa Hà Nội và Manila - bao gồm đường dây nóng của lực lượng bảo vệ bờ biển và các giao thức phòng ngừa sự cố - có thể giúp cả hai quốc gia quản lý tốt các yêu sách chồng chéo, đồng thời thể hiện một mặt trận thống nhất hơn đối với Trung Quốc. Còn theo nhận định của ông Vũ Lâm, một nhà phân tích chính sách và quan sát viên ASEAN, cũng được South China Morning Post trích dẫn, nhìn chung, Việt Nam “không muốn làm xáo trộn mối quan hệ với ASEAN, vốn vẫn là một trong những thành tựu về chính sách đối ngoại quan trọng nhất mà họ đã đạt được trong lịch sử gần đây". Đối với chuyên gia Biển Đông Hoàng Việt, phản ứng của các bên tranh chấp khác trong khối Đông Nam Á sẽ chỉ có mức độ nào đó thôi: Chúng ta biết là giữa các nước Đông Nam Á vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Có những điều mà chúng ta có thể hợp tác được, nhưng cũng có những điều mà chúng ta phải đấu tranh với nhau, như Philippines cũng có những cái đấu tranh với Việt Nam. Đương nhiên là giữa các quốc gia nhỏ thì nói chuyện dễ dàng hơn. Thực ra việc bồi lấp một số đảo này có lẽ không phải là vấn đề quá quan trọng. Việt Nam cũng đã bằng lòng với nhiều quốc gia rồi. Hiện nay cũng thấy ít quốc gia lên tiếng. Tôi nghĩ rằng cũng sẽ có một số quốc gia phản đối, nhưng phản đối có mức độ thôi, chứ còn đáng lo ngại nhất vẫn là từ phía Bắc Kinh. Trung Quốc vẫn quen làm trùm khu vực rồi. Họ lớn, họ mạnh, cho nên họ là luật quốc tế. Thế nhưng quan trọng nhất là Trung Quốc lại không có cơ sở hợp lý để bảo vệ chủ quyền của họ trên Biển Đông. Trung Quốc đưa ra những lập luận hết sức là mơ hồ và trái với luật pháp quốc tế, như là đường 9 đoạn. Thế nhưng, việc này đã được đưa ra tòa án quốc tế một lần rồi và nếu các quốc gia tiếp tục đưa ra tòa thì Trung Quốc cũng sẽ bị những phán quyết tương tự như vậy. Trung Quốc nghĩ rằng làm mạnh như vậy thì họ có thể làm thay đổi cả thế giới. Tôi nghĩ sẽ khó đấy. Sức mạnh là sức mạnh, nhưng không phải lúc nào muốn là làm được, mà luật pháp quốc tế có giá trị của nó.”
Gościem najnowszej Melliny jest Wojtek Szumański. Muzyk podbił serca fanów rocka na Polandrocku i podbił Internet "Balladą o cyckach". Choć piosenka może wzbudzać kontrowersje, publiczność ją pokochała i to męska jak i damska część. Rodzicom Wojtka trudno było zaakceptować, że ten zamierza utrzymywać się z muzyki. On sam miał plan B, jakim jest montaż filmowy, ale kiedy zaczął utrzymywać się z youtuba okazało się, że ta droga jest mu pisana. Prywatnie Wojtek Szumański dementuje. Nie ma już 18stu lat. I jest największym fanem Perfectu i Grzegorza Markowskiego. Przy okazji Marcin Meller złożył Wojtkowi pewną obietnicę.
Dr. David Yonggi Cho, the late founder of the world's largest church in Seoul, taught passionately about the power of speaking in tongues. He explained that praying in the Spirit is not only a sign of being filled with the Holy Spirit but also a divine channel for personal edification, spiritual renewal, and direct communion with God. Cho emphasized that when believers pray in tongues, their minds may be unfruitful, but their spirits are empowered—aligning them with God's perfect will and releasing supernatural strength for daily living, ministry, and victorious faith. Dr Cho was an amazing man. Please share this episode. Jag,Tedi, and I thank you for tuning in and SHARING!
