Podcasts about unclos

  • 60PODCASTS
  • 147EPISODES
  • 23mAVG DURATION
  • 1MONTHLY NEW EPISODE
  • Feb 26, 2025LATEST

POPULARITY

20172018201920202021202220232024


Best podcasts about unclos

Latest podcast episodes about unclos

Marine Conservation Happy Hour
Cod wars part 2: The British Empire strikes back

Marine Conservation Happy Hour

Play Episode Listen Later Feb 26, 2025 27:38


Dr Scarlett Smash & Dr Craken MacCraic continue to chat to Richard Napolitano from the Shipwrecks and Seadogs podcast (https://www.shipwrecksandseadogs.com/) about the Cod Wars. In this episode things get heated in the waters around Iceland! Contact info@absolutelysmashingllc.com for more information about sponsoring MCHH episodes or having advertisements on the show Music credits By Jolly Shore Leave  "Al For Me Grog (Trad.)" HandsomeForrune-FE (Adapted Lyrics by Taran Christen : Musical Arrangement by K. Ryan Hart) Represented by Rebellious Entertainment Dr Scarlett Smash Instagram Dr Scarlett Smash TikTok  Dr Craken MacCraic Twitter Dr Craken MacCraic Instagram MCHH Instagram MCHH Facebook MCHH Twitter Dr Scarlett Smash Twitter  Dr Scarlett Smash YouTube

Marine Conservation Happy Hour
Cod Wars: Episode 1 (The Phantom fish menace)

Marine Conservation Happy Hour

Play Episode Listen Later Feb 12, 2025 23:14


Dr Scarlett Smash & Dr Craken MacCraic chat to Richard Napolitano from the Shipwrecks and Seadogs podcast (https://www.shipwrecksandseadogs.com/) about the Cod Wars. What are the Cod Wars? Is it like the Phantom Menace but fishier? Find out how countries came to blows over fish quotas. Contact info@absolutelysmashingllc.com for more information about sponsoring MCHH episodes or having advertisements on the show Music credits By Jolly Shore Leave  "Al For Me Grog (Trad.)" HandsomeForrune-FE (Adapted Lyrics by Taran Christen : Musical Arrangement by K. Ryan Hart) Represented by Rebellious Entertainment Dr Scarlett Smash Instagram Dr Scarlett Smash TikTok  Dr Craken MacCraic Twitter Dr Craken MacCraic Instagram MCHH Instagram MCHH Facebook MCHH Twitter Dr Scarlett Smash Twitter  Dr Scarlett Smash YouTube

The Manila Times Podcasts
NEWS: PH, US reaffirm Unclos ideals | Oct 27, 2024

The Manila Times Podcasts

Play Episode Listen Later Oct 27, 2024 3:25


NEWS: PH, US reaffirm Unclos ideals | Oct 27, 2024Subscribe to The Manila Times Channel - https://tmt.ph/YTSubscribeVisit our website at https://www.manilatimes.netFollow us:Facebook - https://tmt.ph/facebookInstagram - https://tmt.ph/instagramTwitter - https://tmt.ph/twitterDailyMotion - https://tmt.ph/dailymotionSubscribe to our Digital Edition - https://tmt.ph/digitalSign up to our newsletters: https://tmt.ph/newslettersCheck out our Podcasts:Spotify - https://tmt.ph/spotifyApple Podcasts - https://tmt.ph/applepodcastsAmazon Music - https://tmt.ph/amazonmusicDeezer: https://tmt.ph/deezerStitcher: https://tmt.ph/stitcherTune In: https://tmt.ph/tunein#TheManilaTimes#KeepUpWithTheTimes Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.

Choses à Savoir SCIENCES
Pourquoi les États-Unis viennent tout juste de gagner un million de kilomètres carrés ?

Choses à Savoir SCIENCES

Play Episode Listen Later Sep 4, 2024 2:13


Les États-Unis viennent de revendiquer la possession d'une zone d'un million de km2, soit près de deux fois la superficie de la France. Ils ne se sont pas agrandis par la conquête militaire, mais par la revendication d'eaux territoriales plus étendues.En effet, la Convention des Nations Unies sur le droit de la mer (UNCLOS), adoptée en 1982, permet aux États concernés de revendiquer, notamment, la possession de plateaux continentaux au-delà de 200 milles marins.Ces régions, généralement peu profondes, sont une extension marine de zones terrestres. Un pays peut ainsi gérer, par-delà ses eaux territoriales, de vastes secteurs, dont les ressources halieutiques et minières sont parfois considérables.Les autorités américaines ont d'abord recueilli, durant des années, les données géologiques destinées à appuyer leurs revendications. C'est sur la base de ces informations qu'ils réclament à présent de vastes zones maritimes.Elles sont situées dans sept secteurs différents. En effet, ces extensions maritimes concernent aussi bien les rivages de l'Atlantique que ceux du Pacifique ou du golfe du Mexique. Ces zones offshore se trouvent aussi au large de l'Alaska comme au-delà de certaines possessions outre-mer, comme les îles Mariannes.Cette revendication se heurte cependant à certains obstacles juridiques. En effet, si plus de 160 pays ont ratifié l'UNCLOS, ce n'est pas le cas des États-Unis. De leur côté, les Américains soulignent le sérieux de leur démarche, entreprise en collaboration avec des agences officielles.Les autorités se sont notamment appuyées sur l'"United States geological survey", un organisme gouvernemental qui recueille des données sur les ressources terrestres. Mais cet argument ne convainc pas tout le monde, la Convention des Nations Unies sur le droit de la mer restant la référence obligée en matière de revendications maritimes.Si beaucoup d'observateurs restent prudents, c'est que de telles prétentions peuvent bouleverser certains équilibres géopolitiques. On se souvient ainsi des tensions provoquées par les revendications concurrentes, en mer de Chine du Sud, de la Chine et de certains de ses voisins, comme le Vietnam ou les Philippines. Hébergé par Acast. Visitez acast.com/privacy pour plus d'informations.

China Global
Drivers of China's Policy Toward Second Thomas Shoal

China Global

Play Episode Listen Later Aug 8, 2024 34:12


The waters, as well as the rocks, reefs and submerged shoals of the South China Sea are a major source of friction in East Asia. In recent months, tensions have flared between two of the claimants – China and the Philippines – over Second Thomas Shoal, a submerged feature in the Spratly Islands, which the Chinese call Ren Ai Jiao. In 1999, the Philippines intentionally grounded a Philippine Navy transport vessel called the Sierra Madre on the reef and since then the outpost has been manned by a small contingent of marines.In 2016, an arbitral tribunal established under the UN Convention on the Law of the Sea ruled that Second Thomas Shoal is a low-tide elevation located within the exclusive economic zone of the Philippines and therefore sovereignty belongs to the Philippines. No other country can legitimately claim sovereignty over the feature or the waters around it. Beijing doesn't recognize the ruling, even though it was legally binding on both China and the Philippines.Late last year, Chinese Coast Guard and maritime militia vessels began aggressively interfering with the Philippines' routine missions to deliver supplies to the Filipino forces on the Sierra Madre. On several occasions, Chinese ships have used high-pressure water cannons and rammed Filipino boats. The most serious confrontation took place in mid-June, when the Chinese used axes and knives to damage multiple Philippine vessels. A Filipino navy sailor lost his thumb in the skirmish. Negotiations between Beijing and Manila in early July produced a provisional arrangement, and the Philippines subsequently successfully conducted a resupply operation. It is uncertain whether the understanding will hold, however, since Beijing and Manila publicly disagree about what has been agreed upon.To discuss the situation at Second Thomas Shoal and China's approach to the South China Sea, host Bonnie Glaser is joined by Zhang Feng, a visiting scholar at Yale Law School's Paul Tsai China Center. His research focuses on Chinese foreign policy, international relations theory, and international relations in East Asia.  Timestamps[00:00] Start[02:31] Why is the South China Sea so important to China? [05:30] Has China overstepped in the South China Sea? [08:54] Reasons for Deepening Sino-Filipino Confrontation[12:05] Beijing's Reaction to a Reinforced Second Thomas Shoal[13:30] Beijing's Perception of the US-Philippines Mutual Defense Treaty[16:44] Miscalculating American Willingness to Intervene[21:32] Beijing-Manila Provisional Agreement [25:00] Chinese Deadline for the Philippines vis-à-vis the Second Thomas Shoal[27:38] Gauging the Risk of Escalation or Conflict[30:25] Stabilizing and Resolving the Second Thomas Shoal Issue

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Ranh giới ngoài thềm lục địa: Vấn đề cần giải quyết giữa Việt Nam và Philippines

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Aug 5, 2024 9:40


Trong bối cảnh Việt Nam và Philippines phải tăng cường hợp tác để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, giữa hai nước lại nảy sinh một vấn đề cần giải quyết, đó là vấn đề ranh giới ngoài thềm lục địa.  Ngày 15/06/2024, bộ Ngoại Giao Philippines thông báo phái đoàn nước này tại Liên Hiệp Quốc đã đệ trình Báo cáo Ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông ( mà họ gọi là Biển Tây Philippines ) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) "để đăng ký quyền với vùng thềm lục địa mở rộng ở tây Palawan".Philippines cho biết họ đã mất 15 năm để chuẩn bị cho việc này, theo đúng Điều 76 trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Theo Công ước này, một quốc gia ven biển như Philippines có thể “thiết lập ranh giới ngoài của thềm lục địa, bao gồm vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, vượt 200 hải lý, nhưng không quá 350 hải lý từ đường cơ sở được dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.Vấn đề là vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines muốn được công nhận có thể chồng lấn với những nước ven Biển Đông khác, đặc biệt là Việt Nam. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/07, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại: "Theo điều 76 của UNCLOS 1982, mỗi quốc gia sẽ có vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở hướng ra ngoài. Ngoài ra, các quốc gia có thể có vùng thềm lục địa mở rộng có thể tối đa là 350 hải lý. Từ năm 2009, Việt Nam đã đệ trình Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa một báo cáo riêng của Việt Nam và một báo cáo chung với Malaysia ngày 06/05 và 07/05. Một ngày sau đó, 08/05, Trung Quốc đã gởi hai công hàm phản đối hai đệ trình đó. Trong hai công hàm đó có kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò".Sau đó, đến tháng 12/2019, phía Malaysia lại đệ trình một báo cáo mới về thềm lục địa mở rộng, trong bối cảnh sau phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mới đây nhất phía Philippines cũng tiếp tục đệ trình, theo đúng quy định của điều 76 trong UNCLOS 1982. Nhưng yêu cầu có được chấp thuận hay không thì đó lại là câu chuyện dài hơn rất nhiều.Ngay trong đệ trình của Philippines lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, họ cũng đã nói rõ là vùng thềm lục địa mở rộng này của họ có khả năng sẽ chồng lấn với vùng thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và của Malaysia. Mới đây nhất, Malaysia đã gởi công hàm phản đối, bởi vì giữa Malaysia và Philippines vẫn có tranh chấp về vùng Sabah, mà Manila cho là của Philippines, nhưng nay đang thuộc về Malaysia. Vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines yêu sách cũng nằm trong vùng thềm lục địa của Sabah.Đối với Việt Nam, một số nhà nghiên cứu khi đo bản đồ cũng đã thấy là một sự chồng lấn. Khả năng chồng lấn với Việt Nam là chắc chắn."Phản ứng về quyết định nói trên của Manila, Hà Nội, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng ngày 20/06, nhìn nhận quyền của Philippines: "Các quốc gia ven biển thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) có quyền xác định ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng của mình trên cơ sở phù hợp với quy định liên quan của UNCLOS 1982.”Nhưng phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nhấn mạnh Việt Nam “bảo lưu toàn bộ quyền và lợi ích của mình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, và sẵn sàng trao đổi với Philippines để tìm kiếm và đi đến giải pháp phù hợp với lợi ích của cả hai nước.”Đáp lại tuyên bố nói trên của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam, ngày 01/07, bộ Ngoại Giao Philippines cho biết Manila "hoan nghênh" việc Hà Nội công nhận báo cáo của Manila đệ trình lên Liên Hiệp Quốc nhằm bảo đảm quyền của nước này đối với thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông, đồng thời cho biết “sẵn sàng đàm phán với Hà Nội để giải quyết mọi vấn đề”, cũng như sẵn sàng hợp tác với Việt Nam “theo những cách khả thi để giúp đạt được giải pháp cùng có lợi cho các vấn đề ở Biển Đông”. Sau đó, ngày 17/07, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam đã chính thức nộp hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc.Trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp đệ trình này "sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS".Nhưng liệu Việt Nam và Philippines có thể dễ dàng đạt được thỏa thuận để giải quyết sự chồng lấn về thềm lục địa mở rộng giữa hai nước hay không? Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định:"Chắc chắn là được thôi, khi mà cả hai quốc gia đều có thiện chí thì cũng dễ giải quyết. Việc chồng lấn là bình thường. Trên khu vực Biển Đông có rất nhiều sự chồng lấn. Việt Nam và Indonesia đã mất cả 12 năm để phân định vùng đặc quyền kinh tế. Hai nước đã công bố thỏa thuận qua tuyên bố năm 2022, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy văn bản chính thức Việt Nam và Indonesia phân định như thế nào.Giữa Việt Nam với Philippines thì cũng đơn giản, vì thứ nhất là khi hai bên đều đòi hỏi vùng thềm lục địa mở rộng, thì chắc chắn là sẽ có sự chồng lấn và hai bên phải đàm phán. Nếu hai bên đều có thiện chí thì không khó, khó nhất là một bên, hoặc cả hai bên không có thiện chí. Trong đàm phán, hai bên đều phải nhân nhượng với nhau, để cùng chấp nhận một giải pháp hai bên cùng có lợi. Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines về hợp tác trên biển cũng đã có từ lâu. Vài năm trước, hai nước đã ký một số thỏa thuận về thăm dò địa chấn, hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Như vậy chủ trương hai bên đều có rồi, vấn đề còn lại là hai bên sẽ phải đàm phán trực tiếp, sẽ phân định như thế nào. Có lẽ đây sẽ là một quá trình khá dài, vì cả hai bên đều phải dựa trên những điều kiện địa lý tự nhiên của mình, đồng thời căn cứ trên luật pháp, cũng như những án lệ trước đây, để tìm ra một giải pháp công bằng nhất".UNCLOS quy định thời hạn cuối cùng để đệ trình thông tin về ranh giới ngoài thềm lục địa lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) là ngày 13/5/2009. Như vậy tại sao Philippines trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng tại Biển Đông 15 năm sau thời hạn cuối cùng?Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đệ trình của Philippines vào thời điểm này có thể có một số tính toán:"Cái đầu tiên là liên quan đến Trung Quốc. Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc và Philippines luôn luôn đối đầu ở khu vực biển của mấy thực thể, thứ nhất là Bãi Cỏ Mây, thứ hai là bãi cạn Scarborough và thứ ba là bãi cạn Sa Bin. Đặc biệt ở Bãi Cỏ Mây chúng ta đã thấy tình hình căng thẳng như thế nào. Gần đây nhất là sự kiện 17/06, nhiều tàu của Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu của Philippines, các thủy thủ Trung Quốc đã cầm rìu, dao găm và gậy tấn công các thủy thủ Philippines trên tàu của họ, cướp một số vũ khí, cũng như đồ đạc. Xung đột đã khiến một binh sĩ của Philippines bị mất một ngón tay cái. Đây không phải là sự kiện đầu tiên cũng như cuối cùng. Từ 2013 tới nay, những vụ va đâm tàu, phun vòi rồng và chiếu tia laser vào các thủy thủ Philippines đã xảy ra rất nhiều. Vào tháng 05/2009, việc Việt Nam và Malaysia đệ trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng đã gây một làn sóng phản đối từ Trung Quốc. Lần thứ hai đó là vào tháng 12/2019, Philippines làm mới lại đệ trình của mình thì cũng đã gây ra cuộc chiến công hàm kéo dài đến 2021 mới chấm dứt. Các quốc gia đã liên tục gởi các công hàm lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc để thể hiện quan điểm của mình. Có lẽ đó là cái quan trọng mà Philippines tính tới: trong bối cảnh căng thẳng với Trung Quốc và chính sách của Philippines đang sử dụng là "name and shame", vạch trần những hành động côn đồ và phi pháp của Trung Quốc trên khu vực Biển Đông tranh chấp, thì Philippines hy vọng là sẽ có một làn sóng của công luận trên thế giới lên án Trung Quốc và điều này sẽ tác động phần nào đến cuộc đối đầu giữa hai nước.Ngoài ra, Philippines đương nhiên có những tính toán khác, trong đó có việc nhắc lại tác dụng của phán quyết 2016 trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc. Philippines cũng muốn tranh thủ lúc này Philippines đang có một đại diện trong Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc." Trong một bài viết đăng trên trang Vietnamnet ngày 29/06, đại sứ Việt Nam Nguyễn Hồng Thao, một chuyên gia pháp lý, cũng nhận định:"Trước hết, chính quyền tổng thống Marcos Jr. muốn khẳng định giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài Thường trực ngày 12/6/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết này tạo khả năng cho phép mở rộng thềm lục địa từ các đảo chính của Philippines trong khi làm rõ mỗi thực thể biển ở quần đảo Trường Sa chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Thứ hai, đệ trình có thể nhằm bác bỏ yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc. Thứ ba, Manila có thể muốn khẳng định tính pháp lý của đường cơ sở quần đảo Philippines năm 2012, đường này đã được sửa đổi cho phù hợp hơn với UNCLOS. Thứ tư, việc đệ trình tạo điều kiện kích hoạt điều 5 của Hiệp ước phòng thủ chung Philippines - Hoa Kỳ 1951, theo đó Mỹ có trách nhiệm bảo vệ các lực lượng vũ trang Philippines, các tàu và máy bay công vụ (bao gồm cả lực lượng cảnh sát biển) khỏi các cuộc tấn công vũ trang trong Biển Đông. Thứ năm, đệ trình có thể thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) đang gặp bế tắc." Nhưng theo ông Nguyễn Hồng Thao, tranh chấp chủ quyền các thực thể trong quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại sẽ làm nảy sinh tiếp vấn đề phân định biển của các vùng đáy biển thuộc lãnh hải của các thực thể này với yêu sách thềm lục địa mở rộng của Philippines.  Ấy là chưa kể đến phản ứng của Trung Quốc. Ngày 18/07/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa mở rộng "bao gồm một phần quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) của Trung Quốc và xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, trái với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển". Trước đó, ngày 17/6/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã khẳng định “đệ trình đơn phương của Philippines về mở rộng thềm lục địa của họ tại Biển Đông xâm phạm tới các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, vi phạm luật quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”.

Tạp chí Việt Nam
Ranh giới ngoài thềm lục địa: Vấn đề cần giải quyết giữa Việt Nam và Philippines

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Aug 5, 2024 9:40


Trong bối cảnh Việt Nam và Philippines phải tăng cường hợp tác để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, giữa hai nước lại nảy sinh một vấn đề cần giải quyết, đó là vấn đề ranh giới ngoài thềm lục địa.  Ngày 15/06/2024, bộ Ngoại Giao Philippines thông báo phái đoàn nước này tại Liên Hiệp Quốc đã đệ trình Báo cáo Ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông ( mà họ gọi là Biển Tây Philippines ) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) "để đăng ký quyền với vùng thềm lục địa mở rộng ở tây Palawan".Philippines cho biết họ đã mất 15 năm để chuẩn bị cho việc này, theo đúng Điều 76 trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Theo Công ước này, một quốc gia ven biển như Philippines có thể “thiết lập ranh giới ngoài của thềm lục địa, bao gồm vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, vượt 200 hải lý, nhưng không quá 350 hải lý từ đường cơ sở được dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.Vấn đề là vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines muốn được công nhận có thể chồng lấn với những nước ven Biển Đông khác, đặc biệt là Việt Nam. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/07, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại: "Theo điều 76 của UNCLOS 1982, mỗi quốc gia sẽ có vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở hướng ra ngoài. Ngoài ra, các quốc gia có thể có vùng thềm lục địa mở rộng có thể tối đa là 350 hải lý. Từ năm 2009, Việt Nam đã đệ trình Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa một báo cáo riêng của Việt Nam và một báo cáo chung với Malaysia ngày 06/05 và 07/05. Một ngày sau đó, 08/05, Trung Quốc đã gởi hai công hàm phản đối hai đệ trình đó. Trong hai công hàm đó có kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò".Sau đó, đến tháng 12/2019, phía Malaysia lại đệ trình một báo cáo mới về thềm lục địa mở rộng, trong bối cảnh sau phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mới đây nhất phía Philippines cũng tiếp tục đệ trình, theo đúng quy định của điều 76 trong UNCLOS 1982. Nhưng yêu cầu có được chấp thuận hay không thì đó lại là câu chuyện dài hơn rất nhiều.Ngay trong đệ trình của Philippines lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, họ cũng đã nói rõ là vùng thềm lục địa mở rộng này của họ có khả năng sẽ chồng lấn với vùng thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và của Malaysia. Mới đây nhất, Malaysia đã gởi công hàm phản đối, bởi vì giữa Malaysia và Philippines vẫn có tranh chấp về vùng Sabah, mà Manila cho là của Philippines, nhưng nay đang thuộc về Malaysia. Vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines yêu sách cũng nằm trong vùng thềm lục địa của Sabah.Đối với Việt Nam, một số nhà nghiên cứu khi đo bản đồ cũng đã thấy là một sự chồng lấn. Khả năng chồng lấn với Việt Nam là chắc chắn."Phản ứng về quyết định nói trên của Manila, Hà Nội, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng ngày 20/06, nhìn nhận quyền của Philippines: "Các quốc gia ven biển thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) có quyền xác định ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng của mình trên cơ sở phù hợp với quy định liên quan của UNCLOS 1982.”Nhưng phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nhấn mạnh Việt Nam “bảo lưu toàn bộ quyền và lợi ích của mình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, và sẵn sàng trao đổi với Philippines để tìm kiếm và đi đến giải pháp phù hợp với lợi ích của cả hai nước.”Đáp lại tuyên bố nói trên của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam, ngày 01/07, bộ Ngoại Giao Philippines cho biết Manila "hoan nghênh" việc Hà Nội công nhận báo cáo của Manila đệ trình lên Liên Hiệp Quốc nhằm bảo đảm quyền của nước này đối với thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông, đồng thời cho biết “sẵn sàng đàm phán với Hà Nội để giải quyết mọi vấn đề”, cũng như sẵn sàng hợp tác với Việt Nam “theo những cách khả thi để giúp đạt được giải pháp cùng có lợi cho các vấn đề ở Biển Đông”. Sau đó, ngày 17/07, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam đã chính thức nộp hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc.Trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp đệ trình này "sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS".Nhưng liệu Việt Nam và Philippines có thể dễ dàng đạt được thỏa thuận để giải quyết sự chồng lấn về thềm lục địa mở rộng giữa hai nước hay không? Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định:"Chắc chắn là được thôi, khi mà cả hai quốc gia đều có thiện chí thì cũng dễ giải quyết. Việc chồng lấn là bình thường. Trên khu vực Biển Đông có rất nhiều sự chồng lấn. Việt Nam và Indonesia đã mất cả 12 năm để phân định vùng đặc quyền kinh tế. Hai nước đã công bố thỏa thuận qua tuyên bố năm 2022, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy văn bản chính thức Việt Nam và Indonesia phân định như thế nào.Giữa Việt Nam với Philippines thì cũng đơn giản, vì thứ nhất là khi hai bên đều đòi hỏi vùng thềm lục địa mở rộng, thì chắc chắn là sẽ có sự chồng lấn và hai bên phải đàm phán. Nếu hai bên đều có thiện chí thì không khó, khó nhất là một bên, hoặc cả hai bên không có thiện chí. Trong đàm phán, hai bên đều phải nhân nhượng với nhau, để cùng chấp nhận một giải pháp hai bên cùng có lợi. Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines về hợp tác trên biển cũng đã có từ lâu. Vài năm trước, hai nước đã ký một số thỏa thuận về thăm dò địa chấn, hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Như vậy chủ trương hai bên đều có rồi, vấn đề còn lại là hai bên sẽ phải đàm phán trực tiếp, sẽ phân định như thế nào. Có lẽ đây sẽ là một quá trình khá dài, vì cả hai bên đều phải dựa trên những điều kiện địa lý tự nhiên của mình, đồng thời căn cứ trên luật pháp, cũng như những án lệ trước đây, để tìm ra một giải pháp công bằng nhất".UNCLOS quy định thời hạn cuối cùng để đệ trình thông tin về ranh giới ngoài thềm lục địa lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) là ngày 13/5/2009. Như vậy tại sao Philippines trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng tại Biển Đông 15 năm sau thời hạn cuối cùng?Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đệ trình của Philippines vào thời điểm này có thể có một số tính toán:"Cái đầu tiên là liên quan đến Trung Quốc. Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc và Philippines luôn luôn đối đầu ở khu vực biển của mấy thực thể, thứ nhất là Bãi Cỏ Mây, thứ hai là bãi cạn Scarborough và thứ ba là bãi cạn Sa Bin. Đặc biệt ở Bãi Cỏ Mây chúng ta đã thấy tình hình căng thẳng như thế nào. Gần đây nhất là sự kiện 17/06, nhiều tàu của Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu của Philippines, các thủy thủ Trung Quốc đã cầm rìu, dao găm và gậy tấn công các thủy thủ Philippines trên tàu của họ, cướp một số vũ khí, cũng như đồ đạc. Xung đột đã khiến một binh sĩ của Philippines bị mất một ngón tay cái. Đây không phải là sự kiện đầu tiên cũng như cuối cùng. Từ 2013 tới nay, những vụ va đâm tàu, phun vòi rồng và chiếu tia laser vào các thủy thủ Philippines đã xảy ra rất nhiều. Vào tháng 05/2009, việc Việt Nam và Malaysia đệ trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng đã gây một làn sóng phản đối từ Trung Quốc. Lần thứ hai đó là vào tháng 12/2019, Philippines làm mới lại đệ trình của mình thì cũng đã gây ra cuộc chiến công hàm kéo dài đến 2021 mới chấm dứt. Các quốc gia đã liên tục gởi các công hàm lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc để thể hiện quan điểm của mình. Có lẽ đó là cái quan trọng mà Philippines tính tới: trong bối cảnh căng thẳng với Trung Quốc và chính sách của Philippines đang sử dụng là "name and shame", vạch trần những hành động côn đồ và phi pháp của Trung Quốc trên khu vực Biển Đông tranh chấp, thì Philippines hy vọng là sẽ có một làn sóng của công luận trên thế giới lên án Trung Quốc và điều này sẽ tác động phần nào đến cuộc đối đầu giữa hai nước.Ngoài ra, Philippines đương nhiên có những tính toán khác, trong đó có việc nhắc lại tác dụng của phán quyết 2016 trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc. Philippines cũng muốn tranh thủ lúc này Philippines đang có một đại diện trong Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc." Trong một bài viết đăng trên trang Vietnamnet ngày 29/06, đại sứ Việt Nam Nguyễn Hồng Thao, một chuyên gia pháp lý, cũng nhận định:"Trước hết, chính quyền tổng thống Marcos Jr. muốn khẳng định giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài Thường trực ngày 12/6/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết này tạo khả năng cho phép mở rộng thềm lục địa từ các đảo chính của Philippines trong khi làm rõ mỗi thực thể biển ở quần đảo Trường Sa chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý. Thứ hai, đệ trình có thể nhằm bác bỏ yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc. Thứ ba, Manila có thể muốn khẳng định tính pháp lý của đường cơ sở quần đảo Philippines năm 2012, đường này đã được sửa đổi cho phù hợp hơn với UNCLOS. Thứ tư, việc đệ trình tạo điều kiện kích hoạt điều 5 của Hiệp ước phòng thủ chung Philippines - Hoa Kỳ 1951, theo đó Mỹ có trách nhiệm bảo vệ các lực lượng vũ trang Philippines, các tàu và máy bay công vụ (bao gồm cả lực lượng cảnh sát biển) khỏi các cuộc tấn công vũ trang trong Biển Đông. Thứ năm, đệ trình có thể thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) đang gặp bế tắc." Nhưng theo ông Nguyễn Hồng Thao, tranh chấp chủ quyền các thực thể trong quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại sẽ làm nảy sinh tiếp vấn đề phân định biển của các vùng đáy biển thuộc lãnh hải của các thực thể này với yêu sách thềm lục địa mở rộng của Philippines.  Ấy là chưa kể đến phản ứng của Trung Quốc. Ngày 18/07/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa mở rộng "bao gồm một phần quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) của Trung Quốc và xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, trái với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển". Trước đó, ngày 17/6/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã khẳng định “đệ trình đơn phương của Philippines về mở rộng thềm lục địa của họ tại Biển Đông xâm phạm tới các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, vi phạm luật quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”.

