POPULARITY
“Ngày 01/07/2025 sẽ đi vào lịch sử cải cách bộ máy nhà nước Việt Nam như một dấu mốc mang tính đột phá và kiến tạo, cũng như lịch sử xây dựng và phát triển đất nước”. Tuyên bố được đăng trên trang web Cải cách Hành chính vì Việt Nam chính thức có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 28 tỉnh và 6 thành phố, giảm gần một nửa so với trước đây. Đề án sáp nhập là do tổng bí thư Tô Lâm chủ trương và Quốc Hội biểu quyết thông qua ngày 12/06. Tinh giản bộ máy nhà nước được coi là điều vô cùng cần thiết để Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Thực hiện thành công công cuộc cải cách lần này, tổng bí thứ Tô Lâm còn cho thấy quyền lực cá nhân và những chiến lược tập trung quyền lực đằng sau. Đây là nhận định của giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 04/07/2025. RFI : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính đã diễn ra nhiều lần trong lịch sử Việt Nam và lần gần đây nhất có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2025. Mục tiêu của cuộc cải cách này là gì ? Benoît de Tréglodé : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính, cụ thể là giảm từ 63 tỉnh, thành xuống còn 34, bao gồm 28 tỉnh và 6 thành phố do chính quyền trung ương quản lý. Đây là một bước vô cùng quan trọng trong công cuộc cải cách đất nước, theo mong muốn của tổng bí thư Tô Lâm, với mục tiêu đầy tham vọng : thúc đẩy phát triển để đưa Việt Nam thành nước phát triển có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Vì vậy, cải cách bộ máy Nhà nước là một chặng, việc sáp nhập tỉnh cũng rất quan trọng, bởi vì qua đó người ta thấy một quyết tâm kỹ trị, một mong muốn kinh doanh và cả kinh tế, trong khi người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng luôn đặt trọng tâm vào sự trong sạch thuần túy về mặt tư tưởng và kỷ luật của đảng. Điều mà tổng bí thư Tô Lâm thúc đẩy trong cuộc cải cách lần này là tạo ra những thực thể hành chính mới có khả năng cạnh tranh từ góc độ kinh tế. Tôi muốn nói đó là điều rất cụ thể, chứ không chỉ là lý thuyết. Có hai lưu ý sơ bộ để hiểu về cuộc cải cách này. Điều đáng chú ý trước tiên là ý muốn của một người, ở đây là ông Tô Lâm. Những địa giới hành chính mới của các tỉnh cũng là cách cho thấy quyết định được đưa từ trên xuống. Việc này đưa Đảng, và cuối cùng là tổng bí thư, vào trung tâm của quá trình ra quyết định mang tính quốc gia. Quốc Hội không thảo luận về dự án này mà chỉ phê duyệt. Chúng ta đang quay trở lại với một logic khá cũ, bị quên trong hơn một thập niên, là các đại biểu Quốc Hội tranh luận về các dự án lớn của bộ máy. Ở đây, ông Tô Lâm áp đặt cải cách mà Quốc Hội sẽ thông qua. Điểm này rất quan trọng mà tôi sẽ đề cập sau. Lưu ý thứ hai, đó là ông Tô Lâm gọi “cuộc cách mạng chống quan liêu” để tăng thêm hiệu quả. Có một điều không thể phủ nhận mà bất kỳ ai theo dõi hoặc quan sát các vấn đề chính trị, hành chính, cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam đều không thể nói ngược lại : Hết thập niên này sang thập niên khác, một bộ máy quan liêu ngày càng phình to được lập ở nhiều cấp độ, từ xã, huyện đến tỉnh và trung ương, cho nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động. Khi tổng bí thư nói đến việc tinh gọn, làm cho bộ máy hành chính chặt chẽ, mạnh mẽ, hiệu quả, hiệu suất hơn (về mặt giấy tờ), người ta có thể nói rằng ông ấy có lẽ đúng. Quá trình hiện đại hóa kinh tế của đất nước chắc chắn sẽ liên quan đến cuộc đổi mới này, bởi vì một bộ máy hành chính kém hiệu quả, cồng kềnh là rất tốn kém và chỉ tạo thêm “cửa” cho các nhà đầu tư muốn làm việc với Việt Nam. Đọc thêmTô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bản Ngoài ra, còn phải kể đến 3 lý do chính đằng sau việc tái cấu trúc hành chính và sáp nhập tỉnh. Thứ nhất, việc tinh giản bộ máy hành chính địa phương làm giảm các điểm tiếp xúc, các cấp ra quyết định và các tuyến chỉ huy, cho nên giảm được gánh nặng hành chính cho những người muốn làm việc với một địa phương. Có nghĩa là ít “cửa” hơn, ít tham nhũng hơn một chút, bởi vì có ít người để “làm việc” hơn. Lý do chính thứ hai, cải tổ ở cấp độ các vùng lãnh thổ Việt Nam sẽ tạo nên các không gian thúc đẩy động lực kinh tế và hạn chế chủ nghĩa địa phương. Cho nên cần nhắc lại, tinh giản là để hiệu quả hơn. Điểm thứ ba, được nhiều chuyên gia nêu lên : Cuộc cải cách lần này là nhằm giảm bớt ngân sách nhà nước, hiện dành tới 70% cho chi phí vận hành định kỳ của các cơ quan hành chính. Mục tiêu mang tính kinh tế, rất cụ thể. Nhưng đó không phải là những lý do duy nhất mà chúng ta sẽ nói đến sau. RFI : Ở Pháp, việc phân chia đơn vị hành chính đôi khi cũng được thực hiện vì mục đích bầu cử. Liệu trường hợp này có diễn ra ở Việt Nam không vì Đại hội Đảng cũng đang đến gần, trong khi lợi ích tài chính, đơn giản hóa hành chính… vẫn được nhấn mạnh khi sáp nhập tỉnh, như ông nhắc đến ở trên ? Benoît de Tréglodé : Tôi nói ngay là có. Đó là điều hiển nhiên. Tôi đã nhấn mạnh đến khía cạnh mục tiêu và tổ chức, rất cơ bản của cuộc cách mạng chống quan liêu. Đừng quên rằng chúng ta đang ở Việt Nam, Đại hội Đảng sẽ diễn ra trong chưa đầy một năm. Vì vậy, cuộc cách mạng mang hai mục tiêu, vừa về kinh tế, và đối với ông Tô Lâm, chắc chắn là còn mang tính chính trị. Sự tập trung chính trị này có nghĩa là gì ? Đây chỉ là một vấn đề đơn giản về số học. Cuộc cải cách sẽ củng cố sự tập trung chính trị. Ít tỉnh hơn, sẽ có ít người tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương hơn, và như vậy sẽ tạo thuận lợi cho bộ Chính trị hoặc ban bí thư, chỉ phải kiểm soát ít hơn. Việc giảm số lượng tỉnh cũng dẫn đến việc giảm số lượng đại biểu được cử vào Ban Chấp hành Trung ương. Điều này rất quan trọng, bởi vì Ban Chấp hành Trung ương và các ban chính trị của đảng sẽ được bầu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 14 của đảng vào đầu năm 2026. Với việc ít tỉnh hơn, ít đại diện hơn, rõ ràng việc này sẽ giúp tập trung ảnh hưởng nhiều hơn vào tay ông Tô Lâm và các đồng minh của ông. Không cần phải che giấu, cuộc cải cách này còn có mục đích tập trung quyền lực xung quanh lãnh đạo quyền lực của hệ thống chính trị Việt Nam, trong trường hợp này là tổng bí thư. Theo logic của Tô Lâm hiện nay, tập trung quyền lực cũng là bảo đảm thêm sự ổn định chính trị cho đất nước, cho đội ngũ lãnh đạo đất nước. Lập luận này xuất phát từ nhận định là cần phải phát triển Việt Nam về kinh tế để đạt được mục tiêu phát triển đầy tham vọng năm 2045 và để chống lại những bất ổn trên chính trường khu vực và quốc tế, cũng tác động đến Việt Nam. Nói tóm lại, mục đích chính trị cũng đi kèm với mục tiêu hành chính và kinh tế trong đợt cải cách quy mô lớn này. RFI : Làm thế nào có thể tiến hành cuộc cải cách vào thời điểm này và nhanh đến như vậy ? Benoît de Tréglodé : Quả thực, rất nhiều người thắc mắc về vấn đề này. Đã thành thông lệ là mỗi năm trước kỳ Đại hội đảng vẫn có những chiến dịch chống tham nhũng lớn (tiếp tục hoặc tái khởi động) để phân loại trong số những người thân cận hoặc đối thủ của những nhân vật chuẩn bị cho đại hội sau đó. Năm nay, không nhất thiết phải là một chiến dịch chống tham nhũng mới khiến toàn bộ môi trường chính trị ngưng đọng hoàn toàn, mà là cuộc đại cải cách đầy tham vọng hệ thống hành chính Việt Nam, theo mong muốn của ông Tô Lâm. Điều có thể nghĩ tới ngay lập tức, nếu một cuộc cải cách đầy tham vọng như vậy được thực hiện bởi một người duy nhất thì đó là do ông ấy không cảm thấy bị bất kỳ ai đe dọa và điều này nằm trong quyền lực to lớn của ông trong bộ máy chính trị Việt Nam. Vào đúng năm trước Đại hội Đảng, với cuộc tinh giản bộ máy hành chính ở cấp địa phương, nhưng cũng có thể nói là ở cấp trung ương, ở cấp bộ, không ai chắc chắn là giữ được vị trí của mình, kể cả trong Ban Chấp hành Trung ương. Số người may mắn được chọn sẽ ít hơn vào năm 2026. Có thể nói rằng chiến dịch kiểm soát khổng lồ này thậm chí còn hiệu quả hơn các chiến dịch chống tham nhũng thông thường. Bởi vì chúng khiến mọi người run sợ, ai cũng muốn giữ lấy chỗ và có thể theo đuổi sự nghiệp trong một bộ máy hành chính bị thu hẹp lại. Đọc thêmViệt Nam : Chủ tịch nước bị cách chức, tổng bí thư bị tiếm quyền ? Cuối cùng, chỉ một người thắng cuộc lớn nhất, đó là ông Tô Lâm, người tổ chức công cuộc này cùng với ban lãnh đạo của ông hiện tại hoặc trước đây trong bộ Công An. Có một bầu không khí chung, có thể nói là lo lắng, về sự chuyển đổi xã hội này, cho dù nhiều người hoan nghênh, đánh giá dự án là “cao cả”, để bộ máy hành chính cồng kềnh trở nên hiệu quả hơn, sáp nhập các đơn vị hành chính chồng chéo để giúp đất nước giàu mạnh hơn, các địa phương hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài hơn. Nhưng thường thì ở Việt Nam, người ta vẫn làm “một công đôi việc”. Người ta mang đến cho người dân một cuộc cải cách được hoan nghênh với những mục tiêu rất tham vọng, cao cả. Nhưng đồng thời, công cuộc này lại được thực hiện bởi một chính trị gia đang tận dụng nó để trụ vững ở trung tâm và thể hiện toàn bộ quyền lực của mình trong trung tâm bộ máy. RFI : Những tỉnh mới, từ giờ rộng lớn hơn rất nhiều, có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức nào trong tương lai ? Benoît de Tréglodé : Đây là cả một vấn đề. Đúng là có thể có những tác động tích cực, đúng đắn. Việc thành lập các siêu tỉnh để thu hút đầu tư nước ngoài có thể giúp địa phương phát triển hiệu quả hơn, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài qua việc “giảm hai, ba lần” số “cửa” tham nhũng. Trước đây, các nhà đầu tư nước ngoài đôi khi phải gõ cửa các ủy ban tỉnh, ủy ban huyện, xã, địa phương liên quan… càng nhiều cửa thì càng có nhiều công chức tham nhũng và càng khiến hoạt động thêm phức tạp. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các chính quyền mới sẽ đơn giản hơn và minh bạch hơn trong việc hợp tác sau khi cải cách sáp nhập tỉnh có hiệu lực từ ngày 01/07/2025. Đọc thêmChủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam Mặt khác, có thể là còn quá sớm để nói hoặc hình dung cụ thể hoạt động sẽ như thế nào, nhưng việc thành lập những tỉnh lớn như vậy có thể tạo nên sự bất ổn lâu dài nếu các nhà lãnh đạo tỉnh tương lai dần trở nên quyền lực hơn, một ngày nào đó không hoàn toàn chia sẻ năng lực hoặc tầm nhìn với ông Tô Lâm và bắt đầu tập trung quyền lực cho các mục đích cá nhân. Họ sẽ ít hơn về số lượng, họ sẽ quản lý các khu vực rộng hơn, giàu có hơn, phát triển hơn, họ có thể có tham vọng chính trị lớn hơn. Điều rủi ro là sự xuất hiện của các sếp lớn hoặc “lãnh chúa” lớn, đầy sức mạnh. Tôi nghĩ rằng ở cấp trung ương, trong vòng thân cận của tổng bí thư, mọi chuyện đã được xem xét rất chặt chẽ, bởi vì phải nhắc lại rằng mặt trái của việc sáp nhập tỉnh là các lãnh đạo tỉnh sẽ ít hơn nhưng có thể sẽ quyền lực hơn vì tỉnh của họ lớn hơn, đa dạng hơn, nhưng cũng có thể là họ sẽ bị cấp trung ương kiểm soát nhiều hơn vì họ không đông. Vì vậy, tương lai của mối liên kết giữa quyền tự chủ khu vực, phi tập trung nhưng dưới sự kiểm soát là cả một câu hỏi, là cả sự đánh cược mà ông Tô Lâm đang thực hiện để hiện đại hóa đất nước, thâu tóm và tập trung quyền lực tốt hơn trong 20 năm tới, giai đoạn mang tính quyết định trong việc đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2045. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược - IRSEM, Trường Quân sự Pháp.