„Bude sa menej nakupovať, cestovať, míňať,“ povedal uplynulý týždeň premiér Robert Fico, ale ako chce štát šetriť na sebe, stále nevieme. Ministri mali preto kolegovi Kamenickému do minulého piatka predložiť svoje návrhy. Po týždni má konsolidačný balíček trhliny a utŕžil kritiku nielen od živnostníkov, ale aj od odborárov. Koalícia už v parlamente ukázala, že diskusiu o skrátenom legislatívnom konaní jednoducho zastaví.V podcaste Dobré ráno sa Jana Krescanko Dibáková rozpráva s komentátorom Petrom Tkačenkom o absencii opatrení, ktoré by ukázali, kde našli rezervy jednotliví ministri. Opozícia znova zvoláva ľudí do ulíc, podarí sa jej presvedčiť davy a v uliciach zotrvať? Alebo sa podarí koalícii presvedčiť voličov o potrebe opatrení, ktoré najviac zasiahnu pracujúcich?Zdroj zvukov: TA3, TASR, TV MarkízaOdporúčanieDnes mám pre vás filmové odporúčanie. Pozrela som si Veľký vlastenecký výlet, dokument alebo road movie po Ukrajine s ľuďmi, ktorí podľahli ruskej propagande. Sonda do životov desaťtisícov ľudí, ktorí žijú aj u nás. Ako hovorí režisér – neveriaci možno zapochybujú o svojom popieračstve, citliví ľudia sa utvrdia v tom, prečo susedom pomáhať. Choďte do kina, aby podobné filmy mohli vznikať aj v budúcnosti.–Všetky podcasty denníka SME nájdete na sme.sk/podcasty–Odoberajte aj audio verziu denného newslettra SME.sk s najdôležitejšími správami na sme.sk/brifing
Archeolog prowadzący wykopaliska w Egipcie ma do „ogarnięcia” ogrom wiedzy, bo historia starożytnego Egiptu obejmuje, bagatela, ponad 3000 lat. Pierwsze piramidy dla Egipcjan z czasów Kleopatry były starożytnym zabytkiem sprzed ponad 2000 lat! – To jest historia onieśmielająca, ale i bardzo zachęcająca – zauważa gość odcinka, prof. Karol Myśliwiec, wybitny polski archeolog i egiptolog. Bo do badania jest mnóstwo. Choćby piramidy właśnie: ich stożkowaty kształt miał zbliżać pochowanych w nich ludzi do Ra, boga słońca. Nie mamy jasności, jak je budowano; architekci są w miarę zgodni, że musiano do tego stosować systemy ramp, zapewne bardzo skomplikowane. Wiadomo natomiast, że projektanci piramid musieli w swojej pracy uwzględnić ważną rzecz: zmyłki i pułapki na rabusiów grobów. Bo okradanie piramid to bynajmniej nie nowożytny proceder. Już w starożytności był zorganizowaną działalnością i zamieszani byli w niego urzędnicy czy nawet strażnicy grobowców.Praca archeologa jest pełna niespodzianek. – Nie ma schematu jednego, merytorycznego czy technicznego, który można by przyłożyć do każdych wykopalisk – podkreśla prof. Myśliwiec. – Kiedy widać, jaki materiał wychodzi i jaki trzeba będzie opracowywać, archeolog musi wybierać metodę albo wymyślać nowe metody, bo w każdym innym przypadku po prostu można szkodzić zabytkom. Na tym polega między innymi urok archeologii. Nigdy człowiek nie wie, co będzie następnego dnia.Państwo polskie nie prowadzi aktualnie w Egipcie własnych wykopalisk na taką skalę jak Niemcy czy Francuzi, ale polskich archeologów jest w Egipcie sporo. Profesor opowiada, że w niemal każdej zagranicznej misji wykopaliskowej znajdzie się ktoś z Polski. – Pod względem metodologicznym polska szkoła należy do najlepszych i taką ma właśnie reputację na całym świecie – mówi egiptolog. A czy każdy specjalista marzy o odkryciu nieznanego grobu faraona i dokonaniu przewrotu w dziedzinie? – Jestem najszczęśliwszy w świecie, jeżeli odkrywam kogoś czy coś, o czym nie miałem zielonego pojęcia, że istnieje. I to jest naprawdę wspaniałe – tak podsumowuje to prof. Myśliwiec.W odcinku posłuchacie też o tym, dlaczego jeszcze kilkadziesiąt lat temu Egipcjanie niechętnie patrzyli na starożytne fascynacje