VOV - Sự kiện và Bàn luận
Vấn đề quốc tế - Nhìn lại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN- tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa trong khu vực

VOV - Sự kiện và Bàn luận

Play Episode Listen Later Jul 29, 2024 8:26


 - Sau một tuần làm việc, hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN và các hội nghị liên quan lần thứ 57 vừa khép lại với việc nhất trí đẩy mạnh hợp tác kinh tế; phối hợp ứng phó thách thức chung an ninh truyền thống và phi truyền thống; triển khai hiệu quả Kế hoạch hành động Cấp cao Đông Á giai đoạn 2024-2028, nhằm đẩy mạnh việc xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa trong khu vực. Đáng chú ý, ASEAN và các nước đối tác cũng đã chia sẻ quan ngại về diễn biến phức tạp trên thực địa tại Biển Đông, nhấn mạnh các nguyên tắc như tuân thủ luật pháp quốc tế, thực hiện tự kiềm chế, giải quyết hòa bình các tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển Liên hợp quốc năm 1982 (UNCLOS 1982). Hội nghị cũng đã nhất trí thông qua việc Việt Nam sẽ đồng tổ chức một số hoạt động, trong đó có việc thực thi Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) trong thời gian tới. Chủ đề : hội nghị, asean --- Support this podcast: https://podcasters.spotify.com/pod/show/vov1sukien/support

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Việt Nam trước chiến lược “mưa dầm thấm lâu” của Trung Quốc để độc chiếm Biển Đông

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Jul 15, 2024 11:08


Ngày 12/07/2024 đánh dấu tròn 8 năm Tòa Trọng Tài Quốc Tế xác định rằng các yêu sách hàng hải mở rộng của Trung Quốc ở Biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Phán quyết cuối cùng của Tòa đã được Việt Nam “hoan nghênh” cùng với tuyên bố “ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình”. Tám năm sau, Việt Nam, Philippines vẫn phải đối phó với những hành động bạo lực, hăm dọa của Trung Quốc trong chiến lược “mưa dầm thấm lâu” độc chiếm Biển Đông (1). “Các hành động của Trung Quốc phản ánh sự coi thường trắng trợn đối với luật pháp quốc tế”, theo thông cáo của ngoại trưởng Mỹ ngày 11/07. Phía Liên Hiệp Châu Âu khẳng định trong một tuyên bố ngày 12/07 rằng phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các bên liên quan. Tuy nhiên, đối với Bắc Kinh, chỉ có luật quốc gia của Trung Quốc mới có giá trị ở Biển Đông, theo nhận định của nhà phân tích, nghiên cứu độc lập Lénaïck Le Peutrec trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt ngày 11/07/2024.Chiến lược này được ban thành luật về vùng lãnh hải tháng 02/1992. Thoạt nhìn định nghĩa “lãnh hải” của Bắc Kinh phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 mà Trung Quốc là thành viên. Nhưng điểm nguy hiểm nằm ở tuyên bố 1958, được nhắc lại trong bộ luật 1992, theo đó lãnh thổ đất liền của Trung Quốc bao gồm Đài Loan và các nhóm đảo khác như Sankaku/Điếu Ngư (tranh chấp với Nhật Bản), Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa), Nam Sa (quần đảo Trường Sa).RFI : Lénaïck Le Peutrec, bà là tác giả bài phân tích “Trung Quốc trong những xung đột ở Biển Đông : giải mã một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa”, đăng trên Asia Focus tháng 05/2024 của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến lược Pháp - IRIS (2). Trong bài viết, bà nhấn mạnh rằng luật về lãnh hải năm 1992 là một bộ luật quốc gia, thúc đẩy Trung Quốc tiếp tục những đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông theo từng chặng, để tạo thành những “chuyện đã rồi” bất chấp luật pháp quốc tế. Theo thời gian, những tích tụ đó chuyển thành một sự thay đổi chiến lược quan trọng. Vậy chiến lược của Trung Quốc là gì ? Liệu vì những yêu sách đó, Trung Quốc sẽ không bao giờ nhân nhượng ở Biển Đông ?Lénaïck Le Peutrec : Những yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông nằm trong nỗ lực toàn vẹn lãnh thổ rộng lớn hơn của Trung Quốc. Cho nên chúng được ghi khắc trong những lợi ích cơ bản của Trung Quốc, giống như đối với đảo Đài Loan. Bắc Kinh đưa ra lập luận đòi chủ quyền dựa vào các quyền lịch sử, nguyên tắc hiện diện lâu đời được cho là được chứng thực bằng các văn bản có từ thời nhà Tống, tức là từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 13.Do đó, Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với 80 đến 90% diện tích Biển Đông. Yêu sách này được chính thức ghi trong tài liệu “đường 9 đoạn”, lần đầu tiên được chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chính thức bằng một công hàm ngoại giao gửi tới Liên Hiệp Quốc vào tháng 05/2019. Bản thân tuyên bố này đã là một hành động kiểu “chuyện đã rồi”. Thêm vào đó còn có rất nhiều luật quốc gia khác củng cố cho những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và Bắc Kinh viện vào đó để biện minh cho hành động của họ. Đọc thêm : Biển Đông: Trung Quốc toan tính gì khi lập 2 ‘quận' mới cho ‘Tam Sa' ?Như vậy luật về vùng lãnh hải năm 1992 đã chọn định nghĩa rộng hơn về các vùng biển của Trung Quốc, trên thực tế bao gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, trong khi Philippines, Việt Nam và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền. Chính nhờ dựa vào những quyền lịch sử từ xa xưa, không thể chối cãi ở Biển Đông và dựa trên luật pháp quốc gia xác quyết chủ quyền - được coi là “chuyện đã rồi” - mà Trung Quốc liên tục đưa tầu đánh cá vào các vùng biển có tranh chấp, thường xuyên tổ chức tuần tra hải cảnh, tiến hành hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo và thành lập các đơn vị, cơ quan hành chính mà trên thực tế là để thiết lập chủ quyền.RFI : Tháng 03/2024, Trung Quốc thông báo xác lập đường cơ sở ở vịnh Bắc Bộ. Thêm vào đó là hành động hung hăng, ví dụ những sự cố với Philippines ở Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough trong thời gian gần đây… Phải chăng tất cả những hành động đó nằm trong chiến lược khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ?Lénaïck Le Peutrec : Việc phân định đường cơ sở là một chủ đề hết sức nhạy cảm ở Biển Đông để chúng ta có thể hiểu được bản chất chiến lược. Bởi vì Biển Đông là nơi chồng chéo những yêu sách chủ quyền giữa phần lớn các quốc gia ven biển. Các đường cơ sở có tính chiến lược mạnh mẽ vì chúng chi phối việc tính toán đường biên giới lãnh thổ của quốc gia ven biển, vùng nội thủy và các vùng biển nằm trong quyền tài phán của họ. Những vùng biển này là các vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế. Đọc thêm : Vịnh Bắc Bộ: Trung Quốc muốn vẽ lại ranh giới khi công bố "đường cơ sở" mới?Qua đó, người ta có thể thấy đó là “cánh tay nối dài” trong hành động áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên thực tế. Như tôi giải thích, phương thức hoạt động của Bắc Kinh bắt đầu từ một “chuyện đã rồi”. Trường hợp này chính là một ví dụ vì Trung Quốc đơn phương tuyên bố một đường cơ sở mới. Điều đáng quan ngại là Trung Quốc tiếp tục áp dụng cách hành động duy nhất đó, có nghĩa là viện đến luật quốc gia để áp đặt cơ sở pháp lý cho những hành động của họ.Những sự cố gần đây trong khu vực Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough nằm trong chiến lược hành động của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2004. Cần phải lưu ý rằng những hành động này còn được củng cố thêm nhờ những biện pháp mới trong luật hải cảnh, có hiệu lực từ ngày 15/06/2024, cho phép bắt giữ tàu nước ngoài ở Biển Đông và giam giữ thủy thủ đoàn mà không cần xét xử.RFI : Vẫn trong bài viết trên Asia Focus của Viện IRIS, bà nhấn mạnh rằng “chính sách láng giềng hữu hảo của Trung Quốc hiện nay, được suy tính để cổ vũ việc hội nhập kinh tế trong vùng, có thể được coi là một tầm nhìn được cập nhật về hệ thống triều cống của đế quốc Trung Quốc”. Tại sao nên cảnh giác với chính sách này ? Các nước láng giềng sẽ gặp rủi ro gì trong xung đột chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc ?Lénaïck Le Peutrec : Trong câu hỏi này có những yếu tố lịch sử và văn hóa mà tôi cho rằng cần phải nêu bật, song song với những yếu tố thực tế, để hiểu đầy đủ hơn về hành động của Trung Quốc.Yếu tố đầu tiên mà tôi muốn lưu ý là tầm nhìn mang tính chu kỳ về lịch sử mà Trung Quốc vẫn chia sẻ. Điều này có thể được tóm tắt hoàn hảo trong câu tục ngữ Trung Quốc, tạm dịch “thống nhất lâu dài thì phải chia cắt, chia rẽ lâu thì phải đoàn tụ”. Nền văn minh Trung Quốc được đánh dấu bằng một lập luận lịch sử, theo đó “sau phân chia sẽ là sự thống nhất”.Điểm thứ hai, tôi muốn đề cập đến cách nhìn của Trung Quốc về vị trí trung tâm. Ngay tên gọi “Trung Quốc” - có nghĩa là “vùng đất ở giữa” - đã thể hiện rõ cách nhìn đó. Xuất phát từ vị trí trung tâm, Trung Quốc sống theo cách hiểu về địa lý thế giới xung quanh được định nghĩa theo cách nhìn của họ. Có thể thấy đa số những vùng lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông được đặt tên theo vị trí của chúng so với Trung Quốc, ví dụ quần đảo Hoàng Sa (Paracels) được gọi là Tây Sa, Trường Sa (Spratleys) là Nam Sa, bãi ngầm Macclesfield là Trung Sa. Đọc thêm : Khó khăn kinh tế Trung Quốc đe dọa ASEANChính sách láng giềng hữu hảo của Bắc Kinh cũng thể hiện một phần tầm nhìn về vai trò trung tâm của Trung Quốc. Trên thực tế, chính sách - được lập ra để khuyến khích hội nhập kinh tế khu vực - có thể được coi như là một quan niệm được cập nhật về hệ thống triều cống của đế chế Trung Hoa, dựa trên tính trung tâm của họ. Những điều kiện dễ dàng về kinh tế và thương mại được Trung Quốc chấp thuận thời nay thay thế cho sự bảo vệ của họ ngày trước, còn quyền lực và những lợi ích mà họ thu được thay cho những cống vật của các nước chư hầu ngày xưa. Tình thế này để lại rất ít khả năng hành động cho các nước ven biển láng giềng - những nước không có sức mạnh kinh tế hoặc năng lực tấn công quân sự như Trung Quốc.Cuối cùng phải nhắc đến việc ASEAN gần như tê liệt. Nội bộ Hiệp hội các nước Đông Nam Á bất đồng nhau trong xung đột lãnh thổ với Trung Quốc. Từ nhiều năm nay, ASEAN tìm cách thông qua một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) mà họ muốn có tính ràng buộc về mặt pháp lý nhưng đến giờ vẫn bị Bắc Kinh một mực phản đối.RFI : Tại sao Biển Đông lại là một khu vực thử nghiệm để Trung Quốc áp đặt tầm nhìn của họ về một trật tự thế giới mới, như bà nêu trong bài phân tích ?Lénaïck Le Peutrec : Trước tiên, tôi nghĩ là cần phải hiểu được những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông hay đúng hơn là những động cơ của họ. Theo tôi, có ba động cơ.Thứ nhất về mặt khai thác, việc bảo đảm tiếp tục các hoạt động đánh bắt hải sản, bảo vệ và khai thác các nguồn năng lượng, khoáng sản là việc cần thiết cho sự thúc đẩy phát triển của Trung Quốc. Tiếp theo là phải bảo đảm các nguồn tiếp cận với các tuyến hàng hải, đặc biệt là ưu tiên tiếp cận Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương vì đây là những tuyến đường thiết yếu để dòng chảy thương mại của Trung Quốc được luân chuyển. Về mặt an ninh, việc tự do lưu thông ở Biển Đông là phương tiện quan trọng cho uy tín về năng lực răn đe trên biển của Trung Quốc. Phần lớn các căn cứ tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Trung Quốc nằm trên đảo Hải Nam, ở phía bắc Biển Đông. Đọc thêm : Vai trò trung tâm của ASEAN trước thách thức của cạnh tranh Mỹ - TrungCũng đừng quên sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ trong khu vực làm tăng thêm cảm giác bất an của Trung Quốc, cũng như việc Hoa Kỳ tăng cường rõ rệt các liên minh với các nước trong khu vực trong thời gian gần đây để công khai chống lại sự trỗi dậy ngày càng tăng của Trung Quốc. Cấu trúc địa lý của Biển Đông cũng đặt Trung Quốc vào thế bị lọt thỏm và phụ thuộc lớn vào eo biển Malacca, tuyến đường thương mại chính của nước này. Từ năm 2023, Trung Quốc đã nhấn mạnh đến sự phụ thuộc quá mức của họ vào điểm trung chuyển này, cùng với sự bấp bênh về nguồn cung năng lượng do thiếu tuyến hàng hải thay thế.Bị thúc đẩy vì cảm giác bất an, Trung Quốc quyết tâm bảo đảm các lợi ích cơ bản của họ, bao gồm cả việc thống nhất đất nước, vốn là trọng tâm trong chính sách tái sinh vĩ đại của Trung Quốc và cũng là chính sách quan trọng hàng đầu của kỷ nguyên Tập Cận Bình. Những động cơ này của Trung Quốc khiến chúng ta nghĩ rằng Bắc Kinh có lẽ sẽ thử phản ứng của cộng đồng quốc tế về Biển Đông bằng cách dần dần gặm những không gian mà họ tuyên bố thuộc về mình. Do đó, Biển Đông sẽ là địa điểm thử nghiệm đầu tiên về một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa, trước khi chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là thống nhất với đảo Đài Loan.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà phân tích, nghiên cứu Lénaïck Le Peutrec.(2) Lénaïck Le Peutrec, "La Chine dans les conflits en mer de Chine méridionale : décryptage d'un nouvel ordre aux caractéristiques chinoises", Asia Focus, mai 2024, IRIS.

Tạp chí Việt Nam
Việt Nam trước chiến lược “mưa dầm thấm lâu” của Trung Quốc để độc chiếm Biển Đông

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Jul 15, 2024 11:08


Ngày 12/07/2024 đánh dấu tròn 8 năm Tòa Trọng Tài Quốc Tế xác định rằng các yêu sách hàng hải mở rộng của Trung Quốc ở Biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Phán quyết cuối cùng của Tòa đã được Việt Nam “hoan nghênh” cùng với tuyên bố “ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình”. Tám năm sau, Việt Nam, Philippines vẫn phải đối phó với những hành động bạo lực, hăm dọa của Trung Quốc trong chiến lược “mưa dầm thấm lâu” độc chiếm Biển Đông (1). “Các hành động của Trung Quốc phản ánh sự coi thường trắng trợn đối với luật pháp quốc tế”, theo thông cáo của ngoại trưởng Mỹ ngày 11/07. Phía Liên Hiệp Châu Âu khẳng định trong một tuyên bố ngày 12/07 rằng phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các bên liên quan. Tuy nhiên, đối với Bắc Kinh, chỉ có luật quốc gia của Trung Quốc mới có giá trị ở Biển Đông, theo nhận định của nhà phân tích, nghiên cứu độc lập Lénaïck Le Peutrec trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt ngày 11/07/2024.Chiến lược này được ban thành luật về vùng lãnh hải tháng 02/1992. Thoạt nhìn định nghĩa “lãnh hải” của Bắc Kinh phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 mà Trung Quốc là thành viên. Nhưng điểm nguy hiểm nằm ở tuyên bố 1958, được nhắc lại trong bộ luật 1992, theo đó lãnh thổ đất liền của Trung Quốc bao gồm Đài Loan và các nhóm đảo khác như Sankaku/Điếu Ngư (tranh chấp với Nhật Bản), Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa), Nam Sa (quần đảo Trường Sa).RFI : Lénaïck Le Peutrec, bà là tác giả bài phân tích “Trung Quốc trong những xung đột ở Biển Đông : giải mã một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa”, đăng trên Asia Focus tháng 05/2024 của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến lược Pháp - IRIS (2). Trong bài viết, bà nhấn mạnh rằng luật về lãnh hải năm 1992 là một bộ luật quốc gia, thúc đẩy Trung Quốc tiếp tục những đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông theo từng chặng, để tạo thành những “chuyện đã rồi” bất chấp luật pháp quốc tế. Theo thời gian, những tích tụ đó chuyển thành một sự thay đổi chiến lược quan trọng. Vậy chiến lược của Trung Quốc là gì ? Liệu vì những yêu sách đó, Trung Quốc sẽ không bao giờ nhân nhượng ở Biển Đông ?Lénaïck Le Peutrec : Những yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông nằm trong nỗ lực toàn vẹn lãnh thổ rộng lớn hơn của Trung Quốc. Cho nên chúng được ghi khắc trong những lợi ích cơ bản của Trung Quốc, giống như đối với đảo Đài Loan. Bắc Kinh đưa ra lập luận đòi chủ quyền dựa vào các quyền lịch sử, nguyên tắc hiện diện lâu đời được cho là được chứng thực bằng các văn bản có từ thời nhà Tống, tức là từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 13.Do đó, Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với 80 đến 90% diện tích Biển Đông. Yêu sách này được chính thức ghi trong tài liệu “đường 9 đoạn”, lần đầu tiên được chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chính thức bằng một công hàm ngoại giao gửi tới Liên Hiệp Quốc vào tháng 05/2019. Bản thân tuyên bố này đã là một hành động kiểu “chuyện đã rồi”. Thêm vào đó còn có rất nhiều luật quốc gia khác củng cố cho những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và Bắc Kinh viện vào đó để biện minh cho hành động của họ. Đọc thêm : Biển Đông: Trung Quốc toan tính gì khi lập 2 ‘quận' mới cho ‘Tam Sa' ?Như vậy luật về vùng lãnh hải năm 1992 đã chọn định nghĩa rộng hơn về các vùng biển của Trung Quốc, trên thực tế bao gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, trong khi Philippines, Việt Nam và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền. Chính nhờ dựa vào những quyền lịch sử từ xa xưa, không thể chối cãi ở Biển Đông và dựa trên luật pháp quốc gia xác quyết chủ quyền - được coi là “chuyện đã rồi” - mà Trung Quốc liên tục đưa tầu đánh cá vào các vùng biển có tranh chấp, thường xuyên tổ chức tuần tra hải cảnh, tiến hành hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo và thành lập các đơn vị, cơ quan hành chính mà trên thực tế là để thiết lập chủ quyền.RFI : Tháng 03/2024, Trung Quốc thông báo xác lập đường cơ sở ở vịnh Bắc Bộ. Thêm vào đó là hành động hung hăng, ví dụ những sự cố với Philippines ở Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough trong thời gian gần đây… Phải chăng tất cả những hành động đó nằm trong chiến lược khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ?Lénaïck Le Peutrec : Việc phân định đường cơ sở là một chủ đề hết sức nhạy cảm ở Biển Đông để chúng ta có thể hiểu được bản chất chiến lược. Bởi vì Biển Đông là nơi chồng chéo những yêu sách chủ quyền giữa phần lớn các quốc gia ven biển. Các đường cơ sở có tính chiến lược mạnh mẽ vì chúng chi phối việc tính toán đường biên giới lãnh thổ của quốc gia ven biển, vùng nội thủy và các vùng biển nằm trong quyền tài phán của họ. Những vùng biển này là các vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế. Đọc thêm : Vịnh Bắc Bộ: Trung Quốc muốn vẽ lại ranh giới khi công bố "đường cơ sở" mới?Qua đó, người ta có thể thấy đó là “cánh tay nối dài” trong hành động áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên thực tế. Như tôi giải thích, phương thức hoạt động của Bắc Kinh bắt đầu từ một “chuyện đã rồi”. Trường hợp này chính là một ví dụ vì Trung Quốc đơn phương tuyên bố một đường cơ sở mới. Điều đáng quan ngại là Trung Quốc tiếp tục áp dụng cách hành động duy nhất đó, có nghĩa là viện đến luật quốc gia để áp đặt cơ sở pháp lý cho những hành động của họ.Những sự cố gần đây trong khu vực Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough nằm trong chiến lược hành động của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2004. Cần phải lưu ý rằng những hành động này còn được củng cố thêm nhờ những biện pháp mới trong luật hải cảnh, có hiệu lực từ ngày 15/06/2024, cho phép bắt giữ tàu nước ngoài ở Biển Đông và giam giữ thủy thủ đoàn mà không cần xét xử.RFI : Vẫn trong bài viết trên Asia Focus của Viện IRIS, bà nhấn mạnh rằng “chính sách láng giềng hữu hảo của Trung Quốc hiện nay, được suy tính để cổ vũ việc hội nhập kinh tế trong vùng, có thể được coi là một tầm nhìn được cập nhật về hệ thống triều cống của đế quốc Trung Quốc”. Tại sao nên cảnh giác với chính sách này ? Các nước láng giềng sẽ gặp rủi ro gì trong xung đột chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc ?Lénaïck Le Peutrec : Trong câu hỏi này có những yếu tố lịch sử và văn hóa mà tôi cho rằng cần phải nêu bật, song song với những yếu tố thực tế, để hiểu đầy đủ hơn về hành động của Trung Quốc.Yếu tố đầu tiên mà tôi muốn lưu ý là tầm nhìn mang tính chu kỳ về lịch sử mà Trung Quốc vẫn chia sẻ. Điều này có thể được tóm tắt hoàn hảo trong câu tục ngữ Trung Quốc, tạm dịch “thống nhất lâu dài thì phải chia cắt, chia rẽ lâu thì phải đoàn tụ”. Nền văn minh Trung Quốc được đánh dấu bằng một lập luận lịch sử, theo đó “sau phân chia sẽ là sự thống nhất”.Điểm thứ hai, tôi muốn đề cập đến cách nhìn của Trung Quốc về vị trí trung tâm. Ngay tên gọi “Trung Quốc” - có nghĩa là “vùng đất ở giữa” - đã thể hiện rõ cách nhìn đó. Xuất phát từ vị trí trung tâm, Trung Quốc sống theo cách hiểu về địa lý thế giới xung quanh được định nghĩa theo cách nhìn của họ. Có thể thấy đa số những vùng lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông được đặt tên theo vị trí của chúng so với Trung Quốc, ví dụ quần đảo Hoàng Sa (Paracels) được gọi là Tây Sa, Trường Sa (Spratleys) là Nam Sa, bãi ngầm Macclesfield là Trung Sa. Đọc thêm : Khó khăn kinh tế Trung Quốc đe dọa ASEANChính sách láng giềng hữu hảo của Bắc Kinh cũng thể hiện một phần tầm nhìn về vai trò trung tâm của Trung Quốc. Trên thực tế, chính sách - được lập ra để khuyến khích hội nhập kinh tế khu vực - có thể được coi như là một quan niệm được cập nhật về hệ thống triều cống của đế chế Trung Hoa, dựa trên tính trung tâm của họ. Những điều kiện dễ dàng về kinh tế và thương mại được Trung Quốc chấp thuận thời nay thay thế cho sự bảo vệ của họ ngày trước, còn quyền lực và những lợi ích mà họ thu được thay cho những cống vật của các nước chư hầu ngày xưa. Tình thế này để lại rất ít khả năng hành động cho các nước ven biển láng giềng - những nước không có sức mạnh kinh tế hoặc năng lực tấn công quân sự như Trung Quốc.Cuối cùng phải nhắc đến việc ASEAN gần như tê liệt. Nội bộ Hiệp hội các nước Đông Nam Á bất đồng nhau trong xung đột lãnh thổ với Trung Quốc. Từ nhiều năm nay, ASEAN tìm cách thông qua một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) mà họ muốn có tính ràng buộc về mặt pháp lý nhưng đến giờ vẫn bị Bắc Kinh một mực phản đối.RFI : Tại sao Biển Đông lại là một khu vực thử nghiệm để Trung Quốc áp đặt tầm nhìn của họ về một trật tự thế giới mới, như bà nêu trong bài phân tích ?Lénaïck Le Peutrec : Trước tiên, tôi nghĩ là cần phải hiểu được những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông hay đúng hơn là những động cơ của họ. Theo tôi, có ba động cơ.Thứ nhất về mặt khai thác, việc bảo đảm tiếp tục các hoạt động đánh bắt hải sản, bảo vệ và khai thác các nguồn năng lượng, khoáng sản là việc cần thiết cho sự thúc đẩy phát triển của Trung Quốc. Tiếp theo là phải bảo đảm các nguồn tiếp cận với các tuyến hàng hải, đặc biệt là ưu tiên tiếp cận Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương vì đây là những tuyến đường thiết yếu để dòng chảy thương mại của Trung Quốc được luân chuyển. Về mặt an ninh, việc tự do lưu thông ở Biển Đông là phương tiện quan trọng cho uy tín về năng lực răn đe trên biển của Trung Quốc. Phần lớn các căn cứ tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Trung Quốc nằm trên đảo Hải Nam, ở phía bắc Biển Đông. Đọc thêm : Vai trò trung tâm của ASEAN trước thách thức của cạnh tranh Mỹ - TrungCũng đừng quên sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ trong khu vực làm tăng thêm cảm giác bất an của Trung Quốc, cũng như việc Hoa Kỳ tăng cường rõ rệt các liên minh với các nước trong khu vực trong thời gian gần đây để công khai chống lại sự trỗi dậy ngày càng tăng của Trung Quốc. Cấu trúc địa lý của Biển Đông cũng đặt Trung Quốc vào thế bị lọt thỏm và phụ thuộc lớn vào eo biển Malacca, tuyến đường thương mại chính của nước này. Từ năm 2023, Trung Quốc đã nhấn mạnh đến sự phụ thuộc quá mức của họ vào điểm trung chuyển này, cùng với sự bấp bênh về nguồn cung năng lượng do thiếu tuyến hàng hải thay thế.Bị thúc đẩy vì cảm giác bất an, Trung Quốc quyết tâm bảo đảm các lợi ích cơ bản của họ, bao gồm cả việc thống nhất đất nước, vốn là trọng tâm trong chính sách tái sinh vĩ đại của Trung Quốc và cũng là chính sách quan trọng hàng đầu của kỷ nguyên Tập Cận Bình. Những động cơ này của Trung Quốc khiến chúng ta nghĩ rằng Bắc Kinh có lẽ sẽ thử phản ứng của cộng đồng quốc tế về Biển Đông bằng cách dần dần gặm những không gian mà họ tuyên bố thuộc về mình. Do đó, Biển Đông sẽ là địa điểm thử nghiệm đầu tiên về một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa, trước khi chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là thống nhất với đảo Đài Loan.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà phân tích, nghiên cứu Lénaïck Le Peutrec.(2) Lénaïck Le Peutrec, "La Chine dans les conflits en mer de Chine méridionale : décryptage d'un nouvel ordre aux caractéristiques chinoises", Asia Focus, mai 2024, IRIS.