“Ngày 01/07/2025 sẽ đi vào lịch sử cải cách bộ máy nhà nước Việt Nam như một dấu mốc mang tính đột phá và kiến tạo, cũng như lịch sử xây dựng và phát triển đất nước”. Tuyên bố được đăng trên trang web Cải cách Hành chính vì Việt Nam chính thức có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh, gồm 28 tỉnh và 6 thành phố, giảm gần một nửa so với trước đây. Đề án sáp nhập là do tổng bí thư Tô Lâm chủ trương và Quốc Hội biểu quyết thông qua ngày 12/06. Tinh giản bộ máy nhà nước được coi là điều vô cùng cần thiết để Việt Nam trở thành nước có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Thực hiện thành công công cuộc cải cách lần này, tổng bí thứ Tô Lâm còn cho thấy quyền lực cá nhân và những chiến lược tập trung quyền lực đằng sau. Đây là nhận định của giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt ngày 04/07/2025. RFI : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính đã diễn ra nhiều lần trong lịch sử Việt Nam và lần gần đây nhất có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2025. Mục tiêu của cuộc cải cách này là gì ? Benoît de Tréglodé : Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính, cụ thể là giảm từ 63 tỉnh, thành xuống còn 34, bao gồm 28 tỉnh và 6 thành phố do chính quyền trung ương quản lý. Đây là một bước vô cùng quan trọng trong công cuộc cải cách đất nước, theo mong muốn của tổng bí thư Tô Lâm, với mục tiêu đầy tham vọng : thúc đẩy phát triển để đưa Việt Nam thành nước phát triển có thu nhập cao từ nay đến năm 2045. Vì vậy, cải cách bộ máy Nhà nước là một chặng, việc sáp nhập tỉnh cũng rất quan trọng, bởi vì qua đó người ta thấy một quyết tâm kỹ trị, một mong muốn kinh doanh và cả kinh tế, trong khi người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng luôn đặt trọng tâm vào sự trong sạch thuần túy về mặt tư tưởng và kỷ luật của đảng. Điều mà tổng bí thư Tô Lâm thúc đẩy trong cuộc cải cách lần này là tạo ra những thực thể hành chính mới có khả năng cạnh tranh từ góc độ kinh tế. Tôi muốn nói đó là điều rất cụ thể, chứ không chỉ là lý thuyết. Có hai lưu ý sơ bộ để hiểu về cuộc cải cách này. Điều đáng chú ý trước tiên là ý muốn của một người, ở đây là ông Tô Lâm. Những địa giới hành chính mới của các tỉnh cũng là cách cho thấy quyết định được đưa từ trên xuống. Việc này đưa Đảng, và cuối cùng là tổng bí thư, vào trung tâm của quá trình ra quyết định mang tính quốc gia. Quốc Hội không thảo luận về dự án này mà chỉ phê duyệt. Chúng ta đang quay trở lại với một logic khá cũ, bị quên trong hơn một thập niên, là các đại biểu Quốc Hội tranh luận về các dự án lớn của bộ máy. Ở đây, ông Tô Lâm áp đặt cải cách mà Quốc Hội sẽ thông qua. Điểm này rất quan trọng mà tôi sẽ đề cập sau. Lưu ý thứ hai, đó là ông Tô Lâm gọi “cuộc cách mạng chống quan liêu” để tăng thêm hiệu quả. Có một điều không thể phủ nhận mà bất kỳ ai theo dõi hoặc quan sát các vấn đề chính trị, hành chính, cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam đều không thể nói ngược lại : Hết thập niên này sang thập niên khác, một bộ máy quan liêu ngày càng phình to được lập ở nhiều cấp độ, từ xã, huyện đến tỉnh và trung ương, cho nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động. Khi tổng bí thư nói đến việc tinh gọn, làm cho bộ máy hành chính chặt chẽ, mạnh mẽ, hiệu quả, hiệu suất hơn (về mặt giấy tờ), người ta có thể nói rằng ông ấy có lẽ đúng. Quá trình hiện đại hóa kinh tế của đất nước chắc chắn sẽ liên quan đến cuộc đổi mới này, bởi vì một bộ máy hành chính kém hiệu quả, cồng kềnh là rất tốn kém và chỉ tạo thêm “cửa” cho các nhà đầu tư muốn làm việc với Việt Nam. Đọc thêmTô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bản Ngoài ra, còn phải kể đến 3 lý do chính đằng sau việc tái cấu trúc hành chính và sáp nhập tỉnh. Thứ nhất, việc tinh giản bộ máy hành chính địa phương làm giảm các điểm tiếp xúc, các cấp ra quyết định và các tuyến chỉ huy, cho nên giảm được gánh nặng hành chính cho những người muốn làm việc với một địa phương. Có nghĩa là ít “cửa” hơn, ít tham nhũng hơn một chút, bởi vì có ít người để “làm việc” hơn. Lý do chính thứ hai, cải tổ ở cấp độ các vùng lãnh thổ Việt Nam sẽ tạo nên các không gian thúc đẩy động lực kinh tế và hạn chế chủ nghĩa địa phương. Cho nên cần nhắc lại, tinh giản là để hiệu quả hơn. Điểm thứ ba, được nhiều chuyên gia nêu lên : Cuộc cải cách lần này là nhằm giảm bớt ngân sách nhà nước, hiện dành tới 70% cho chi phí vận hành định kỳ của các cơ quan hành chính. Mục tiêu mang tính kinh tế, rất cụ thể. Nhưng đó không phải là những lý do duy nhất mà chúng ta sẽ nói đến sau. RFI : Ở Pháp, việc phân chia đơn vị hành chính đôi khi cũng được thực hiện vì mục đích bầu cử. Liệu trường hợp này có diễn ra ở Việt Nam không vì Đại hội Đảng cũng đang đến gần, trong khi lợi ích tài chính, đơn giản hóa hành chính… vẫn được nhấn mạnh khi sáp nhập tỉnh, như ông nhắc đến ở trên ? Benoît de Tréglodé : Tôi nói ngay là có. Đó là điều hiển nhiên. Tôi đã nhấn mạnh đến khía cạnh mục tiêu và tổ chức, rất cơ bản của cuộc cách mạng chống quan liêu. Đừng quên rằng chúng ta đang ở Việt Nam, Đại hội Đảng sẽ diễn ra trong chưa đầy một năm. Vì vậy, cuộc cách mạng mang hai mục tiêu, vừa về kinh tế, và đối với ông Tô Lâm, chắc chắn là còn mang tính chính trị. Sự tập trung chính trị này có nghĩa là gì ? Đây chỉ là một vấn đề đơn giản về số học. Cuộc cải cách sẽ củng cố sự tập trung chính trị. Ít tỉnh hơn, sẽ có ít người tham gia vào Ban Chấp hành Trung ương hơn, và như vậy sẽ tạo thuận lợi cho bộ Chính trị hoặc ban bí thư, chỉ phải kiểm soát ít hơn. Việc giảm số lượng tỉnh cũng dẫn đến việc giảm số lượng đại biểu được cử vào Ban Chấp hành Trung ương. Điều này rất quan trọng, bởi vì Ban Chấp hành Trung ương và các ban chính trị của đảng sẽ được bầu tại Đại hội toàn quốc lần thứ 14 của đảng vào đầu năm 2026. Với việc ít tỉnh hơn, ít đại diện hơn, rõ ràng việc này sẽ giúp tập trung ảnh hưởng nhiều hơn vào tay ông Tô Lâm và các đồng minh của ông. Không cần phải che giấu, cuộc cải cách này còn có mục đích tập trung quyền lực xung quanh lãnh đạo quyền lực của hệ thống chính trị Việt Nam, trong trường hợp này là tổng bí thư. Theo logic của Tô Lâm hiện nay, tập trung quyền lực cũng là bảo đảm thêm sự ổn định chính trị cho đất nước, cho đội ngũ lãnh đạo đất nước. Lập luận này xuất phát từ nhận định là cần phải phát triển Việt Nam về kinh tế để đạt được mục tiêu phát triển đầy tham vọng năm 2045 và để chống lại những bất ổn trên chính trường khu vực và quốc tế, cũng tác động đến Việt Nam. Nói tóm lại, mục đích chính trị cũng đi kèm với mục tiêu hành chính và kinh tế trong đợt cải cách quy mô lớn này. RFI : Làm thế nào có thể tiến hành cuộc cải cách vào thời điểm này và nhanh đến như vậy ? Benoît de Tréglodé : Quả thực, rất nhiều người thắc mắc về vấn đề này. Đã thành thông lệ là mỗi năm trước kỳ Đại hội đảng vẫn có những chiến dịch chống tham nhũng lớn (tiếp tục hoặc tái khởi động) để phân loại trong số những người thân cận hoặc đối thủ của những nhân vật chuẩn bị cho đại hội sau đó. Năm nay, không nhất thiết phải là một chiến dịch chống tham nhũng mới khiến toàn bộ môi trường chính trị ngưng đọng hoàn toàn, mà là cuộc đại cải cách đầy tham vọng hệ thống hành chính Việt Nam, theo mong muốn của ông Tô Lâm. Điều có thể nghĩ tới ngay lập tức, nếu một cuộc cải cách đầy tham vọng như vậy được thực hiện bởi một người duy nhất thì đó là do ông ấy không cảm thấy bị bất kỳ ai đe dọa và điều này nằm trong quyền lực to lớn của ông trong bộ máy chính trị Việt Nam. Vào đúng năm trước Đại hội Đảng, với cuộc tinh giản bộ máy hành chính ở cấp địa phương, nhưng cũng có thể nói là ở cấp trung ương, ở cấp bộ, không ai chắc chắn là giữ được vị trí của mình, kể cả trong Ban Chấp hành Trung ương. Số người may mắn được chọn sẽ ít hơn vào năm 2026. Có thể nói rằng chiến dịch kiểm soát khổng lồ này thậm chí còn hiệu quả hơn các chiến dịch chống tham nhũng thông thường. Bởi vì chúng khiến mọi người run sợ, ai cũng muốn giữ lấy chỗ và có thể theo đuổi sự nghiệp trong một bộ máy hành chính bị thu hẹp lại. Đọc thêmViệt Nam : Chủ tịch nước bị cách chức, tổng bí thư bị tiếm quyền ? Cuối cùng, chỉ một người thắng cuộc lớn nhất, đó là ông Tô Lâm, người tổ chức công cuộc này cùng với ban lãnh đạo của ông hiện tại hoặc trước đây trong bộ Công An. Có một bầu không khí chung, có thể nói là lo lắng, về sự chuyển đổi xã hội này, cho dù nhiều người hoan nghênh, đánh giá dự án là “cao cả”, để bộ máy hành chính cồng kềnh trở nên hiệu quả hơn, sáp nhập các đơn vị hành chính chồng chéo để giúp đất nước giàu mạnh hơn, các địa phương hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài hơn. Nhưng thường thì ở Việt Nam, người ta vẫn làm “một công đôi việc”. Người ta mang đến cho người dân một cuộc cải cách được hoan nghênh với những mục tiêu rất tham vọng, cao cả. Nhưng đồng thời, công cuộc này lại được thực hiện bởi một chính trị gia đang tận dụng nó để trụ vững ở trung tâm và thể hiện toàn bộ quyền lực của mình trong trung tâm bộ máy. RFI : Những tỉnh mới, từ giờ rộng lớn hơn rất nhiều, có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức nào trong tương lai ? Benoît de Tréglodé : Đây là cả một vấn đề. Đúng là có thể có những tác động tích cực, đúng đắn. Việc thành lập các siêu tỉnh để thu hút đầu tư nước ngoài có thể giúp địa phương phát triển hiệu quả hơn, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài qua việc “giảm hai, ba lần” số “cửa” tham nhũng. Trước đây, các nhà đầu tư nước ngoài đôi khi phải gõ cửa các ủy ban tỉnh, ủy ban huyện, xã, địa phương liên quan… càng nhiều cửa thì càng có nhiều công chức tham nhũng và càng khiến hoạt động thêm phức tạp. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài, các chính quyền mới sẽ đơn giản hơn và minh bạch hơn trong việc hợp tác sau khi cải cách sáp nhập tỉnh có hiệu lực từ ngày 01/07/2025. Đọc thêmChủ tịch nước kiêm tổng bí thư, ông Tô Lâm nắm trọn quyền lực ở Việt Nam Mặt khác, có thể là còn quá sớm để nói hoặc hình dung cụ thể hoạt động sẽ như thế nào, nhưng việc thành lập những tỉnh lớn như vậy có thể tạo nên sự bất ổn lâu dài nếu các nhà lãnh đạo tỉnh tương lai dần trở nên quyền lực hơn, một ngày nào đó không hoàn toàn chia sẻ năng lực hoặc tầm nhìn với ông Tô Lâm và bắt đầu tập trung quyền lực cho các mục đích cá nhân. Họ sẽ ít hơn về số lượng, họ sẽ quản lý các khu vực rộng hơn, giàu có hơn, phát triển hơn, họ có thể có tham vọng chính trị lớn hơn. Điều rủi ro là sự xuất hiện của các sếp lớn hoặc “lãnh chúa” lớn, đầy sức mạnh. Tôi nghĩ rằng ở cấp trung ương, trong vòng thân cận của tổng bí thư, mọi chuyện đã được xem xét rất chặt chẽ, bởi vì phải nhắc lại rằng mặt trái của việc sáp nhập tỉnh là các lãnh đạo tỉnh sẽ ít hơn nhưng có thể sẽ quyền lực hơn vì tỉnh của họ lớn hơn, đa dạng hơn, nhưng cũng có thể là họ sẽ bị cấp trung ương kiểm soát nhiều hơn vì họ không đông. Vì vậy, tương lai của mối liên kết giữa quyền tự chủ khu vực, phi tập trung nhưng dưới sự kiểm soát là cả một câu hỏi, là cả sự đánh cược mà ông Tô Lâm đang thực hiện để hiện đại hóa đất nước, thâu tóm và tập trung quyền lực tốt hơn trong 20 năm tới, giai đoạn mang tính quyết định trong việc đạt được mục tiêu đề ra cho năm 2045. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược - IRSEM, Trường Quân sự Pháp.