Europejczyków, czym objawiał się „nekrosnobizm” starożytnych Egipcjan, kim jest rajs, na czym polegał geniusz architekta Imhotepa i jak to jest z tym nowym Muzeum Egipskim w Kairze. Ogromnie polecam, profesor to skarbnica wiedzy i słucha się go przeprzyjemnie! W odcinku wspominamy również o planowanej polskiej misji archeologiczna w grobowcu faraona Szepseskafa, na którą trwa zbiórka: https://patronite.pl/app/fundraise/cQUlaApVeb6Rozmowa jest piątą, ostatnią w tym roku odsłoną cyklu wywiadów z doświadczonymi i zasłużonymi uczonymi, jaki powstaje we współpracy Radia Naukowego i Polskiej Akademii Nauk w ramach projektu „Nauka mojej młodości”. Poprzednie znajdziesz pod numerami 242, 247, 252. 259Polecamy książkę prof. Myśliwca https://wydawnictwo.umk.pl/produkt/w-cieniu-dzesera-badania-polskich-archeologow-w-sakkarze
In the latest episode of Making Cents of Money, learn about the habits that can impact your financial decisions and how stress plays a role in spending. Show Notes: American Psychological Association. (2015, February 4). American Psychological Association survey shows money stress weighing on Americans' health nationwide. Retrieved from https://www.apa.org/news/press/releases/2015/02/money-stress American Psychological Association. (2023). Stress in America 2023: A nation recovering from collective trauma. Retrieved from https://www.apa.org/news/press/releases/2023/03/stress-in-america Falconier, M. K., & Epstein, N. B. (2011). Couples experiencing financial strain: What we know and what we can do. Family Relations, 60(3), 303–317. Gelman, A., & Kliger, D. (2021). Effect of time-induced stress on financial decision making in real markets. PloS One, 16(11), e0123740. Heo, W., Cho, S. H., & Lee, P. (2020). APR Financial Stress Scale: Development and validation of a multidimensional measurement. Journal of Financial Therapy, 11(1), 2. https://newprairiepress.org/jft/vol11/iss1/2/ Lazarus, R. S., & Folkman, S. (1984). Stress, appraisal, and coping. Springer Publishing Company. Narayan, A. (2024). The impact of financial stress on workplace harassment and discrimination. Management Science, 70(4), 2447–2458. Ong, A. D., Sturgeon, J. A., Arewasikporn, A., Okun, M. A., Davis, M. C., & Zautra, A. J. (2015). The psychosocial context of financial stress: Implications for inflammation and psychological health. Psychosomatic Medicine, 77(2), 187–194. Porcelli, A. J., & Delgado, M. R. (2009). Acute stress modulates risk taking in financial decision making. Psychological Science, 20(3), 278–285. Shafir, E., Mullainathan, S., & Shafir, E. (2013). Scarcity: Why having too little means so much. Times Books. Van Boven, L., & Gilovich, T. (2003). To do or to have? That is the question. Journal of Personality and Social Psychology, 85(6), 1193–1202. Wilke, J., & Boden, J. M. (2021). Financial scarcity and financial avoidance: A prospective study. Journal of Economic Psychology, 87, 102408. Mental Health Crisis Resources: Illinois Department of Central Management Services' Crisis Resources: https://cms.illinois.gov/benefits/stateemployee/bewell/mental-health/crisis.html Relevant Podcast Episodes: • Money in Relationships: https://soundcloud.com/idfpr/money-and-relationships • Financial Socialization: https://soundcloud.com/idfpr/episode-99-financial-socialization • Investing: https://soundcloud.com/idfpr/episode-57-investing-to-reach-financial-goals • Budgeting: https://soundcloud.com/idfpr/mcom-ep20-budgeting-final • Probably Inflation: https://soundcloud.com/idfpr/episode-30-inflation