Podcast Báo Tuổi Trẻ
Việt Nam lên tiếng về việc Philippines đăng ký mở rộng thềm lục địa

Podcast Báo Tuổi Trẻ

Play Episode Listen Later Jun 21, 2024 2:53


Việt Nam bảo lưu toàn bộ quyền và lợi ích của mình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, và sẵn sàng trao đổi với Philippines để tìm kiếm và đi đến giải pháp phù hợp với lợi ích của cả hai nước.

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Ấn Độ-Thái Bình Dương : Pháp - Việt khác về lợi ích nhưng cùng phải "đối phó" với Trung Quốc

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later May 13, 2024 12:57


Lần đầu tiên, sau 70 năm, Pháp được mời tham dự lễ kỉ niệm trận Điên Biên Phủ. Chuyến thăm Việt Nam của bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Sébastien Lecornu và quốc vụ khanh phụ trách Cựu chiến binh và Ký ức Patricia Mirallès mang nhiều ý nghĩa, trong đó có một điểm quan trọng là hai nước « khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tốt đẹp ». Trong bài viết trên trang web ngày 06/05/2024, bộ Quân Lực Pháp nhấn mạnh : « Chuyến thăm còn là cơ hội tăng cường mối quan hệ về mặt quốc phòng và thể hiện mong muốn chung của hai nước góp phần bảo đảm ổn định cho vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á. Nhìn vào những thách thức an ninh hiện nay trong vùng, Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược (…) ».Chuyến công du của bộ trưởng Quân Lực Pháp và dự sự kiện 70 năm Điện Biên Phủ có ý nghĩa như thế nào trong quan hệ song phương ? Hai nước sẽ thúc đẩy tiềm năng hợp tác quốc phòng như thế nào trong tương lai ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn nhà nghiên cứu địa chính trị Laurent Gédéon tại Viện Đông Á (Institut d'Asie orientale), Trường Sư phạm Lyon (ENS Lyon), giảng viên Đại học Công giáo Lyon (Université catholique de Lyon).RFI : Trước khi tham dự lễ kỉ niệm trận Điện Biên Phủ, bộ trưởng Quân Lực Sébastien Lecornu viết trên mạng X ngày 06/05 : « Hai đất nước chúng ta đã xây dựng một mối quan hệ cho phép chúng ta thanh thản nhìn lại lịch sử chung và sáng suốt xem xét những sự hợp tác trong tương lai trong lộ trình được tổng thống Cộng hòa Pháp và tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra ». Phát biểu này có thể được hiểu như nào ? Laurent Gédéon : Trước tiên, tôi muốn nhấn mạnh chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh có rất nhiều hoạt động ngoại giao trong thời gian này, với chuyến công du Pháp của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từ ngày 05-07/05, sau đó ông đến Serbia và Hungary. Trước đó, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đến Bắc Kinh từ ngày 24-26/04. Và nhất là khả năng tổng thống Nga Vladimir Putin công du Trung Quốc trong tháng 5.Chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn Pháp cũng mang ý nghĩa đặc biệt vì do bộ trưởng Quân Lực dẫn đầu. Hai bên chủ ý nhấn mạnh đến tính chất quân sự vì sự kiện được chọn để tổ chức chuyến công du là lễ kỷ niệm 70 năm trận Điện Biên Phủ. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng trong buổi làm việc hôm 06/05 với bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang, ông Sébastien Lecornu đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hợp tác song phương nhằm chia sẻ những ký ức lịch sử và giải quyết hậu quả của cuộc chiến giữa hai nước. Đọc thêm : Pháp-Việt hàn gắn vết thương chiến tranh ở Điện Biên PhủTuy nhiên, chúng ta có thể thắc mắc là xây dựng một mối quan hệ chiến lược chân thành, bền vững và chất lượng liệu có xác đáng hay không khi xuất phát điểm là sự kiện được coi thắng lợi vang dội của một bên và là thất bại nặng nề cho bên kia. Trận Điện Biên Phủ vẫn chất chứa đầy cảm xúc cả với Pháp lẫn Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn lại mối quan hệ Pháp-Việt, vốn lâu dài vì đã kéo dài trong gần một thế kỷ, thì thấy không thiếu những yếu tố chung. Cho nên cần quan tâm xem xét mối quan hệ này để xác định các điểm kết nối, ngoài mỗi khía cạnh xung đột. Nhưng đây có thể là nền tảng vững chắc, để dựa vào đó phát triển những mối quan hệ đặc biệt, thậm chí là rất riêng giữa hai nước. Sự xích lại gần nhau hơn, được hình thành từ đó, sẽ sâu sắc hơn và ít trồi sụt hơn như hiện nay - yếu tố khiến mối quan hệ yếu đuối và dễ bị tác động hơn trước những biến đổi ngoại giao và địa-chính trị.Trở lại tuyên bố của bộ trưởng Sébastien Lecornu, cho dù mô hình xích lại gần nhau nào đang diễn ra thì phát biểu của ông cũng thể hiện nguyện vọng của chính quyền Paris đưa Việt Nam vào tầm nhìn Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp.RFI : Bộ trưởng Quân Lực Pháp đã hội đàm với đồng nhiệm Việt Nam. Ông cho rằng hai bên nên tích cực đối thoại, sớm thống nhất thỏa thuận về Chương trình Hợp tác quốc phòng Pháp-Việt giai đoạn 2025-2028. Vậy những điểm chính của chương trình hợp tác này có thể là gì ? Laurent Gédéon : Trước tiên cần phác lại một chút lịch sử mối quan hệ quốc phòng giữa Pháp và Việt Nam, được thiết lập từ năm 1991. Đến năm 2009, hai nước ký một hiệp định hợp tác về quốc phòng trên nhiều lĩnh vực, như gìn giữ hòa bình và quân y. Năm 2013, Paris và Hà Nội đã thiết lập quan hệ « Đối tác chiến lược ». Đến năm 2018 là « Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ Hợp tác Quốc phòng 2018-2028 » và « Đối thoại Chiến lược và Hợp tác quốc phòng » được tổ chức trong khuổn khổ này. Mục đích của sáng kiến này là xây dựng một mối quan hệ vững chắc, có khả năng đáp trả những thách thức hiện tại, trong đó có an ninh hàng hải và chống khủng bố.Tuyên bố Tầm nhìn chung năm 2018 đã tạo xung lực cho hợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực, kể cả về trao đổi các đoàn, các cơ chế đối thoại, tham vấn, huấn luyện, công nghiệp quốc phòng, quân y, chia sẻ ký ức lịch sử, bảo tồn di tích chiến tranh, các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc cũng như là tham vấn và hỗ trợ nhau trong các diễn đàn và cơ chế đa phương. Đọc thêm :Việt Nam : Đối tác mới cho chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Pháp ?Chúng ta thấy là vào tháng 12/2023, sau Đối thoại Chiến lược và Hợp tác Quốc phòng lần thứ ba, được tổ chức ở Paris, hai nước đã nhất trí tăng cường hợp tác quân đội thông qua việc gia tăng các cuộc trao đổi, hợp tác và huấn luyện cũng như nhấn mạnh đến an ninh hàng hải và chống khủng bố.Tiếp nối những thỏa thuận đó, bộ trưởng Sébastien Lecornu thông báo hôm 06/05 rằng ông đã ký với tướng Phan Văn Giang một « thỏa thuận khung » về những hợp tác trong tương lai liên quan đến « ký ức, để tạo thuận lợi cho việc truy cập tài liệu lưu trữ và trao trả thi hài quân nhân », « quân y, trong đó có nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm nhiệt đới », « các chương trương trình huấn luyện để tạo mối liên hệ cá nhân giữa quân đội hai nước », « các chuyến thăm viếng cập cảng để cùng đóng góp cho tự do lưu thông hàng hải », « duy trì hòa bình » và « trang thiết bị quốc phòng ». Hai bộ trưởng cũng xác nhận tiếp tục các cuộc trao đổi Pháp-Việt để sớm đi đến thống nhất về chương trình Hợp tác Quốc phòng song phương cho giai đoạn 2025-2028.Trong những năm tới, chắc chắn là Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung ưu tiên vào Biển Đông. Điểm này đã được nói rõ trong cuộc gặp giữa hai bộ trưởng. Khi nhắc đến vấn đề hàng hải, hai bộ trưởng nhấn mạnh đến « tầm quan trọng của hòa bình, an ninh, ổn định, tự do lưu thông trên biển và trên không, giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982, triển khai đầy đủ Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và tiếp tục đàm phán một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả và thực chất ».Theo tôi, trong bối cảnh này, hợp tác quốc phòng gia tăng giữa Việt Nam và Pháp có thể gồm những điểm : huấn luyện, cung cấp vật tư, vũ khí, đón tiếp tàu chiến Pháp (như tàu tuần dương Vendémiaire đến cảng Tiên Sa ngày 11/04/2024) cũng như tổ chức các cuộc tập trận chung.RFI : Ông Sébastien Lecornu cho biết là Pháp sẽ tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam lần thứ 2 vào cuối năm 2024, đồng thời Pháp sẵn sàng giúp quân đội Việt Nam để được hiệu quả hơn thông qua huấn luyện và không loại trừ khả năng cung cấp trang thiết bị trong tương lai. Qua phát biểu của bộ trưởng Lecornu, liệu Pháp có muốn trở thành nhà cung cấp vũ khí cho Việt Nam không ? Và liệu có những hạn chế nào không ?Laurent Gédéon : Trước hết phải nói rằng doanh số Pháp bán vũ khí cho Việt Nam hiện không đáng kể mặc dù Pháp là nhà xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai trên thế giới. Việc thị trường Việt Nam chiếm vị trí thấp phù hợp với thực tế Việt Nam vẫn là đối tác thương mại tương đối thứ cấp của Pháp, đứng thứ 46 trong số khách hàng (chỉ chiếm 0,3% lượng hàng xuất khẩu của Pháp) và đứng vị trí thứ 21 về nhà cung cấp (chiếm 0,9% hàng nhập khẩu Pháp). Ngoài ra, Việt Nam vẫn giữ mối liên hệ lịch sử với Nga, nhất là về mặt quân sự vì quân đội Việt Nam sử dụng chủ yếu vũ khí của Nga, chiếm gần 70% kho vũ khí.Đối với Pháp, việc tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế do Việt Nam tổ chức có lẽ đánh dấu cho sự chuyển hướng chính sách của Paris, ví dụ như chuyến công du của ông Sébastien Lecornu, và đồng thời thúc đẩy tăng cường bán vũ khí cho Việt Nam trong bối cảnh Hà Nội cũng đang tìm cách đa dạng hóa quan hệ để không bị phụ thuộc quá nhiều vào một đối tác duy nhất, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với Trung Quốc ở Biển Đông. Đọc thêm : Pháp khó “chen chân” vào thị trường vũ khí Việt Nam Tuy nhiên, nếu mong muốn chính trị này được đúc kết thành các hợp đồng vũ khí thì cũng phải tính đến một số hạn chế về ngoại giao cho phía Pháp liên quan đến khả năng Trung Quốc gây sức ép đối với Paris. Phía Việt Nam cũng sẽ phải đối phó với nhiều hạn chế, như hạn chế về ngân sách liên quan đến chi phí của một số loại vũ khí ; hạn chế về khả năng vì mục tiêu của Hà Nội vẫn là để phòng thủ, chứ không phải tấn công với loại vũ khí tương ứng ; hạn chế về kỹ thuật liên quan đến việc quân đội Việt Nam sử dụng chủ yếu thiết bị quân sự của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay và điều này đặt ra nhiều vấn đề về tính tương thích công nghệ và hệ thống với vũ khí của Pháp.Ngoài ra, mong muốn đa dạng hóa nguồn cung quân sự cũng có thể dẫn đến một kiểu phụ thuộc vào nhà cung cấp, nhất là về vũ khí có công nghệ cao và Hà Nội có thể lưỡng lự trước một lựa chọn như vậy. Cuối cùng, theo tôi, cần phải nhắc đến sự phát triển hợp tác quân sự Pháp-Việt còn phụ thuộc vào tương lai của quan hệ đối tác giữa Hà Nội và Matxcơva. Giả sử nếu Nga giành chiến thắng trong chiến tranh Ukraina, vị thế ngoại giao và độ tin cậy của Nga cũng sẽ được củng cố trong mắt các đối tác, trong đó có Việt Nam. Ngược lại, nếu Nga thất bại ở Ukraina, Hà Nội có thể sẽ tìm cách giảm phần nào hợp tác và hướng sang các đối tác khác nhiều hơn, trong đó có Pháp.RFI : Bộ trưởng Quân Lực Pháp cũng nhắc đến ASEAN và Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng các nước ASEAN (ADMM) mà Pháp hiện là một nhà quan sát. Pháp có thể trông đợi được gì từ Hà Nội ? Việt Nam có thể đóng vai trò như thế nào trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp ? Laurent Gédéon : Nhìn vào sự phát triển hợp tác với Hà Nội, có lẽ Paris sẽ trông cậy vào sự ủng hộ của Việt Nam để tạo thuận lợi cho việc tham gia cơ chế hợp tác quốc phòng này của ASEAN.Về vai trò của Việt Nam trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp, một điều chắc chắn là Pháp phát triển mối quan hệ với Việt Nam vì có liên quan đến lợi ích của Pháp ở vùng Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, Trung Quốc hiện là vấn đề địa chiến lược chính ở trong vùng đối với Paris. Cho nên có thể đối với Pháp, Việt Nam phần nào cũng có thể là một trong những kênh mà Paris có thể sử dụng để gây áp lực đối với Bắc Kinh.Tôi nói điều này vì trong một diễn đàn chung trên báo Valeurs actuelles ngày 05/05, ông Sébastien Lecornu và bà Patricia Mirallès đã nhấn mạnh rằng « trong một thế giới bất ổn và nguy hiểm nơi nhiều thế lực không còn ngần ngại chà đạp lên những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Pháp muốn phối hợp nhiều hơn với Việt Nam để củng cố ổn định ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, nơi có 1,6 triệu người Pháp hải ngoại sinh sống, và cũng bao gồm khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là khối ASEAN và các quốc gia thành viên ». Cùng vì mục đích này, bộ trưởng Quân Lực Pháp đã đến Nouméa (thủ phủ của Nouvelle Calédonie của Pháp) ngày 04/12/2023 nhân Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng Nam Thái Bình Dương lần thứ 10, gồm các nước Pháp, Úc, New Zealand, Chilê, New Guinea, quần đảo Tonga và Fidji. Do đó, chúng ta hiểu rằng mối quan hệ của Pháp với Việt Nam không thể tách rời khỏi những lợi ích của Pháp ở Nam Thái Bình Dương. Đọc thêm : Shangri-La : Pháp sẽ tăng cường hiện diện quân sự tại châu Á – Thái Bình DươngDo đó, câu hỏi đặt ra là sự hội tụ lợi ích giữa hai nước. Ngoài ý nghĩa thông báo, đâu là những lợi ích chung thực sự giữa Pháp và Việt Nam ? Việt Nam định nghĩa vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương như thế nào ? Và Pháp coi vùng này như thế nào ? Nhìn vào những lợi ích chiến lược của Pháp và Việt Nam hiện nay, có lẽ sự hội tụ lợi ích này khá là yếu và chỉ Trung Quốc là điểm chung chiến lược thực sự giữa hai nước. Hơn nữa, các khu vực địa lý liên quan, tức là những khu vực tập trung lợi ích riêng của hai nước, lại không giống nhau : Đối với Việt Nam là Biển Đông, còn đối với Pháp là vùng Nam Thái Bình Dương. Khi phân tích tình hình, người ta thấy rằng phía Pháp có thể sẽ phục vụ cho lợi ích của Việt Nam hơn là theo chiều ngược lại. Pháp hiện diện ở Biển Đông thông qua các chiến hạm trung chuyển qua đây. Tuy nhiên, giả sử xảy ra một cuộc xung đột giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ven biển, trong đó có Việt Nam, liệu Pháp có công khai lập trường ủng hộ Việt Nam không ?Câu hỏi này không phải là không xác đáng nếu như ta nhớ lại tuyên bố của ông Emmanuel Macron về Đài Loan hôm 11/04/2023. Lúc đó, tổng thống Pháp tuyên bố là châu Âu không nên ngả theo Mỹ hay Trung Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột về Đài Loan. Dù được đính chính vài ngày sau đó nhưng tuyên bố đó cũng đã khiến các đồng minh của Pháp bối rối, nhất là Hoa Kỳ.Đơn thuần về mặt địa-chính trị, tổng thống Pháp chỉ nhấn mạnh đến một điều hiển nhiên, đó là lợi ích địa-chiến lược của Pháp không nằm trong khu vực này và bản đồ của Pháp về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương chỉ gồm Đông Thái Bình Dương, trái ngược với cách diễn giải về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ.Cách hiểu này của Pháp cũng có thể có giá trị đối với Biển Đông. Khó khăn cho Hà Nội là phải hiểu được thực chất sự ủng hộ của Pháp trong trường hợp khủng hoảng và hạn chế sẽ là gì ? Ngược lại, sự hỗ trợ của Hà Nội cho Paris có lẽ không phải là điều cần thiết trong trường hợp xảy ra xung đột giữa Pháp và Trung Quốc ở Nam Thái Bình Dương. Do đó, mối quan hệ chiến lược giữa Pháp và Việt Nam vẫn còn cả một chặng đường dài cần vượt qua và những năm tới chắc chắn sẽ quan trọng để nhìn nhận tiến triển.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giảng viên Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon, Pháp.

Tạp chí Việt Nam
Ấn Độ-Thái Bình Dương : Pháp - Việt khác về lợi ích nhưng cùng phải "đối phó" với Trung Quốc