Trong hàng loạt sắc lệnh hành pháp được ký ngay ngày đầu tiên nhậm chức của tân tổng thống Mỹ, ngày 20/01/2025, chỉ có một bản ghi nhớ duy nhất liên quan đến văn hóa, thẩm mỹ, kiến trúc, đó là chính sách « thúc đẩy kiến trúc công dân liên bang đẹp đẽ ». Theo bình luận của nhật báo The Wall Street Journal, kiến trúc là mục tiêu đầu tiên trong « cuộc chiến văn hóa » của chính quyền tổng thống Donald Trump. Cùng với thông tín viên Bùi Uyên, đồng thời là kiến trúc sư tại Paris, RFI tìm hiểu tại sao kiến trúc hiện đại lại trở thành cái gai trong mắt Donald Trump.RFI : Chính sách của tổng thống Mỹ Donald Trump « thúc đẩy kiến trúc công dân liên bang đẹp đẽ » cụ thể đề cập đến những chủ đề gì ? KTS. Bùi Uyên : Sắc lệnh này yêu cầu tất cả các tòa nhà chính phủ liên bang mới phải tôn trọng di sản kiến trúc địa phương truyền thống và cổ điển, các dự án mang phong cách khác sẽ không được chấp thuận. Bản ghi nhớ này bị lu mờ bởi những tuyên bố chấn động hơn. Ít người biết được rằng bản ghi nhớ này nằm trong chiến dịch lâu nay của đảng cánh hữu Mỹ, đặc biệt là cá nhân tổng thống Donald Trump, chống lại kiến trúc hiện đại và hậu hiện đại, mà họ cho là « xấu xí ».Họ cho rằng kiến trúc thoát khỏi các quy tắc của chủ nghĩa cổ điển đồng nghĩa với phản bội chủ nghĩa nhân văn và truyền thống thẩm mỹ vốn có của nền dân chủ Mỹ. Nhưng chỉ đến nhiệm kỳ của tổng thống Donald Trump, tư tưởng này mới biến thành một sắc lệnh hành pháp, được ban hành từ cuối nhiệm kỳ trước, và khôi phục lại ngay từ ngày đầu ông Trump trở lại Tòa Bạch Ốc.Trong sắc lệnh cùng tên ban hành cuối năm 2020, vẻ đẹp của kiến trúc cổ điển Hy Lạp và La Mã cổ đại được dẫn chứng như biểu tượng của vẻ đẹp không gian công cộng và niềm tự hào công dân, cho bản sắc của nước Mỹ, mang lại được sự kính trọng của đại chúng. Các công trình liên bang xây mới phải mang phong cách cổ điển, tân cổ điển, art décor. Đối với các công trình cần tu bổ, cải tạo, có thể tính đến việc phá đi xây lại theo phong cách cổ điển. Mâu thuẫn là ở chỗ, trước khi bước vào chính trường, vị tổng thống thứ 45 và 47 của nước Mỹ được biết đến là một chủ đầu tư bất động sản, với những tòa nhà kính thép mang phong cách hiện đại. Minh chứng rõ nhất là tòa cao ốc chọc trời mang tên ông giữa lòng New York.Không dừng lại ở kiến trúc, sự áp đặt trong thiết kế các công trình liên bang này là một chính sách nằm trong một đường lối theo xu hướng độc đoán về tư tưởng, hạn chế sự tự do trong biểu hiện nghệ thuật. Mới đây, việc ông Trump trở thành chủ tịch trung tâm nghệ thuật biểu diễn Kennedy Memorial Center và việc sa thải chủ tịch, cũng như nhiều nhân viên hội đồng quản trị của trung tâm, là một minh chứng tiếp theo cho chính sách thao túng và định hướng văn hóa của chính quyền Donald Trump.RFI : Như vậy có nghĩa là kiến trúc có thể trở thành một công cụ tuyên truyền tư tưởng chính trị ?KTS. Bùi Uyên : Khác với các loại hình nghệ thuật khác, trong mắt các nhà cầm quyền, công trình kiến trúc trụ sở công là một phương tiện trực quan ưu tiên để biểu trưng quyền lực và truyền tải những tư tưởng chính trị. Để so sánh, việc tuyên truyền bằng các loại hình nghệ thuật khác như âm nhạc, thi ca, hội họa, phim ảnh, cần một sự tiếp nhận chủ động của công chúng bằng cách đọc, nghe, xem ... Trong khi đó, với ưu thế tọa lạc nơi không gian công cộng, các tòa trụ sở được trưng ra trước dân chúng, buộc người dân phải tiếp nhận thông điệp của nó.Nhưng tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ không phải là người đầu tiên dùng kiến trúc như một công cụ tuyên truyền chính trị. Trong lịch sử nước Mỹ, kiến trúc của các công trình công cộng luôn phản ánh tầm nhìn và ý chí chiến lược đương thời. Chủ nghĩa cổ điển của Hy Lạp và La Mã trong thế kỷ 18 và 19 được dùng để gợi lên sự ổn định và tinh tế. Việc áp dụng phong cách « tàu biển » và Art Decor vào thế kỷ 20 gợi lên những nét thực tế tiến bộ trong Thỏa thuận mới của Roosevelt. Việc thể hiện kiến trúc chủ nghĩa hiện đại trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh là để chứng minh tính hiệu quả của nhà nước phúc lợi và ưu thế công nghệ của quốc gia.Chính phủ Mỹ luôn sử dụng kiến trúc theo cách mang tính biểu tượng và thường mang tính chiến thuật. Tuy nhiên, những hàm ý này là phản ánh gián tiếp, hoặc khuynh hướng lựa chọn ôn hòa, chứ chưa bao giờ bị bắt buộc bởi một sắc lệnh của chính tổng thống như lần này dưới thời Donald Trump. Theo sử gia người Mỹ Michel.R.Allen, « sắc lệnh này của tổng thống cấu thành một quyết định độc tài đầu tiên ».RFI : Trong lịch sử, việc áp dụng những điều luật áp đặt một cách nhìn và kiểm soát về nghệ thuật, kiến trúc tương tự chỉ được thấy rõ nhất dưới những chính quyền độc tài, toàn trị hay dân tộc chủ nghĩa như Đức quốc xã hay Stalin của Liên Xô cũ. Những chính sách này đã kiểm soát kiến trúc như thế nào ?KTS. Bùi Uyên : Dưới thời Hitler, để đại diện cho diễn ngôn về một giống nòi thượng đẳng, phong cách Hy Lạp và La Mã được lấy làm cảm hứng biểu trưng cho chủng tộc thuần khiết, tiếp nối sinh học và văn hóa mẫu mực. Cùng vị kiến trúc sư Albert Speer, cũng là cánh tay phải trên chính trường, người đứng đầu chính quyền Quốc xã đã vẽ lên quy hoạch và kiến trúc lại Berlin, với tham vọng biến thành phố này thành một đại đô thị hàng đầu thế giới.Ở đó, những công trình kiến trúc phong cách Hy Lạp và La Mã cũng sẽ trường tồn hàng ngàn năm như hai nền văn minh kia. Các thiết kế thủ đô Berlin khi đó gần như bê nguyên các hình mẫu của điện Panthéon của Hy Lạp, Khải Hoàn Môn của Pháp, sự khác biệt lớn nhất là về tỉ lệ : tất cả các công trình kiến trúc trong phác thảo của Hitler đều to lớn hơn gấp nhiều lần so với nguyên mẫu. Theo đó, khát vọng mang lại tầm vóc khổng lồ của dân tộc Đức thuần khiết được chuyển thể thành những kiến trúc tân-cổ điển với khối tích choáng ngợp. Còn tại Liên Xô cũ, chính quyền Stalin không áp đặt một phong cách kiến trúc chủ đạo duy nhất, nhưng kiểm soát và định hướng phong cách kiến trúc với những mục tiêu chính trị cụ thể cho từng công trình. Chính quyền Stalin lập ra một tổ chức mang tên « Liên hiệp các kiến trúc sư vô sản ». Tổ chức này dân dần phá hủy từ bên trong các tổ chức, hội nhóm chuyên ngành mang tính tiên phong. Tuy không thể công khai đối lập với kiến trúc hiện đại, biểu trưng của tiến bộ và cách mạng, chính quyền Stalin cản trở các kiến trúc sư trẻ, theo trường phái hiện đại, tiếp cận với các dự án lớn, vì lo ngại khó có thể kiểm soát họ.Việc quy hoạch lại Matxcơva được giao cho kiến trúc sư Lazar Kaganovic theo trường phái cổ điển. Bên cạnh phong cách cổ điển mà phe bảo thủ ưa chuộng, Stalin cho xây dựng các công trình theo phong cách kiến trúc hiện đại Mỹ để làm hài lòng công chúng ủng hộ cánh mạng tháng 10 Nga 1917 và cộng đồng quốc tế, để chứng tỏ sự vượt trội so với Hoa Kỳ.RFI : Trở lại thời đại ngày nay, chỉ trích nghệ thuật hiện đại cấp tiến và giới tinh hoa dường như đang trở thành lá bài dân túy, củng cố chủ nghĩa dân tộc bảo thủ ? KTS. Bùi Uyên : Thật vậy, tiêu biểu là sắc lệnh được tổng thống Mỹ Donald Trump ban hành cuối nhiệm kỳ trước. Không những chỉ định rõ hình mẫu kiến trúc cổ điển cho các công trình công cộng liên bang, sắc lệnh còn chỉ trích thẳng thừng kiến trúc hiện đại, kiến trúc thô mộc (brutalisme) như một phong cách « không được dân chúng ưa chuộng » « kém hấp dẫn » « gây tranh cãi ». Các kiến trúc sư danh tiếng quốc tế cũng bị đánh giá là « không coi trọng tính địa phương và thị hiếu thẩm mỹ trong vùng ». Các tác phẩm của họ chỉ nhằm « gây ấn tượng trong giới tinh hoa kiến trúc », « nghệ thuật vị nghệ thuật », được ca tụng trong giới chuyên môn nhưng lại « xấu xí » trong mắt dân chúng.Theo luận điểm này, việc phê phán kiến trúc hiện đại đồng nghĩa với việc tôn trọng khiếu thẩm mỹ của số đông dân chúng, chống lại sự độc quyền thẩm mỹ của giới tinh hoa. Tuy nhiên, chính việc áp đặt kiến trúc cổ điển như vẻ đẹp chuẩn mực lại là một sự phủ nhận tính đa dạng, cởi mở, trẻ trung của một « hợp chủng quốc » với lịch sử lập quốc khá non trẻ so với đại đa số các quốc gia có nền mỹ thuật, kiến trúc lâu đời khác.Sự trỗi dậy của những cáo buộc kiến trúc hiện đại nói riêng và nghệ thuật hiện đại nói chung, xuất phát từ những tư tưởng theo khuynh hướng bảo thủ, không chỉ là hiện tượng ở xứ cờ hoa. Tại châu Âu, đảng cực hữu AfD của Đức cũng nhiều lần chỉ trích những di sản của kiến trúc hiện đại. Sự kiện kỷ niệm 100 năm khai sinh trường thiết kế Bauhaus – cái nôi của kiến trúc hiện đại và hậu hiện đại – tạo cơ hội cho đảng này lên án ngôi trường và những đóng góp của nó cho lịch sử.Đảng AfD cho rằng phong trào Bauhaus đã truyền bá sự « xấu xí », gu thẩm mỹ sai lệch. Hay theo như phát biểu tại nghị viện của nghị sỹ của đảng này, ông Tillschneider, đây là « sự đoạn tuyệt với truyền thống xây dựng, bằng việc lắp ghép các cấu kiện tiền chế (..) trên thực tế là tầm nhìn gớm ghiếc, một cuộc sống trong những không gian chật chội, đầy cấm đoán và ngăn chặn ». Để rồi đi đến kết luận « Bauhaus không thể là nơi đưa ra những kiểu mẫu, mà chỉ là một sai lầm lịch sử ». Có thể AfD đã sớm quên, hoặc chưa bao giờ được biết đến hoàn cảnh ra đời vai trò lịch sử của hình thức kiến trúc này. Nếu không có những cải tiến vượt bậc về công nghệ sản xuất beton tiền chế và những thiết kế chức năng tối ưu tiết kiệm diện tích, thì nước Đức và nhiều quốc gia châu Âu không thể đối mặt với tình trạng thiếu nhà ở trầm trọng do chiến tranh tàn phá. Xây nhanh, công nghiệp hóa, giá rẻ, nhưng đảm bảo điều kiện vệ sinh và tiện nghi sử dụng.Thật trùng hợp, « sai lầm lịch sử » chính là từ mà chính quyền phát xít Đức gọi tên Bauhaus trước khi đóng cửa trường này dưới thời Quốc xã. Họ cáo buộc trường là trụ sở của những người « Do thái - Bolshevik » bởi tên tuổi của các giảng viên – nghệ sỹ lớn người Đức gốc Do Thái hoặc gốc Liên Xô cũ. Không dừng ở đó, chính quyền dưới thời Hitler còn gọi tên nhiều tác phẩm nghệ thuật hiện đại những năm đầu thế kỷ 20 là « nghệ thuật thoái hóa », với một cuộc triển lãm cùng tên, hội tụ những bức tranh của các danh họa lớn của các trường phái hiện đại thời bấy giờ như Picasso, Chagall, Otto Dix, Paul Klee hay Kandinsky. Nhiều bức tranh bị tịch thu, phân loại và bị tiêu hủy, nhiều họa sỹ nếu không trốn đi thì bị cấm sáng tác thể loại nghệ thuật này.RFI : Hơn một thế kỷ trôi qua, cái tên nhà độc tài và những tư tưởng dưới thời Quốc xã tưởng như là vết nhơ mà nước Đức đã cố gắng gột rửa để trở thành một quốc gia dân chủ đi đầu, dẫn dắt Liên Âu. Giờ đây không ít chính sách trong số đó lại được đưa vào chương trình tranh cử của đảng cực hữu, đang ngày càng lớn mạnh ở Đức. Bên kia bờ Đại Tây Dương, cái nôi của tự do dân chủ, chính quyền Mỹ của Donald Trump cũng lần đầu tiên ban hành những quyết sách áp đặt chống lại kiến trúc hiện đại. Vì sao kiến trúc hiện đại lại là mục tiêu bị bài trừ? KTS. Bùi Uyên : Kiến trúc hiện đại được hình thành vào những năm 20 của thế kỷ XX từ trường nghệ thuật Bauhaus ở Đức. Trên nền tảng tiến bộ Cách mạng công nghiệp, thiết kế kiến trúc được phát triển tự do hơn, giải phóng khỏi những tỉ lệ và bố cục cổ điển, lấy công năng là mục tiêu chính, thông qua đó giản lược các đường nét, chi tiết trang trí. Đây là một bước ngoặt rõ nét so với kiến trúc cổ điển thịnh hành suốt nhiều thế kỷ.Một lý do quan trọng để phong cách kiến trúc này lan rộng là đòi hỏi bức thiết xây dựng lại nhanh chóng và số lượng lớn sau Thế Chiến thứ nhất. Cùng với sự hình thành liên minh chính trị hai bờ Đại Tây Dương và sự giao thoa trao đổi văn hóa dễ dàng hơn, luồng tư tưởng kiến trúc này nhanh chóng được « quốc tế hóa », lan rộng ở châu Âu và Hoa Kỳ, đặc biệt với làn sóng di cư của các trí thức tinh hoa, các nghệ sỹ, kiến trúc sư, do ảnh hưởng của Thế Chiến thứ 2.Bên khối các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô, kiến trúc hiện đại cũng được xây dựng rộng rãi để đáp ứng nhu cầu nhà ở cho đại bộ phận dân chúng.Ở châu Âu, các tòa nhà theo phong cách hiện đại còn được tiếp tục xây dựng sau Thế Chiến thứ 2, đến tận những năm 70, dưới hình thức những đô thị vệ tinh mới. Tuy vậy, đây cũng là một nguyên nhân để phong cách kiến trúc này bị nhận biết chủ yếu trong công chúng, bởi các tòa nhà chung cư xây dựng hàng loạt bằng beton tiền chế, với hình khối đơn giản, đều đặn có phần nhàm chán. Cùng với sự xuống cấp và các vấn đề xã hội hiện nay của các khu dân cư này, hình ảnh kiến trúc hiện đại này trở nên phản cảm.Với những bối cảnh lịch sử và xã hội nói trên, các đảng bảo thủ và dân tộc chủ nghĩa nhìn thấy ở di sản kiến trúc hiện đại mọi hiện thân và thông điệp đối lập hoàn toàn với đường lối chính trị mà họ theo đuổi : tính quốc tế, toàn cầu hóa, tính cách mạng, ly khai khỏi các khuôn mẫu cổ điển truyền thống, gắn với đề cao phúc lợi xã hội.Ngày nay, triết lý và ngôn ngữ kiến trúc đã tiến những bước dài, mang trong nó những tư duy mới về môi trường, chuyển đổi năng lượng, đề cao tính địa phương. Việc bài xích kiến trúc hiện đại, để áp đặt thay vào đó hình thức và phong cách cổ điển, dưới vỏ bọc cải thiện thẩm mỹ đô thị, ẩn thực sự sau đó là sự định hướng sáng tạo và cản trở tự do biểu đạt. Không chỉ dừng lại ở kiến trúc, những chính sách độc đoán thao túng các hoạt động nghệ thuật vẫn còn nối tiếp, vô hình chung đẩy lùi những bước tiến tất yếu của văn hóa và vận động xã hội.