Từ đối tác kinh tế tin cậy, Việt Nam và Hàn Quốc tiến một bước lớn trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng. Hợp đồng cung cấp 20 pháo K9 Thunder của tập đoàn Hanwha Aerospace, trị giá 250 triệu đô la Mỹ mở ra hướng đi mới cho xuất khẩu vũ khí cho Hà Nội. Việt Nam là khách hàng thứ 11 trên thế giới của loại pháo K9 nhưng đây là lần đầu tiên Hàn Quốc xuất khẩu vũ khí sang một nước Cộng Sản. Đây cũng là lần đầu tiên, Hà Nội mua vũ khí của Seoul trong bối cảnh muốn đa dạng nguồn cung để giảm bớt phụ thuộc vào Nga. Thỏa thuận này được đúc kết sau chuyến thăm cấp Nhà nước từ ngày 10-13/08/2025 của tổng bí thư Tô Lâm tới Seoul. Theo trang Korea Herald, việc giao hàng sẽ được quản lý thông qua Cơ quan Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Hàn Quốc và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2025. Để hiểu thêm về ý nghĩa của hợp đồng vũ khí đầu tiên này và mối quan hệ hợp tác quốc phòng Việt Nam - Hàn Quốc, RFI Tiếng Việt phỏng vấn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc. RFI : Việt Nam mua 20 pháo tự hành K9 Thunder do tập đoàn Hàn Quốc Hanwha Aerospace sản xuất, trị giá 250 triệu đô la. Hợp đồng sẽ được bàn giao vào cuối năm nay. Đây là lần đầu tiên Việt Nam mua vũ khí của Hàn Quốc, trong khi Nga vẫn là nhà cung cấp chính. Về phía Seoul, đây cũng là lần đầu tiên xuất khẩu vũ khí cho một quốc gia Cộng Sản, theo như nhận định của một chuyên gia Hàn Quốc. Xin anh cho biết đối với cả hai nước, hợp đồng “lần đầu tiên” có ý nghĩa như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Hợp đồng này có nhiều hàm ý. Thứ nhất, lần đầu tiên nó mở ra một thị trường nhập khẩu vũ khí mới cho Việt Nam. Trước đây, tầm 70 tới 80% số lượng vũ khí của Việt Nam là nhập từ Nga và một phần nhỏ khác là nhập từ một số nước Đông Âu, Israel. Bây giờ Hàn Quốc trở thành một thị trường nhập khẩu vũ khí cực kỳ tiềm năng cho Việt Nam. Hàm ý thứ hai, sau cuộc chiến Nga Ukraina, Việt Nam đã cố gắng đa dạng hóa nguồn cung vũ khí. Và thành công bước đầu là có thêm được một đối tác nhập khẩu vũ khí mà có thể nói là tương đối bền vững. Vì Hàn Quốc suy cho cùng cũng là một trong những nước đối tác chiến lược toàn diện. Việt Nam - Hàn Quốc mặc dù mới thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1993 nhưng quan hệ toàn diện từ chính trị, kinh tế, xã hội đặc biệt là quan hệ giữa người dân với nhau, từ đó tới nay phát triển rất tốt và dự báo là cũng sẽ phát triển tiếp. Đọc thêmCông nghiệp quốc phòng Hàn Quốc giúp Việt Nam tự chủ an ninh, đa dạng hợp tác Và có thể trong tương lai, Việt Nam cũng sẽ tìm kiếm thêm một số đối tác khác, không phải là các đối tác truyền thống trước đây như Ấn Độ hay Iran nữa mà là những đối tác mới, bây giờ là Hàn Quốc, sau này có thể là Thổ Nhĩ Kỳ. Đây chỉ là một bước đầu trong nỗ lực đa dạng hóa của nguồn cung vũ khí. Và thứ ba, nó thể hiện sự đa phương hóa và đa dạng hóa trong quan hệ quốc tế - chiến lược ngoại giao của Việt Nam vốn đã bắt đầu từ năm 2003 cho tới bây giờ - và nó mang lại một số kết quả khích lệ trong bối cảnh tình hình thế giới đang diễn biến hết sức phức tạp, hết sức khó lường và ưu tiên chính sách ở thời điểm hiện tại vẫn phải là chuẩn bị cho năng lực quốc phòng đạt được hiệu quả răn đe nhất định. RFI : Trong cẩm nang thị trường quốc phòng về Việt Nam công bố tháng 12/2024, Cơ quan Quản lý Chương trình mua sắm Quốc phòng Hàn Quốc (DAPA) đã liệt kê các mặt hàng xuất khẩu đầy hứa hẹn sang Việt Nam vào năm 2033 (pháo tự hành K9, hệ thống tên lửa địa đối không tầm trung Cheongung-II, hệ thống ngắm pháo cho xe bọc thép và xe tăng, hệ thống nhận dạng laser…). Căn cứ vào những con số này, có thể thấy là hợp tác quốc phòng song phương đầy tiềm năng. Những yếu tố