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later May 13, 2024 12:57


Lần đầu tiên, sau 70 năm, Pháp được mời tham dự lễ kỉ niệm trận Điên Biên Phủ. Chuyến thăm Việt Nam của bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Sébastien Lecornu và quốc vụ khanh phụ trách Cựu chiến binh và Ký ức Patricia Mirallès mang nhiều ý nghĩa, trong đó có một điểm quan trọng là hai nước « khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tốt đẹp ». Trong bài viết trên trang web ngày 06/05/2024, bộ Quân Lực Pháp nhấn mạnh : « Chuyến thăm còn là cơ hội tăng cường mối quan hệ về mặt quốc phòng và thể hiện mong muốn chung của hai nước góp phần bảo đảm ổn định cho vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á. Nhìn vào những thách thức an ninh hiện nay trong vùng, Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược (…) ».Chuyến công du của bộ trưởng Quân Lực Pháp và dự sự kiện 70 năm Điện Biên Phủ có ý nghĩa như thế nào trong quan hệ song phương ? Hai nước sẽ thúc đẩy tiềm năng hợp tác quốc phòng như thế nào trong tương lai ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn nhà nghiên cứu địa chính trị Laurent Gédéon tại Viện Đông Á (Institut d'Asie orientale), Trường Sư phạm Lyon (ENS Lyon), giảng viên Đại học Công giáo Lyon (Université catholique de Lyon).RFI : Trước khi tham dự lễ kỉ niệm trận Điện Biên Phủ, bộ trưởng Quân Lực Sébastien Lecornu viết trên mạng X ngày 06/05 : « Hai đất nước chúng ta đã xây dựng một mối quan hệ cho phép chúng ta thanh thản nhìn lại lịch sử chung và sáng suốt xem xét những sự hợp tác trong tương lai trong lộ trình được tổng thống Cộng hòa Pháp và tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra ». Phát biểu này có thể được hiểu như nào ? Laurent Gédéon : Trước tiên, tôi muốn nhấn mạnh chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh có rất nhiều hoạt động ngoại giao trong thời gian này, với chuyến công du Pháp của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từ ngày 05-07/05, sau đó ông đến Serbia và Hungary. Trước đó, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đến Bắc Kinh từ ngày 24-26/04. Và nhất là khả năng tổng thống Nga Vladimir Putin công du Trung Quốc trong tháng 5.Chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn Pháp cũng mang ý nghĩa đặc biệt vì do bộ trưởng Quân Lực dẫn đầu. Hai bên chủ ý nhấn mạnh đến tính chất quân sự vì sự kiện được chọn để tổ chức chuyến công du là lễ kỷ niệm 70 năm trận Điện Biên Phủ. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng trong buổi làm việc hôm 06/05 với bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang, ông Sébastien Lecornu đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hợp tác song phương nhằm chia sẻ những ký ức lịch sử và giải quyết hậu quả của cuộc chiến giữa hai nước. Đọc thêm : Pháp-Việt hàn gắn vết thương chiến tranh ở Điện Biên PhủTuy nhiên, chúng ta có thể thắc mắc là xây dựng một mối quan hệ chiến lược chân thành, bền vững và chất lượng liệu có xác đáng hay không khi xuất phát điểm là sự kiện được coi thắng lợi vang dội của một bên và là thất bại nặng nề cho bên kia. Trận Điện Biên Phủ vẫn chất chứa đầy cảm xúc cả với Pháp lẫn Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn lại mối quan hệ Pháp-Việt, vốn lâu dài vì đã kéo dài trong gần một thế kỷ, thì thấy không thiếu những yếu tố chung. Cho nên cần quan tâm xem xét mối quan hệ này để xác định các điểm kết nối, ngoài mỗi khía cạnh xung đột. Nhưng đây có thể là nền tảng vững chắc, để dựa vào đó phát triển những mối quan hệ đặc biệt, thậm chí là rất riêng giữa hai nước. Sự xích lại gần nhau hơn, được hình thành từ đó, sẽ sâu sắc hơn và ít trồi sụt hơn như hiện nay - yếu tố khiến mối quan hệ yếu đuối và dễ bị tác động hơn trước những biến đổi ngoại giao và địa-chính trị.Trở lại tuyên bố của bộ trưởng Sébastien Lecornu, cho dù mô hình xích lại gần nhau nào đang diễn ra thì phát biểu của ông cũng thể hiện nguyện vọng của chính quyền Paris đưa Việt Nam vào tầm nhìn Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp.RFI : Bộ trưởng Quân Lực Pháp đã hội đàm với đồng nhiệm Việt Nam. Ông cho rằng hai bên nên tích cực đối thoại, sớm thống nhất thỏa thuận về Chương trình Hợp tác quốc phòng Pháp-Việt giai đoạn 2025-2028. Vậy những điểm chính của chương trình hợp tác này có thể là gì ? Laurent Gédéon : Trước tiên cần phác lại một chút lịch sử mối quan hệ quốc phòng giữa Pháp và Việt Nam, được thiết lập từ năm 1991. Đến năm 2009, hai nước ký một hiệp định hợp tác về quốc phòng trên nhiều lĩnh vực, như gìn giữ hòa bình và quân y. Năm 2013, Paris và Hà Nội đã thiết lập quan hệ « Đối tác chiến lược ». Đến năm 2018 là « Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ Hợp tác Quốc phòng 2018-2028 » và « Đối thoại Chiến lược và Hợp tác quốc phòng » được tổ chức trong khuổn khổ này. Mục đích của sáng kiến này là xây dựng một mối quan hệ vững chắc, có khả năng đáp trả những thách thức hiện tại, trong đó có an ninh hàng hải và chống khủng bố.Tuyên bố Tầm nhìn chung năm 2018 đã tạo xung lực cho hợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực, kể cả về trao đổi các đoàn, các cơ chế đối thoại, tham vấn, huấn luyện, công nghiệp quốc phòng, quân y, chia sẻ ký ức lịch sử, bảo tồn di tích chiến tranh, các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc cũng như là tham vấn và hỗ trợ nhau trong các diễn đàn và cơ chế đa phương. Đọc thêm :Việt Nam : Đối tác mới cho chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Pháp ?Chúng ta thấy là vào tháng 12/2023, sau Đối thoại Chiến lược và Hợp tác Quốc phòng lần thứ ba, được tổ chức ở Paris, hai nước đã nhất trí tăng cường hợp tác quân đội thông qua việc gia tăng các cuộc trao đổi, hợp tác và huấn luyện cũng như nhấn mạnh đến an ninh hàng hải và chống khủng bố.Tiếp nối những thỏa thuận đó, bộ trưởng Sébastien Lecornu thông báo hôm 06/05 rằng ông đã ký với tướng Phan Văn Giang một « thỏa thuận khung » về những hợp tác trong tương lai liên quan đến « ký ức, để tạo thuận lợi cho việc truy cập tài liệu lưu trữ và trao trả thi hài quân nhân », « quân y, trong đó có nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm nhiệt đới », « các chương trương trình huấn luyện để tạo mối liên hệ cá nhân giữa quân đội hai nước », « các chuyến thăm viếng cập cảng để cùng đóng góp cho tự do lưu thông hàng hải », « duy trì hòa bình » và « trang thiết bị quốc phòng ». Hai bộ trưởng cũng xác nhận tiếp tục các cuộc trao đổi Pháp-Việt để sớm đi đến thống nhất về chương trình Hợp tác Quốc phòng song phương cho giai đoạn 2025-2028.Trong những năm tới, chắc chắn là Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung ưu tiên vào Biển Đông. Điểm này đã được nói rõ trong cuộc gặp giữa hai bộ trưởng. Khi nhắc đến vấn đề hàng hải, hai bộ trưởng nhấn mạnh đến « tầm quan trọng của hòa bình, an ninh, ổn định, tự do lưu thông trên biển và trên không, giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982, triển khai đầy đủ Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và tiếp tục đàm phán một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả và thực chất ».Theo tôi, trong bối cảnh này, hợp tác quốc phòng gia tăng giữa Việt Nam và Pháp có thể gồm những điểm : huấn luyện, cung cấp vật tư, vũ khí, đón tiếp tàu chiến Pháp (như tàu tuần dương Vendémiaire đến cảng Tiên Sa ngày 11/04/2024) cũng như tổ chức các cuộc tập trận chung.RFI : Ông Sébastien Lecornu cho biết là Pháp sẽ tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam lần thứ 2 vào cuối năm 2024, đồng thời Pháp sẵn sàng giúp quân đội Việt Nam để được hiệu quả hơn thông qua huấn luyện và không loại trừ khả năng cung cấp trang thiết bị trong tương lai. Qua phát biểu của bộ trưởng Lecornu, liệu Pháp có muốn trở thành nhà cung cấp vũ khí cho Việt Nam không ? Và liệu có những hạn chế nào không ?Laurent Gédéon : Trước hết phải nói rằng doanh số Pháp bán vũ khí cho Việt Nam hiện không đáng kể mặc dù Pháp là nhà xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai trên thế giới. Việc thị trường Việt Nam chiếm vị trí thấp phù hợp với thực tế Việt Nam vẫn là đối tác thương mại tương đối thứ cấp của Pháp, đứng thứ 46 trong số khách hàng (chỉ chiếm 0,3% lượng hàng xuất khẩu của Pháp) và đứng vị trí thứ 21 về nhà cung cấp (chiếm 0,9% hàng nhập khẩu Pháp). Ngoài ra, Việt Nam vẫn giữ mối liên hệ lịch sử với Nga, nhất là về mặt quân sự vì quân đội Việt Nam sử dụng chủ yếu vũ khí của Nga, chiếm gần 70% kho vũ khí.Đối với Pháp, việc tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế do Việt Nam tổ chức có lẽ đánh dấu cho sự chuyển hướng chính sách của Paris, ví dụ như chuyến công du của ông Sébastien Lecornu, và đồng thời thúc đẩy tăng cường bán vũ khí cho Việt Nam trong bối cảnh Hà Nội cũng đang tìm cách đa dạng hóa quan hệ để không bị phụ thuộc quá nhiều vào một đối tác duy nhất, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với Trung Quốc ở Biển Đông. Đọc thêm : Pháp khó “chen chân” vào thị trường vũ khí Việt Nam Tuy nhiên, nếu mong muốn chính trị này được đúc kết thành các hợp đồng vũ khí thì cũng phải tính đến một số hạn chế về ngoại giao cho phía Pháp liên quan đến khả năng Trung Quốc gây sức ép đối với Paris. Phía Việt Nam cũng sẽ phải đối phó với nhiều hạn chế, như hạn chế về ngân sách liên quan đến chi phí của một số loại vũ khí ; hạn chế về khả năng vì mục tiêu của Hà Nội vẫn là để phòng thủ, chứ không phải tấn công với loại vũ khí tương ứng ; hạn chế về kỹ thuật liên quan đến việc quân đội Việt Nam sử dụng chủ yếu thiết bị quân sự của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay và điều này đặt ra nhiều vấn đề về tính tương thích công nghệ và hệ thống với vũ khí của Pháp.Ngoài ra, mong muốn đa dạng hóa nguồn cung quân sự cũng có thể dẫn đến một kiểu phụ thuộc vào nhà cung cấp, nhất là về vũ khí có công nghệ cao và Hà Nội có thể lưỡng lự trước một lựa chọn như vậy. Cuối cùng, theo tôi, cần phải nhắc đến sự phát triển hợp tác quân sự Pháp-Việt còn phụ thuộc vào tương lai của quan hệ đối tác giữa Hà Nội và Matxcơva. Giả sử nếu Nga giành chiến thắng trong chiến tranh Ukraina, vị thế ngoại giao và độ tin cậy của Nga cũng sẽ được củng cố trong mắt các đối tác, trong đó có Việt Nam. Ngược lại, nếu Nga thất bại ở Ukraina, Hà Nội có thể sẽ tìm cách giảm phần nào hợp tác và hướng sang các đối tác khác nhiều hơn, trong đó có Pháp.RFI : Bộ trưởng Quân Lực Pháp cũng nhắc đến ASEAN và Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng các nước ASEAN (ADMM) mà Pháp hiện là một nhà quan sát. Pháp có thể trông đợi được gì từ Hà Nội ? Việt Nam có thể đóng vai trò như thế nào trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp ? Laurent Gédéon : Nhìn vào sự phát triển hợp tác với Hà Nội, có lẽ Paris sẽ trông cậy vào sự ủng hộ của Việt Nam để tạo thuận lợi cho việc tham gia cơ chế hợp tác quốc phòng này của ASEAN.Về vai trò của Việt Nam trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp, một điều chắc chắn là Pháp phát triển mối quan hệ với Việt Nam vì có liên quan đến lợi ích của Pháp ở vùng Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, Trung Quốc hiện là vấn đề địa chiến lược chính ở trong vùng đối với Paris. Cho nên có thể đối với Pháp, Việt Nam phần nào cũng có thể là một trong những kênh mà Paris có thể sử dụng để gây áp lực đối với Bắc Kinh.Tôi nói điều này vì trong một diễn đàn chung trên báo Valeurs actuelles ngày 05/05, ông Sébastien Lecornu và bà Patricia Mirallès đã nhấn mạnh rằng « trong một thế giới bất ổn và nguy hiểm nơi nhiều thế lực không còn ngần ngại chà đạp lên những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Pháp muốn phối hợp nhiều hơn với Việt Nam để củng cố ổn định ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, nơi có 1,6 triệu người Pháp hải ngoại sinh sống, và cũng bao gồm khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là khối ASEAN và các quốc gia thành viên ». Cùng vì mục đích này, bộ trưởng Quân Lực Pháp đã đến Nouméa (thủ phủ của Nouvelle Calédonie của Pháp) ngày 04/12/2023 nhân Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng Nam Thái Bình Dương lần thứ 10, gồm các nước Pháp, Úc, New Zealand, Chilê, New Guinea, quần đảo Tonga và Fidji. Do đó, chúng ta hiểu rằng mối quan hệ của Pháp với Việt Nam không thể tách rời khỏi những lợi ích của Pháp ở Nam Thái Bình Dương. Đọc thêm : Shangri-La : Pháp sẽ tăng cường hiện diện quân sự tại châu Á – Thái Bình DươngDo đó, câu hỏi đặt ra là sự hội tụ lợi ích giữa hai nước. Ngoài ý nghĩa thông báo, đâu là những lợi ích chung thực sự giữa Pháp và Việt Nam ? Việt Nam định nghĩa vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương như thế nào ? Và Pháp coi vùng này như thế nào ? Nhìn vào những lợi ích chiến lược của Pháp và Việt Nam hiện nay, có lẽ sự hội tụ lợi ích này khá là yếu và chỉ Trung Quốc là điểm chung chiến lược thực sự giữa hai nước. Hơn nữa, các khu vực địa lý liên quan, tức là những khu vực tập trung lợi ích riêng của hai nước, lại không giống nhau : Đối với Việt Nam là Biển Đông, còn đối với Pháp là vùng Nam Thái Bình Dương. Khi phân tích tình hình, người ta thấy rằng phía Pháp có thể sẽ phục vụ cho lợi ích của Việt Nam hơn là theo chiều ngược lại. Pháp hiện diện ở Biển Đông thông qua các chiến hạm trung chuyển qua đây. Tuy nhiên, giả sử xảy ra một cuộc xung đột giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ven biển, trong đó có Việt Nam, liệu Pháp có công khai lập trường ủng hộ Việt Nam không ?Câu hỏi này không phải là không xác đáng nếu như ta nhớ lại tuyên bố của ông Emmanuel Macron về Đài Loan hôm 11/04/2023. Lúc đó, tổng thống Pháp tuyên bố là châu Âu không nên ngả theo Mỹ hay Trung Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột về Đài Loan. Dù được đính chính vài ngày sau đó nhưng tuyên bố đó cũng đã khiến các đồng minh của Pháp bối rối, nhất là Hoa Kỳ.Đơn thuần về mặt địa-chính trị, tổng thống Pháp chỉ nhấn mạnh đến một điều hiển nhiên, đó là lợi ích địa-chiến lược của Pháp không nằm trong khu vực này và bản đồ của Pháp về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương chỉ gồm Đông Thái Bình Dương, trái ngược với cách diễn giải về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ.Cách hiểu này của Pháp cũng có thể có giá trị đối với Biển Đông. Khó khăn cho Hà Nội là phải hiểu được thực chất sự ủng hộ của Pháp trong trường hợp khủng hoảng và hạn chế sẽ là gì ? Ngược lại, sự hỗ trợ của Hà Nội cho Paris có lẽ không phải là điều cần thiết trong trường hợp xảy ra xung đột giữa Pháp và Trung Quốc ở Nam Thái Bình Dương. Do đó, mối quan hệ chiến lược giữa Pháp và Việt Nam vẫn còn cả một chặng đường dài cần vượt qua và những năm tới chắc chắn sẽ quan trọng để nhìn nhận tiến triển.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giảng viên Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon, Pháp.

Low Risk High Return
EP160: พื้นที่ทับซ้อนไทย-กัมพูชา (3) - UNCLOS กฎหมายระหว่างประเทศว่าด้วยการกำหนดเขตแดนทางทะเล

Low Risk High Return

Play Episode Listen Later May 11, 2024 13:38


เขตแดนทางทะเลเพิ่งจะมีการกำหนดอย่างเป็นทางการเมื่อ สหประชาชาติออกอนุสัญญาว่าด้วยกฎหมายทางทะเล หรือ United Nation Convention on the Law Of The Sea ในปี 1958 และเพิ่มเติมในปี 1982 ทำให้การกำหนดเขตแดนมีความชัดเจนมากขึ้น แต่กระนั้นก็ตาม ความขัดแย้งก็ยังมีตามอย่างหลีกเลี่ยงไม่ได้ เมื่อเขตแดนทางทะเลนั้นมีผลประโยชน์อันเกิดจากทรัพยากรที่อยู่ในพื้นที่ EP นี้จึงสรุปที่มาที่ไปและหลักในการกำหนดเขตแดนทางทะเลเพื่อทำความใจว่า อะไรที่ทำให้เกิดความขัดแย้งเกิดเป็นพื้นที่ทับซ้อนทางทะเลขึ้น

NATÔ Canada!
Special Episode: Atlantic Canada Security Policy Forum featuring Ambassadors of Japan, Korea and the Philippines to Canada

NATÔ Canada!

Play Episode Listen Later Apr 21, 2024 102:16


The NATO Association of Canada, in partnership with student organizations based in Memorial University of Newfoundland, namely the Political Science Graduate Students' Society (MUN PSGSS), Filipino Students' Association (MUNFILSA), Women in Cybersecurity (WiCys) - MUN Chapter, and Youth Atlantic Treaty Association - North Atlantic Treaty Organization (YATA - NATO) - Newfoundland and Labrador Chapter, successfully launched the inaugural Atlantic Canada Security Policy Forum. This virtual platform aims to raise greater public awareness as regards the latest security developments in the Indo-Pacific region. It seeks to contribute in fostering discussions and debates in Canada on how best the NATO in general, and Canada in particular could deepen its ties with its existing regional partners in the Indo-Pacific, and hence, contribute towards the promotion of collective security and the preservation of the rules-based international order. The event was held on Friday, April 5, 2024 through Zoom, a day after the nationwide commemoration of NATO's 75th Founding Anniversary.    In attendance were Mr. Robert Baines, President and CEO, Mr. Justin Michael James Dell, Editor-in-Chief, Mr. Mark Davis Madarang Pablo, Program Editor and Lead Project Coordinator, and Mr. Behzad Hakim, Engagement Relations Officer at the NATO Association of Canada. Also in attendance were Ms. Kathleen Katruskha Moreno, Vice President for Academics of MUN PSGSS, Ms. Irene Kim Abrogena, President of MUNFILSA, Dr. Jonathan Anderson, Advisor of Women in Cybersecurity (WiCys) - MUN Chapter, Mr. Mattias Vanderley, President of YATA - NATO Canada, and Mr. Spencer Carew, President of YATA - NATO  Canada - Newfoundland and Labrador Chapter. The Organizing Committee was honoured and privileged to welcome the following Guest Speakers during the event: Her Excellency Andrelita Austria, Ambassador of the Republic of the Philippines to Canada, His Excellency Yamanouchi Kanji, Ambassador of Japan to Canada, and His Excellency Woongsoon Lim, Ambassador of the Republic of Korea to Canada. Ambassador Austria outlined recent developments in maritime security disputes in the West Philippine Sea, emphasizing its strategic and economic importance as the country's Exclusive Economic Zone (EEZ) within the South China Sea. She highlighted China's provocative actions, Philippine government responses including upholding the 2016 Arbitral Tribunal ruling, and defending sovereign rights in accordance with UNCLOS. Ambassador Kanji addressed the emerging US-Japan-South Korea trilateral security partnership, noting Japan's defense buildup aiming to reach NATO's 2% of GDP spending within five years. He discussed areas of cooperation like information sharing, cybersecurity, economic security, and defense industrial collaboration, as outlined during the 2023 Camp David Summit. He also praised Canada's Indo-Pacific Strategy and its contributions to maritime sanctions enforcement against North Korea. Ambassador Woongsoon Lim of South Korea to Canada discussed security challenges, including North Korea's nuclear program, Russia's violations of UNSC sanctions against North Korea, and cyberattacks from North Korea, Russia, and China. He outlined South Korea's comprehensive strategy towards North Korea: Deterrence, Dissuasion, and Diplomacy (3D), involving military strengthening, enforcement of UNSC resolutions, and diplomatic efforts for denuclearization.

Green Pulse
S1E120: Climate change only one of three ecological crises: Tommy Koh warns

Green Pulse

Play Episode Listen Later Apr 6, 2024 15:21


In a storied career, the diplomat Professor Tommy Koh also chaired the Earth Summit in 1992 and negotiated the Law of the Sea. Synopsis: Every first and third Sunday of the month, The Straits Times analyses the beat of the changing environment, from biodiversity conservation to climate change. The framers of the United Nations Convention on the Law of the Sea did not foresee global warming affecting oceans to the extent that it does - causing acidification and the death of coral reefs - said the top diplomat who was president of the 1973 conference that produced the Convention known as UNCLOS.  In this episode, Singapore's ambassador at-large and foremost international environmental law expert Tommy Koh - who also chaired the pivotal 1992 Earth Summit - tells host ST's global contributor Nirmal Ghosh that plastic debris in the oceans now is of severe concern. He adds that the international community has also failed to be good stewards of the world's fisheries. According to the Food and Agricultural Organisation (FAO), unsustainable practices have depleted about 90 per cent of major fisheries - and fishing fleets continue to be subsidised. The total capacity of the world's fishing fleets is beyond the sustainable limit of the oceans.  Meanwhile, unlike climate change, the loss of biodiversity has failed to capture the popular imagination even as some scientists are calling the current era "the sixth extinction." There is hope, however, that the international community is at a tipping point, with people and governments waking up to the danger of this unprecedented loss.  Highlights of conversation (click/tap above): 2:22 The blind spot during negotiations of the United Nations Convention on the Law of the Sea 3:57 Large amounts of marine plastic debris in the ocean is a very serious problem 5:01 Why it is unsustainable to subsidise the fishing industry 6:05  How the man or woman on the street can link the loss of biodiversity to their individual welfare and interest 9:46 What are the shortfalls in efforts to curb global warming 12:43 How densely populated Singapore managed to maintain green spaces Produced by: Nirmal Ghosh (nirmal@sph.com.sg), Ernest Luis, Fa'izah Sani and Hadyu Rahim Edited by: Hadyu Rahim Follow Green Pulse Podcast here and rate us: Channel: https://str.sg/JWaf Apple Podcasts: https://str.sg/JWaY Spotify: https://str.sg/JWag SPH Awedio app: https://www.awedio.sg/ Website: http://str.sg/stpodcasts Feedback to: podcast@sph.com.sg Read ST's Climate Change microsite: https://www.straitstimes.com/climate-change --- Discover more ST podcast channels: COE Watch: https://str.sg/iTtE In Your Opinion: https://str.sg/w7Qt Asian Insider: https://str.sg/JWa7 Health Check: https://str.sg/JWaN Green Pulse: https://str.sg/JWaf Your Money & Career: https://str.sg/wB2m ST Sports Talk: https://str.sg/JWRE #PopVultures: https://str.sg/JWad Music Lab: https://str.sg/w9TX Discover ST Podcasts: http://str.sg/stpodcasts --- Special edition series: True Crimes Of Asia (6 eps): https://str.sg/i44T The Unsolved Mysteries of South-east Asia (5 eps): https://str.sg/wuZ2 Invisible Asia (9 eps): https://str.sg/wuZn Stop Scams (10 eps): https://str.sg/wuZB Singapore's War On Covid (5 eps): https://str.sg/wuJa --- #greenpulseSee omnystudio.com/listener for privacy information.

The Straits Times Audio Features
S1E120: Climate change only one of three ecological crises: Tommy Koh warns

The Straits Times Audio Features

Play Episode Listen Later Apr 6, 2024 15:21


In a storied career, the diplomat Professor Tommy Koh also chaired the Earth Summit in 1992 and negotiated the Law of the Sea. Synopsis: Every first and third Sunday of the month, The Straits Times analyses the beat of the changing environment, from biodiversity conservation to climate change. The framers of the United Nations Convention on the Law of the Sea did not foresee global warming affecting oceans to the extent that it does - causing acidification and the death of coral reefs - said the top diplomat who was president of the 1973 conference that produced the Convention known as UNCLOS.  In this episode, Singapore's ambassador at-large and foremost international environmental law expert Tommy Koh - who also chaired the pivotal 1992 Earth Summit - tells host ST's global contributor Nirmal Ghosh that plastic debris in the oceans now is of severe concern. He adds that the international community has also failed to be good stewards of the world's fisheries. According to the Food and Agricultural Organisation (FAO), unsustainable practices have depleted about 90 per cent of major fisheries - and fishing fleets continue to be subsidised. The total capacity of the world's fishing fleets is beyond the sustainable limit of the oceans.  Meanwhile, unlike climate change, the loss of biodiversity has failed to capture the popular imagination even as some scientists are calling the current era "the sixth extinction." There is hope, however, that the international community is at a tipping point, with people and governments waking up to the danger of this unprecedented loss.  Highlights of conversation (click/tap above): 2:22 The blind spot during negotiations of the United Nations Convention on the Law of the Sea 3:57 Large amounts of marine plastic debris in the ocean is a very serious problem 5:01 Why it is unsustainable to subsidise the fishing industry 6:05  How the man or woman on the street can link the loss of biodiversity to their individual welfare and interest 9:46 What are the shortfalls in efforts to curb global warming 12:43 How densely populated Singapore managed to maintain green spaces Produced by: Nirmal Ghosh (nirmal@sph.com.sg), Ernest Luis, Fa'izah Sani and Hadyu Rahim Edited by: Hadyu Rahim Follow Green Pulse Podcast here and rate us: Channel: https://str.sg/JWaf Apple Podcasts: https://str.sg/JWaY Spotify: https://str.sg/JWag SPH Awedio app: https://www.awedio.sg/ Website: http://str.sg/stpodcasts Feedback to: podcast@sph.com.sg Read ST's Climate Change microsite: https://www.straitstimes.com/climate-change --- Discover more ST podcast channels: COE Watch: https://str.sg/iTtE In Your Opinion: https://str.sg/w7Qt Asian Insider: https://str.sg/JWa7 Health Check: https://str.sg/JWaN Green Pulse: https://str.sg/JWaf Your Money & Career: https://str.sg/wB2m ST Sports Talk: https://str.sg/JWRE #PopVultures: https://str.sg/JWad Music Lab: https://str.sg/w9TX Discover ST Podcasts: http://str.sg/stpodcasts --- Special edition series: True Crimes Of Asia (6 eps): https://str.sg/i44T The Unsolved Mysteries of South-east Asia (5 eps): https://str.sg/wuZ2 Invisible Asia (9 eps): https://str.sg/wuZn Stop Scams (10 eps): https://str.sg/wuZB Singapore's War On Covid (5 eps): https://str.sg/wuJa --- #greenpulseSee omnystudio.com/listener for privacy information.

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Vịnh Bắc Bộ: Trung Quốc muốn vẽ lại ranh giới khi công bố "đường cơ sở" mới?

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Mar 18, 2024 9:39


Trong lúc tình hình tại Biển Đông vẫn chưa lắng dịu, thì một vùng biển khác, Vịnh Bắc Bộ, phải chăng đang có nguy cơ trở thành một điểm nóng thứ hai giữa Việt Nam và Trung Quốc? Ngày 01/03/2024, Trung Quốc đã chính thức công bố đường cơ sở mới nêu rõ yêu sách lãnh thổ của họ ở phía bắc Vịnh Bắc Bộ, khu vực chung với Việt Nam. Thông báo trên trang mạng của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nêu lên 7 điểm cơ bản mà khi được kết nối sẽ tạo thành đường cơ sở cho các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh ở Vịnh Bắc Bộ. Thông báo đó đã làm dấy lên nhiều lo ngại về ý đồ của Bắc Kinh đối với vùng biển mà hai nước đã phân định ranh giới sau rất nhiều đàm phán. Nhiều ngày sau khi đường cơ sở mới được phía Trung Quốc công bố, Việt Nam mới lên tiếng vào ngày 14/03, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Phạm Thu Hằng. Hà Nội đề nghị Trung Quốc “tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ ký năm 2000, cũng như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982".Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và là ranh giới phía ngoài của nội thủy, do nước ven biển quy định trên cơ sở Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS).Theo Công ước này, các quốc gia ven biển được hưởng lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa kéo dài tới 350 hải lý. Tuy nhiên, Vịnh Bắc Bộ, một vịnh nửa kín, bao quanh là Trung Hoa lục địa, Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc, có chiều rộng tối đa không quá 180 hải lý. Cho nên có sự chồng chéo hoàn toàn về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của cả hai quốc gia trong vùng Vịnh, nếu chiếu theo Công ước UNCLOSVào năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận vạch ra ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở Vịnh Bắc Bộ. Cả hai bên đều coi thỏa thuận này là "công bằng", đánh dấu ranh giới trên biển đầu tiên của Trung Quốc. Nhưng dù đã đạt thỏa thuận này, tranh chấp vẫn tiếp diễn do vẫn văn bản chưa phân định rõ ranh giới hướng ra biển. Trả lời RFI Việt ngữ, nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Sài Gòn nhận định đường cơ sở mới mà Trung Quốc vừa công bố là "chưa thuyết phục": " Về Vịnh Bắc Bộ thì Việt Nam và Trung Quốc đã trải qua rất nhiều cuộc đàm phán và cuối cùng đã ký Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ, gọi đầy đủ hơn là "Hiệp định Phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tại Vịnh Bắc Bộ". Hiệp định được ký kết năm 2000 và có hiệu lực từ năm 2004, nay đã tròn 20 năm. Trước đó thì đương nhiên là Trung Quốc chưa bao giờ công bố đường cơ sở trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, vì đây là vùng vốn có tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên có thể nói đây là lần đầu tiên Trung Quốc công bố một đường cơ sở trong khu vực Vịnh Bắc Bộ.Trung Quốc sử dụng phương pháp "đường cơ sở thẳng" đối với cả đường cơ sở trong Vịnh Bắc Bộ. Điều này có lẽ là chưa thuyết phục được nhiều người. Thứ nhất, Công ước về Luật Biển có quy định rằng ở những nơi mà vùng biển khúc khuỷu, lồi lỏm thì có thể áp dụng phương pháp "đường cơ sở thẳng". Trong trường hợp này thì khu vực của Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bắc Bộ không phải là một khu vực khúc khuỷu lồi lỏm. Cho nên việc Trung Quốc áp dụng "đường cơ sở thẳng" là chưa hẳn thuyết phục. Điểm thứ hai là một số điểm cơ sở của Trung Quốc trong đường cơ sở thẳng này quá xa bờ và điều này làm dấy lên lo ngại là Trung Quốc không tuân thủ đúng Công ước về Luật Biển khi công bố đường cơ sở ở Vịnh Bắc Bộ."Bắc Kinh đã từng nói là những tranh chấp đó sẽ được giải quyết thông qua một quy trình phân định mới, nhưng chưa ai hiểu lý do vì sao Trung Quốc lại công bố đường cơ sở mới vào thời điểm này. Để trấn an Hà Nội, bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định đường cơ sở mới được vạch ra “sẽ không tác động tiêu cực đến lợi ích của Việt Nam hay của bất kỳ quốc gia nào khác”, mà trái lại, “sẽ thúc đẩy hợp tác hàng hải quốc tế giữa Trung Quốc và các nước liên quan và đóng góp vào sự phát triển chung của hàng hải toàn cầu”.Nhưng trong tuyên bố ngày 14/03, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng đã chỉ trích việc chính phủ Trung Quốc đưa ra 7 "điểm cơ sở" khi nối với nhau tạo thành một đường cơ sở mới nhằm tuyên bố "lãnh hải" ở Vịnh Bắc Bộ. Theo phát ngôn viên bộ Ngoại Giao, "các điểm này không tồn tại trong 49 điểm cơ sở mà Trung Quốc công bố ngày 15/5/1996 để tính chiều rộng lãnh hải từ Hải Nam tới Thanh Đảo".Bà Hằng cho biết Việt Nam "đã và sẽ tiếp tục trao đổi quan điểm với Trung Quốc về vấn đề này trên tinh thần hữu nghị, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau".Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định về những phản ứng nói trên của Việt Nam: "Đây là tuyên bố thường thấy của Việt Nam. Có lẻ vì thấy dư luận đang thắc mắc và có những ý kiến lo ngại về đường cơ sở mới của Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ, nên Việt Nam buộc phải lên tiếng. Phát biểu này không có gì mới hơn so với những gì mà Việt Nam và Trung Quốc đã cam kết thực hiện. Việt Nam vẫn luôn kêu gọi Trung Quốc phải tuân thủ Công ước về Luật Biển 1982.Nhưng như đã nói ở trên, đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc công bố có lẽ có một số điểm chưa phù hợp với tinh thần Công ước về Luật Biển. So với đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc công bố năm 1996, thì đường cơ sở mới bao trọn eo biển Quỳnh Châu, hay còn gọi là eo biển Hải Nam nằm trong nội thủy của Trung Quốc. Cái này cũng không phải là mới, vì trước đây, từ năm 1958, đến năm 1992 và đến khi công bố đường cơ sở năm 1996, Trung Quốc cũng đã từng tuyên bố eo biển Quỳnh Châu nằm trong nội thủy Trung Quốc.Năm 1996, Trung Quốc đã từng tuyên bố đường cơ sở có hai hệ thống, một hệ thống nằm trong thềm lục địa của Trung Quốc và kéo dài đến đảo Hải Nam, hệ thống thứ hai là đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Hoàng Sa. Năm đó thì Việt Nam đã ra tuyên bố phản đối với hệ thống đường cơ sở thẳng bao quanh Hoàng Sa, vì nó không hoàn toàn phù hợp với Công ước về Luật Biển năm 1982. Tuyên bố của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao cũng đã nhắc lại phản đối này."Shashank S. Patel, một nhà phân tích địa chính trị theo dõi sát các hoạt động ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhận định với EurAsian Times: “Việc công bố một đường cơ sở mới có vẻ quá đáng trên bản đồ sẽ tác động sâu hơn đến vùng đặc quyền kinh tế và vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam, nơi cung cấp các vùng đánh cá chính cho Trung Quốc.”Ông nói: “Việc đơn phương phân định đường cơ sở mới của Trung Quốc là một nỗ lực nhằm hạn chế các yêu sách của Hà Nội đối với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các vùng nước sâu. Khu vực nằm trong đường cơ sở mới của Trung Quốc chiếm hơn 60% diện tích, vi phạm trắng trợn Công ước UNCLOS. Hy vọng Việt Nam không để vấn đề này leo thang lên mức cao nhất, nhưng nếu không làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền đánh bắt cá, chuỗi cung ứng và tuyến đường biển của Việt Nam trong thời gian tới”.Nhưng đối với nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đường cơ sở mới mà Trung Quốc vừa công bố không làm thay đổi những gì đã được phân định giữa hai nước: "Với câu hỏi nó có tác động gì hay không thì tôi trả lời là không, bởi vì hai bên đã ký kết Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ từ năm 2000, có hiệu lực từ 2004, tức là 20 năm rồi. Dù Trung Quốc có vẽ đường cơ sở nào đi chăng nữa thì nó cũng không làm thay đổi sự phân định giữa hai bên theo hiệp định năm 2000. Tôi đã đọc một số ý kiến cho là Trung Quốc có mưu đồ lấn chiếm, nhưng tôi nghĩ Trung Quốc không thể lấn chiếm được khi Vịnh Bắc Bộ đã được phân định rõ ràng rồiHiệp định đã phân định xong rồi. Trung Quốc có quyền tuyên bố một đường cơ sở trong khu vực của họ. Và ngược lại, Việt Nam cũng có quyền tuyên bố một đường cơ sở trong phần của Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ. Hiện nay, ngoài đường cơ sở thẳng mà Việt Nam tuyên bố tháng 11/1982, cũng cần phải tuyên bố thêm, như nhắc nhở của một số người trước đây, vì đường cơ sở thẳng của Việt Nam chưa được khép kín, khi còn bỏ trống một điểm cơ sở ở khu vực trong Vịnh Thái Lan vào khu vực Vịnh Bắc Bộ. Hai nơi này chưa được phân định. Khu vực Vịnh Bắc Bộ đã phân định từ rất lâu mà Việt Nam vẫn chưa công bố một đường cơ sở trong vùng biển này. Nếu hỏi hai bên có thể đàm phán lại được hay không, thì câu trả lời là “không thể”, bởi vì hai bên đã đàm phán xong rồi và đàm phán đã rất là khó khăn, và muốn thay đổi gì thì phải có sự đồng ý của hai bên. Một điều khoản trong Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ nói rõ như vậy. Tôi nghĩ rằng khả năng thay đổi rất khó vì Việt Nam không muốn thay đổi, mà Trung Quốc chắc cũng không muốn thay đổi. Điều này cho thấy là Việt Nam cũng phải sớm tuyên bố một đường cơ sở ở Vịnh Bắc Bộ trong khu vực của Việt Nam để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở vùng biển này.".Nhưng nhìn vấn đề xa hơn, trên trang mạng EurAsian Times, nhà phân tích Patel nhấn mạnh: "Đường cơ sở mới có thể cản trở quyền tự do hàng hải, nghiên cứu khoa học, lắp đặt cáp và đường ống cũng như các nỗ lực cải tạo đảo". Patel lưu ý: “Nếu Việt Nam, theo đường lối của Philippines, đưa vấn đề ra Tòa Trọng tài Thường trực, Trung Quốc sẽ lại bác bỏ phán quyết, cho rằng phán quyết đó bất hợp pháp và vô hiệu.”   