Nhìn lại 5 năm sau khi thỏa thuận Brexit có hiệu lực (từ 31/01/2020), vấn đề di dân vào Anh, cả hợp pháp và trái phép, vẫn là vấn đề nổi cộm lớn ở quốc gia nay đã nằm ngoài Liên Hiệp Châu Âu, dẫu rằng cắt giảm di dân là một tiêu chí của Brexit. Thông tín viên Nguyễn Giang từ Anh quốc tìm hiểu chủ đề này. RFI : 5 năm sau khi Thỏa thuận Brexit đưa Anh ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu có hiệu lực, vấn đề di dân vào Vương quốc Anh nay ra sao? Dư luận Anh nghĩ gì về chuyện này ?TTV NGUYỄN GIANG: Có thể nói là sau 5 năm Brexit, dòng người vào Anh vẫn đông hơn dòng người ra đi, khiến con số ròng nhập cư vào Anh tăng lên. Tuy thế, thành phần của các nhóm người tới Anh có sự thay đổi. Chúng ta nhớ rằng Brexit năm 2016 chính là hệ quả của việc quá 50% (dù không lớn) cử tri Anh muốn ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu (EU) để dân các nước khác trong EU không thể tới Anh sinh sống tự do.Nước Anh đã đạt được điều này vì lý do chủ quan (Brexit referendum) và khách quan là sau đại dịch Covid, số người từ châu Âu thuộc EU tới Anh giảm, và kinh tế Anh kém đi, người EU quay về đất nước họ, như trường hợp của Ba Lan, nơi có tăng trưởng kinh tế tốt hơn Anh.Bù vào đó thì di dân từ các nước khác trên thế giới, tạm gọi là nhóm nhập cư ngoài EU, lại tăng lên từ năm 2020. Người từ các nước Commonwealth (ví dụ Nigeria) hay đặc khu như Hồng Kông (nơi có nhóm mang hộ chiếu hải ngoại của Anh), và cả Trung Đông, Đông Nam Á (chủ yếu từ Việt Nam), vẫn vào Anh đều đều. Đặc biệt, trong giai đoạn 2021-2024, con số nhập cư ròng tăng mạnh, đạt trên 900 nghìn/năm tính vào thời điểm đầu năm 2024. Số dân EU thì sang Anh giảm dần đều từ đầu năm 2024.Dư luận Anh tiếp tục phản đối nhập cư mà họ cho là đang quá mức vì chi phí của chính quyền cho người xin tỵ nạn ngốn vào ngân sách nhà nước. Còn với cả di dân kinh tế, sinh viên du học, thì dù họ vào hợp pháp nhưng con số đông đảo lại đẩy giá thuê nhà ở các đô thị lên cao ngất, khiến người bản địa cũng không hài lòng.Giới trẻ Anh sau khi học xong gần như không thể nào mua được căn hộ đầu tiên, kể cả khi đi làm có lương khá. Tân chính phủ Lao Động tung ra kế hoạch xây thêm 1,5 triệu căn nhà từ nay đến năm 2029 để điều chỉnh sự mất cân bằng cung-cầu, nhưng lạm phát và lạm chi ngân sách, nhu cầu cắt chi tiêu công khiến mục tiêu này ngày càng khó đạt, theo các bình luận trên báo Anh.RFI : Chính phủ của đảng Lao động bỏ chương trình Rwanda nhiều tai tiếng của chính phủ Bảo thủ tiền nhiệm, vậy họ có giải pháp nào thay thế ?TTV NGUYỄN GIANG: Sau khi đảng Lao động lên cầm quyền tháng 7/2024, Anh quốc đã đẩy mạnh việc truy bắt các băng đảng buôn người và đẩy mạnh việc trục xuất và cho hồi hương người không được tỵ nạn.Trong nước, Anh thay đổi luật để phạt rất nặng những chủ lao động thuê nhân công thiếu giấy tờ cư trú. Mức phạt nay lên tới 60 nghìn bảng Anh cho một lao động lậu. Đây là khoản tiền rất lớn, tương đương 71,5 nghìn euro, hay 77,4 nghìn đô la Mỹ. Chủ lao động có thể bị tước giấy phép hành nghề, hoặc bị phạt tù nếu đã tham gia buôn người vào Anh để làm việc.Cụ thể là cảnh sát, cục di trú và biên phòng tăng cường truy bắt và kiểm tra các tiệm ăn, nhà hàng, cơ sở sản xuất, và cả tiệm làm móng của chủ là người châu Á, gồm Việt Nam.Chính quyền còn công khai tin tức và số liệu về các vụ truy quét này để răn đe. Ví dụ, trang của chính phủ Anh hôm 28/02/2025 viết: “Từ ngày 05/07/2024 đến 31/01/2025, số vụ kiểm tra giấy tờ lao động và số vụ bắt giữ đã tăng khoảng 38% so với cùng kỳ 12 tháng trước. Trong thời gian đó, Bộ Nội Vụ đã công bố 1.090 giấy phạt dân sự đối với những người sử dụng lao động trái phép. Chủ thuê lao động phi pháp có thể đối mặt với khoản tiền phạt lên tới 60.000 bảng Anh cho mỗi người tuyển dụng sai trái ».Về đối ngoại, Anh đã thành lập Lực lượng An ninh Biên giới mới do cựu cảnh sát trưởng Martin Hewitt lãnh đạo. Bên đối tác là Pháp đã bổ nhiệm một Đại diện cao cấp về di cư, Patrick Stefanini. Hai bên hợp tác chặt để hạn chế dòng thuyền nhỏ vào Anh.RFI: Những năm qua, quan hệ Anh-Pháp đã qua các bước thăng trầm vì dòng « thuyền nhỏ » (small boats) qua eo biển Manche vào Anh, vậy tình hình nay ra sao?TTV NGUYỄN GIANG: Kể từ sau khi đảng Lao động bỏ kế hoạch Rwanda của đảng Bảo thủ cầm quyền nhiệm kỳ trước, chính sách của chính phủ Anh hiện thời là tập trung “phá án” buôn người, tăng quyển cho Biên phòng Anh và hợp tác chặt với Pháp và các nước châu Âu nhằm “chặn nguồn người nhập cư từ gốc” trước khi họ vào Anh.Nhờ không khí chính trị Anh-Pháp cải thiện và chiến lược “tái sắp đặt” (reset) quan hệ với EU, nhất là với Pháp, tháng 2 vừa qua, hai nước đã tung ra sáng kiến mới nhất chống di dân bằng thuyền nhỏ từ Pháp vào Anh. Cụ thể thì bộ trưởng Nội Vụ Anh, bà Yvette Cooper, và người đồng cấp Pháp, Bruno Retailleau, đã gặp nhau ở Calais vào ngày 27/02 để thống nhất các hành động thực thi pháp luật mới, như một phần của quan hệ đối tác đã được làm mới, nhằm đối phó với nạn vượt biên bằng thuyền nhỏ qua eo biển Manche (English Channel). Hai bên đã lập đơn vị Cảnh Sát Đặc Nhiệm mới, kèm bộ phận khởi tố, tương tự như những các đại đội cảnh sát « compagnie de marche » được triển khai trong Thế Vận Hội Paris 2024, để bắt và nhanh chóng đưa ra tòa các chủ băng buôn người. Đơn vị hỗn hợp có tên tiếng Pháp là Groupe d'Appui Operationnel, đóng trụ sở tại Dunkerque, cảng biển vùng Pas de Calais, ở tây bắc nước Pháp, giáp Bỉ, và có 2 nhiệm vụ : Thứ nhất là tăng cường tuần tra vùng bờ biển của Pháp bằng hoạt động trinh sát điện tử và thực địa ; thứ hai là tăng số chuyên viên điều khiển từ xa cho đội drone để rà soát từ trên không các hoạt động buôn người sâu trong nội địa và chặn thuyền trước khi ra biển.Dù còn quá sớm để đánh giá tính hiệu quả của đơn vị hỗn hợp Anh-Pháp này, chúng ta có thể nói là sau các bước trầm trong quan hệ với Pháp, thì nay mối giao hảo đã tốt hơn. Điều đáng nói là đảng Lao động được phe đối lập, như đảng Bảo thủ, thúc vào lưng trong chính sách ngăn di dân “trái thông lệ” (irregular) vào Anh. Lãnh đạo đảng Bảo thủ còn vừa gợi ý hôm 09/03 rằng Luật Nhân quyền mà Anh ký với châu Âu “không nên áp dụng vào các vụ trục xuất di dân trái phép”. Các nhóm nhân quyền đã phê phán rằng đảng cầm quyền hay đối lập ở Anh đều đua nhau dùng lá bài chặn di dân trái phép để thỏa mãn tâm lý cử tri.Riêng với người Việt Nam vào Anh bằng thuyền nhỏ, thì thời gian qua tình hình khó khăn do việc kiểm tra các hàng quán, nên nhiều trang Facebook của người Việt Nam thông báo với nhau về chuyện xin hồi hương. Vấn đề cũng được chính phủ Anh đẩy mạnh gần đây. Có các kênh nhận xác minh nhân thân rồi đưa họ hồi hương với chi phí do phía Anh trả.Xin nhắc rằng, trên đài báo Anh, kể cả đài BBC, thì chủ đề di dân bằng thuyền nhỏ từ Pháp sang Anh những năm qua được đề cập liên tục. Đã có kênh truyền hình Anh quay cảnh ở bờ biển Calais với hàng trăm người trèo lên thuyền đi sang Anh mà “cảnh sát Pháp đứng lắc đầu nhìn, không chặn lại”. Anh và Pháp đổ lỗi cho nhau về vấn đề này. Nhưng đó là mấy năm trước, nay thì có vẻ như hai chính phủ đã hợp tác “chặn di dân bằng thuyền nhỏ” từ điểm xuất phát. Chúng ta cần chờ xem việc này có hiệu quả tới đâu trong năm nay là năm đầu tiên Anh và Pháp cùng triển khai phối hợp xử lý vấn đề này.
« Dans la cuisine des Nguyễn » (Trong căn bếp gia đình họ Nguyễn) là tựa đề bộ phim của đạo diễn Stéphane Lý Cường. Năm nay 52 tuổi, anh từng tốt nghiệp khoa điện ảnh tại đại học Brooklyn (Mỹ) và trường cao đẳng Fémis (Pháp) chuyên về hình ảnh và âm thanh. Sau nhiều năm làm đạo diễn và sáng tác cho sân khấu kịch nghệ, lần đầu tiên anh Stéphane Lý Cường dấn thân sang ngành quay phim truyện. Dưới dạng nhạc kịch, đan xen tài tình những cảnh quay có đối thoại với các màn ca múa, bộ phim « Dans la cuisine des Nguyễn » kể lại câu chuyện của Yvonne Nguyễn (Clotilde Chevalier thủ vai), một phụ nữ trẻ người Pháp gốc Việt, nuôi mộng trở thành diễn viên chuyên nghiệp. Ước mơ của Yvonne làm cho mẹ cô (diễn viên Trần Nghĩa Ánh) thất vọng. Bà hy vọng Yvonne sớm lấy được một ông chồng có địa vị cao trong xã hội, nhưng trước mắt bà muốn con gái mình về làm chủ quán ăn gia đình.Đằng sau căn bếp của nhà họ Nguyễn, thực ra là câu chuyện phổ quát của nhiều cộng đồng người nhập cư. Những điểm bất đồng trong lối suy nghĩ thường làm nảy sinh mâu thuẫn gia đình. Chênh lệch tuổi tác cùng với khác biệt văn hóa Âu-Á khiến quan hệ thêm xung khắc giữa các thành viên sống chung một nhà.Bằng lối kể chuyện ít khi nào trực diện nhưng không kém phần tinh tế, đạo diễn Stéphane Lý Cường phác họa được câu chuyện của những đôi « đũa lệch » : mẹ « hiền » càng khuyên bảo, con gái càng cứng đầu, không phải mẹ đặt đâu, Yvonne cũng ngồi đó. Xen kẽ lời thoại khôi hài với những khoảnh khắc cảm động, hai mẹ con cũng phải tìm cách bù đắp khoảng cách chênh lệch, chấp nhận sự khác biệt để có thể hòa thuận gần gũi bên nhau.RFI : Nhân dịp ra mắt bộ phim « Dans la cuisine des Nguyễn » (Trong căn bếp gia đình họ Nguyễn), anh Stéphane Lý Cường đã có nhã ý ghé thăm ban Việt ngữ RFI. Thưa anh, được biết là sau nhiều năm hoạt động nhiều năm trong lãnh vực kịch nghệ, anh vừa chuyển sang thực hiện bộ phim đầu tay. Bước đầu này có ý nghĩa gì đối với anh ?Stéphane Lý Cường : Điều quan trọng nhất ở đây là tôi muốn kể lại một câu chuyện gia đình gốc Việt trên màn ảnh rộng : tôi sinh ra và lớn lên tại Pháp, bố mẹ tôi đều là người Việt. Nhưng qua phim ảnh, nhất là tại các rạp chiếu phim, những câu chuyện gia đình người Việt ở Pháp hiếm khi nào được nhắc tới, nếu không nói là chưa bao giờ, cho dù cộng đồng Việt Nam là một phần quan trọng trong xã hội Pháp. Tôi nghĩ đã đến lúc nên chia sẻ những câu chuyện như vậy. Cho dù cộng đồng châu Á có nhiều hình ảnh tích cực, thường được xem là hội nhập tốt, nhưng trong xã hội vẫn còn một số hành động phân biệt đối xử cũng như những định kiến về cộng đồng người châu Á.Về mặt nghề nghiệp, quả thực là tôi đã làm việc nhiều năm trong làng kịch nghệ, nhưng niềm đam mê lớn nhất của tôi vẫn là nghệ thuật thứ 7. Sau khi tốt nghiệp trường điện ảnh, cuộc sống lại đẩy đưa tôi đến với sân khấu kịch, nay tôi muốn tìm lại niềm đam mê điện ảnh đầu đời.RFI: Từ ý tưởng nhen nhúm ban đầu cho đến khi được viết thành kịch bản rồi quay phim cho màn ảnh lớn, một dự án có thể đòi hỏi rất nhiều thời gian. Anh còn nhớ ngẫu hứng làm phim đã nảy sinh từ lúc nào ?Stéphane Lý Cường : Cách đây hơn 10 năm, tôi đã sáng tác và dàn dựng một vở kịch mang tựa đề « Cabaret jaune citron », kể lại câu chuyện của Yvonne Nguyễn, một phụ nữ khoảng 30 tuổi nuôi mộng thành danh trong làngsân khấu nhạc kịch, nhưng gia đình lại đặt vào cô nhiều niềm hy vọng khác, từ đó mới nảy sinh những xung đột trong quan hệ gia đình. Vào thời bấy giờ, tôi đã muốn nói về thế hệ được nuôi dưỡng trong hai nền văn hóa khác nhau. Khi ta còn nhỏ, điều này được xem là một thách thức. Nhiều đứa bé do muốn lớn lên như bao trẻ em Pháp khác,nên ban đầu có thể không chấp nhận hay chối bỏ nét khác biệt văn hóa từ gia đình mình.Thế nhưng khi lớn lên, nền văn hóa kép ấy lại là một dịp may. Làm thế nào để tìm ra bản sắc của mình, mà vẫn dung hoà được cả hai nền văn hóa Pháp-Việt, giữa nơi sinh và nguồn gốc gia đình. Bộ phim « Dans la cuisine des Nguyễn » (Trong căn bếp gia đình họ Nguyễn) là dịp để cho tôi đi xa hơn nữa, khai thác đề tài này một cách thấu đáo, sâu sắc hơn. Do vậy, có thể nói là ý tưởng làm phim đã nhen nhúm cách đây 12 năm.RFI : Trong phim, nhân vật Yvonne Nguyễn đã nghe mẹ cô nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần : con nên chọn công việc này, con nên lấy anh kia làm chồng. Vấn đề là cô Yvonne Nguyễn không phải là dạng người ngoan hiền, dễ bảo. Vậy thì câu chuyện của Yvonne có phần nào giống như trường hợp của anh ?Stéphane Lý Cường : Trong phim này, có vài nét giống như câu chuyện đời tôi. Tôi sinh ra trong một gia đình có 8 người con, được dạy dỗ theo nề nếp truyền thống. Bố tôi tương đối cởi mở và để cho tôi theo đuổi các ngành nghệ thuật. Mẹ tôi thì khắt khe hơn, nhưng có lẽ cũng vì tôi là con trai út, cho nên tôi không chịu quá nhiều áp lực như các anh chị cả. Cho dù mẹ tôi hằng mơ ước sẽ có một bác sĩ trong gia đình, nhưng rốt