nào có thể giải thích cho việc hai nước tăng cường phát triển hợp tác quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : Yếu tố để giải thích thì một phần tôi đã trình bày ở trên : Đó là nhu cầu mua sắm quốc phòng của Việt Nam hiện tại là rất lớn trong bối cảnh những thách thức an ninh khu vực nổi lên, không chỉ là vấn đề Biển Đông với Trung Quốc mà còn là vấn đề an ninh phi truyền thống ở phía Tây nữa, đặc biệt là vấn đề sông Mêkông, phòng chống tội phạm buôn người xuyên quốc gia. Những yếu tố an ninh như vậy yêu cầu là quá trình hiện đại hóa quân đội Việt Nam phải được đẩy mạnh và mang tính hiệu quả. Nhu cầu quốc phòng lớn nhưng mà bạn hàng truyền thống - đó là Nga - hiện tại đang gặp cực kỳ nhiều rắc rối. Trong bối cảnh đó và dưới áp lực phải hiện đại hóa một cách hiệu quả, việc đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, tìm tới những đối tác vừa truyền thống, vừa an toàn, vừa bền vững, là một hướng đi tất yếu thì Hàn Quốc nằm trong sự lựa chọn đó. Đọc thêmHàn Quốc : Phát triển công nghiệp quốc phòng để tự vệ ? Điểm thứ hai, tại sao là Hàn Quốc mà không phải là một số quốc gia khác ? Thứ nhất, Hàn Quốc có nền công nghiệp quốc phòng mạnh, hiện nay là quốc gia xuất khẩu vũ khí đứng hàng thứ tư thế giới. Các loại công nghệ quốc phòng của họ được đánh giá tiên tiến hàng đầu thế giới, đặc biệt tại những mảng công nghệ và những mảng vũ khí mà Việt Nam đang cần, ví dụ pháo binh, các loại công nghệ vũ khí phòng không. Đặc biệt là ngành công nghiệp đóng tàu chiến Hàn Quốc. Ngành công nghiệp đóng tàu Hàn Quốc nói chung là gần như số 2, số 3 thế giới, chỉ sau Trung Quốc với Nhật Bản và nhiều khi Hàn Quốc còn cân bằng với Nhật Bản. Đối với Việt Nam, nhu cầu đóng tàu cũng như là nhu cầu về những mặt hàng vũ khí phòng không, không quân ở thời điểm hiện tại là rất cần thiết tại vì Nga đang bị cấm vận. Cho nên việc có một bạn hàng mới giỏi về vấn đề đóng tàu và các loại vũ khí không quân là cần thiết. Và Việt Nam có thể tận dụng điều đó trong mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Hàn. Tiếp theo, quan hệ chính trị ngoại giao và quốc phòng giữa Việt Nam với Hàn Quốc khá là sâu rộng và cả hai nước có một niềm tin chiến lược chiến lược nhất định. Nó khác với Mỹ. Ở thời điểm hiện tại, có vẻ Việt Nam không có nhiều lòng tin chiến lược với Mỹ. Cho nên là một số dự án hợp tác quốc phòng tiềm năng giữa Việt Nam và Mỹ đang hơi bị trì hoãn, ví dụ đàm phán mua máy bay vận tải C130 đang bị trì hoãn rất là nhiều bởi vì rất nhiều vấn đề khác nhau. Đọc thêmTriển lãm quốc phòng quốc tế: Việt Nam tìm giải pháp thay thế vũ khí Nga Chưa kể rằng yếu tố ý thức hệ cũng là một trong những điểm khiến cho hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam và phương Tây nói chung, cũng như là giữa Việt Nam và Mỹ nói riêng, có một số rào cản lớn. Những điểm đó đối với quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc hầu như rất là nhỏ. Mặc dù là một trong những quốc gia đồng minh của Mỹ nhưng Hàn Quốc nằm trong vùng văn hóa Đông Á. Họ hiểu được cách thức mà chính trị ở các quốc gia Đông Á cũng như Đông Nam Á vận hành. Họ chấp nhận mối quan hệ đó, do vậy niềm tin chiến lược giữa hai bên là có. Bởi vì có niềm tin chiến lược, cho nên những rào cản như Việt Nam đối mặt với Mỹ hay phương Tây nằm ở mức tối thiểu. Do đó nó cho phép Hàn Quốc có thể chuyển giao công nghệ tới Việt Nam, đặc biệt là một số loại công nghệ quân sự nhạy cảm mà không gặp phải nhiều rào cản quá lớn. Trong khi vấn đề dân chủ, nhân quyền hay là những vấn đề liên quan tới rào cản kỹ thuật hoặc là sự cho phép sử dụng vũ khí giữa Việt Nam và Mỹ, lại lớn. Yếu tố niềm tin chiến lược