Tạp chí Việt Nam
Vịnh Bắc Bộ: Trung Quốc muốn vẽ lại ranh giới khi công bố "đường cơ sở" mới?

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Mar 18, 2024 9:39


Trong lúc tình hình tại Biển Đông vẫn chưa lắng dịu, thì một vùng biển khác, Vịnh Bắc Bộ, phải chăng đang có nguy cơ trở thành một điểm nóng thứ hai giữa Việt Nam và Trung Quốc? Ngày 01/03/2024, Trung Quốc đã chính thức công bố đường cơ sở mới nêu rõ yêu sách lãnh thổ của họ ở phía bắc Vịnh Bắc Bộ, khu vực chung với Việt Nam. Thông báo trên trang mạng của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc nêu lên 7 điểm cơ bản mà khi được kết nối sẽ tạo thành đường cơ sở cho các yêu sách chủ quyền của Bắc Kinh ở Vịnh Bắc Bộ. Thông báo đó đã làm dấy lên nhiều lo ngại về ý đồ của Bắc Kinh đối với vùng biển mà hai nước đã phân định ranh giới sau rất nhiều đàm phán. Nhiều ngày sau khi đường cơ sở mới được phía Trung Quốc công bố, Việt Nam mới lên tiếng vào ngày 14/03, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Phạm Thu Hằng. Hà Nội đề nghị Trung Quốc “tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ ký năm 2000, cũng như Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982".Đường cơ sở là đường ranh giới phía trong của lãnh hải và là ranh giới phía ngoài của nội thủy, do nước ven biển quy định trên cơ sở Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS).Theo Công ước này, các quốc gia ven biển được hưởng lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa kéo dài tới 350 hải lý. Tuy nhiên, Vịnh Bắc Bộ, một vịnh nửa kín, bao quanh là Trung Hoa lục địa, Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc, có chiều rộng tối đa không quá 180 hải lý. Cho nên có sự chồng chéo hoàn toàn về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của cả hai quốc gia trong vùng Vịnh, nếu chiếu theo Công ước UNCLOSVào năm 2000, Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được thỏa thuận vạch ra ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở Vịnh Bắc Bộ. Cả hai bên đều coi thỏa thuận này là "công bằng", đánh dấu ranh giới trên biển đầu tiên của Trung Quốc. Nhưng dù đã đạt thỏa thuận này, tranh chấp vẫn tiếp diễn do vẫn văn bản chưa phân định rõ ranh giới hướng ra biển. Trả lời RFI Việt ngữ, nhà nghiên cứu Hoàng Việt ở Sài Gòn nhận định đường cơ sở mới mà Trung Quốc vừa công bố là "chưa thuyết phục": " Về Vịnh Bắc Bộ thì Việt Nam và Trung Quốc đã trải qua rất nhiều cuộc đàm phán và cuối cùng đã ký Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ, gọi đầy đủ hơn là "Hiệp định Phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tại Vịnh Bắc Bộ". Hiệp định được ký kết năm 2000 và có hiệu lực từ năm 2004, nay đã tròn 20 năm. Trước đó thì đương nhiên là Trung Quốc chưa bao giờ công bố đường cơ sở trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, vì đây là vùng vốn có tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên có thể nói đây là lần đầu tiên Trung Quốc công bố một đường cơ sở trong khu vực Vịnh Bắc Bộ.Trung Quốc sử dụng phương pháp "đường cơ sở thẳng" đối với cả đường cơ sở trong Vịnh Bắc Bộ. Điều này có lẽ là chưa thuyết phục được nhiều người. Thứ nhất, Công ước về Luật Biển có quy định rằng ở những nơi mà vùng biển khúc khuỷu, lồi lỏm thì có thể áp dụng phương pháp "đường cơ sở thẳng". Trong trường hợp này thì khu vực của Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bắc Bộ không phải là một khu vực khúc khuỷu lồi lỏm. Cho nên việc Trung Quốc áp dụng "đường cơ sở thẳng" là chưa hẳn thuyết phục. Điểm thứ hai là một số điểm cơ sở của Trung Quốc trong đường cơ sở thẳng này quá xa bờ và điều này làm dấy lên lo ngại là Trung Quốc không tuân thủ đúng Công ước về Luật Biển khi công bố đường cơ sở ở Vịnh Bắc Bộ."Bắc Kinh đã từng nói là những tranh chấp đó sẽ được giải quyết thông qua một quy trình phân định mới, nhưng chưa ai hiểu lý do vì sao Trung Quốc lại công bố đường cơ sở mới vào thời điểm này. Để trấn an Hà Nội, bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định đường cơ sở mới được vạch ra “sẽ không tác động tiêu cực đến lợi ích của Việt Nam hay của bất kỳ quốc gia nào khác”, mà trái lại, “sẽ thúc đẩy hợp tác hàng hải quốc tế giữa Trung Quốc và các nước liên quan và đóng góp vào sự phát triển chung của hàng hải toàn cầu”.Nhưng trong tuyên bố ngày 14/03, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng đã chỉ trích việc chính phủ Trung Quốc đưa ra 7 "điểm cơ sở" khi nối với nhau tạo thành một đường cơ sở mới nhằm tuyên bố "lãnh hải" ở Vịnh Bắc Bộ. Theo phát ngôn viên bộ Ngoại Giao, "các điểm này không tồn tại trong 49 điểm cơ sở mà Trung Quốc công bố ngày 15/5/1996 để tính chiều rộng lãnh hải từ Hải Nam tới Thanh Đảo".Bà Hằng cho biết Việt Nam "đã và sẽ tiếp tục trao đổi quan điểm với Trung Quốc về vấn đề này trên tinh thần hữu nghị, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau".Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định về những phản ứng nói trên của Việt Nam: "Đây là tuyên bố thường thấy của Việt Nam. Có lẻ vì thấy dư luận đang thắc mắc và có những ý kiến lo ngại về đường cơ sở mới của Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ, nên Việt Nam buộc phải lên tiếng. Phát biểu này không có gì mới hơn so với những gì mà Việt Nam và Trung Quốc đã cam kết thực hiện. Việt Nam vẫn luôn kêu gọi Trung Quốc phải tuân thủ Công ước về Luật Biển 1982.Nhưng như đã nói ở trên, đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc công bố có lẽ có một số điểm chưa phù hợp với tinh thần Công ước về Luật Biển. So với đường cơ sở thẳng mà Trung Quốc công bố năm 1996, thì đường cơ sở mới bao trọn eo biển Quỳnh Châu, hay còn gọi là eo biển Hải Nam nằm trong nội thủy của Trung Quốc. Cái này cũng không phải là mới, vì trước đây, từ năm 1958, đến năm 1992 và đến khi công bố đường cơ sở năm 1996, Trung Quốc cũng đã từng tuyên bố eo biển Quỳnh Châu nằm trong nội thủy Trung Quốc.Năm 1996, Trung Quốc đã từng tuyên bố đường cơ sở có hai hệ thống, một hệ thống nằm trong thềm lục địa của Trung Quốc và kéo dài đến đảo Hải Nam, hệ thống thứ hai là đường cơ sở thẳng bao quanh quần đảo Hoàng Sa. Năm đó thì Việt Nam đã ra tuyên bố phản đối với hệ thống đường cơ sở thẳng bao quanh Hoàng Sa, vì nó không hoàn toàn phù hợp với Công ước về Luật Biển năm 1982. Tuyên bố của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao cũng đã nhắc lại phản đối này."Shashank S. Patel, một nhà phân tích địa chính trị theo dõi sát các hoạt động ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhận định với EurAsian Times: “Việc công bố một đường cơ sở mới có vẻ quá đáng trên bản đồ sẽ tác động sâu hơn đến vùng đặc quyền kinh tế và vùng tiếp giáp lãnh hải của Việt Nam, nơi cung cấp các vùng đánh cá chính cho Trung Quốc.”Ông nói: “Việc đơn phương phân định đường cơ sở mới của Trung Quốc là một nỗ lực nhằm hạn chế các yêu sách của Hà Nội đối với vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các vùng nước sâu. Khu vực nằm trong đường cơ sở mới của Trung Quốc chiếm hơn 60% diện tích, vi phạm trắng trợn Công ước UNCLOS. Hy vọng Việt Nam không để vấn đề này leo thang lên mức cao nhất, nhưng nếu không làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền đánh bắt cá, chuỗi cung ứng và tuyến đường biển của Việt Nam trong thời gian tới”.Nhưng đối với nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đường cơ sở mới mà Trung Quốc vừa công bố không làm thay đổi những gì đã được phân định giữa hai nước: "Với câu hỏi nó có tác động gì hay không thì tôi trả lời là không, bởi vì hai bên đã ký kết Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ từ năm 2000, có hiệu lực từ 2004, tức là 20 năm rồi. Dù Trung Quốc có vẽ đường cơ sở nào đi chăng nữa thì nó cũng không làm thay đổi sự phân định giữa hai bên theo hiệp định năm 2000. Tôi đã đọc một số ý kiến cho là Trung Quốc có mưu đồ lấn chiếm, nhưng tôi nghĩ Trung Quốc không thể lấn chiếm được khi Vịnh Bắc Bộ đã được phân định rõ ràng rồiHiệp định đã phân định xong rồi. Trung Quốc có quyền tuyên bố một đường cơ sở trong khu vực của họ. Và ngược lại, Việt Nam cũng có quyền tuyên bố một đường cơ sở trong phần của Việt Nam ở Vịnh Bắc Bộ. Hiện nay, ngoài đường cơ sở thẳng mà Việt Nam tuyên bố tháng 11/1982, cũng cần phải tuyên bố thêm, như nhắc nhở của một số người trước đây, vì đường cơ sở thẳng của Việt Nam chưa được khép kín, khi còn bỏ trống một điểm cơ sở ở khu vực trong Vịnh Thái Lan vào khu vực Vịnh Bắc Bộ. Hai nơi này chưa được phân định. Khu vực Vịnh Bắc Bộ đã phân định từ rất lâu mà Việt Nam vẫn chưa công bố một đường cơ sở trong vùng biển này. Nếu hỏi hai bên có thể đàm phán lại được hay không, thì câu trả lời là “không thể”, bởi vì hai bên đã đàm phán xong rồi và đàm phán đã rất là khó khăn, và muốn thay đổi gì thì phải có sự đồng ý của hai bên. Một điều khoản trong Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ nói rõ như vậy. Tôi nghĩ rằng khả năng thay đổi rất khó vì Việt Nam không muốn thay đổi, mà Trung Quốc chắc cũng không muốn thay đổi. Điều này cho thấy là Việt Nam cũng phải sớm tuyên bố một đường cơ sở ở Vịnh Bắc Bộ trong khu vực của Việt Nam để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam ở vùng biển này.".Nhưng nhìn vấn đề xa hơn, trên trang mạng EurAsian Times, nhà phân tích Patel nhấn mạnh: "Đường cơ sở mới có thể cản trở quyền tự do hàng hải, nghiên cứu khoa học, lắp đặt cáp và đường ống cũng như các nỗ lực cải tạo đảo". Patel lưu ý: “Nếu Việt Nam, theo đường lối của Philippines, đưa vấn đề ra Tòa Trọng tài Thường trực, Trung Quốc sẽ lại bác bỏ phán quyết, cho rằng phán quyết đó bất hợp pháp và vô hiệu.”   

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Hợp tác an ninh hàng hải giữa Úc với Việt Nam sẽ “không phô trương” như với Philippines

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Mar 11, 2024 10:27


Việt Nam và Úc nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện ngày 07/03/2024 đưa Úc trở thành một trong 7 đối tác quan trọng nhất của Việt Nam. Quốc phòng và an ninh nằm trong số những lĩnh vực được tăng cường hợp tác trong khuôn khổ thỏa thuận mới. Đối với Úc, Việt Nam trở thành cửa ngõ để dấn sâu vào khu vực Đông Nam Á lục địa trong bối cảnh Canberra xoay trục sang ASEAN. Còn Việt Nam có thể đặt « niềm tin », trông cậy vào việc « Úc ủng hộ thượng tôn pháp luật quốc tế ở khu vực và giải quyết tranh chấp tại Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982 », theo phát biểu của thủ tướng Phạm Minh Chính.Tuy nhiên, hợp tác an ninh quốc phòng song phương sẽ « không phô trương » như hợp tác giữa Úc và Philippines, đặc biệt tại Biển Đông. Đây là một trong những nhận định trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt của nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.RFI : Việt Nam và Úc tổ chức cuộc họp cấp thứ trưởng về hợp tác an ninh lần thứ 3 vào tháng 02/2023. Mối quan hệ song phương về lĩnh vực này được hình thành và phát triển như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Đặt trong bối cảnh 50 quan hệ song phương, mối quan hệ hợp tác an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Úc chỉ là một mảng rất mới, và nổi bật chắc từ tầm 2019-2020, khi đó Việt Nam bắt đầu chú trọng việc tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực, đặc biệt là với các nước trung cường.Cho tới trước khi hai nước nâng cấp lên quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, điểm nổi bật nhất trong hợp tác an ninh quốc phòng song phương là Úc hỗ trợ Việt Nam trong các vấn đề liên quan tới gìn giữ hòa bình, thông qua hỗ trợ tài chính, huấn luyện, đặc biệt là dạy tiếng Anh cho quân nhân Việt Nam. Ngoài ra, Úc cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc di chuyển quân nhân Việt Nam tới những khu vực mà Việt Nam làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình.Hợp tác quốc phòng giữa hai bên còn có một số điểm nhưng không đến mức nổi bật. Ví dụ, Úc cũng bán lại cho Việt Nam một số vật tư kỹ thuật để Việt Nam có thể kéo dài tuổi thọ của một số loại vũ khí thuộc hệ Mỹ và châu Âu trong biên chế của quân đội Việt Nam, bởi vì từ sau chiến tranh năm 1975, Việt Nam kế thừa rất nhiều vũ khí của Mỹ. Trong hơn 30 năm sử dụng, những vũ khí đó cũ đi và cần phải thay thế, bảo trì. Úc cũng có kinh nghiệm sử dụng vũ khí Mỹ, nên họ hỗ trợ một phần trong việc Việt Nam duy trì và bảo dưỡng một số loại vũ khí, khí tài.Ngoài ra, hai nước có một số hợp tác nhỏ trong an ninh hàng hải, những trao đổi, thăm viếng lẫn nhau… nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó. So với những quốc gia khác, như Ấn Độ, mảng hợp tác an ninh quốc giữa Việt Nam và Úc còn nhiều tiềm năng hợp tác trong tương lai, đặc biệt là sau khi hai nước nâng quan hệ lên hàng Đối tác Chiến lược Toàn diện.RFI : Sau khi nâng cấp quan hệ thì trong tương lai, hai nước có thể khai thác quan hệ hợp tác này như thế nào về mặt an ninh quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : An ninh quốc phòng là một trong những mặt hợp tác tiềm năng giữa Việt Nam và Úc trong tương lai và được đặt trên một nền tảng, đó là « niềm tin » về mặt chính trị giữa hai nước đã được thiết lập. Nhìn vào tuyên bố chung thì tăng cường « niềm tin chính trị » rất là quan trọng, bởi vì trong hợp tác an ninh quốc phòng, đặc biệt là giữa Việt Nam và các quốc gia khác, « niềm tin chính trị » đóng vai trò nút thắt rất lớn.Nếu có « niềm tin chính trị » và hai bên sẵn sàng cởi mở với nhau thì sẽ mở khóa những mảng an ninh quốc phòng có chiều sâu và thực chất hơn. Ví dụ, trong tương lai, cả hai bên có thể hợp tác trong công nghiệp quốc phòng. Đây là một trong những lĩnh vực mà quân đội Việt Nam đang chú trọng rất nhiều và đầu tư rất nhiều. Nếu có niềm tin thì hai bên mới có khả năng chia sẻ với nhau về công nghệ, đầu tư và những chia sẻ khác có liên quan tới vũ khí hoặc thông tin tình báo.Thứ hai là mở rộng hơn nữa hợp tác trong an ninh hàng hải, có thể liên quan tới huấn luyện, chia sẻ thông tin tình báo, thăm viếng lẫn nhau. Tần suất và số lượng về mảng hợp tác này giữa Việt Nam và Úc sẽ tăng lên.Thứ ba, Việt Nam và Úc sẽ tăng cường trao đổi quân nhân với nhau. Việt Nam sẽ cử sang học ở Úc, đặc biệt là học trong các Học viện Quốc phòng cũng như trong các trường đại học lớn có những chương trình về an ninh quốc gia có tiếng. Trước đây đã có hoạt động này nhưng sau khi tăng cường mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện, Việt-Úc sẽ đẩy mạnh mảng này hơn nữa, không chỉ liên quan đến quân nhân mà cả dân sự nữa.Từ khoảng 2-3 năm nay, Việt Nam đã cử cán bộ cấp trung qua Úc học rất nhiều, thay vì qua Singapore hoặc Trung Quốc như ngày xưa. Đây cũng là một điểm chứng tỏ rằng nếu như có « niềm tin chính trị », thì thông qua niềm tin đó, biên giới những mặt hợp tác sẽ được mở rộng ra và đào sâu hơn rất nhiều so với trước đây khi mà « niềm tin chiến lược » chưa đủ mức độ.RFI : Lần đầu tiên Úc tổ chức tuần tra chung trên biển và trên không với Philippines ở Biển Đông vào tháng 11/2023. Liệu Úc có thể tiến hành tương tự với Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Hiện tại, khả năng Úc tiến hành hoạt động tuần tra chung với Việt Nam, với quy mô và tính chất tương tự với Philippines, là không có. Bởi vì chính sách của Việt Nam hiện nay vẫn khá dè dặt trong việc tham gia các hoạt động mang tính tuần tra hoặc là tập trận chung với một lực lượng quân sự của một nước khác, ngay cả song phương giữa Việt Nam với các nước ASEAN còn chưa có. Việc Việt Nam tiến hành các hoạt động tương tự thì sẽ rất khó, ít nhất là về mặt ngắn hạn.Hợp tác về an ninh hàng hải và an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Úc nói riêng và với các quốc gia phương Tây nói chung, ngay cả Hàn Quốc và Nhật Bản, sẽ không mang tính phô trương theo kiểu Philippines, hiện tại mà chỉ mang tính « mềm » đằng sau, như huấn luyện, trao đổi thông tin. Ví dụ Úc sẽ hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc Việt Nam sẽ tham gia cùng với Úc bên trong một cơ chế mang tính đa phương. Đó là cách thức Việt Nam sẽ tiến hành những hoạt động mang tính an ninh quốc phòng với các quốc gia khác, đặc biệt là với các nước trung cường, chứ không có quy mô và mức độ như những gì mà Úc và Philippines đang làm.RFI : Úc tuyên bố là tương lai của Úc là nằm trong khu vực. Ổn định hàng hải trong khu vực cũng sẽ liên quan đến nước này. Vậy Canberra có thể đóng vai trò như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Việc tăng cường quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện giữa Việt Nam và Úc đến từ nhu cầu nội sinh của cả hai bên. Đặc biệt là với Úc, Đông Nam Á là một khu vực trọng tâm về mặt phát triển kinh tế, cũng như là an ninh quốc phòng, bởi vì hướng đe dọa mà hiện giờ Úc lo ngại nhất vẫn là từ phía Trung Quốc.Ngoài khu vực Đông Nam Á, khu vực truyền thống của Úc từ trước đến nay là khu vực các đảo ở Nam Thái Bình Dương. Nhưng hiện tại, Úc bắt đầu dịch chuyển trọng tâm chiến lược của họ từ các đảo Thái Bình Dương sang khu vực Đông Nam Á. Đó là lý do tại sao mà Úc quan tâm như vậy tới khu vực. Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng nhất của Úc ở Đông Nam Á, cả về hợp tác kinh tế lẫn hợp tác về những mảng khác, như giáo dục, văn hóa, con người…Úc cũng mong muốn có một ảnh hưởng nhất định nào đó ở khu vực Đông Nam Á lục địa. Vì từ trước đến nay, họ quan tâm nhiều hơn tới Đông Nam Á hải đảo, ví dụ với Philippines, Malaysia, Singapore, Indonesia, bây giờ họ mong muốn mối quan hệ và sự hiện diện của Úc ở cả khu vực Đông Nam Á lục địa nữa, trong đó Việt Nam được coi là một cửa ngõ, một bản lề để Úc có thể xâm nhập sâu hơn vào Đông Nam Á lục địa. Đó là tầm nhìn tương đối chiến lược của Úc đối với Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là một mắt xích quan trọng.Từ việc xem Đông Nam Á như là một trọng tâm chiến lược thứ hai, Úc mong muốn có một khả năng bao quát mang tính phòng thủ với những gì mà Trung Quốc đang làm, đặc biệt là ở khu vực Biển Đông. Những chuyển động gần đây từ AUKUS, từ việc Úc bắt đầu coi Trung Quốc như là một mối đe dọa an ninh lớn, tăng cường quan hệ với các trung cường, như Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc…, cho thấy tư duy của Úc hiện nay ngày càng tương đồng với Mỹ, với các quốc gia đồng minh của Mỹ, xem Trung Quốc làm một mối đe dọa lớn.ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cách thức Úc sẽ đối phó với quá trình trỗi dậy của Trung Quốc trong bối cảnh ảnh hưởng của Trung Quốc lan ngày càng gần tới Úc hơn, đe dọa an ninh quốc gia của Úc hơn bao giờ hết từ Đông Nam Á cho tới cả vấn đề nội bộ của Úc, cũng như ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực các đảo quốc ở Thái Bình Dương. Do đó, vai trò của ASEAN sẽ rất quan trọng.RFI : Song song đó, chúng ta cũng thấy là Canberra đang tìm cách cải thiện quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, đối tác lớn của Úc. Liệu đây có phải là một điểm hạn chế trong phạm vi hoạt động hợp tác của Úc với các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc ?Nguyễn Thế Phương : Việc Úc cố gắng tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc sẽ không làm ảnh hưởng mối quan hệ hiện nay với ASEAN và đặc biệt, cũng sẽ không tác động lớn tới việc Úc xích lại gần Mỹ, cũng như với những dự án an ninh của Úc với Mỹ cùng các đồng minh, như AUKUS.Dù gì Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia có trọng lượng kinh tế lớn nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Không một quốc gia nào trong khu vực có thể loại bỏ được ảnh hưởng này của Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh Úc cũng có một chính sách không hoàn toàn tách ra khỏi Trung Quốc, ví dụ về mặt khai khoáng, hoặc những mặt hàng nông sản của Úc vẫn cần thị trường Trung Quốc.Cho nên việc Úc tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc một mặt giúp cho mối quan hệ giữa Úc và Trung Quốc ổn định hơn, từ đó sẽ giúp cho Úc tìm kiếm, định hình lại lợi ích của Úc với Trung Quốc. Việc đó giúp cải thiện một số yếu tố kinh tế cũng như chính trị trong nội bộ Úc. Và đó chỉ là một phần trong quá trình tái định hình chính sách của Úc và sẽ không ảnh hưởng nhiều tới mối quan hệ của Úc với ASEAN, với Việt Nam, cũng như là với các nước khác ngoài khu vực.RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.