cuộc trong 8 người con, không có đứa nào học đỗ ngành y.Khi biên soạn kịch bản phim, do cốt truyện có nhiều nét hư cấu, cho nên tôi đã nhấn mạnh đến sự chênh lệch giữa hai mẹ con Yvonne. Nhưng đó là mẫu số chung của nhiều gia đình nhập cư và điều này càng rõ nét hơn trong các gia đình gốc Việt. Mâu thuẫn gia đình thường nảy sinh từ sự khác biệt trong quan điểm của hai thế hệ, cha mẹ muốn con đỗ đạt thành tài, trở thành bác sĩ, kỹ sư. Trong khi con cái lại thường có những khát vọng, hoài bão khác hẳn. Khi còn nhỏ, tôi đã từng nghe cha mẹ tôi nhắc đến điều này rất nhiều lần.RFI : Trong bộ phim do anh thực hiện, ngoài nữ diễn viên Phạm Linh Đan trong vai nữ ca sĩ Trúc Đào, còn có sự tham gia khá bất ngờ của đạo diễn Thomas Joly. Anh đã gặp anh Thomas Joly trong hoàn cảnh nào ? Stéphane Lý Cường : Hầu như mọi người giờ đây đều biết đến đạo diễn Thomas Joly, vì anh Thomas đã dàn dựng toàn bộ những buổi lễ khai mạc cũng như bế mạc Thế vận hội Olympic và Paralympic. Tôi đã quan tâm theo dõi sự nghiệp của Thomas cách đây 10 năm, thời anh làm đạo diễn đồng thời diễn vai trong vở kịch Vua Richard đệ tam (Richard III). Cũng may là tôi có một người bạn nghệ sĩ quen biết Thomas, và gợi ý tôi nên gửi kịch bản phim cho anh ấy.Trong phim, anh Thomas Joly vào vai một đạo diễn Pháp thực hiện các đợt casting để tuyển lựa thành phần diễn viên cho một dự án nhạc kịch. Tại Pháp, Thomas Joly nổi tiếng như một đạo diễn, nhưng ít ai biết rằng anh ấy cũng thích làm diễn viên. Có lẽ cũng vì vậy mà sau khi đọc kịch bản xong, Thomas Joly đã nhận lời đóng phim, xuất hiện trong chuyến phiêu lưu điện ảnh đầu tiên của tôi trong vai tròđạo diễn.RFI: Sau khi được công chiếu tại nhiều liên hoan phim như Vevey (Thụy Sĩ), Saint Jean de Luz hay Compiègne (Pháp), bộ phim của anh đã đoạt được khá nhiều giải thưởng tại các liên hoan. Anh có thể kể lại cho thính giả đài RFI vài kỷ niệm đẹp với công chúng, khán giả đã đón nhận bộ phim của anh như thế nào ?Stéphane Lý Cường : Quả thực là mỗi lần đi dự các liên hoan, bộ phim đều được công chúng hưởng ứng nhiệt tình, làm tôi vui mừng xúc động. Nếu phải chọn một khoảnh khắc duy nhất để lại nhiều kỷ niệm đẹp thì đó sẽ là liên hoan « Paris Courts Devant » hồi trung tuần tháng Giêng năm 2025.Cả hai suất phim đều chật kín chỗ ngồi, đa số khán giả đã có những phản ứng một cách tích cực và tự nhiên trong những cảnh phim hài hước hay trong những đoạn cảm động. Sự hiện diện sau suất chiếu phim của hầu hết các diễn viên cùng với tôi, để trao đổi với công chúng tham dự liên hoan đã tạo ra nhiều giây phút cảm thông khó tả giữa đoàn phim với khán giả. Các suất chiếu phim này đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng khó phai.RFI: Vào ngày 5 tháng 3, phim ra mắt khán giả tại các rạp chiếu phim ở Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ. Trong thời gian tới, anh và nhóm sản xuất có dự định đưa bộ phim này về trình chiếu tại Việt Nam ?Stéphane Lý Cường : Dĩ nhiên là tôi hy vọng bộ phim này sẽ có cơ hội ra mắt khán giả ở Việt Nam. Chúng tôi đã gửi tác phẩm đến một liên hoan phim ở Việt Nam với hy vọng ban tổ chức sẽ tuyển lựa phim để đưa vào chương trình chính thức. Nếu điều đó không xẩy ra thì đoàn làm phim vẫn hy vọng trong tương lai tổ chức các suất chiếu phim trong khuôn khổ hợp tác với các cơ quan văn hóa như Viện Pháp tại Việt Nam.Bản thân tôi hy vọng bộ phim sẽ được cho ra mắt tại Việt Nam bất kể khán giả là người Việt hay kiều dân Pháp sinh sống và làm việc ở ViệtNam, vì bộ phim này trước hết là một tác phẩm dành cho mọi thành phần khán giả.Xin thành thật cảm ơn anh Stéphane Lý Cường đã nhận trả lời phỏng vấn ban Việt ngữ RFI.
« Dans la cuisine des Nguyễn » (Trong căn bếp gia đình họ Nguyễn) là tựa đề bộ phim của đạo diễn Stéphane Lý Cường. Năm nay 52 tuổi, anh từng tốt nghiệp khoa điện ảnh tại đại học Brooklyn (Mỹ) và trường cao đẳng Fémis (Pháp) chuyên về hình ảnh và âm thanh. Sau nhiều năm làm đạo diễn và sáng tác cho sân khấu kịch nghệ, lần đầu tiên anh Stéphane Lý Cường dấn thân sang ngành quay phim truyện. Dưới dạng nhạc kịch, đan xen tài tình những cảnh quay có đối thoại với các màn ca múa, bộ phim « Dans la cuisine des Nguyễn » kể lại câu chuyện của Yvonne Nguyễn (Clotilde Chevalier thủ vai), một phụ nữ trẻ người Pháp gốc Việt, nuôi mộng trở thành diễn viên chuyên nghiệp. Ước mơ của Yvonne làm cho mẹ cô (diễn viên Trần Nghĩa Ánh) thất vọng. Bà hy vọng Yvonne sớm lấy được một ông chồng có địa vị cao trong xã hội, nhưng trước mắt bà muốn con gái mình về làm chủ quán ăn gia đình.Đằng sau căn bếp của nhà họ Nguyễn, thực ra là câu chuyện phổ quát của nhiều cộng đồng người nhập cư. Những điểm bất đồng trong lối suy nghĩ thường làm nảy sinh mâu thuẫn gia đình. Chênh lệch tuổi tác cùng với khác biệt văn hóa Âu-Á khiến quan hệ thêm xung khắc giữa các thành viên sống chung một nhà.Bằng lối kể chuyện ít khi nào trực diện nhưng không kém phần tinh tế, đạo diễn Stéphane Lý Cường phác họa được câu chuyện của những đôi « đũa lệch » : mẹ « hiền » càng khuyên bảo, con gái càng cứng đầu, không phải mẹ đặt đâu, Yvonne cũng ngồi đó. Xen kẽ lời thoại khôi hài với những khoảnh khắc cảm động, hai mẹ con cũng phải tìm cách bù đắp khoảng cách chênh lệch, chấp nhận sự khác biệt để có thể hòa thuận gần gũi bên nhau.RFI : Nhân dịp ra mắt bộ phim « Dans la cuisine des Nguyễn » (Trong căn bếp gia đình họ Nguyễn), anh Stéphane Lý Cường đã có nhã ý ghé thăm ban Việt ngữ RFI. Thưa anh, được biết là sau nhiều năm hoạt động nhiều năm trong lãnh vực kịch nghệ, anh vừa chuyển sang thực hiện bộ phim đầu tay. Bước đầu này có ý nghĩa gì đối với anh ?Stéphane Lý Cường : Điều quan trọng nhất ở đây là tôi muốn kể lại một câu chuyện gia đình gốc Việt trên màn ảnh rộng : tôi sinh ra và lớn lên tại Pháp, bố mẹ tôi đều là người Việt. Nhưng qua phim ảnh, nhất là tại các rạp chiếu phim, những câu chuyện gia đình người Việt ở Pháp hiếm khi nào được nhắc tới, nếu không nói là chưa bao giờ, cho dù cộng đồng Việt Nam là một phần quan trọng trong xã hội Pháp. Tôi nghĩ đã đến lúc nên chia sẻ những câu chuyện như vậy. Cho dù cộng đồng châu Á có nhiều hình ảnh tích cực, thường được xem là hội nhập tốt, nhưng trong xã hội vẫn còn một số hành động phân biệt đối xử cũng như những định kiến về cộng đồng người châu Á.Về mặt nghề nghiệp, quả thực là tôi đã làm việc nhiều năm trong làng kịch nghệ, nhưng niềm đam mê lớn nhất của tôi vẫn là nghệ thuật thứ 7. Sau khi tốt nghiệp trường điện ảnh, cuộc sống lại đẩy đưa tôi đến với sân khấu kịch, nay tôi muốn tìm lại niềm đam mê điện ảnh đầu đời.RFI: Từ ý tưởng nhen nhúm ban đầu cho đến khi được viết thành kịch bản rồi quay phim cho màn ảnh lớn, một dự án có thể đòi hỏi rất nhiều thời gian. Anh còn nhớ ngẫu hứng làm phim đã nảy sinh từ lúc nào ?Stéphane Lý Cường : Cách đây hơn 10 năm, tôi đã sáng tác và dàn dựng một vở kịch mang tựa đề « Cabaret jaune citron », kể lại câu chuyện của Yvonne Nguyễn, một phụ nữ khoảng 30 tuổi nuôi mộng thành danh trong làngsân khấu nhạc kịch, nhưng gia đình lại đặt vào cô nhiều niềm hy vọng khác, từ đó mới nảy sinh những xung đột trong quan hệ gia đình. Vào thời bấy giờ, tôi đã muốn nói về thế hệ được nuôi dưỡng trong hai nền văn hóa khác nhau. Khi ta còn nhỏ, điều này được xem là một thách thức. Nhiều đứa bé do muốn lớn lên như bao trẻ em Pháp khác,nên ban đầu có thể không chấp nhận hay chối bỏ nét khác biệt văn hóa từ gia đình mình.Thế nhưng khi lớn lên, nền văn hóa kép ấy lại là một dịp may. Làm thế nào để tìm ra bản sắc của mình, mà vẫn dung hoà được cả hai nền văn hóa Pháp-Việt, giữa nơi sinh và nguồn gốc gia đình. Bộ phim « Dans la cuisine des Nguyễn » (Trong căn bếp gia đình họ Nguyễn) là dịp để cho tôi đi xa hơn nữa, khai thác đề tài này một cách thấu đáo, sâu sắc hơn. Do vậy, có thể nói là ý tưởng làm phim đã nhen nhúm cách đây 12 năm.RFI : Trong phim, nhân vật Yvonne Nguyễn đã nghe mẹ cô nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần : con nên chọn công việc này, con nên lấy anh kia làm chồng. Vấn đề là cô Yvonne Nguyễn không phải là dạng người ngoan hiền, dễ bảo. Vậy thì câu chuyện của Yvonne có phần nào giống như trường hợp của anh ?Stéphane Lý Cường : Trong phim này, có vài nét giống như câu chuyện đời tôi. Tôi sinh ra trong một gia đình có 8 người con, được dạy dỗ theo nề nếp truyền thống. Bố tôi tương đối cởi mở và để cho tôi theo đuổi các ngành nghệ thuật. Mẹ tôi thì khắt khe hơn, nhưng có lẽ cũng vì tôi là con trai út, cho nên tôi không chịu quá nhiều áp lực như các anh chị cả. Cho dù mẹ tôi hằng mơ ước sẽ có một bác sĩ trong gia đình, nhưng rốt cuộc trong 8 người con, không có đứa nào học đỗ ngành y.Khi biên soạn kịch bản phim, do cốt truyện có nhiều nét hư cấu, cho nên tôi đã nhấn mạnh đến sự chênh lệch giữa hai mẹ con Yvonne. Nhưng đó là mẫu số chung của nhiều gia đình nhập cư và điều này càng rõ nét hơn trong các gia đình gốc Việt. Mâu thuẫn gia đình thường nảy sinh từ sự khác biệt trong quan điểm của hai thế hệ, cha mẹ muốn con đỗ đạt thành tài, trở thành bác sĩ, kỹ sư. Trong khi con cái lại thường có những khát vọng, hoài bão khác hẳn. Khi còn nhỏ, tôi đã từng nghe cha mẹ tôi nhắc đến điều này rất nhiều lần.RFI : Trong bộ phim do anh thực hiện, ngoài nữ diễn viên Phạm Linh Đan trong vai nữ ca sĩ Trúc Đào, còn có sự tham gia khá bất ngờ của đạo diễn Thomas Joly. Anh đã gặp anh Thomas Joly trong hoàn cảnh nào ? Stéphane Lý Cường : Hầu như mọi người giờ đây đều biết đến đạo diễn Thomas Joly, vì anh Thomas đã dàn dựng toàn bộ những buổi lễ khai mạc cũng như bế mạc Thế vận hội Olympic và Paralympic. Tôi đã quan tâm theo dõi sự nghiệp của Thomas cách đây 10 năm, thời anh làm đạo diễn đồng thời diễn vai trong vở kịch Vua Richard đệ tam (Richard III). Cũng may là tôi có một người bạn nghệ sĩ quen biết Thomas, và gợi ý tôi nên gửi kịch bản phim cho anh ấy.Trong phim, anh Thomas Joly vào vai một đạo diễn Pháp thực hiện các đợt casting để tuyển lựa thành phần diễn viên cho một dự án nhạc kịch. Tại Pháp, Thomas Joly nổi tiếng như một đạo diễn, nhưng ít ai biết rằng anh ấy cũng thích làm diễn viên. Có lẽ cũng vì vậy mà sau khi đọc kịch bản xong, Thomas Joly đã nhận lời đóng phim, xuất hiện trong chuyến phiêu lưu điện ảnh đầu tiên của tôi trong vai tròđạo diễn.RFI: Sau khi được công chiếu tại nhiều liên hoan phim như Vevey (Thụy Sĩ), Saint Jean de Luz hay Compiègne (Pháp), bộ phim của anh đã đoạt được khá nhiều giải thưởng tại các liên hoan. Anh có thể kể lại cho thính giả đài RFI vài kỷ niệm đẹp với công chúng, khán giả đã đón nhận bộ phim của anh như thế nào ?Stéphane Lý Cường : Quả thực là mỗi lần đi dự các liên hoan, bộ phim đều được công chúng hưởng ứng nhiệt tình, làm tôi vui mừng xúc động. Nếu phải chọn một khoảnh khắc duy nhất để lại nhiều kỷ niệm đẹp thì đó sẽ là liên hoan « Paris Courts Devant » hồi trung tuần tháng Giêng năm 2025.Cả hai suất phim đều chật kín chỗ ngồi, đa số khán giả đã có những phản ứng một cách tích cực và tự nhiên trong những cảnh phim hài hước hay trong những đoạn cảm động. Sự hiện diện sau suất chiếu phim của hầu hết các diễn viên cùng với tôi, để trao đổi với công chúng tham dự liên hoan đã tạo ra nhiều giây phút cảm thông khó tả giữa đoàn phim với khán giả. Các suất chiếu phim này đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng khó phai.RFI: Vào ngày 5 tháng 3, phim ra mắt khán giả tại các rạp chiếu phim ở Pháp, Bỉ và Thụy Sĩ. Trong thời gian tới, anh và nhóm sản xuất có dự định đưa bộ phim này về trình chiếu tại Việt Nam ?Stéphane Lý Cường : Dĩ nhiên là tôi hy vọng bộ phim này sẽ có cơ hội ra mắt khán giả ở Việt Nam. Chúng tôi đã gửi tác phẩm đến một liên hoan phim ở Việt Nam với hy vọng ban tổ chức sẽ tuyển lựa phim để đưa vào chương trình chính thức. Nếu điều đó không xẩy ra thì đoàn làm phim vẫn hy vọng trong tương lai tổ chức các suất chiếu phim trong khuôn khổ hợp tác với các cơ quan văn hóa như Viện Pháp tại Việt Nam.Bản thân tôi hy vọng bộ phim sẽ được cho ra mắt tại Việt Nam bất kể khán giả là người Việt hay kiều dân Pháp sinh sống và làm việc ở ViệtNam, vì bộ phim này trước hết là một tác phẩm dành cho mọi thành phần khán giả.Xin thành thật cảm ơn anh Stéphane Lý Cường đã nhận trả lời phỏng vấn ban Việt ngữ RFI.