trong chính trị và quân sự chính là một điểm nổi bật khiến cho Hàn Quốc trở thành một trong những đối tác quốc phòng mới của Việt Nam ở thời điểm mà nhu cầu mua sắm vũ khí của Việt Nam là cấp thiết. RFI : Như anh đã đề cập ở trên về năng lực đóng tàu của Hàn Quốc thì Việt Nam cũng có nhu cầu về tàu tuần tra tốc độ cao và tàu ngầm nhỏ để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Liệu đây có phải là một vấn đề tế nhị mà cả Việt Nam và Hàn Quốc cần hết sức chú ý vì đều không muốn khiêu khích Trung Quốc ? Nguyễn Thế Phương : Tác động tới quyết định Việt Nam mua vũ khí của nước nào, thực ra sức ép của Trung Quốc là có. Nhưng yếu tố Trung Quốc không có tác động quyết định tới việc là Việt Nam mua vũ khí, tàu chiến hay là máy bay của bất kỳ nước nào. Những mặt hàng như là tàu tuần tra cỡ nhỏ hoặc là tàu ngầm mini, thực ra Việt Nam đã có thể tự chế tạo được những gam tàu đó. Điều mà Việt Nam cần ở hiện tại và điều mà Hàn Quốc có thể cung cấp là khả năng đóng những gam tàu lớn. Hiện nay tàu chiến lớn nhất của Việt Nam, không tính của cảnh sát biển, dao động tầm 1.200 tới 1.500 tấn. Điều mà Việt Nam cần hiện nay là những tàu chiến cỡ lớn, có khả năng hoạt động biển xa, trang bị các loại vũ khí phòng thủ cũng như tấn công phù hợp, tầm từ 3.000 tới 6.000 tấn. Hiện tại phải nói là Việt Nam chưa có đủ tiềm lực để đóng những cái gam tàu cỡ lớn như vậy. Với ví dụ Philippines cho thấy rằng Hàn Quốc có thể có tiềm năng trong tương lai cung cấp công nghệ, cũng như giúp Việt Nam đóng những gam tàu chiến có độ giãn nước lớn từ 3.000 đến 6.000 tấn. Còn dưới 2.000 tấn thì theo sự tìm hiểu của tôi, ở thời điểm hiện tại Việt Nam có khả năng tự đóng được. Ngay cả một số dự án tàu ngầm mini cỡ từ 1.000 tấn chở xuống thì Việt Nam cũng đã có thể tự đóng. Mặc dù chưa xác định rõ được tính hiệu quả trong tác chiến của các loại vũ khí hải quân đó nhưng về mặt công nghệ thì Việt Nam đã đóng được rồi. Trung Quốc sẽ không ảnh hưởng gì tới quyết định đó bởi vì đó là nhu cầu Việt Nam. Và Trung Quốc cũng hiểu rằng khoảng cách về mặt quyền lực, về mặt quân sự giữa hai bên quá là lớn. Việt Nam mua thêm khoảng một vài tàu cũng không làm thay đổi mấy cán cân quyền lực, chỉ là Việt Nam cải thiện hơn một chút khả năng răn đe về hướng biển. Đọc thêmTriển lãm Quốc phòng : Việt Nam thể hiện “khả năng răn đe”, hướng đến xuất khẩu thiết bị quân sự RFI : Sau 17 năm không hoạt động, Ủy ban hợp tác Quốc phòng và Quân sự Hàn Quốc - Việt Nam đã được khôi phục. Quyết định này mang ý nghĩa như thế nào ? Và Ủy ban sẽ hoạt động như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Ủy ban Hợp tác Quốc phòng Việt Nam Hàn Quốc là một cơ quan làm cầu nối để có thể trao đổi về những nhu cầu, cũng như là những mong muốn của hai bên về hợp tác quốc phòng. Nó sẽ đẩy nhanh quá trình trao đổi thông tin, quá trình ra quyết định chính sách, quá trình tham vấn chính sách giữa hai bên để có được những quyết định phù hợp, không những trong mua sắm vũ khí, khí tài, mà còn trong hợp tác những vấn đề an ninh khác, ví dụ như là những vấn đề phi truyền thống hay là những hợp tác ngoại giao quốc phòng, chia sẻ thông tin… Nói tóm lại, ủy ban này là một cơ chế song phương mang tính kết nối - coordination để hai bên đẩy mạnh hơn nữa hợp tác quốc phòng, vốn dĩ là sắp tới cộng với việc hai bên đã là đối tác chiến lược toàn diện rồi, thì ngoài kinh tế, tài chính, đầu tư - FDI, thì quốc phòng sẽ là một trong những trụ cột mới trong quan hệ hợp tác song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc. RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn anh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Úc.