Tạp chí Việt Nam
Hợp tác an ninh hàng hải giữa Úc với Việt Nam sẽ “không phô trương” như với Philippines

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Mar 11, 2024 10:27


Việt Nam và Úc nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược toàn diện ngày 07/03/2024 đưa Úc trở thành một trong 7 đối tác quan trọng nhất của Việt Nam. Quốc phòng và an ninh nằm trong số những lĩnh vực được tăng cường hợp tác trong khuôn khổ thỏa thuận mới. Đối với Úc, Việt Nam trở thành cửa ngõ để dấn sâu vào khu vực Đông Nam Á lục địa trong bối cảnh Canberra xoay trục sang ASEAN. Còn Việt Nam có thể đặt « niềm tin », trông cậy vào việc « Úc ủng hộ thượng tôn pháp luật quốc tế ở khu vực và giải quyết tranh chấp tại Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982 », theo phát biểu của thủ tướng Phạm Minh Chính.Tuy nhiên, hợp tác an ninh quốc phòng song phương sẽ « không phô trương » như hợp tác giữa Úc và Philippines, đặc biệt tại Biển Đông. Đây là một trong những nhận định trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt của nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.RFI : Việt Nam và Úc tổ chức cuộc họp cấp thứ trưởng về hợp tác an ninh lần thứ 3 vào tháng 02/2023. Mối quan hệ song phương về lĩnh vực này được hình thành và phát triển như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Đặt trong bối cảnh 50 quan hệ song phương, mối quan hệ hợp tác an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Úc chỉ là một mảng rất mới, và nổi bật chắc từ tầm 2019-2020, khi đó Việt Nam bắt đầu chú trọng việc tăng cường quan hệ với các nước trong khu vực, đặc biệt là với các nước trung cường.Cho tới trước khi hai nước nâng cấp lên quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, điểm nổi bật nhất trong hợp tác an ninh quốc phòng song phương là Úc hỗ trợ Việt Nam trong các vấn đề liên quan tới gìn giữ hòa bình, thông qua hỗ trợ tài chính, huấn luyện, đặc biệt là dạy tiếng Anh cho quân nhân Việt Nam. Ngoài ra, Úc cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc di chuyển quân nhân Việt Nam tới những khu vực mà Việt Nam làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình.Hợp tác quốc phòng giữa hai bên còn có một số điểm nhưng không đến mức nổi bật. Ví dụ, Úc cũng bán lại cho Việt Nam một số vật tư kỹ thuật để Việt Nam có thể kéo dài tuổi thọ của một số loại vũ khí thuộc hệ Mỹ và châu Âu trong biên chế của quân đội Việt Nam, bởi vì từ sau chiến tranh năm 1975, Việt Nam kế thừa rất nhiều vũ khí của Mỹ. Trong hơn 30 năm sử dụng, những vũ khí đó cũ đi và cần phải thay thế, bảo trì. Úc cũng có kinh nghiệm sử dụng vũ khí Mỹ, nên họ hỗ trợ một phần trong việc Việt Nam duy trì và bảo dưỡng một số loại vũ khí, khí tài.Ngoài ra, hai nước có một số hợp tác nhỏ trong an ninh hàng hải, những trao đổi, thăm viếng lẫn nhau… nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó. So với những quốc gia khác, như Ấn Độ, mảng hợp tác an ninh quốc giữa Việt Nam và Úc còn nhiều tiềm năng hợp tác trong tương lai, đặc biệt là sau khi hai nước nâng quan hệ lên hàng Đối tác Chiến lược Toàn diện.RFI : Sau khi nâng cấp quan hệ thì trong tương lai, hai nước có thể khai thác quan hệ hợp tác này như thế nào về mặt an ninh quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : An ninh quốc phòng là một trong những mặt hợp tác tiềm năng giữa Việt Nam và Úc trong tương lai và được đặt trên một nền tảng, đó là « niềm tin » về mặt chính trị giữa hai nước đã được thiết lập. Nhìn vào tuyên bố chung thì tăng cường « niềm tin chính trị » rất là quan trọng, bởi vì trong hợp tác an ninh quốc phòng, đặc biệt là giữa Việt Nam và các quốc gia khác, « niềm tin chính trị » đóng vai trò nút thắt rất lớn.Nếu có « niềm tin chính trị » và hai bên sẵn sàng cởi mở với nhau thì sẽ mở khóa những mảng an ninh quốc phòng có chiều sâu và thực chất hơn. Ví dụ, trong tương lai, cả hai bên có thể hợp tác trong công nghiệp quốc phòng. Đây là một trong những lĩnh vực mà quân đội Việt Nam đang chú trọng rất nhiều và đầu tư rất nhiều. Nếu có niềm tin thì hai bên mới có khả năng chia sẻ với nhau về công nghệ, đầu tư và những chia sẻ khác có liên quan tới vũ khí hoặc thông tin tình báo.Thứ hai là mở rộng hơn nữa hợp tác trong an ninh hàng hải, có thể liên quan tới huấn luyện, chia sẻ thông tin tình báo, thăm viếng lẫn nhau. Tần suất và số lượng về mảng hợp tác này giữa Việt Nam và Úc sẽ tăng lên.Thứ ba, Việt Nam và Úc sẽ tăng cường trao đổi quân nhân với nhau. Việt Nam sẽ cử sang học ở Úc, đặc biệt là học trong các Học viện Quốc phòng cũng như trong các trường đại học lớn có những chương trình về an ninh quốc gia có tiếng. Trước đây đã có hoạt động này nhưng sau khi tăng cường mối quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện, Việt-Úc sẽ đẩy mạnh mảng này hơn nữa, không chỉ liên quan đến quân nhân mà cả dân sự nữa.Từ khoảng 2-3 năm nay, Việt Nam đã cử cán bộ cấp trung qua Úc học rất nhiều, thay vì qua Singapore hoặc Trung Quốc như ngày xưa. Đây cũng là một điểm chứng tỏ rằng nếu như có « niềm tin chính trị », thì thông qua niềm tin đó, biên giới những mặt hợp tác sẽ được mở rộng ra và đào sâu hơn rất nhiều so với trước đây khi mà « niềm tin chiến lược » chưa đủ mức độ.RFI : Lần đầu tiên Úc tổ chức tuần tra chung trên biển và trên không với Philippines ở Biển Đông vào tháng 11/2023. Liệu Úc có thể tiến hành tương tự với Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Hiện tại, khả năng Úc tiến hành hoạt động tuần tra chung với Việt Nam, với quy mô và tính chất tương tự với Philippines, là không có. Bởi vì chính sách của Việt Nam hiện nay vẫn khá dè dặt trong việc tham gia các hoạt động mang tính tuần tra hoặc là tập trận chung với một lực lượng quân sự của một nước khác, ngay cả song phương giữa Việt Nam với các nước ASEAN còn chưa có. Việc Việt Nam tiến hành các hoạt động tương tự thì sẽ rất khó, ít nhất là về mặt ngắn hạn.Hợp tác về an ninh hàng hải và an ninh quốc phòng giữa Việt Nam và Úc nói riêng và với các quốc gia phương Tây nói chung, ngay cả Hàn Quốc và Nhật Bản, sẽ không mang tính phô trương theo kiểu Philippines, hiện tại mà chỉ mang tính « mềm » đằng sau, như huấn luyện, trao đổi thông tin. Ví dụ Úc sẽ hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, hoặc Việt Nam sẽ tham gia cùng với Úc bên trong một cơ chế mang tính đa phương. Đó là cách thức Việt Nam sẽ tiến hành những hoạt động mang tính an ninh quốc phòng với các quốc gia khác, đặc biệt là với các nước trung cường, chứ không có quy mô và mức độ như những gì mà Úc và Philippines đang làm.RFI : Úc tuyên bố là tương lai của Úc là nằm trong khu vực. Ổn định hàng hải trong khu vực cũng sẽ liên quan đến nước này. Vậy Canberra có thể đóng vai trò như thế nào ? Nguyễn Thế Phương : Việc tăng cường quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện giữa Việt Nam và Úc đến từ nhu cầu nội sinh của cả hai bên. Đặc biệt là với Úc, Đông Nam Á là một khu vực trọng tâm về mặt phát triển kinh tế, cũng như là an ninh quốc phòng, bởi vì hướng đe dọa mà hiện giờ Úc lo ngại nhất vẫn là từ phía Trung Quốc.Ngoài khu vực Đông Nam Á, khu vực truyền thống của Úc từ trước đến nay là khu vực các đảo ở Nam Thái Bình Dương. Nhưng hiện tại, Úc bắt đầu dịch chuyển trọng tâm chiến lược của họ từ các đảo Thái Bình Dương sang khu vực Đông Nam Á. Đó là lý do tại sao mà Úc quan tâm như vậy tới khu vực. Việt Nam là một trong những đối tác quan trọng nhất của Úc ở Đông Nam Á, cả về hợp tác kinh tế lẫn hợp tác về những mảng khác, như giáo dục, văn hóa, con người…Úc cũng mong muốn có một ảnh hưởng nhất định nào đó ở khu vực Đông Nam Á lục địa. Vì từ trước đến nay, họ quan tâm nhiều hơn tới Đông Nam Á hải đảo, ví dụ với Philippines, Malaysia, Singapore, Indonesia, bây giờ họ mong muốn mối quan hệ và sự hiện diện của Úc ở cả khu vực Đông Nam Á lục địa nữa, trong đó Việt Nam được coi là một cửa ngõ, một bản lề để Úc có thể xâm nhập sâu hơn vào Đông Nam Á lục địa. Đó là tầm nhìn tương đối chiến lược của Úc đối với Đông Nam Á, trong đó Việt Nam là một mắt xích quan trọng.Từ việc xem Đông Nam Á như là một trọng tâm chiến lược thứ hai, Úc mong muốn có một khả năng bao quát mang tính phòng thủ với những gì mà Trung Quốc đang làm, đặc biệt là ở khu vực Biển Đông. Những chuyển động gần đây từ AUKUS, từ việc Úc bắt đầu coi Trung Quốc như là một mối đe dọa an ninh lớn, tăng cường quan hệ với các trung cường, như Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc…, cho thấy tư duy của Úc hiện nay ngày càng tương đồng với Mỹ, với các quốc gia đồng minh của Mỹ, xem Trung Quốc làm một mối đe dọa lớn.ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cách thức Úc sẽ đối phó với quá trình trỗi dậy của Trung Quốc trong bối cảnh ảnh hưởng của Trung Quốc lan ngày càng gần tới Úc hơn, đe dọa an ninh quốc gia của Úc hơn bao giờ hết từ Đông Nam Á cho tới cả vấn đề nội bộ của Úc, cũng như ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực các đảo quốc ở Thái Bình Dương. Do đó, vai trò của ASEAN sẽ rất quan trọng.RFI : Song song đó, chúng ta cũng thấy là Canberra đang tìm cách cải thiện quan hệ ngoại giao và thương mại với Trung Quốc, đối tác lớn của Úc. Liệu đây có phải là một điểm hạn chế trong phạm vi hoạt động hợp tác của Úc với các nước ASEAN có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc ?Nguyễn Thế Phương : Việc Úc cố gắng tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc sẽ không làm ảnh hưởng mối quan hệ hiện nay với ASEAN và đặc biệt, cũng sẽ không tác động lớn tới việc Úc xích lại gần Mỹ, cũng như với những dự án an ninh của Úc với Mỹ cùng các đồng minh, như AUKUS.Dù gì Trung Quốc cũng là một trong những quốc gia có trọng lượng kinh tế lớn nhất ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Không một quốc gia nào trong khu vực có thể loại bỏ được ảnh hưởng này của Trung Quốc, nhất là trong bối cảnh Úc cũng có một chính sách không hoàn toàn tách ra khỏi Trung Quốc, ví dụ về mặt khai khoáng, hoặc những mặt hàng nông sản của Úc vẫn cần thị trường Trung Quốc.Cho nên việc Úc tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc một mặt giúp cho mối quan hệ giữa Úc và Trung Quốc ổn định hơn, từ đó sẽ giúp cho Úc tìm kiếm, định hình lại lợi ích của Úc với Trung Quốc. Việc đó giúp cải thiện một số yếu tố kinh tế cũng như chính trị trong nội bộ Úc. Và đó chỉ là một phần trong quá trình tái định hình chính sách của Úc và sẽ không ảnh hưởng nhiều tới mối quan hệ của Úc với ASEAN, với Việt Nam, cũng như là với các nước khác ngoài khu vực.RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.

The Manila Times Podcasts
OPINION: Understanding China's Unclos dilemma | January 4, 2024

The Manila Times Podcasts

Play Episode Listen Later Jan 4, 2024 6:45


OPINION: Understanding China's Unclos dilemma | January 4, 2024Subscribe to The Manila Times Channel - https://tmt.ph/YTSubscribe Visit our website at https://www.manilatimes.net Follow us:Facebook - https://tmt.ph/facebookInstagram - https://tmt.ph/instagramTwitter - https://tmt.ph/twitterDailyMotion - https://tmt.ph/dailymotion Subscribe to our Digital Edition - https://tmt.ph/digital Check out our Podcasts:Spotify - https://tmt.ph/spotifyApple Podcasts - https://tmt.ph/applepodcastsAmazon Music - https://tmt.ph/amazonmusicDeezer: https://tmt.ph/deezerStitcher: https://tmt.ph/stitcherTune In: https://tmt.ph/tunein #TheManilaTimes Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.

The Manila Times Podcasts
OPINION: Hypocrites: US rejects not just Unclos but also ICC | November 29, 2023

The Manila Times Podcasts

Play Episode Listen Later Nov 29, 2023 10:27


OPINION: Hypocrites: US rejects not just Unclos but also ICC | November 29, 2023Subscribe to The Manila Times Channel - https://tmt.ph/YTSubscribe Visit our website at https://www.manilatimes.net Follow us:Facebook - https://tmt.ph/facebookInstagram - https://tmt.ph/instagramTwitter - https://tmt.ph/twitterDailyMotion - https://tmt.ph/dailymotion Subscribe to our Digital Edition - https://tmt.ph/digital Check out our Podcasts:Spotify - https://tmt.ph/spotifyApple Podcasts - https://tmt.ph/applepodcastsAmazon Music - https://tmt.ph/amazonmusicDeezer: https://tmt.ph/deezerStitcher: https://tmt.ph/stitcherTune In: https://tmt.ph/tunein #TheManilaTimes Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.

Finding Sustainability Podcast
FFM #1: Ocean policy with Elizabeth Mendenhall

Finding Sustainability Podcast

Play Episode Listen Later Nov 20, 2023 65:22


This is the first episode in a new series on the Future of Fisheries Management (FFM), conducted in collaboration with the Mercatus Center at George Mason University as well as the Center for Governance and Markets at the University of Pittsburgh. In this episode, Michael speaks with Elizabeth Mendenhall, Associate Professor of Marine Affairs at the University of Rhode Island. Elizabeth is an expert in international marine policy with a particular emphasis on the United Nations (UN) Convention on the Law of the Sea, or UNCLOS. During the conversation, she speaks with Michael about the origins of this policy, the elements of it that she admires, and the promise and challenges it presents for helping states deal with their shared environmental problems. At the end of the interview Michael and Elizabeth discuss the workshop on fisheries policy where they met, co-hosted by the Mercatus Center at George Mason University as well as the Center for Governance and Markets at the University of Pittsburgh.   Elizabeth's website: http://www.elizabeth-mendenhall.com/ References: Mendenhall, Elizabeth. 2023. “Making the Most of What We Already Have: Activating UNCLOS to Combat Marine Plastic Pollution.” Marine Policy 155 (September): 105786.  Mendenhall, Elizabeth, and Kahlil Hassanali. 2023. “The BBNJ Agreement and Liability.” Marine Policy 150 (April): 105549. Mendenhall, Elizabeth, Cullen Hendrix, Elizabeth Nyman, Paige M. Roberts, John Robison Hoopes, James R. Watson, Vicky W. Y. Lam, and U. Rashid Sumaila. 2020. “Climate Change Increases the Risk of Fisheries Conflict.” Marine Policy 117 (July): 103954.  Mendenhall, Elizabeth, Rachel Tiller, and Elizabeth Nyman. 2023. “The Ship Has Reached the Shore: The Final Session of the ‘Biodiversity Beyond National Jurisdiction' Negotiations.” Marine Policy 155 (105686): 105686.

The Manila Times Podcasts
NEWS: 'Nations should adopt Unclos' | November 1, 2023

The Manila Times Podcasts

Play Episode Listen Later Nov 1, 2023 1:16


NEWS: 'Nations should adopt Unclos' | November 1, 2023Subscribe to The Manila Times Channel - https://tmt.ph/YTSubscribe Visit our website at https://www.manilatimes.net Follow us:Facebook - https://tmt.ph/facebookInstagram - https://tmt.ph/instagramTwitter - https://tmt.ph/twitterDailyMotion - https://tmt.ph/dailymotion Subscribe to our Digital Edition - https://tmt.ph/digital Check out our Podcasts:Spotify - https://tmt.ph/spotifyApple Podcasts - https://tmt.ph/applepodcastsAmazon Music - https://tmt.ph/amazonmusicDeezer: https://tmt.ph/deezerStitcher: https://tmt.ph/stitcherTune In: https://tmt.ph/tunein #TheManilaTimes Hosted on Acast. See acast.com/privacy for more information.

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Việt Nam bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông như nào ?

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Oct 9, 2023 10:38


Việt Nam khẳng định chủ quyền ở Biển Đông bằng cách nạo vét và nâng cấp một số tiền đồn mà Hà Nội kiểm soát. Đến cuối năm 2022, Việt Nam đã « mở rộng việc bồi đắp tại bốn thực thể và nạo vét mới tại năm thực thể khác… tạo ra khoảng 170 héc ta đất mới và nâng tổng diện tích mà Việt Nam đã khai hoang trong thập kỷ qua lên 220 héc ta », theo Tổ chức Sáng kiến ​​Minh bạch Hàng hải châu Á (AMTI) của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington.  Tuy nhiên, theo AMTI, « quy mô của công việc bồi đắp, mặc dù vẫn còn thua xa so với hơn 3.200 héc ta đất do Trung Quốc tạo nên từ năm 2013 đến năm 2016, nhưng mức độ lớn hơn đáng kể so với những nỗ lực trước đây của Việt Nam và thể hiện một động thái lớn nhằm củng cố vị thế của mình ở Trường Sa ».Trong khi Trung Quốc bị chỉ trích gay gắt vì gia cố các thực thể do nước này chiếm đóng ở Biển Đông thì hoạt động bồi đắp, củng cố của Việt Nam ít bị chú ý hơn vid có quy mô nhỏ hơn. Tuy nhiên, liệu hoạt động được cho là bảo vệ chủ quyền này có phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982) ? Việt Nam hiện kiểm soát những thực thể nào và làm thế nào để bảo vệ chủ quyền ? Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (École Normale supérieure de Lyon) tóm lược tình hình trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt.RFI : Việt Nam tuyên bố chủ quyền với toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Trường Sa, Việt Nam có tranh chấp chủ quyền với các bên Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia. Xin ông cho biết là trên thực tế Việt Nam hiện quản lý những thực thể nào ở quần đảo Trường Sa ? Laurent Gédéon : Việt Nam duy trì sự hiện diện thực sự trên 29 đảo lớn, nhỏ ở Biển Đông, bao gồm 6 đảo, 15 đá ngầm, 6 bãi và 2 bãi cạn. Ngoài ra, Hà Nội cũng kiểm soát trên 16 đá ngầm nhưng không chiếm đóng thực và lâu dài. Như vậy, sự hiện diện của Việt Nam là lớn nhất về số lượng và chứng minh là Việt Nam có chủ quyền trong khu vực.Để so sánh, Trung Quốc kiểm soát 7 đảo trong quần đảo Trường Sa, Đài Loan 2 đảo trong đó có đảo Ba Bình (Itu Aba) lớn nhất, Philippines kiểm soát 11, Malaysia 7 và Brunei 1. Việt Nam đòi hỏi chủ quyền nhiều nhất đối với quần đảo này bởi vì Hà Nội cho rằng hầu hết các đảo thuộc về chủ quyền của mình. Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với 6 trên 7 đảo do Malaysia kiểm soát, 7 đảo do Trung Quốc kiểm soát, 2 đảo do Đài Loan kiểm soát và 11 đảo do Philippines kiểm soát.Ngược lại, trong số những đảo do Việt Nam kiểm soát, Manila đòi chủ quyền đối với 20, đó là những đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982, Bắc Kinh đòi chủ quyền đối với toàn bộ 29 đảo mà Việt Nam kiểm soát, Malaysia đòi hai. Còn Đài Loan, dù tuyên bố chủ quyền theo bằng chứng lịch sử giống như lập luận của Trung Quốc, nhưng trên thực tế, Đài Bắc tỏ ra kín đáo về chủ đề này.Cuối cùng, phải nhắc đến một loạt bãi cạn tuy không bị chiếm nhưng thuộc ảnh hưởng trực tiếp với mức độ hiện diện khác nhau của Đài Loan, Malaysia, Việt Nam, Philippines, Trung Quốc. Chúng ta thấy là nhìn chung, Trung Quốc và Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hầu hết quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Riêng ở Trường Sa, Việt Nam kiểm soát nhiều đảo nhất so với các nước khác.RFI : Việt Nam cũng âm thầm bồi đắp, củng cố các đảo và đá do Việt Nam quản lý. Việt Nam có những công trình gì trên những thực thể này ? Những công trình bồi đắp đó có phù hợp với luật biển quốc tế, cũng như phán quyết năm 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye ? Laurent Gédéon : Những họa động cải tạo thường xuyên được tiến hành từ khoảng 10 năm nay đối với các điền đồn đảo của Việt Nam cho thấy quyết tâm của Hà Nội biến những căn cứ này trở nên vững chắc hơn trước một cuộc tấn công hoặc hoặc bị phong tỏa và tăng cường năng lực răn đe trước đe dọa tấn công từ các công trình của Trung Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột.Việt Nam có khoảng 50 tiền đồn trải dài trên 29 đảo lớn, nhỏ. Những tiền đồn này lại được chia thành ba loại : các đảo nhỏ đồn trú, các công trình bằng bê tông trên mỏm các bãi cạn, các nhà giàn biệt lập (DK) dựng trên đá ngầm, còn được gọi là Dịch vụ-Khoa học kỹ thuật.Nhìn chung, trên hầu hết các đảo do Việt Nam kiểm soát, người ta thấy các công trình hạ tầng sau : hệ thống phòng không, hệ thống bảo vệ bờ biển, boong-ke, sân bay trực thăng, hệ thống tên lửa tầm ngắn và tầm trung, trạm radar (radome) tiếp nhận và phân tích sóng điện tử, các tòa nhà hành chính, hệ thống đường hầm.Những công trình này thường dẫn đến việc phải mở rộng diện tích của đảo hoặc đá ngầm bằng cách bồi đắp. Về điểm này, Việt Nam đi theo bước của Trung Quốc, nước cũng tiến hành bồi đắp các đảo nhỏ mà họ kiểm soát, cho dù Việt Nam tiến hành ở quy mô nhỏ hơn. Năm 2022, Việt Nam đã thúc đẩy và mở rộng các công trình bồi đắp và hiện có tổng diện tích khoảng 2,2 km² ở Trường Sa. Để so sánh, tổng diện tích bồi đắp của Trung Quốc hiện khoảng 13 km². Đài Loan và Phillipines cũng có các hoạt động tương tự nhưng ở quy mô nhỏ hơn.Thông qua những hoạt động bồi đắp này, Bắc Kinh cũng như Hà Nội tìm cách tăng diện tích các đảo mà họ kiểm soát bởi ít nhất hai lý do sau. Một mặt là để tăng cường khả năng phòng thủ và tấn công của những vùng đất này. Mặt khác, tạo các đảo nhân tạo mà quy chế có thể sẽ được công nhận trong tương lai trong trường hợp luật quốc tế thay đổi.Về mặt luật pháp quốc tế, chúng ta thấy là Tòa Án Trọng Tài Thường Trực, trong phán quyết ngày 12/07/2016, nêu rõ : « Tòa án nhận thấy các hoạt động cải tạo đất ở quy mô lớn và xây dựng các đảo nhân không phù hợp với nghĩa vụ của một quốc gia thành viên trong quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại không thể khắc phục được đối với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và tiêu hủy bằng chứng về điều kiện tự nhiên của các cấu trúc ở Biển Đông vốn là một phần tranh chấp giữa các Bên ».Phán quyết các thẩm phán để ngỏ khả năng Việt Nam cũng có thể bị chỉ trích giống như Trung Quốc vì đã tiến hành hoạt động bồi đắp gây hậu quả cho môi trường bởi vì những hoạt động đó thay đổi lâu dài hiện trạng ban đầu của các đảo. Để Việt Nam được hưởng lợi ngoài những lợi ích chiến lược từ những công trình đã thực hiện thì sẽ phải cần đến sự thay đổi của luật pháp quốc tế trong khi sự thay đổi đó hiện giờ chưa nằm trong chương trình nghị sự.RFI : Trung Quốc bị chỉ trích mạnh mẽ vì bồi đắp và quân sự hóa các thực thể mà họ chiếm đóng ở Trường Sa. Tuy nhiên, các nước có tranh chấp ở trong vùng, trong đó có Việt Nam, cũng bồi đắp. Có lý do nào giải thích cho việc những nước này ít bị chỉ trích hơn, hoặc ít bị để ý hơn ? Laurent Gédéon : Theo tôi, có nhiều lý do có thể giải thích cho việc Việt Nam, cũng như là Philippines hoặc Đài Loan, ít bị chỉ trích hơn về các hoạt động quân sự hóa và bồi đắp các đảo so với Trung Quốc.Trước tiên là việc Trung Quốc hiện giờ bị coi là bá chủ ở trong vùng. Bắc Kinh bị cáo buộc có những tham vọng bành trướng. Tâm lý này càng được củng cố bởi Trung Quốc thường xuyên tuyên bố những yêu sách lãnh thổ hoặc công bố các tài liệu chính thức không chút úp mở nào, ví dụ bản đồ biên giới mới nhất của Trung Quốc đã khiến nhiều nước láng giềng ở Biển Đông phản đối. Trong bối cảnh đó, mọi hoạt động của Trung Quốc trên thực địa đều bị đánh giá là nhằm mục tiêu tấn công.Tiếp theo, Việt Nam vẫn luôn được coi là bên bị đe dọa, chứ không phải là mối đe dọa, bất chấp những tuyên bố hợp pháp hóa yêu sách chủ quyền của Việt Nam. Sự bất cân xứng chiến lược giữa Trung Quốc và Việt Nam khiến người ta tin rằng các công trình do Việt Nam thực hiện là nằm trong khuôn khổ tự vệ chính đáng và ngăn cản những tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Do đó, hành động của Việt nam được xem như có tính chính đáng về mặt đạo đức với báo chí cũng như với giới phân tích.Thiện chí của dư luận đối với Việt Nam được củng cố bởi thực tế Việt Nam là đối tượng được Hoa Kỳ chú ý về mặt địa-chính trị, nhân tố gián tiếp nhưng đóng vai trò lớn trong cuộc xung đột này. Đối với Washington, Hà Nội là quân bài quan trọng trong cuộc cạnh tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc mà bằng chứng mới nhất là chuyến thăm của tổng thống Mỹ Joe Biden tới Việt Nam. Bối cảnh này cũng tạo những kết quả tích cực cho hình ảnh chung của Việt Nam ở nước ngoài.Dù những yếu tố này là không thể bàn cãi nhưng vẫn có hai lưu ý, theo tôi, là quan trọng. Thứ nhất, cần phải nhớ là những công trình này mang lại giá trị thực về mặt chiến lược cho các đảo và đá mà các nước kiểm soát. Vấn đề đặt ra là việc sử dụng chúng giả sử trong trường hợp sức mạnh Trung Quốc suy giảm, ví dụ sau một cuộc xung đột trong vùng mà Trung Quốc xử lý kém. Liệu những công trình đó có thể phục vụ cho Việt Nam để áp đặt sự chia sẻ vùng ảnh hưởng đối với Philippines hay Malaysia không ? Câu hỏi này cần được đặt ra.Lưu ý thứ hai là bằng cách thay đổi cấp độ phân tích và thoát khỏi cách tiếp cận thuần túy khu vực, chúng ta có thể hiểu các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông như một phần của cơ chế rộng hơn, đó là chống lại ảnh hưởng của Mỹ. Cách lập luận này khiến chúng ta coi những hành động này (bồi đắp…) như là những yếu tố của một chiến lược rộng hơn để bảo vệ Biển Đông. Nhìn từ quan điểm của Trung Quốc, việc đó được coi là xây dựng một chuỗi phòng thủ. Lập luận này không chỉ làm thay đổi bản chất của việc Trung Quốc xây dựng các cơ sở hạ tầng làm biến đổi nguyên trạng ở Biển Đông mà nếu một ngày nào đó, các quốc gia trong muốn tiến hành đàm phán với Trung Quốc thì cũng cần phải tính đến yếu tố này.RFI : Trong trường hợp Việt Nam và Philippines đạt được một thỏa thuận song phương giải quyết tranh chấp để cùng đối phó với Trung Quốc, Bắc Kinh có để yên không bởi vì họ đòi chủ quyền đối với hầu hết Biển Đông ? Liệu Trung Quốc có khả năng cố tình tạo xô xát trên biển để răn đe hai nước ?Laurent Gédéon : Tôi nghĩ là rất có thể là dù không phản đối nhưng Trung Quốc sẽ từ chối tham gia vào một giải pháp chung mà Việt Nam và Philippines đề xuất. Chúng ta thấy là Bắc Kinh thường xuyên ưu tiên các cuộc gặp song phương thay vì các cuộc đàm phán đa phương như trường hợp bế tắc của các cuộc đàm phán về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) từ năm 2002. Mối quan hệ song phương cho phép Trung Quốc gia tăng thế bất cân xứng với đối tác và áp đặt lập trường của họ. Vì thế, có rất ít khả năng Bắc Kinh tham gia vòng đàm phán ba bên với Hà Nội và Manila.Cũng có thể là Trung Quốc cảm thấy ở thế yếu trước bộ đôi Việt Nam - Philippines, hai nước này chắc chắn được Mỹ và Nhật Bản trực tiếp ủng hộ một mặt nhất định về ngoại giao. Trong những điều kiện này, chúng ta có thể giả định mà không sợ nhầm lẫn lớn, là Bắc Kinh sẽ sử dụng chiến lược đe dọa, như cách họ nhiều lần thể hiện đối với Việt Nam hoặc Philippines. Để làm được điều này, Trung Quốc có một lực lượng tấn công đáng kể thông qua đội đánh cá hiện vẫn đóng vai trò bình phong cho các hoạt động chiến lược của nước này ở Biển Đông. Dĩ nhiên, tình hình sẽ khác hoàn toàn nếu Trung Quốc suy yếu, bất kể lý do là gì, nhưng hiện giờ đây vẫn chỉ đơn thuần là một giả thuyết.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Biển Đông : Việt Nam có chịu "nhượng" chủ quyền để cùng Philippines chống Trung Quốc ?