Cześć. W związku z ostatnimi wydarzeniami w Polsce postanowiłem przygotować odcinek poświęcony incydentom granicznym, do których dochodziło w czasie zimnej wojny na granicy między NRD a RFN. To właśnie tam przebiegała linia podziału między Wschodem a Zachodem, czyli najważniejsza oś geopolitycznego napięcia w powojennej Europie.Po II wojnie światowej mocarstwa okupacyjne utrzymały obecność wojskową, zabezpieczając swoje strefy wpływów zdobyte w 1945 roku. Wkrótce powstały dwa niemieckie państwa, NRD i RFN wspierane przez Moskwę i Waszyngton. Choć każde z nich miało własne służby graniczne, to granice ochraniały również jednostki armii sojuszniczych. Na tym tle dochodziło do wielu niebezpiecznych incydentów.W najnowszym odcinku przypominam kilka z nich, a w tym m.in. kryzys z października 1961 roku, kiedy Sowieci, we współpracy z władzami NRD, rozpoczęli budowę muru dzielącego Berlin. Nikita Chruszczow próbował w ten sposób zmusić Zachód do uznania legalności NRD. Dotąd państwa zachodnie uznawały jedynie RFN jako reprezentanta narodu niemieckiego. Tymczasem wschodnioniemieccy pogranicznicy zaczęli zatrzymywać amerykańskich dyplomatów na granicy Berlina, co było złamaniem ustaleń z 1945 roku. Uznanie takiej kontroli oznaczałoby de facto akceptację NRD. To doprowadziło do poważnego kryzysu. Przy Checkpoint Charlie stanęły naprzeciw siebie czołgi amerykańskie i sowieckie. Jak zakończyła się ta konfrontacja – o tym opowiem w dalszej części odcinka.
Career ups and downs are inevitable. Arden Cho just took 20 years' worth of acting highs and lows, funneled them all into a powerhouse voice performance, and churned out one of the very best cinematic characters of 2025, a Netflix character who well-aligns with her own personal creative goals as an actor and is also proving to be a character who can inspire anyone.Cho leads the voice cast of one of the biggest hits of 2025, and one of the greatest pop culture sensations of recent years, Netflix's KPop Demon Hunters. Cho does the speaking voice while Ejae delivers the incredible vocals for Rumi, one of three members of the K-pop group Huntr/x. While the world sees a trio delivering catchy hit after hit, what the average person doesn't know is that Huntr/x's music also charges the Honmoon, a magical barrier that keeps demons from the human world. When a demonic K-pop boy band called the Saja Boys enter the picture, they threaten Huntr/x's ability to remain at the top of the charts and turn the Honmoon gold. The situation also runs the risk of exposing Rumi's greatest secret.With KPop Demon Hunters continuing to dominate the Netflix charts, striking gold at the box office with wildly popular sing-along screenings, and starting to build some serious awards season buzz, Cho swung by the Collider Ladies Night studio for a chat about her journey to the film, a journey that included a number of experiences that had Cho consider leaving the industry. Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.