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Oct 2, 2023 12:45


Philippines muốn đạt được một thỏa thuận với Việt Nam nhằm tăng cường hợp tác hàng hải ở Biển Đông. Đích thân tổng thống Marcos Jr. bày tỏ mong muốn này ngày 10/08/2023 trong buổi hội đàm chia tay với đại sứ Việt Nam mãn nhiệm Hoàng Huy Chung. Mục tiêu sâu xa là đoàn kết để đối phó với đối thủ mạnh hơn là Trung Quốc. Tuy nhiên, một thỏa thuận như vậy có thể sẽ kéo theo những vấn đề chủ quyền chồng lấn giữa hai nước trong vùng quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Nhiều chuyên gia nước ngoài từng gợi ý rằng Việt Nam, Philippines, Malaysia - ba nước chính có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông - nên ngồi lại đàm phán với nhau để hình thành một mặt trận chung, mạnh mẽ hơn để đối phó với Trung Quốc.Tuy nhiên, liệu Hà Nội có sẵn sàng xem lại những đòi hỏi chủ quyền không ? Những đòi hỏi chủ quyền của Việt Nam có phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ? Việt Nam được lợi gì khi tăng cường hợp tác hàng hải với Philippines ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon (Ecole normale supérieure de Lyon), Pháp.RFI : Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa, chồng lấn với một số đảo mà Philippines tuyên bố chủ quyền. Trước hết, xin ông giải thích Việt Nam và Philippines tranh chấp những gì ở Biển Đông ? Hai nước này có tranh chấp gì với bên thứ ba ? Laurent Gédéon : Trước tiên cần xác định được là chúng ta đang bàn về điều gì khi nhắc đến Biển Đông, đặc biệt là về quần đảo Trường Sa. Đó là một quần đảo với nhiều bãi đá ngầm mà về nguyên tắc là không phù hợp với một đời sống tự túc tại đây. Sáu quốc gia tuyên bố chủ quyền với toàn bộ hoặc một phần quần đảo, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Brunei và Malaysia. Để khẳng định chủ quyền, những nước này đưa quân đội đến đồn trú tại một hoặc nhiều đảo, trừ Brunei.Nước đòi chủ quyền nhiều nhất là Trung Quốc với “đường 9 đoạn”, khiến quốc gia này thành đối thủ với 5 nước còn lại. Việt Nam cũng tương tự, đòi chủ quyền với toàn bộ quần đảo, giống như Đài Loan. Nhìn chung ba nước khác tuyên bố chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của họ.Liên quan đến Việt Nam và Philippines, cả hai nước cùng đòi chủ quyền ở quần đảo Trường Sa nhưng với quy mô khác nhau. Như đã nói, Việt Nam khẳng định chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Những tuyên bố này được thể hiện trong các bản đồ chính thức hoặc không chính thức được xuất bản trong nước và thông qua những tuyên bố thường xuyên của các lãnh đạo chính trị.Phía Philippines chỉ đòi hỏi chủ quyền đối với những hòn đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của họ. Tình trạng này tạo ra sự chồng chéo về tham vọng của Hà Nội và Manila. Và các yêu sách chồng chéo này tạo ra sự cạnh tranh giữa hai nước.RFI : Phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye (PCA) áp dụng được như nào đối với những tuyên bố chủ quyền của Việt Nam ? Laurent Gédéon : Để hiểu phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye liên quan như nào đến Việt Nam, cần phải nhắc lại là Hà Nội khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa chủ yếu dựa trên những lập luận lịch sử, trong đó có kiến ​​thức cổ xưa khẳng định sự tồn tại của hai quần đảo này là do ngư dân Việt Nam thường xuyên lui tới.Tuy nhiên, nếu như Việt Nam có thể chứng minh được rằng quần đảo Hoàng Sa được hoàng đế Gia Long trực tiếp quản lý vào năm 1816, sau đó được hoàng đế Minh Mạng xác nhận vào năm 1833 thì đối với quần đảo Trường Sa lại khó hơn. Cần nhớ rằng Pháp tuyên bố quần đảo Trường Sa là “vùng đất vô danh” (terra nullius) vào tháng 09/1930 khi chiếm hữu chúng và sau này mới trao lại cho chính quyền Việt Nam. Đọc thêm : Đưa vấn đề Biển Đông ra PCA: Việt Nam thận trọng cân nhắc thiệt, hơnNgoài ra, còn có một điểm khác cần nêu lên trước khi đề cập đến yêu sách chủ quyền của Việt Nam, đó là phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực La Haye ngày 12/07/2016 chú ý đến hai điểm rất quan trọng.Thứ nhất, Tòa nhấn mạnh đến tính vô hiệu các quyền lịch sử. Tòa cho rằng kể cả Trung Quốc cũng khẳng định có các quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông nhưng các quyền này đã bị vô hiệu vì chúng không phù hợp với các vùng đặc quyền kinh tế được quy định trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982, còn gọi là công ước Montego Bay). Như vậy, rõ ràng là tòa đã vô hiệu hóa về mặt pháp lý “đường 9 đoạn” của Bắc Kinh.Điểm quan trọng thứ hai trong phán quyết, đó là không công nhận các đá ngầm là đảo. Điều 121 của UNCLOS khẳng định “những đá ngầmkhông thích hợp cho con người tựsinh sống hoặc không có đời sống kinh tế riêng sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa”. Khi viện dẫn điều này, Tòa Trọng Tài đã nêu rõ rằng “những cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý trong khi cấu trúc chìm khi thủy triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy”.Nói một cách khác, một đá ngầm với các điều kiện tự nhiên của chúng không thể trở thành một đá và càng không thể được coi là đảo theo luật pháp quốc tế. Điều này áp dụng đối với cả trường hợp Trung Quốc đã bồi đắp để một số thực thể ngầm nổi lên mặt nước. Chỉ tình trạng tự nhiên ban đầu mới có giá trị về luật. Nhìn từ lập trường của Tòa, những công trình bồi đắp do Bắc Kinh tiến hành ở Biển Đông không tạo ra các vùng đặc quyền kinh tế và càng không thể có thềm lục địa quanh những hòn đảo nhân tạo này. Tóm lại, theo Tòa Trọng Tài Thường Trực, chỉ có những vùng đặc quyền do bờ biển của các nước tạo ra là hợp pháp.Tuy nhiên, phán quyết của Tòa lại đặt ra vài vấn đề cho Việt Nam. Thứ nhất về các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), bởi vì khác với Trung Quốc, Việt Nam không phản đối thẩm quyền của Tòa Trọng Tài Thường Trực liên quan đến Biển Đông. Việt Nam công nhận tính hợp lệ của vùng đặc quyền kinh tế và tuyên bố quyền kiểm soát các vùng đặc quyền kinh tế của mình. Chúng ta nhớ rằng Hà Nội đã kịch liệt phản đối bất kỳ hành động thăm dò nào của tàu Trung Quốc diễn ra trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, như trường hợp của tầu Hải Dương 8 vào tháng 07/2019. Hệ quả là Việt Nam khó có thể phản đối Manila kiểm soát vùng đặc quyền kinh tế của Philippines cho dù bao gồm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Đọc thêm : Hà Nội nêu đích danh tàu Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt NamKhó khăn thứ hai liên quan đến các đảo. Giả sử có một điều lệ cho phép Việt Nam giữ chủ quyền đối với các đảo ở quần đảo Trường Sa, phán quyết của Tòa cũng quy định rằng việc đó sẽ không bao giờ tạo ra vùng đặc quyền kinh tế. Điều này sẽ hạn chế khả năng tận dụng lợi thế của Việt Nam.Khó khăn thứ ba liên quan đến tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa. Vì lập luận của Việt Nam tương tự với Trung Quốc, có nghĩa là những bằng chứng lịch sử, nên giả sử Hà Nội viện đến Tòa Trọng Tài Thường Trực thì Tòa cũng sẽ không ra phán quyết có lợi cho họ. Điều này khiến Việt Nam rơi vào tình trạng bế tắc pháp lý. Cho nên nếu muốn duy trì yêu sách và được luật pháp quốc tế công nhận, Việt Nam sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc xem xét lại lập luận của mình để đưa ra những yếu tố mới được chấp nhận về mặt pháp lý.RFI : Việt Nam luôn tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Việt Nam sẵn sàng « nhân nhượng » phần nào với Philippines ? Laurent Gédéon : Về yêu sách chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa có lẽ Việt Nam phải đàm phán trực tiếp với Trung Quốc trong bối cảnh cán cân vô cùng bất lợi cho Việt Nam, song đòi hỏi chủ quyền của Hà Nội đối với quần đảo Trường Sa còn phức tạp hơn nhiều, do nhiều yếu tố : Khó lập được mối liên hệ lịch sử rõ ràng của Việt Nam với Trường Sa, có nhiều nhân tố liên quan, khoảng cách địa lý không đều giữa các quốc gia với quần đảo không hẳn có lợi cho những nước nằm ở xa nhất, như trường hợp Việt Nam.Nếu bám vào khuôn khổ pháp lý mà chúng ta đã đề cập thì Việt Nam khó có thể bỏ qua đàm phán với Philippines. Nếu các cuộc đàm phán như vậy diễn ra một ngày nào đó, rất có khả năng là chúng sẽ dẫn đến việc chia sẻ các vùng chủ quyền. Thực vậy, Việt Nam khó có thể phản đối giá trị pháp lý của những tuyên bố chủ quyền của Philippines đối với các đảo nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này, trừ khi đi ngược lại với luật pháp quốc tế - điều mà Hà Nội vẫn dựa vào đó để khẳng định vùng đặc quyền kinh tế mình, như chúng ta đã đề cập ở trên. Đọc thêm :Biển Đông: Việt Nam trước áp lực của Trung Quốc về đàm phán song phươngNgoài ra còn phải bổ sung thêm một điểm quan trọng về địa-chính trị. Chúng ta thấy từ vài năm nay, căng thẳng gia tăng thường xuyên ở khu vực Đài Loan. Hoa Kỳ gia tăng ủng hộ hòn đảo, đồng thời củng cố các thỏa thuận quân sự với Manila, cho phép Mỹ tiếp cận 9 căn cứ của Philippines. Trước tình hình đó, Trung Quốc liên tục nỗ lực cải thiện năng lực quân sự và thường xuyên đe dọa can thiệp vũ trang vào Đài Loan. Đến lúc nào đó, tình hình ngày càng căng thẳng này có thể sẽ dẫn tới xung đột.Trong trường hợp xảy ra xung đột Đài Loan, nếu như không có gì cho thấy Biển Đông sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp thì Philippines gần như chắc chắn sẽ có liên quan trực tiếp. Giả sử cuộc xung đột này khiến Trung Quốc yếu đi, Philippines có thể được lợi từ việc sát cánh với Hoa Kỳ, có nghĩa là Washington sẽ ủng hộ về ngoại giao đối với các yêu cầu chủ quyền của Manila. Điều này có thể sẽ xảy ra ngay cả khi lập trường chính thức của Hoa Kỳ là không đứng về bên nào trong tranh chấp chủ quyền quần đảo. Do đó có thể thấy lợi ích của một thỏa thuận sớm giữa Philippines và Việt Nam vì nếu không, vị thế cũng lợi ích của Việt Nam có thể bị suy yếu trong trường hợp xảy ra xung đột.RFI : Một thỏa thuận như vậy có thể coi là bí mật quốc gia, như Việt Nam và Trung Quốc - hai nước có hệ thống chính trị tương đồng, đã áp dụng. Tuy nhiên với Philippines thì lại khác, thỏa thuận có thể được công bố. Trong trường hợp đó, Việt Nam sẽ phải vận động người dân như thế nào trong khi Hà Nội luôn khẳng định chủ quyền đối với cả Hoàng Sa và Trường Sa ?Laurent Gédéon : Theo tôi, khó hình dung ra được là có thể giữ bí mật một thỏa thuận như vậy nếu xét tới bối cảnh chính trị - xã hội rất khác nhau giữa Việt Nam và Philippines. Tôi nghĩ là nếu có một thỏa thuận như vậy, chính quyền Việt Nam cần giảng giải cho người dân bằng cách nhấn mạnh đến việc phân chia các vùng chủ quyền sẽ không gây tổn hại đến lợi ích kinh tế và chiến lược của đất nước và sẽ tạo ra những lợi thế vồn không thể có được trong cảnh bế tắc.Ngoài ra, không có gì cấm hình dung rằng một thỏa thuận chính thức về việc phân chia chủ quyền có thể được bổ sung thêm các thỏa thuận khác cho phép hai nước sử dụng chung một số nguồn tài nguyên. Nếu mối quan hệ giữa Hà Nội và Manila là đáng tin cậy thì điều này có thể thực hiện được và sẽ cho phép dư luận Việt Nam hiểu rõ hơn về lợi ích của một cuộc đàm phán như vậy.Đó là sự đảo ngược hoàn toàn những phát biểu hiện nay, mà theo tôi, để làm được việc này đòi hỏi quyết tâm chính trị rõ ràng và cần một quá trình chuẩn bị trước kỹ lưỡng, lâu dài bởi vì dư luận Việt Nam sẽ phải mất vài năm để quen với cách nhìn nhận khác về quần đảo Trường Sa cùng với những thách thức liên quan đến chủ quyền Trường Sa. Nhưng tôi nghĩ là điều này có thể sẽ thuận lợi bởi lập trường của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, ngược lại sẽ không thay đổi.RFI : Các cuộc tập trận gần đây giữa Philippines và các nước Mỹ, Nhật Bản, Úc ở Biển Đông nhằm thể hiện cứng rắn trước những hành động quấy rối và yêu sách của Trung Quốc. Tuy nhiên, việc này cũng có tác động phần nào đến Việt Nam, một bên có tranh chấp chủ quyền ở trong vùng ?Laurent Gédéon : Đúng vậy, những sự kiện này có tác động rõ ràng đối với Việt Nam. Từ nhiều năm nay, Hoa Kỳ tìm cách tập hợp các nước trong vùng phản đối những yêu sách hàng hải của Bắc Kinh trong một cấu trúc an ninh do Washington điều hành. Nhưng cho đến giờ, Hà Nội vẫn không muốn tham gia một cơ chế như vậy. Nhưng trên bình diện địa-chính trị, hoàn toàn có thể tự hỏi là Hà Nội sẽ được gì khi xích lại gần với Hoa Kỳ trong trường hợp Mỹ-Trung xảy ra xung đột.Đây là một ván cược. Việc đặt cược vào thắt chặt quan hệ chiến lược Mỹ-Việt rõ ràng là đầy gay góc với Hà Nội với hai khả năng có thể xảy ra. Trường hợp thứ nhất, Trung Quốc ra khỏi xung đột ở thế mạnh. Trong giả thuyết này, nếu sát cánh quá lộ liễu với Washington, Việt Nam có nguy cơ phải trả giá, nhất là về kinh tế - lĩnh vực vốn kết nối chặt chẽ hai nước.Ở giả thuyết thứ hai, Trung Quốc thoát khỏi xung đột trên thế yếu. Trong trường hợp này, Việt Nam có thể được lợi từ cuộc xung đột, kể cả đối quần đảo Hoàng Sa. Còn đối với quần đảo Trường Sa, Hà Nội vẫn không thể không đàm phán với Manila. Nhưng cuộc đàm phán này có thể sẽ cân bằng hơn và Hoa Kỳ có thể sẽ đóng vai trò trọng tài hơn là ủng hộ Manila. Do đó, theo tôi, Hà Nội sẽ phải tính toán tỉ lệ thiệt/hơn khi sát cánh với Washington. Đọc thêm : Biển Đông: Philippines tăng cường liên minh với Mỹ, Nhật, ÚcTóm lại, dù là với bất kỳ kịch bản nào, chính sách thận trọng và giữ khoảng cách của Hà Nội, hợp lý trong bối cảnh hiện tại, có lẽ sẽ phản tác dụng trong trường hợp nổ ra xung đột và có điều chỉnh lớn về cân bằng địa chính trị trong vùng.Điều gần như chắc chắn là hiện nay, căn cứ vào lập trường bất di bất dịch của Bắc Kinh về Biển Đông và nhìn vào chiến lược kiềm chế Trung Quốc của Mỹ, Việt Nam có lẽ không có cơ hội nào giành lại chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa thông qua việc đàm phán với nước láng giềng và trong mọi trường hợp sẽ rơi vào thế yếu trước Philippines về Trường Sa nếu như không có đàm phán trước với Manila hoặc xích lại gần với Washington.Do đó, chừng nào những vấn đề này được Hà Nội coi là một thách thức quan trọng, tôi cho rằng việc cần điều chỉnh các trục ngoại giao của Việt Nam có lẽ việc cần thiết để nâng cao vị thế và những tuyến bố chủ quyền của Việt Nam trong trung hạn.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon. 

Midrats
Episode 666: The New Age of Naval Power in the Indo-Pacific: Strategy, Order, and Regional Security - with Alession Patalano

Midrats

Play Episode Listen Later Aug 27, 2023 64:31


Today we're going to discuss a helpful solution to the simple reality in our busy world that it is difficult to build a culture of understanding of any challenge unless those involved in addressing that challenge have a similar foundational knowledge of it.As in most complicated issues, addressing the rise of the People's Republic of China suffers perhaps more than most from this lack of a foundation to build off of.Our guest today is Dr. Alessio Patalano who along with his fellow contributing editors Catherine L. Grant and James A. Russell published this summer through Georgetown University Press, The New Age of Naval Power in the Indo-Pacific: Strategy, Order, and Regional Security, that brings together a variety of authors' works to outline an framework in which five "factors of influence" explain how and why naval power matters in this pivotal part of the world. Alessio Patalano is Professor of War & Strategy in East Asia at the Department of War Studies (DWS), and Co-Director of the Centre for Grand Strategy (CGS) at King's College London (KCL). He specialises in maritime strategy and doctrine, Japanese military history and strategy, East Asian security, and British defence and foreign policy towards the Indo-Pacific. His book on Japan titled Post-war Japan as a Seapower has redefined the study of the country's post-war history, whilst his work on Chinese maritime coercion remains as a reference in the field.At CGS, Prof Patalano leads the King's Japan Programme and the newly established Indo-Pacific Programme. He is also a Fellow of the Royal Historical Society (FRHistS), a Visiting Professor at the Japan Maritime Command and Staff College (JMCSC), and an Adjunct Fellow at the Institute of Contemporary Asian Studies, Temple University Japan. Prof Patalano maintains an active policy role collaborating regularly with think tanks and government institutions. He is a Senior Fellow at Policy Exchange, the Royal United Services Institute (RUSI), and is Sir Herbert Richmond Fellow on naval strategy at the Council on Geostrategy. He is also visiting fellow at the Royal Navy Strategic Studies Centre (RNCSS) and non-resident fellow at the Royal Australian Navy Seapower Centre. In 2022, Prof Patalano became the first specialist advisor on the Indo-Pacific to the Foreign Affairs Committee in the UK Parliament. In 2023, he became also the first academic to be awarded a Commendation of the Ambassador of Japan to the UK for his outstanding contribution to the advancement of UK-Japan ties in defence and security. Prof Patalano is an active media commentator and writer (Nikkei, The Spectator); he collaborates on international documentaries, and is also regularly involved in military education, developing and delivering programmes on East Asian affairs.This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/3270000/advertisement

The Richard Heydarian Podcast
West Philippine Sea: 7 Years After Arbitration Ruling

The Richard Heydarian Podcast

Play Episode Listen Later Jul 13, 2023 20:29


An analysis of the geopolitical implications of the 2016 arbitral tribunal ruling under UNCLOS.

Sea Control
Sea Control 438 - Small States and the Law of the Sea with Dr. Douglas Guilfoyle

Sea Control

Play Episode Listen Later Jun 22, 2023 27:05


Links1. "Litigation as Statecraft: Small States and the Law of the Sea," Douglas Guilfoyle, British Yearbook of International Law, May 30, 2023.2. Sea Control 178 - Lawfare at Sea with Dr. Jill Goldenziel, by Jared Samuelson, CIMSEC, May 26, 2020.3. Sea Control 224 - Clashes at Sea with Dr. Sara Mitchell, by Jared Samuelson, CIMSEC, January 24, 2021.4. Sea Control 213 - U.S. and Chinese South China Sea Legal Strategies with Dr. Krista Wiegand, by Jared Samuelson, CIMSEC, November 29, 2020.5. Sea Control 267 - Resolving Diego Garcia with Chirayu Thakkar, by Jared Samuelson, CIMSEC, August 8, 2021.6. Dr. Douglas Guilfoyle's Twitter Feed.