About the Guest(s): Dr. Parag Gandhi (host): Oculofacial plastic surgeon at Maryland Eye & Face and University of Maryland Hospitals in Baltimore. He is the Chair of the Global Outreach Committee of ASOPRS, has extensive experience leading medical missions, developing global ophthalmology programs, and two surgical mission trips to Ukraine with Face 2 Face. Dr. Raymond Cho: Clinical Professor and Director of Oculoplastic & Orbital Surgery at Ohio State University Wexner Medical Center. A retired U.S. Army Colonel and veteran of Operation Iraqi Freedom, Dr. Cho has participated in multiple missions to Ukraine with the Canadian Face the Future Foundation. Dr. Jorge Corona: Oculofacial plastic surgeon in private practice in Dallas, Texas, and a Clinical Associate Professor at Texas Tech University. He has extensive global medical mission experience, including four trips to Ukraine with LEAP Global Missions. Dr. Dave Russell: Oculofacial plastic surgeon at Kaiser Northern California, who has participated in two humanitarian missions to Ukraine with LEAP, contributing to complex trauma care and surgical training. Dr. Stuart Seiff: Emeritus Professor of Ophthalmology at UCSF and CEO of Pacific Center for Oculofacial & Aesthetic Plastic Surgery. He co-directed the Symposium on Wartime Ophthalmic Trauma in 2022, and has completed four surgical missions to Ukraine with LEAP Global. Episode Summary: In this compelling episode on time-urgent humanitarian efforts in Ukraine, Dr. Parag Gandhi hosts an esteemed panel of oculofacial plastic surgeons who discuss their inspiring work in Ukraine amidst ongoing conflict. The episode provides an in-depth look into the role of these surgical missions in both medical education and patient care of civilians and wounded soldiers, highlighting the transformative impact on both the Ukrainian medical community and the participating surgeons in training and practice. Throughout the discussion, the guests share their motivations and experiences, emphasizing the importance of global outreach in oculoplastic surgery, addressing wartime trauma, and the complexities of secondary trauma reconstructions seen in Ukraine. This episode underscores the essential need for humanitarian medical aid in conflict zones, and the power of medical collaboration across borders to foster resilience and adaptability in the face of adversity. Heroyam slava! Resources: Razom for Ukraine, the Co-Pilot Project: Umbrella NGO and surgical education program that unites American, Canadian, and Ukrainian surgeons, and all of the initiatives we discuss on this episode. Face 2 Face, Face the Future, and LEAP Global Missions: Key organizations supporting medical missions and training initiatives in Ukraine. ASOPRS Foundation: Backing efforts to foster educational initiatives for Ukrainian ophthalmologists to learn key aspects of oculofacial plastic surgery to meet current wartime needs. Friends of Chervonohrad: NGO involved in supporting many health initiatives, including surgical trips to Ukraine through fundraising efforts and pre-travel security assessments for teams. Christian Medical Association of Ukraine: Partnering in efforts to redefine medical practices and values. Links to learn more about the humanitarian missions and donate to support surgical education: Razom for Ukraine, the Co-Pilot Project: https://www.razomforukraine.org/projects/cpp/ ASOPRS Foundation: https://www.asoprsfoundation.org/donate
KPop Demon Hunters has officially gone golden — and Arden Cho voices HUNTR/X front woman, Rumi. Born and raised in Texas, moving to Minnesota for high school, then college in Illinois, Cho often grappled with her Asian American identity while also facing an exhausting pressure to be “perfect” as a way to honor her immigrant parents. Cho shares what it was like to grow thicker skin in LA, her experience on Teen Wolf and Partner Track, and her love for playing poker as a woman underestimated in the game. Video episodes available on Still Watching Netflix YouTube Channel. Listen to more from Netflix Podcasts.
Airheads this week the fellers are all over the place as Trae's recounting of a couple of recent interactions with strangers sparks a stream of consciousness from Cho that carries them thru an action-packed, highly varied episode (and by “action” we mean “silly stuff”). Enjoy CoreyRyanForrester.com for Tix To see Corey In Lexington and Charlottesville! TraeCrowder.com for tix to see Trae Everywhere! WeLoveCorey.com For Bonus Stuff! As always, get your first month of BlueChew FREE Just use promo code POA at checkout and pay five bucks for shipping. That's it. Join BlueChew's mission to upgrade humanity one thrust at a time. Head to BlueChew.com for details and safety info. And big thanks to BlueChew for sponsoring the podcast. For a limited time, our listeners get 10% off at Ridge by using code POA at checkout. Just head to Ridge.com and use code POA and you're all set. After you purchase, they will ask you where you heard about them. PLEASE support our show and tell them our show sent you. To get started hit up MyBookie.ag, use promo code POA and cash in with a bonus on your first deposit. Drop in $100, get $50 added free. Go bigger, and MyBookie throws in even more. Keep your swampiest body parts fresh and cool. For a limited time, our listeners get 10% off their first bidet order when you use code POA at checkout. That's 10% off your first bidet order at HelloTUSHY.com with promo code POA.