China Global
China's Unprofessional Intercept in the Taiwan Strait

China Global

Play Episode Listen Later Jun 20, 2023 25:12


On June 3, 2023, there was a near-collision between a US and a PRC destroyer in the Taiwan Strait. According to a statement issued by US Indo-Pacific Command, a US Navy destroyer, the USS Chung-Hoon, and a Canadian warship were conducting a routine south to north Taiwan Strait transit through waters where high seas freedoms of navigation and overflight apply. The Luyang III, a People's Liberation Army destroyer, overtook the Chung-Hoon on her port side and crossed her bow at 150 yards. The US warship maintained course and slowed to 10 knots to avoid a collision. US Indo-Pacific Command stated that the actions of the Chinese destroyer violated the maritime Rules of the Road of safe passage in international waters.How dangerous was this incident? Why do US warships sail in these waters, and do they do so in accordance with international law? And what steps should be taken to ensure that accidents do not take place between US and Chinese naval vessels?To discuss these questions, host Bonnie Glaser is joined by Dr. Peter Dutton, professor of international law in the Stockton Center for International Law at the US Naval War College and an Adjunct Professor of Law at New York University School of Law. His research focuses on international law of the sea, Chinese views of sovereignty and international law, and China's maritime expansion.  Timestamps[01:50] Freedom of the High Seas [03:21] Joint Freedom of Navigation Operations[03:52] Statement by the US Indo-Pacific Command[04:46] Statement by Defense Minister Li Shangfu[06:49] History of Dangerous Maneuvering by the Chinese[07:41] Trigger for the Recent Dangerous Maneuver[09:13] Chinese Adherence to International Law[10:19] Signaling Intentions in a Safe and Legal Manner[12:03] Aftermath of a Hypothetical Collision at Sea[14:44] Is the US Goading China into Conflict?[17:38] Rules of Behavior for Safety of Air and Maritime Encounters[19:24] Code for Unplanned Encounters at Sea[20:27] The US and the Convention on the Law of the Sea[21:51] Interactions with Chinese Experts and Professionals

VOV - Sự kiện và Bàn luận
Câu chuyện thời sự - Khôn khéo, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển

VOV - Sự kiện và Bàn luận

Play Episode Listen Later Jun 19, 2023 29:56


- Mới đây tàu khảo sát Hướng Dương Hồng 10 cùng các tàu hải cảnh, tàu cá Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam cũng như việc Trung tâm Bảo đảm an toàn hàng hải, Bộ Giao thông Vận tải Trung Quốc tiến hành lắp đặt 3 phao đèn báo hiệu tại một số thực thể thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trước sự việc này, Việt Nam đã yêu cầu Trung Quốc tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực. Là quốc gia kiên định giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, Việt Nam ủng hộ việc các nước có thể cùng nhau hợp tác giải quyết bất đồng trong vấn đề Biển Đông, trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các nước, được xác định bởi Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982).- Tuy nhiên thời gian qua, trên các trang mạng xã hội, xuất hiện nhiều thông tin xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đây là thủ đoạn không mới, nhưng rất nguy hiểm, bởi đây là vấn đề được dư luận trong và ngoài nước hết sức quan tâm. Vì vậy, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái đó một cách kịp thời; đồng thời, khẳng định tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết hiện nay. Trung tướng Nguyễn Ngọc Tương, Nguyên Phó Chính uỷ Học viện Quốc phòng cùng bàn luận câu chuyện này. Chủ đề : Khôn khéo, bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia trên biển --- Support this podcast: https://podcasters.spotify.com/pod/show/vov1sukien/support

American Shoreline Podcast Network
RESCUE, part 10: UNCLOS and Biological Diversity | World Ocean Radio

American Shoreline Podcast Network

Play Episode Listen Later Apr 1, 2023 4:58


This week we continue the multi-part RESCUE series with a continuation of UNCLOS, the United Nations Convention on the Law of the Sea. In early March, the UN finalized a consensus agreement to work toward the conservation and protection of ocean resources and ecosystems. RESCUE as an acronym offers a plan for specific action and public participation: Renewal, Environment, Society, Collaboration, Understanding, and Engagement.

American Shoreline Podcast Network
RESCUE, part 9: UNCLOS, A Plan in Hand | World Ocean Radio

American Shoreline Podcast Network

Play Episode Listen Later Mar 25, 2023 5:03


This week we continue the multi-part RESCUE series with a highlight of UNCLOS, the United Nations Convention on the Law of the Sea, a major example of a far-reaching universal agreement that was drafted in 1982 and ratified in 1984. At the recent Davos gathering, a call to overhaul the UNCLOS instrument of ocean protection went largely unheeded. Who will be willing to step up and redress priorities to conserve and sustain the ocean? RESCUE as an acronym offers a plan for specific action and public participation: Renewal, Environment, Society, Collaboration, Understanding, and Engagement.

World Ocean Radio
RESCUE, part 10: UNCLOS and Biological Diversity

World Ocean Radio

Play Episode Listen Later Mar 15, 2023 4:58


This week we continue the multi-part RESCUE series with a continuation of UNCLOS, the United Nations Convention on the Law of the Sea. In early March, the UN finalized a consensus agreement to work toward the conservation and protection of ocean resources and ecosystems. RESCUE as an acronym offers a plan for specific action and public participation: Renewal, Environment, Society, Collaboration, Understanding, and Engagement. About World Ocean Radio 5-minute weekly insights dive into ocean science, advocacy and education hosted by Peter Neill, lifelong ocean advocate and maritime expert. Episodes offer perspectives on global ocean issues and viable solutions, and celebrate exemplary projects. Available for syndicated use at no cost by college and community radio stations worldwide.

World Ocean Radio
RESCUE, part 9: UNCLOS, A Plan in Hand

World Ocean Radio

Play Episode Listen Later Mar 8, 2023 5:03


This week we continue the multi-part RESCUE series with a highlight of UNCLOS, the United Nations Convention on the Law of the Sea, a major example of a far-reaching universal agreement that was drafted in 1982 and ratified in 1984. At the recent Davos gathering, a call to overhaul the UNCLOS instrument of ocean protection went largely unheeded. Who will be willing to step up and redress priorities to conserve and sustain the ocean? RESCUE as an acronym offers a plan for specific action and public participation: Renewal, Environment, Society, Collaboration, Understanding, and Engagement.About World Ocean Radio 5-minute weekly insights dive into ocean science, advocacy and education hosted by Peter Neill, lifelong ocean advocate and maritime expert. Episodes offer perspectives on global ocean issues and viable solutions, and celebrate exemplary projects. Available for syndicated use at no cost by college and community radio stations worldwide.

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Thỏa thuận Việt Nam - Indonesia: Một hướng giải quyết tranh chấp Biển Đông?

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Feb 20, 2023 9:32


Sau 12 năm đàm phán, ngày 23/12/2022, Indonesia và Việt Nam đã giải quyết được tranh chấp trên biển, cụ thể là đã kết thúc đàm phán về việc phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) chồng lấn giữa hai nước tại khu vực quần đảo Natuna ở Biển Đông. Thỏa thuận giữa Hà Nội và Jakarta sẽ chấm dứt những căng thẳng lâu nay giữa hai nước, nhưng chắc là sẽ khiến Trung Quốc giận dữ, vì Bắc Kinh vẫn tuyên bố chủ quyền đối với một phần khu vực mà Indonesia và Việt Nam tranh chấp.  Tổng thống Indonesia Joko Widodo và Chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc đã công bố thỏa thuận này trong chuyến thăm cấp nhà nước 3 ngày của ông Phúc tại Indonesia tháng 12 năm ngoái. Căng thẳng do đánh bắt cáTrong những năm gần đây, Việt Nam và Indonesia thường xuyên gặp căng thẳng tại vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn lên nhau. Lực lượng tuần duyên Indonesia đã tịch thu và phá hủy hàng chục tàu thuyền Việt Nam trong vùng biển tranh chấp, đặc biệt là xung quanh quần đảo Natuna. Năm 2017, một tàu Cảnh sát biển Việt Nam bị cáo buộc đã ngăn chặn một nỗ lực của Indonesia nhằm hộ tống các tàu Việt Nam ra khỏi khu vực tranh chấp. Trong vụ này, một sĩ quan Indonesia bị lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam bắt giữ. Tháng 4/2019, một tàu Indonesia va chạm với 2 tàu Kiểm ngư Việt Nam. Năm 2019, Indonesia đã phá hủy 38 tàu treo cờ Việt Nam bị cáo buộc đánh bắt trái phép. Đến tháng 3 năm 2021, Cảnh sát biển Indonesia lại bắt giữ hai tàu đánh cá Việt Nam. Ngoài nguồn thủy sản dồi dào, khu vực tranh chấp ranh giới giữa hai nước cũng được coi là giàu tài nguyên thiên nhiên.Thỏa thuận nói trên như vậy là sẽ góp phần chấm dứt nhiều năm đụng độ giữa hai nước trong khu vực tranh chấp, đặc biệt là về nạn đánh bắt cá trái phép. Trả lời RFI Việt ngữ ngày 05/01/2023, nhà nghiên cứu Hoàng Việt, thuộc Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, nhận định:“ Sau khi hiệp định có hiệu lực thì tình trạng này bắt đầu mới giảm bớt được. Trong thời gian qua, một số ngư dân Việt Nam bị phía Indonesia bắt vì bị cho là vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia, nhưng các ngư dân Việt Nam khẳng định là họ đánh bắt trong vùng biển của Việt Nam, chứ không phải của Indonesia. Nhưng điều này rất khó nói và khó tranh luận. Một trong những yếu tố dẫn đến việc Việt Nam vi phạm thẻ vàng về IUU Fishing ( đánh bắt cá bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định ), đó là có những khu vực mà rất nhiều tàu cá của Việt Nam  bị cáo buộc xâm phạm vùng biển của những quốc gia khác, trong đó có Indonesia. Sau khi hiệp định chính thức có hiệu lực thì chuyện tranh cãi về việc ngư dân Việt Nam xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế Indonesia sẽ rõ ràng hơn, vì chắc chắn là khi phân định thì sẽ phân định rõ nơi nào thuộc đặc quyền kinh tế của Indonesia, nơi nào là của Việt Nam, nơi nào là vùng đánh cá chung của cả hai bên.”Gợi ý cho những tranh chấp khác?Trước mắt, các nhà phân tích tin rằng thỏa thuận giữa Indonesia với Việt Nam sẽ mở đường cho nhiều nước láng giềng của Trung Quốc giải quyết các yêu sách chủ quyền chồng lấn lên nhau ở Biển Đông. Ví dụ, Việt Nam cũng có tranh chấp tương tự với cả Philippines và Malaysia. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt giải thích: “Nó sẽ là gợi ý tốt cho Việt Nam và các các quốc gia Đông Nam Á có tranh chấp tương tự trên khu vực Biển Đông, bởi vì cơ sở của nó là luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, có các án lệ quốc tế liên quan đến phân định biển… Thực tiễn quốc tế mới là cơ sở để các quốc gia giải quyết vấn đề này. Việt Nam cũng có những vùng chồng lấn tương tự với vùng biển của Philippines và Malaysia, tuy nhiên, tình huống cụ thể với mỗi bên có rất nhiều điểm khác biệt. Trong quần đảo Trường Sa, có một số thực thể mà cả Việt Nam, Malaysia đều khẳng định chủ quyền. Những thực thể đó có những vùng biển xung quanh mà cả ba quốc gia đều cho là của mình. Giải quyết vấn đề này sẽ rất khó khăn, nhưng rõ ràng việc Việt Nam và Indonesia kết thúc được hiệp định này cho thấy, thứ nhất là các quốc gia ASEAN trong khu vực Biển Đông có những tranh chấp về chồng lấn như vậy hoàn toàn có thể giải quyết được tranh chấp này trong hòa bình và dưới ánh sáng của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển. Năm nay cũng là năm kỷ niệm 40 năm Công ước này được ký kết. Tranh chấp Biển Đông là tranh chấp đầy phức tạp. Nếu các quốc gia ASEAN có tranh chấp Biển Đông mà giải quyết được những vấn đề khúc mắc của riêng mình, thì đó cũng là một điều tốt để cho  vấn đề Biển Đông có thể được giải quyết tốt hơn. Nếu tất cả các quốc gia có tranh chấp chồng lấn như vậy mà giải quyết ổn thỏa được các vấn đề đó, thì chỉ còn lại vấn đề quan trọng nhất là đối với Trung Quốc. Điều đó cũng sẽ tạo một sức ép không nhỏ đối với Trung Quốc.” Trong một bài viết trên trang Forbes ngày 27/12/2022, giáo sư Jill Goldenziel, Đại học Quốc Phòng Hoa Kỳ, cũng lưu ý rằng Việt Nam và Indonesia đã quyết định giải quyết tranh chấp ranh giới của họ dựa trên Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), qua đó bác bỏ yêu sách của Trung Quốc về “quyền lịch sử” đối với vùng Biển Đông. Do đó, thỏa thuận này là một bước quan trọng hướng tới một mặt trận thống nhất giữa các nước láng giềng của Trung Quốc trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. Việc lựa chọn UNCLOS làm cơ sở giải quyết tranh chấp ranh giới cũng ngầm thể hiện sự ủng hộ đối với phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực năm 2016 về vụ kiện của Philippines, bác bỏ các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông. Phản ứng của Trung Quốc ?Giáo sư Goldenziel cũng nhấn mạnh là các chi tiết của thỏa thuận giữa Hà Nội và Jakarta vẫn chưa được công khai, bởi vì nếu làm như vậy, Trung Quốc có thể sẽ đáp trả bằng các biện pháp ngoại giao, hoặc thậm chí quân sự mạnh mẽ. Cho tới nay, bất cứ khi nào một quốc gia láng giềng chính thức bày tỏ sự ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực về Biển Đông, Trung Quốc đều phản đối mạnh mẽ. Thỏa thuận Indonesia-Việt Nam được thông qua vào thời điểm Trung Quốc ngày càng hung hăng, khẳng định các yêu sách chủ quyền của họ ở Biển Đông. Tại khu vực ranh giới giữa Indonesia và Việt Nam,Trung Quốc có thể triển khai lực lượng dân quân biển có vũ trang, đội lốt tàu cá, để xác quyết chủ quyền đối với khu vực.Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Hoàng Việt nêu lên hai lý do khác:“Trường hợp thứ nhất, thông thường, nếu một hiệp định đã được hoàn tất, thì theo trình tự, còn một bước nữa là Quốc Hội mỗi bên thông qua, thì nó mới chính thức có hiệu lực. Hiện nay vẫn chưa có lịch trình của cả hai bên, đặc biệt là bên phía Việt Nam, để thông qua văn bản này. Như thế là phải mất thêm một thời gian nữa. Trong thời gian đó hai bên sẽ đều giữ kín thông tin.Khả năng thứ hai là hai bên đã kết thúc đàm phán, tức là đã đồng ý với nhau một số nguyên tắc cơ bản, nhưng còn những vấn đề cụ thể của hiệp định thì vẫn chưa hoàn tất. Thậm chí là có những vấn đề kèm theo hiệp định đó, ví dụ như những phụ lục hay những hiệp định kèm theo thì vẫn chưa xong. Cho nên,  đó chỉ mới là bước đầu, chưa thật sự hoàn tất, chính vì vậy hai bên vẫn chưa đưa ra thông tin cụ thể trong lúc này.”Giáo sư Goldenziel, tác giả bài viết trên trang Forbes ngày 27/12/2022, cho rằng thỏa thuận Indonesia-Việt Nam có thể  là khuôn mẫu cho các nỗ lực phối hợp nhằm chống lại sự bành trướng trên biển của Trung Quốc, và là một bước tiến tới một mặt trận Đông Nam Á thống nhất chống lại các yêu sách chủ quyền phi pháp của Trung Quốc trên Biển Đông. Nhà nghiên cứu Hoàng Việt cũng có cùng nhận định:“ Có ý kiến cho rằng Trung Quốc cũng không hài lòng về chuyện này, bởi vì cái quan trọng nhất là Trung Quốc vẫn muốn đàm phán với ASEAN về vấn đề Biển Đông, đặc biệt là về COC ( Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông ). Nhiều người cho rằng Trung Quốc vẫn muốn ngăn cản và chia rẽ các nước ASEAN. Chính vì vậy mà Trung Quốc sẽ tìm cách can thiệp vào hiệp định này. Cũng có người cho rằng, hiệp định dù có được ký kết thì cũng phải được Quốc Hội phê chuẩn. Đối với Quốc Hội Việt Nam thì chắc là không khó khăn lắm trong việc thông qua, khi mà chính phủ đã quyết định. Nhưng đối với Indonesia lại là chuyện khác. Ngay cả tại Indonesia cũng có những nhóm thân Trung Quốc hoặc không thân Trung Quốc, vì thế Trung Quốc cũng có thể tác động bằng cách này hay cách khác. Chỉ sau khi Quốc Hội Indonesia phê chuẩn thì lúc đó mới là chắc chắn. Khả năng là có thể xảy ra, bởi vì Trung Quốc sẽ tìm cách vận động khiến cho Quốc Hội có những tiếng nói khác biệt, dẫn tới việc phê chuẩn bị chậm trễ, hoặc kéo dài hoặc là chưa biết có được thông qua hay không.”Sự hỗ trợ của MỹTrong bài viết nói trên, giáo sư Goldenziel còn cho rằng thỏa thuận về biên giới trên biển giữa Việt Nam và Indonesia có thể góp phần giúp Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc trong khu vực. Theo giáo sư Goldenziel, Hoa Kỳ nên làm việc với Indonesia và Việt Nam để tăng cường thỏa thuận, nhằm hỗ trợ chiến lược quốc gia của Hoa Kỳ trong việc chống đánh bắt cá bất hợp pháp, không theo quy định và không báo cáo (IUU Fishing), đồng thời khẳng định luật pháp ở Biển Đông.Tác giả bài viết khẳng định: “Hoa Kỳ sẵn sàng hành động để hỗ trợ Indonesia và Việt Nam giúp cho  thỏa thuận thành công. Việt Nam là quốc gia ưu tiên trong Đạo luật An Toàn Hàng hải của Hoa Kỳ, một phần trong Chiến lược Quốc gia của Hoa Kỳ về Chống Khai thác IUU. Điều này có nghĩa là Việt Nam đã bày tỏ sẵn sàng hành động chặt chẽ với Hoa Kỳ để chống đánh bắt cá bất hợp pháp.Hoa Kỳ nên làm việc với Việt Nam và Indonesia để củng cố thỏa thuận của họ bằng cách cung cấp đào tạo và hỗ trợ cho lực lượng bảo vệ bờ biển của cả hai quốc gia để chống lại việc đánh bắt IUU và khẳng định các quyền hàng hải chống lại Trung Quốc. Hoa Kỳ cũng có thể giúp tiến hành các chiến dịch thông tin đại chúng để nâng cao nhận thức về ranh giới biển mới và các quyền hợp pháp của cả hai quốc gia đối với khu vực. Ngoài ra, Hoa Kỳ có thể hỗ trợ cả hai quốc gia lập hồ sơ và công khai các vi phạm đánh bắt IUU của Trung Quốc trong khu vực biên giới và thực hiện hành động pháp lý bất cứ khi nào thích hợp.”

Sea Control - CIMSEC
Sea Control 409 – Why UNCLOS Matters to Vietnam with Thu Nguyen Hoang Anh

Sea Control - CIMSEC

Play Episode Listen Later Feb 2, 2023


By Jared Samuelson Thu Nguyen Hoang Anh joins Sea Control to discuss her contribution to Fulcrum’s series on the significance of UNCLOS for Vietnam. Thu is a graduate student at the European University Institute majoring in Transnational Governance. Download Sea Control 409 – Why UNCLOS Matters to Vietnam with Thu Nguyen Hoang Anh Links 1. … Continue reading Sea Control 409 – Why UNCLOS Matters to Vietnam with Thu Nguyen Hoang Anh →

Sea Control
Sea Control 409 - Why UNCLOS Matters to Vietnam with Thu Nguyen Hoang Anh

Sea Control

Play Episode Listen Later Feb 2, 2023 17:47


Link: After 40 Years, UNCLOS Remains Significant to Vietnam, by Thu Nguyen Hoang Anh, Fulcrum, September 20, 2022. 

Sea Control - CIMSEC
Sea Control 400 – UNCLOS Article 51 at 40 with Dr. Arron Honniball and Aristyo Darmawan

Sea Control - CIMSEC

Play Episode Listen Later Dec 31, 2022


By Jared Samuelson 250 episodes since the revival of the Sea Control podcast and we are still going strong! Dr. Arron Honniball and Aristyo Darmawan join us to discuss UNCLOS Article 51, military training as “other legitimate activities.” Dr. Arron Honniball is a Senior Research Fellow at the Max Planck Foundation for International Peace and … Continue reading Sea Control 400 – UNCLOS Article 51 at 40 with Dr. Arron Honniball and Aristyo Darmawan →

Sea Control
Sea Control 400 - UNCLOS Article 51 at 40 with Dr. Arron Honniball and Aristyo Darmawan

Sea Control

Play Episode Listen Later Dec 29, 2022 23:52


Links1. "Article 51 of UNCLOS at 40: Military Training as Other Legitimate Activities?" by Arron Honniball and Aristyo Darmawan, Asia-Pacific Journal of Ocean Law and Policy, December 16, 2022. 

Sea Control - CIMSEC
Sea Control 397 – Judicial Responses to the Silences of UNCLOS with Chiara Pavesi

Sea Control - CIMSEC

Play Episode Listen Later Dec 15, 2022


By Jared Samuelson Chiara Pavesi joins the podcast to discuss her contribution to the Associazione di Consulenza in Diritto del Mare’s (ASCOMARE) 2021 Yearbook on the Law of the Sea. Chiara is a Project Coordinator and Research Assistant for ASCOMARE. Download Sea Control 397 – Judicial Responses to the Silences of UNCLOS with Chiara Pavesi … Continue reading Sea Control 397 – Judicial Responses to the Silences of UNCLOS with Chiara Pavesi →

Sea Control
Sea Control 397 - Judicial Responses to the Silences of UNCLOS with Chiara Pavesi

Sea Control

Play Episode Listen Later Dec 15, 2022 16:03


Links1. "Protecting Non-State Actors' Interests at Sea: Judicial Responses to the Silence of UNCLOS," by Marianthi Pappa and Chiara Pavesi, ASCOMARE Yearbook on the Law of the Sea, Volume 1, pg. 95-128, Luglio Editore, 2022.

VOV - Chương trình thời sự
Thời sự 18h (16/11/2022)

VOV - Chương trình thời sự

Play Episode Listen Later Nov 16, 2022 55:47


- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển KT-XH, bảo đảm QP-AN phát triển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030. - Thủ tướng Thái Lan Prayut Chanochan và phu nhân chủ trì lễ đón trọng thể Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân thăm chính thức Vương quốc Thái Lan và tham dự Hội nghị cấp cao APEC. - Dự và phát biểu tại Lễ kỷ niệm 40 năm ngày nhà giáo Việt Nam và 120 năm thành lập trường Đại học Y Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính mong muốn Trường Đại học Y Hà Nội sẽ mãi là biểu tượng đẹp trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân. - Hôm nay, đúng kỷ niệm 40 năm ngày ra đời Công ước Liên hợp quốc về Luật biển UNCLOS 1982 diễn ra Hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông lần thứ 14 tại Đà Nẵng. - HNCC các nhà lãnh đạo nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (gọi tắt là G20) bế mạc, ra tuyên bố chung cam kết thực hiện các hành động khẩn cấp chống đói nghèo, đặc biệt ở những nước đang phát triển. - Ba Lan xem xét viện dẫn một quy chế đặc biệt của NATO sau vụ tên lửa rơi khiến hai người thiệt mạng gần biên giới với Ucraina. Chủ đề : Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trường Đại học Y Hà Nội, sức khỏe của nhân dân --- Support this podcast: https://anchor.fm/vov1thoisu0/support

Sea Control - CIMSEC
Sea Control 390 – Coastal State Jurisdiction Over Living Resources with Dr. Camille Goodman

Sea Control - CIMSEC

Play Episode Listen Later Nov 10, 2022


By Jared Samuelson Dr. Camille Goodman joins the podcast to discuss her book Coastal State Jurisdiction over Living Resources in the Exclusive Economic Zone, and fisheries, enforcement, UNCLOS, and more. Dr. Goodman is a Senior Lecturer and Head of Postgraduate Studies at the Australian National Centre for Ocean Resources and Security at the University of … Continue reading Sea Control 390 – Coastal State Jurisdiction Over Living Resources with Dr. Camille Goodman →

Sea Control
Sea Control 390 - Coastal State Jurisdiction Over Living Resources with Dr. Camille Goodman

Sea Control

Play Episode Listen Later Nov 10, 2022 39:38


Links1. "Coastal State Jurisdiction over Living Resources in the Exclusive Economic Zone," by Camille Goodman, Oxford University Press, February 15, 2022.2. "Sea Control 212 - China's Galapagos Fishing Fleet with Dr. Tabitha Mallory and Dr. Ian Ralby," by Jared Samuelson, CIMSEC, November 22, 2020.3. "Sea Control 356 - Global Fish Transshipment Network with Dr. Gohar Petrossian," by Jared Samuelson, CIMSEC, June 23, 2022.4. "Sea Control 368 - Gina Fiore on the Quad's New MDA Initiative," by Jared Samuelson, CIMSEC, August 4, 2022. 

World Ocean Radio
Sovereignty and the Ocean

World Ocean Radio

Play Episode Listen Later Sep 29, 2022 5:21


This week on World Ocean Radio we're offering two extremely important ocean examples where the opposition of sovereignty and commonality collide. This first is the UN Treaty for the Law of the Sea (UNCLOS), and the second is a treaty for the management of the high seas and seabed--the vast areas that make up the boundaries beyond national jurisdiction. About World Ocean Radio5-minute weekly insights dive into ocean science, advocacy and education hosted by Peter Neill, lifelong ocean advocate and maritime expert. Episodes offer perspectives on global ocean issues and viable solutions, and celebrate exemplary projects. Available for syndicated use at no cost by college and community radio stations worldwide.

Counterpoint - ABC RN
Look! Up in the Sky!

Counterpoint - ABC RN

Play Episode Listen Later Jul 4, 2022 53:24


What does having a worthwhile life mean? Is it all about academic achievement and a high wage or it something more? How dangerous and how prevalent is piracy in Southeast Asian waters? Hint, just under a half of all pirate attacks so far this year have occurred in these waters. Superhero movies have recently had their share of naysayers but have they got it all wrong? Space is not the vast empty nothingness we think it is. To protect it should we start thinking of space as an eco-system?

Jus Cogens : The International Law Podcast
Law of the Sea Ft. Robin Churchill | 38 | JC

Jus Cogens : The International Law Podcast

Play Episode Listen Later Apr 26, 2022 37:11


On this episode, we speak with Robin Churchill about the new edition of his book, co authored with Vaughan Lowe and Amy Sander on the Law of The Sea (4th edition, 2022). We explore the vast developments of the law and the post UNCLOS-phase premised in the book. Works Cited: Link to the Robin's upcoming book: https://manchesteruniversitypress.co.uk/9780719079689/ Our Socials: Twitter: @JCLawPodcast Blog: https://juscogens.law.blog/ Facebook: https://www.facebook.com/JCLawPodcast

Polar Geopolitics
Casualties of War? Arctic and Antarctic cooperation and the future of the liberal international order with Prof. Klaus Dodds

Polar Geopolitics

Play Episode Listen Later Mar 17, 2022 36:22


Klaus Dodds, professor of geopolitics at Royal Holloway University of London and author of the recent book Border Wars: The Conflicts that will Define our Future, joins the podcast to discuss the impact of the Russian invasion of Ukraine on the Arctic Council and Antarctic Treaty System, on Baltic security and UNCLOS processes, and the ways in which the war has deeply disrupted the liberal international order, and potentially ushered in a new era of de-globalization.