Ông Tô Lâm, tổng bí thư, chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, là người triển khai chiến dịch "đốt lò" của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch dữ dội dường như khiến nước láng giềng Trung Quốc lo ngại về những "biến động chính trị chưa từng có ở Việt Nam". Việc một quan chức thuộc bộ Công An, không giàu kinh nghiệm đối ngoại, nắm giữ hai chức vụ cao nhất trên thượng tầng lãnh đạo cũng khiến Bắc Kinh không khỏi bồn chồn về đường lối "ngoại giao cây tre". Tuy nhiên, khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc, trấn an rằng Hà Nội "luôn coi trọng và ưu tiên" quan hệ với Bắc Kinh.Chuyến công du cấp nhà nước của ông Tô Lâm còn có ý nghĩa như nào trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước ? Trung Quốc trông đợi gì vào các nhà lãnh đạo Việt Nam ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.RFI : Khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thứ đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Liệu đây có phải là tín hiệu trấn an đến Bắc Kinh dù Hà Nội tăng cường mối liên hệ với Washington và nhiều nước đồng minh khác của Mỹ ?Laurent Gédéon : Tôi nghĩ đây quả thực là một tín hiệu tích cực gửi đến Bắc Kinh. Theo tôi, có 5 yếu tố cho thấy điều này. Thứ nhất, chuyến thăm cấp Nhà nước của ông Tô Lâm tại Trung Quốc từ ngày 18 đến 20/08/2024 nằm trong khuôn khổ tiếp nối chính sách về Trung Quốc được người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng gây dựng. Ông Trọng đã công du Trung Quốc tháng 10/2022.Thứ hai, chuyến thăm này còn có ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ. Trước tiên, ông Tô Lâm là nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam, từ thời Hồ Chí Minh, đến Trung Quốc với tư cách vừa là chủ tịch nước vừa là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Tiếp theo, lễ đón tiếp long trọng ông Tô Lâm đã cho thấy chính quyền Trung Quốc coi trọng sự kiện này như thế nào (21 phát đại bác được bắn để chào mừng ông Lâm, đích thân ngoại trưởng Vương Nghị đón ông ở sân bay). Cuối cùng, năm 2024-2025 mang đầy ý nghĩa biểu tượng mạnh vì năm 2024 kỷ niệm tròn 100 năm chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Quảng Đông và năm 2025 sẽ đánh dấu 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như kỷ niệm 95 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam.Thứ ba, phải nhắc đến những phát biểu mạnh mẽ từ cả hai phía nhấn mạnh đến quan hệ mật thiết Việt-Trung. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc đến sự hình thành một “cộng đồng chung vận mệnh có tầm quan trọng chiến lược giữa Trung Quốc và việt Nam” và nói thêm rằng Bắc Kinh “luôn coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng”. Còn ông Tô Lâm trấn an người đồng cấp Trung Quốc rằng đảng và đất nước Việt Nam “luôn coi sự phát triển mối quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên tuyệt đối trong chính sách đối ngoại”. Đọc thêm : Tổng bí thư Việt Nam Tô Lâm đi Trung Quốc, chuyến công du nước ngoài đầu tiên từ khi nhậm chứcThứ tư là có mối quan hệ chặt chẽ về ý thức hệ giữa hai chế độ. Điểm này được xác nhận trong tuyên bố chung ngày 20/08 nhấn mạnh rằng “hai nước cam kết tăng cường trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm về mặt chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống “cách mạng màu”, cùng bảo vệ an ninh chính trị và an toàn cho chế độ (…)”. Cũng như “hai bên đề cao trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền dựa trên công bằng và tôn trọng lẫn nhau, phản đối mạnh mẽ “chính trị hóa”, “công cụ hóa” và tiêu chuẩn kép trong vấn đề nhân quyền, đồng thời kiên quyết phản đối việc lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”.Thứ năm là có sự hòa hoãn tương đối ở cấp độ quân sự. Tuyên bố chung nhấn mạnh : “Hai bên khẳng định hợp tác quốc phòng - an ninh là một trong những trụ cột của quan hệ Việt-Trung ; nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh ; tăng cường giao lưu các cấp giữa quân đội hai nước ; làm sâu sắc giao lưu biên phòng, hải quân, cảnh sát biển”.RFI : Nhìn rộng hơn, những yếu tố tích cực đó diễn ra trong bối cảnh như thế nào ?Laurent Gédéon : Khía cạnh tích cực đó diễn ra trong bối cảnh chung, được đánh dấu bởi ba hạn chế quan trọng đối với Việt Nam.Hạn chế thứ nhất là kinh tế. Nổi bật trong tình hình hiện nay là sự phụ thuộc ngày càng lớn từ một thập niên qua của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc. Đa số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến từ Trung Quốc bởi vì các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển dịch sản xuất để tránh thuế quan của Mỹ. Khối lượng nhập khẩu có nguồn gốc Trung Quốc đã tăng từ gần 30 tỉ đô la vào năm 2013 lên thành 110 tỉ đô la vào năm 2023 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng từ 15 tỉ lên thành 60 tỉ trong cùng thời điểm.Yếu tố thứ hai là những bất trắc liên quan đến Hoa Kỳ. Trước những bất trắc về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới, Hà Nội phải cân nhắc cách hợp tác về kinh tế và quân sự với Donald Trump hoặc Kamala Harris năm 2025. Thêm vào đó là việc xích lại gần với Mỹ luôn được đặt trong điều kiện cơ bản của Việt Nam là bảo toàn chế độ cộng sản. Đây là một điểm khiến Hà Nội xích lại gần Bắc Kinh. Tuy nhiên một bộ phận trong giới chính trị Mỹ lại rất nhạy cảm về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, các quyền tự do cá nhân, cho nên tỏ ra nghi ngờ về chính sách tăng cường hợp tác an ninh đang được triển khai với Việt Nam. Sự ngờ vực tiềm ẩn này cản trở sự xích lại gần nhau giữa hai nước.Yếu tố thứ ba là sự bó buộc về địa lý. Có chung 1.400 km đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, Việt Nam phải tính đến sự gần gũi về mặt địa lý này và điều này cũng tiềm ẩn việc Trung Quốc luôn có khả năng gây áp lực đối với Việt Nam. Đọc thêm : Tô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bảnRFI : Ngoài ra, liệu chuyến thăm cũng là cách để trấn an Bắc Kinh về sự ổn định chính trị sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam có lãnh đạo mới và hàng loạt xáo trộn trong chính phủ do chiến dịch chống tham nhũng ?Laurent Gédéon : Đây là một giả thuyết không thể loại trừ. Bắc Kinh bận tâm rõ ràng đến việc Việt Nam và Mỹ sưởi ấm mối quan hệ, cũng như cuộc chống tham được tiến hành dưới thời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch này đã khiến 7 thành viên trên tổng số 18 ủy viên Bộ Chính Trị năm 2021 bị khai trừ và hai người tiền nhiệm của chủ tịch nước Tô Lâm bị cách chức, đó là ông Nguyễn Xuân Phúc và Võ Văn Thưởng.Chiến dịch chống tham nhũng này cũng gây ra nhiều quan ngại về khả năng một cuộc khủng hoảng kế thừa quyền lực, cũng như gia tăng bất ổn thường trực. Trung Quốc dè chừng một nước Việt Nam bất ổn ngay sát biên giới sẽ có thể trở thành cửa ngõ cho các thế lực có khả năng thù nghịch với Bắc Kinh.Tình hình hiện này dường như đã được ổn định. Hiện giờ Bộ Chính Trị có 16 thành viên, trong đó có 5 người đến từ bộ Công An và 3 người thuộc Quân Đội. Sự phân chia này cho thấy rõ là trọng tâm giờ đây được tập trung vào việc kiểm soát xã hội và an ninh. Thông qua đó cũng có thể thấy một thông điệp nhằm trấn an các đối tác về sự ổn định chính trị trong tương lai của đất nước.Tuy nhiên, dù chiến dịch chống tham nhũng có vẻ đã đạt được mục đích là củng cố quyền lực của ông Tô Lâm nhưng vẫn phải tính đến khả năng các bên đối lập trong nội bộ đảng hợp lực lại để phản đối việc xác nhận ông Lâm làm người kế nhiệm ông Trọng trong đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 14 sẽ diễn ra vào năm 2026. Do đó, giai đoạn tiếp theo này chắc chắn sẽ được Bắc Kinh đặc biệt chú ý. Đọc thêm : Việt Nam : Quyền lực cá nhân tân tổng bí thư không làm thay đổi “ngoại giao cây tre” RFI : Trung Quốc trông đợi những gì vào các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam ?Laurent Gédéon : Tôi nghĩ trước tiên phải nói một chút về tổng quan tình hình địa-chính trị chung của Trung Quốc bối cảnh chính trị tế nhị trên thế giới hiện nay. Bắc Kinh chọn xích lại gần với một loạt quốc gia, kể cả Nga. Mục đích là để lật lại trật tự thế giới có từ thời Thế Chiến II mà họ coi là do phương Tây chiếm lĩnh. Hơn nữa, ý định xem xét lại trật tự vốn có đó đã được Bắc Kinh tái khẳng định nhiều lần, như trong chuyến thăm chính thức Trunng Quốc của tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 05/2024.Lập trường này của Trung Quốc lại vấp phải sức ép ngày càng lớn từ Hoa Kỳ và các nước đồng minh ở châu Á, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines. Thêm vào đó phải kể đến tranh luận hiện tại về việc mở rộng khối NATO sang Đông Á và vùng Thái Bình Dương. Điều này cho thấy sự thay đổi về tầm nhìn chiến lược của Mỹ dường như ngày càng coi Trung Quốc và Nga là một khối đồng nhất và cần phải có cách đáp trả toàn diện.Trên thực địa, sức ép của Mỹ ngày càng gia tăng từ nhiều tháng qua, thông qua các cuộc tập trận chung Mỹ-Hàn Quốc-Nhật Bản, một chính sách mang tính chủ động hơn của Philippines hoặc sự ủng hộ ngày càng rõ ràng của Washington đối với Đài Loan. Trong bối cảnh đó, điều quan trọng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc là không muốn thấy bùng thêm một điểm căng thẳng mới có thể tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp vào khu vực.Chính vì thế Bắc Kinh coi trọng việc củng cố quan hệ chính trị và chiến lược với Hà Nội, phát triển mối liên hệ hài hòa với nước láng giềng. Trông đợi này của Trung Quốc dường như gặp được phản hồi tích cực từ Hà Nội thông qua hàng loạt cử chỉ thiện chí. Đối với Trung Quốc, việc Việt Nam duy trì chính sách cân bằng ngoại giao giữa các cường quốc chắc chắn là giải pháp tốt nhất. Và đây là việc mà Việt Nam tiến hành vì là nước duy nhất đón nguyên thủ của cả ba cường quốc quân sự Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga chỉ trong một năm. Đọc thêm : Biển Đông : Việt Nam - Trung Quốc cam kết giải quyết tranh chấp thông qua “hiệp thương hữu nghị”Ngoài ra, chính sách "Bốn Không" được nêu rõ trong Sách trắng Quốc phòng 2019 (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) đảm bảo chắc chắn với Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ không phải là bên tham gia vào một cuộc xung đột, ví dụ có thể là giữa Trung Quốc và Philippines hoặc thậm chí là giữa Trung Quốc và Nhật Bản hay Trung Quốc và Mỹ.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
Ông Tô Lâm, tổng bí thư, chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, là người triển khai chiến dịch "đốt lò" của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch dữ dội dường như khiến nước láng giềng Trung Quốc lo ngại về những "biến động chính trị chưa từng có ở Việt Nam". Việc một quan chức thuộc bộ Công An, không giàu kinh nghiệm đối ngoại, nắm giữ hai chức vụ cao nhất trên thượng tầng lãnh đạo cũng khiến Bắc Kinh không khỏi bồn chồn về đường lối "ngoại giao cây tre". Tuy nhiên, khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc, trấn an rằng Hà Nội "luôn coi trọng và ưu tiên" quan hệ với Bắc Kinh.Chuyến công du cấp nhà nước của ông Tô Lâm còn có ý nghĩa như nào trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước ? Trung Quốc trông đợi gì vào các nhà lãnh đạo Việt Nam ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.RFI : Khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thứ đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Liệu đây có phải là tín hiệu trấn an đến Bắc Kinh dù Hà Nội tăng cường mối liên hệ với Washington và nhiều nước đồng minh khác của Mỹ ?Laurent Gédéon : Tôi nghĩ đây quả thực là một tín hiệu tích cực gửi đến Bắc Kinh. Theo tôi, có 5 yếu tố cho thấy điều này. Thứ nhất, chuyến thăm cấp Nhà nước của ông Tô Lâm tại Trung Quốc từ ngày 18 đến 20/08/2024 nằm trong khuôn khổ tiếp nối chính sách về Trung Quốc được người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng gây dựng. Ông Trọng đã công du Trung Quốc tháng 10/2022.Thứ hai, chuyến thăm này còn có ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ. Trước tiên, ông Tô Lâm là nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam, từ thời Hồ Chí Minh, đến Trung Quốc với tư cách vừa là chủ tịch nước vừa là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Tiếp theo, lễ đón tiếp long trọng ông Tô Lâm đã cho thấy chính quyền Trung Quốc coi trọng sự kiện này như thế nào (21 phát đại bác được bắn để chào mừng ông Lâm, đích thân ngoại trưởng Vương Nghị đón ông ở sân bay). Cuối cùng, năm 2024-2025 mang đầy ý nghĩa biểu tượng mạnh vì năm 2024 kỷ niệm tròn 100 năm chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Quảng Đông và năm 2025 sẽ đánh dấu 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như kỷ niệm 95 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam.Thứ ba, phải nhắc đến những phát biểu mạnh mẽ từ cả hai phía nhấn mạnh đến quan hệ mật thiết Việt-Trung. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc đến sự hình thành một “cộng đồng chung vận mệnh có tầm quan trọng chiến lược giữa Trung Quốc và việt Nam” và nói thêm rằng Bắc Kinh “luôn coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng”. Còn ông Tô Lâm trấn an người đồng cấp Trung Quốc rằng đảng và đất nước Việt Nam “luôn coi sự phát triển mối quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên tuyệt đối trong chính sách đối ngoại”. Đọc thêm : Tổng bí thư Việt Nam Tô Lâm đi Trung Quốc, chuyến công du nước ngoài đầu tiên từ khi nhậm chứcThứ tư là có mối quan hệ chặt chẽ về ý thức hệ giữa hai chế độ. Điểm này được xác nhận trong tuyên bố chung ngày 20/08 nhấn mạnh rằng “hai nước cam kết tăng cường trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm về mặt chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống “cách mạng màu”, cùng bảo vệ an ninh chính trị và an toàn cho chế độ (…)”. Cũng như “hai bên đề cao trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền dựa trên công bằng và tôn trọng lẫn nhau, phản đối mạnh mẽ “chính trị hóa”, “công cụ hóa” và tiêu chuẩn kép trong vấn đề nhân quyền, đồng thời kiên quyết phản đối việc lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”.Thứ năm là có sự hòa hoãn tương đối ở cấp độ quân sự. Tuyên bố chung nhấn mạnh : “Hai bên khẳng định hợp tác quốc phòng - an ninh là một trong những trụ cột của quan hệ Việt-Trung ; nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh ; tăng cường giao lưu các cấp giữa quân đội hai nước ; làm sâu sắc giao lưu biên phòng, hải quân, cảnh sát biển”.RFI : Nhìn rộng hơn, những yếu tố tích cực đó diễn ra trong bối cảnh như thế nào ?Laurent Gédéon : Khía cạnh tích cực đó diễn ra trong bối cảnh chung, được đánh dấu bởi ba hạn chế quan trọng đối với Việt Nam.Hạn chế thứ nhất là kinh tế. Nổi bật trong tình hình hiện nay là sự phụ thuộc ngày càng lớn từ một thập niên qua của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc. Đa số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến từ Trung Quốc bởi vì các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển dịch sản xuất để tránh thuế quan của Mỹ. Khối lượng nhập khẩu có nguồn gốc Trung Quốc đã tăng từ gần 30 tỉ đô la vào năm 2013 lên thành 110 tỉ đô la vào năm 2023 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng từ 15 tỉ lên thành 60 tỉ trong cùng thời điểm.Yếu tố thứ hai là những bất trắc liên quan đến Hoa Kỳ. Trước những bất trắc về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới, Hà Nội phải cân nhắc cách hợp tác về kinh tế và quân sự với Donald Trump hoặc Kamala Harris năm 2025. Thêm vào đó là việc xích lại gần với Mỹ luôn được đặt trong điều kiện cơ bản của Việt Nam là bảo toàn chế độ cộng sản. Đây là một điểm khiến Hà Nội xích lại gần Bắc Kinh. Tuy nhiên một bộ phận trong giới chính trị Mỹ lại rất nhạy cảm về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, các quyền tự do cá nhân, cho nên tỏ ra nghi ngờ về chính sách tăng cường hợp tác an ninh đang được triển khai với Việt Nam. Sự ngờ vực tiềm ẩn này cản trở sự xích lại gần nhau giữa hai nước.Yếu tố thứ ba là sự bó buộc về địa lý. Có chung 1.400 km đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, Việt Nam phải tính đến sự gần gũi về mặt địa lý này và điều này cũng tiềm ẩn việc Trung Quốc luôn có khả năng gây áp lực đối với Việt Nam. Đọc thêm : Tô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bảnRFI : Ngoài ra, liệu chuyến thăm cũng là cách để trấn an Bắc Kinh về sự ổn định chính trị sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam có lãnh đạo mới và hàng loạt xáo trộn trong chính phủ do chiến dịch chống tham nhũng ?Laurent Gédéon : Đây là một giả thuyết không thể loại trừ. Bắc Kinh bận tâm rõ ràng đến việc Việt Nam và Mỹ sưởi ấm mối quan hệ, cũng như cuộc chống tham được tiến hành dưới thời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch này đã khiến 7 thành viên trên tổng số 18 ủy viên Bộ Chính Trị năm 2021 bị khai trừ và hai người tiền nhiệm của chủ tịch nước Tô Lâm bị cách chức, đó là ông Nguyễn Xuân Phúc và Võ Văn Thưởng.Chiến dịch chống tham nhũng này cũng gây ra nhiều quan ngại về khả năng một cuộc khủng hoảng kế thừa quyền lực, cũng như gia tăng bất ổn thường trực. Trung Quốc dè chừng một nước Việt Nam bất ổn ngay sát biên giới sẽ có thể trở thành cửa ngõ cho các thế lực có khả năng thù nghịch với Bắc Kinh.Tình hình hiện này dường như đã được ổn định. Hiện giờ Bộ Chính Trị có 16 thành viên, trong đó có 5 người đến từ bộ Công An và 3 người thuộc Quân Đội. Sự phân chia này cho thấy rõ là trọng tâm giờ đây được tập trung vào việc kiểm soát xã hội và an ninh. Thông qua đó cũng có thể thấy một thông điệp nhằm trấn an các đối tác về sự ổn định chính trị trong tương lai của đất nước.Tuy nhiên, dù chiến dịch chống tham nhũng có vẻ đã đạt được mục đích là củng cố quyền lực của ông Tô Lâm nhưng vẫn phải tính đến khả năng các bên đối lập trong nội bộ đảng hợp lực lại để phản đối việc xác nhận ông Lâm làm người kế nhiệm ông Trọng trong đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 14 sẽ diễn ra vào năm 2026. Do đó, giai đoạn tiếp theo này chắc chắn sẽ được Bắc Kinh đặc biệt chú ý. Đọc thêm : Việt Nam : Quyền lực cá nhân tân tổng bí thư không làm thay đổi “ngoại giao cây tre” RFI : Trung Quốc trông đợi những gì vào các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam ?Laurent Gédéon : Tôi nghĩ trước tiên phải nói một chút về tổng quan tình hình địa-chính trị chung của Trung Quốc bối cảnh chính trị tế nhị trên thế giới hiện nay. Bắc Kinh chọn xích lại gần với một loạt quốc gia, kể cả Nga. Mục đích là để lật lại trật tự thế giới có từ thời Thế Chiến II mà họ coi là do phương Tây chiếm lĩnh. Hơn nữa, ý định xem xét lại trật tự vốn có đó đã được Bắc Kinh tái khẳng định nhiều lần, như trong chuyến thăm chính thức Trunng Quốc của tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 05/2024.Lập trường này của Trung Quốc lại vấp phải sức ép ngày càng lớn từ Hoa Kỳ và các nước đồng minh ở châu Á, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines. Thêm vào đó phải kể đến tranh luận hiện tại về việc mở rộng khối NATO sang Đông Á và vùng Thái Bình Dương. Điều này cho thấy sự thay đổi về tầm nhìn chiến lược của Mỹ dường như ngày càng coi Trung Quốc và Nga là một khối đồng nhất và cần phải có cách đáp trả toàn diện.Trên thực địa, sức ép của Mỹ ngày càng gia tăng từ nhiều tháng qua, thông qua các cuộc tập trận chung Mỹ-Hàn Quốc-Nhật Bản, một chính sách mang tính chủ động hơn của Philippines hoặc sự ủng hộ ngày càng rõ ràng của Washington đối với Đài Loan. Trong bối cảnh đó, điều quan trọng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc là không muốn thấy bùng thêm một điểm căng thẳng mới có thể tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp vào khu vực.Chính vì thế Bắc Kinh coi trọng việc củng cố quan hệ chính trị và chiến lược với Hà Nội, phát triển mối liên hệ hài hòa với nước láng giềng. Trông đợi này của Trung Quốc dường như gặp được phản hồi tích cực từ Hà Nội thông qua hàng loạt cử chỉ thiện chí. Đối với Trung Quốc, việc Việt Nam duy trì chính sách cân bằng ngoại giao giữa các cường quốc chắc chắn là giải pháp tốt nhất. Và đây là việc mà Việt Nam tiến hành vì là nước duy nhất đón nguyên thủ của cả ba cường quốc quân sự Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga chỉ trong một năm. Đọc thêm : Biển Đông : Việt Nam - Trung Quốc cam kết giải quyết tranh chấp thông qua “hiệp thương hữu nghị”Ngoài ra, chính sách "Bốn Không" được nêu rõ trong Sách trắng Quốc phòng 2019 (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) đảm bảo chắc chắn với Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ không phải là bên tham gia vào một cuộc xung đột, ví dụ có thể là giữa Trung Quốc và Philippines hoặc thậm chí là giữa Trung Quốc và Nhật Bản hay Trung Quốc và Mỹ.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.
Việt Nam có trữ lượng khoảng 22 triệu tấn đất hiếm và chiếm 18% tổng lượng thế giới nhưng trong suốt nhiều năm lại không khai thác, xuất khẩu tương xứng với tiềm năng. Trước nhu cầu ngày càng tăng và chủ trương giảm phụ thuộc vào nguồn cung Trung Quốc của nhiều nước, đất hiếm ở Việt Nam ngày càng được quan tâm. Tháng 06/2024, chính phủ tuyên bố « nhất quyết không xuất khẩu đất hiếm thô ». Tuy nhiên, sẽ mất bao lâu để thực hiện được ý định này trong khi các nhà đầu tư vào Việt Nam lại không làm chủ được công nghệ tinh luyện mà trung Quốc nắm giữ ?Trên đây là nhận định của phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS, khi trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt, ngày 10/07/2024. Đồng thời, chuyên gia Mottet còn nhấn mạnh đến chiến dịch chống tham nhũng, được coi là yếu tố thứ hai có thể tác động đến lĩnh vực khai thác đất hiếm ở Việt Nam. Sự kiện mới nhất là ông Nguyễn Linh Ngọc, nguyên thứ trưởng bộ Tài Nguyên Môi Trường bị khởi tố ngày 22/07/2024 liên quan đến Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương, gây thát thoát khoáng sản của Nhà nước với trị giá ước tính trên 600 tỷ đồng.RFI : Theo báo cáo năm 2022 của Viện Geological Survey của Mỹ, tổng khối lượng đất hiếm của Việt Nam chiếm khoảng 18% tổng lượng trên thế giới, kể cả đất hiếm nặng và nhẹ. Có thể tìm thấy đất hiếm tại những vùng nào ở Việt Nam ? Éric Mottet : Tại Việt Nam, đất hiếm nằm ở nhiều nơi. Trước tiên là ở phía tây bắc, nơi có một trong những mỏ đất hiếm lớn nhất Việt Nam, cho đến giờ vẫn gần như chưa được khai thác. Đất hiếm còn nằm ở vùng cao nguyên miền trung và dọc bờ biển, gần như từ bắc xuống nam. Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đất hiếm vốn rất dồi dào, dễ khai thác. Nhưng sự khác biệt, hoặc nói một cách khác là vấn đề duy nhất nằm ở công nghệ để tinh luyện chúng.Như câu hỏi đã nêu, đất hiếm ở Việt Nam chiếm khoảng 18% trữ lượng thế giới. Đó là con số rất lớn, được coi là nguồn trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, với giá trị được thẩm định gần 3.000 tỉ đô la Mỹ. Con số này lớn gần gấp 10 lần GDP Việt Nam. Nhưng hiện giờ, những mỏ đất hiếm này hầu hết chưa được khai thác. Việt Nam là một nhà sản xuất đất hiếm nhưng theo tôi, chỉ là một nhà sản xuất vô cùng nhỏ, vì mới chỉ khai thác được khoảng 600 tấn/năm. Năng suất này thấp hơn rất nhiều lần so với Trung Quốc, thậm chí thấp hơn cả Miến Điện, nước khai thác 38.000 tấn hàng năm.Dù sao, đất hiếm ở Việt Nam có tiềm năng đáng kể mà rất nhiều nước phương Tây đang nhìn với con mắt ghen tị.RFI : Ngay năm 2014, một số giấy phép khai thác đất hiếm đầu tiên đã được cấp nhưng dường như hoạt động khai thác không được tiến triển. Những nguyên nhân, yếu tố nào có thể giải thích cho tình trạng này?Éric Mottet : Có nhiều lý do. Chúng ta đừng quên là đất hiếm, nhất là ở tây bắc Việt Nam, đã được hai công ty Nhật Bản khai thác cho đến năm 2015. Nhưng việc Trung Quốc có quá nhiều đất hiếm, khiến giá sụt thê thảm nên việc khai thác ở Việt Nam không đem lại lợi nhuận và buộc các công ty Nhật Bản rút khỏi dự án từ những năm 2014, 2015. Liên quan đến Việt Nam, các nhà đầu tư bị nản lòng vì giá thấp và thế gần như độc quyền của Trung Quốc trên thị trường đất hiếm. Đối với nhiều nhà đầu tư, việc khai thác đất hiếm bị coi là mang lại ít lợi nhuận. Đó là lý do thứ nhất khiến đất hiếm rất ít được khai thác ở Việt Nam.Tuy nhiên, từ năm 2023, thủ tướng Việt Nam đã công bố một quyết định thông qua kế hoạch thăm dò, tiếp theo là khai thác đất hiếm ở quy mô lớn. Chính phủ có ý định mời thầu vào cuối năm 2023, đầu năm 2024, nói theo cách khác là để “bán” nhiều lô trong mỏ Đông Pao ở vùng núi tây bắc. Theo lịch trình là tái khởi động vào cuối năm 2024 với dự kiến khai thác 10.000 tấn đất hiếm mỗi năm. Một số doanh nghiệp nước ngoài đã đặt sẵn bản doanh, ví dụ tập đoàn Úc Blackstone, hoặc nhiều hợp tác đang được thảo luận ít nhiều với Hàn Quốc.Nhưng mọi chuyện dần bị dừng lại vào tháng 10, 11/2023 bởi vì chiến dịch chống tham nhũng trong các doanh nghiệp Việt Nam đã gây ra nhiều thiệt hại, kể cả trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của ngành công nghiệp mỏ khoáng sản, cũng như trong các công ty đang khai thác đất hiếm. Các vụ bắt giữ đã cản trở phần lớn những dự án của chính phủ, xin nhắc lại ở đây, là nhằm bán đấu giá những khu nhượng quyền khai thác mới cho những công ty Việt Nam hợp tác với các doanh nghiệp Úc và Hàn Quốc. Vì thế tôi cho rằng ngành công nghiệp này hiện giờ có phần bất trắc. Các nhà đầu tư nước ngoài lưỡng lự đầu tư vào khai thác đất hiếm ở Việt Nam.Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam vẫn giữ kế hoạch chỉ đạo, muốn tiếp tục và muốn khoảng 2 triệu tấn đất hiếm được khai thác vào khoảng năm 2030. Nhưng tôi xin nhắc lại là vì hai lý do chính - chi phí khai thác thấp ở Trung Quốc và chiến dịch chống tham nhũng cùng với những vụ bắt giữ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khai thác, quản lý ngành công nghiệp mỏ và khoáng sản ở Việt Nam - cho nên những dự án được thông báo năm 2023 hiện giờ (năm 2024) đã bị đình chỉ.Rất khó để biết được lý do chính xác khiến nhiều cán bộ hoặc lãnh đạo cấp cao của công ty quốc doanh, bán quốc doanh, tư nhân ở Việt Nam bị bắt vì tham nhũng. Tuy nhiên, có một vài thông tin được tiết lộ về một doanh nghiệp và các vụ biển thủ công quỹ của họ.Thứ hai, Việt Nam có nhiều quy định hiện hành, khá là chặt chẽ về xuất khẩu khoáng sản thô ra nước ngoài. Và một trong hai doanh nghiệp quản lý đất hiếm dường như đã xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc để tinh chế đất hiếm ở đó. Tại sao doanh nghiệp đó lại làm như vậy ? Đó là vì họ cho rằng chi phí thì cao, còn khả năng tinh chế ở Việt Nam còn quá yếu nên họ phải chuyển hướng sang Trung Quốc và người phụ trách đó đã bị bắt. Cho nên có thể thấy có hai lý do : biển thủ công quỹ và xuất khẩu đất hiếm trái phép ra nước ngoài, nhất là sang Trung Quốc.RFI : Chính phủ Việt Nam khẳng định không xuất khẩu đất hiếm dạng thô. Việt Nam sẽ phải cải thiện những gì và cần hỗ trợ như thế nào để đạt được mục tiêu này ?Éric Mottet : Quy định hiện hành của Việt Nam về xuất khẩu khoáng sản thô đã được thắt chặt hơn rất nhiều bởi vì Hà Nội đặt mục tiêu triển khai lĩnh vực tinh chế ở trong nước. Nhưng Việt Nam lại phải đối phó với rất nhiều thách thức lớn về năng lực, công nghệ, kỹ thuật tinh chế. Việt Nam muốn hình thành một dây chuyền khép kín từ khai thác đến tinh luyện đất hiếm nhưng vấn đề đầu tiên của Viện Nam hiện giờ là phải phát triển được năng lực tinh chế khoáng sản. Đó lại là cả một quá trình phải làm trong hợp tác với các doanh nghiệp Úc, Hàn Quốc.Dù sao cũng có một tin vui, đó là chuyến công du Việt Nam năm 2023 của tổng thống Mỹ Joe Biden. Hà Nội và Washington đã ký một thỏa thuận nhằm tăng cường năng lực của Việt Nam, nhất là về thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khai thác đất hiếm. Nhưng Hoa Kỳ cũng không phải là một nước làm chủ được công nghệ tinh chế đất hiếm, bởi vì phần lớn khối lượng đất hiếm được khai thác ở Mỹ, nhất là ở bang California, cũng lại được chuyển sang Trung Quốc để tinh chế.Vấn đề hiện nay đối với Việt Nam là họ muốn phát triển một lĩnh vực với các đối tác phương Tây, như Úc, Mỹ hoặc ở trong khu vực như Hàn Quốc, nhưng những nước này cũng không làm chủ hoàn toàn được công nghệ tinh chế hoặc tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp. Cho nên có thể thấy là Việt Nam phần nào bị bí. Họ muốn phát triển khả năng tinh luyện đất hiếm nhưng lại không dựa vào đúng đối tượng.Bắc Kinh hiểu rõ vấn đề của Việt Nam và đánh tiếng với chính phủ Việt Nam rằng quốc gia tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp chỉ có Trung Quốc và nếu Việt Nam muốn phát triển lĩnh vực này thì phải hướng sang Trung Quốc. Nhưng đây là điều mà hiện giờ chính phủ Việt Nam chưa tính đến.RFI : Như ông vừa nêu, nhiều công ty nước ngoài đã quan tâm đến việc khai thác đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ vẫn chỉ ở giai đoạn thăm dò, nghiên cứu. Liệu có thể hy vọng là sẽ có nhiều tiến triển trong thời gian tới ? Những yếu tố nào có thể tác động đến những tiến bộ đó ? Éric Mottet : Người ta từng nghĩ rằng mọi chuyện sẽ tiến triển trong năm 2023, 2024. Vì những lý do mà tôi đã nêu ở trên, nhất là chiến dịch chống tham nhũng trong các ngành công nghiệp và lĩnh vực khai thác mỏ ở Việt Nam, nên mọi chuyện bị chậm lại.Tuy nhiên, có một yếu tố có thể thúc đẩy tình hình, đó là Hoa Kỳ muốn hỗ trợ Việt Nam phát triển lĩnh vực đất hiếm này. Mỹ đã đề xuất, đã ghi trong khuôn khổ một thỏa thuận là giúp Việt Nam lập bản đồ các nguồn trữ đất hiếm vì thường thì việc này sẽ cho phép thu hút các nhà đầu tư chất lượng vào Việt Nam. Mỹ muốn giúp Việt Nam phát triển ngành công nghiệp này cũng là để giúp Mỹ giảm phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc về đất hiếm. Phía Hoa Kỳ thực sự tỏ thiện chí giúp đỡ Việt Nam phát triển ngành này. Đây là điều có thể coi là rất tích cực và tôi nghĩ đó là một yếu tố quan trọng trong tương lai đối với ngành khai thác đất hiếm ở Việt Nam.Nhưng tôi cũng xin nhắc nhắc lại là Việt Nam đang dựa vào những đối tác mà hiện giờ chưa làm chủ hoàn toàn công nghệ chế biến đất hiếm. Thêm vào đó còn có một trở ngại khác. Đó là Trung Quốc, nước từng đề xuất giúp đỡ Việt Nam phát triển những công nghệ khác nhau trong các khâu khai thác, chế biến, xử lý và tinh chế đất hiếm, vào tháng 12/2023 đã quyết định ngừng xuất khẩu một phần công nghệ này ra nước ngoài để giữ phần nào độc quyền và vai trò quan trọng về lĩnh vực này.Hiện giờ, Việt Nam bị kẹt giữa một bên là các nước phương Tây muốn giúp Việt Nam và muốn đầu tư nhưng lại không hoàn toàn yên tâm về kế hoạch chính sách ở Việt Nam và họ cũng không hẳn làm chủ công nghệ và bên kia là Trung Quốc, nước không còn muốn xuất khẩu công nghệ của họ ra nước ngoài, trong đó có thể có Việt Nam.Có thể thấy là trong những năm 2023, 2024 có rất nhiều lạc quan về vấn đề đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ, tôi cho rằng lạc quan đó đã bớt đi phần nào so với chỉ cách đây vài tháng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS.
Việt Nam có trữ lượng khoảng 22 triệu tấn đất hiếm và chiếm 18% tổng lượng thế giới nhưng trong suốt nhiều năm lại không khai thác, xuất khẩu tương xứng với tiềm năng. Trước nhu cầu ngày càng tăng và chủ trương giảm phụ thuộc vào nguồn cung Trung Quốc của nhiều nước, đất hiếm ở Việt Nam ngày càng được quan tâm. Tháng 06/2024, chính phủ tuyên bố « nhất quyết không xuất khẩu đất hiếm thô ». Tuy nhiên, sẽ mất bao lâu để thực hiện được ý định này trong khi các nhà đầu tư vào Việt Nam lại không làm chủ được công nghệ tinh luyện mà trung Quốc nắm giữ ?Trên đây là nhận định của phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS, khi trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt, ngày 10/07/2024. Đồng thời, chuyên gia Mottet còn nhấn mạnh đến chiến dịch chống tham nhũng, được coi là yếu tố thứ hai có thể tác động đến lĩnh vực khai thác đất hiếm ở Việt Nam. Sự kiện mới nhất là ông Nguyễn Linh Ngọc, nguyên thứ trưởng bộ Tài Nguyên Môi Trường bị khởi tố ngày 22/07/2024 liên quan đến Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương, gây thát thoát khoáng sản của Nhà nước với trị giá ước tính trên 600 tỷ đồng.RFI : Theo báo cáo năm 2022 của Viện Geological Survey của Mỹ, tổng khối lượng đất hiếm của Việt Nam chiếm khoảng 18% tổng lượng trên thế giới, kể cả đất hiếm nặng và nhẹ. Có thể tìm thấy đất hiếm tại những vùng nào ở Việt Nam ? Éric Mottet : Tại Việt Nam, đất hiếm nằm ở nhiều nơi. Trước tiên là ở phía tây bắc, nơi có một trong những mỏ đất hiếm lớn nhất Việt Nam, cho đến giờ vẫn gần như chưa được khai thác. Đất hiếm còn nằm ở vùng cao nguyên miền trung và dọc bờ biển, gần như từ bắc xuống nam. Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đất hiếm vốn rất dồi dào, dễ khai thác. Nhưng sự khác biệt, hoặc nói một cách khác là vấn đề duy nhất nằm ở công nghệ để tinh luyện chúng.Như câu hỏi đã nêu, đất hiếm ở Việt Nam chiếm khoảng 18% trữ lượng thế giới. Đó là con số rất lớn, được coi là nguồn trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, với giá trị được thẩm định gần 3.000 tỉ đô la Mỹ. Con số này lớn gần gấp 10 lần GDP Việt Nam. Nhưng hiện giờ, những mỏ đất hiếm này hầu hết chưa được khai thác. Việt Nam là một nhà sản xuất đất hiếm nhưng theo tôi, chỉ là một nhà sản xuất vô cùng nhỏ, vì mới chỉ khai thác được khoảng 600 tấn/năm. Năng suất này thấp hơn rất nhiều lần so với Trung Quốc, thậm chí thấp hơn cả Miến Điện, nước khai thác 38.000 tấn hàng năm.Dù sao, đất hiếm ở Việt Nam có tiềm năng đáng kể mà rất nhiều nước phương Tây đang nhìn với con mắt ghen tị.RFI : Ngay năm 2014, một số giấy phép khai thác đất hiếm đầu tiên đã được cấp nhưng dường như hoạt động khai thác không được tiến triển. Những nguyên nhân, yếu tố nào có thể giải thích cho tình trạng này?Éric Mottet : Có nhiều lý do. Chúng ta đừng quên là đất hiếm, nhất là ở tây bắc Việt Nam, đã được hai công ty Nhật Bản khai thác cho đến năm 2015. Nhưng việc Trung Quốc có quá nhiều đất hiếm, khiến giá sụt thê thảm nên việc khai thác ở Việt Nam không đem lại lợi nhuận và buộc các công ty Nhật Bản rút khỏi dự án từ những năm 2014, 2015. Liên quan đến Việt Nam, các nhà đầu tư bị nản lòng vì giá thấp và thế gần như độc quyền của Trung Quốc trên thị trường đất hiếm. Đối với nhiều nhà đầu tư, việc khai thác đất hiếm bị coi là mang lại ít lợi nhuận. Đó là lý do thứ nhất khiến đất hiếm rất ít được khai thác ở Việt Nam.Tuy nhiên, từ năm 2023, thủ tướng Việt Nam đã công bố một quyết định thông qua kế hoạch thăm dò, tiếp theo là khai thác đất hiếm ở quy mô lớn. Chính phủ có ý định mời thầu vào cuối năm 2023, đầu năm 2024, nói theo cách khác là để “bán” nhiều lô trong mỏ Đông Pao ở vùng núi tây bắc. Theo lịch trình là tái khởi động vào cuối năm 2024 với dự kiến khai thác 10.000 tấn đất hiếm mỗi năm. Một số doanh nghiệp nước ngoài đã đặt sẵn bản doanh, ví dụ tập đoàn Úc Blackstone, hoặc nhiều hợp tác đang được thảo luận ít nhiều với Hàn Quốc.Nhưng mọi chuyện dần bị dừng lại vào tháng 10, 11/2023 bởi vì chiến dịch chống tham nhũng trong các doanh nghiệp Việt Nam đã gây ra nhiều thiệt hại, kể cả trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của ngành công nghiệp mỏ khoáng sản, cũng như trong các công ty đang khai thác đất hiếm. Các vụ bắt giữ đã cản trở phần lớn những dự án của chính phủ, xin nhắc lại ở đây, là nhằm bán đấu giá những khu nhượng quyền khai thác mới cho những công ty Việt Nam hợp tác với các doanh nghiệp Úc và Hàn Quốc. Vì thế tôi cho rằng ngành công nghiệp này hiện giờ có phần bất trắc. Các nhà đầu tư nước ngoài lưỡng lự đầu tư vào khai thác đất hiếm ở Việt Nam.Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam vẫn giữ kế hoạch chỉ đạo, muốn tiếp tục và muốn khoảng 2 triệu tấn đất hiếm được khai thác vào khoảng năm 2030. Nhưng tôi xin nhắc lại là vì hai lý do chính - chi phí khai thác thấp ở Trung Quốc và chiến dịch chống tham nhũng cùng với những vụ bắt giữ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khai thác, quản lý ngành công nghiệp mỏ và khoáng sản ở Việt Nam - cho nên những dự án được thông báo năm 2023 hiện giờ (năm 2024) đã bị đình chỉ.Rất khó để biết được lý do chính xác khiến nhiều cán bộ hoặc lãnh đạo cấp cao của công ty quốc doanh, bán quốc doanh, tư nhân ở Việt Nam bị bắt vì tham nhũng. Tuy nhiên, có một vài thông tin được tiết lộ về một doanh nghiệp và các vụ biển thủ công quỹ của họ.Thứ hai, Việt Nam có nhiều quy định hiện hành, khá là chặt chẽ về xuất khẩu khoáng sản thô ra nước ngoài. Và một trong hai doanh nghiệp quản lý đất hiếm dường như đã xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc để tinh chế đất hiếm ở đó. Tại sao doanh nghiệp đó lại làm như vậy ? Đó là vì họ cho rằng chi phí thì cao, còn khả năng tinh chế ở Việt Nam còn quá yếu nên họ phải chuyển hướng sang Trung Quốc và người phụ trách đó đã bị bắt. Cho nên có thể thấy có hai lý do : biển thủ công quỹ và xuất khẩu đất hiếm trái phép ra nước ngoài, nhất là sang Trung Quốc.RFI : Chính phủ Việt Nam khẳng định không xuất khẩu đất hiếm dạng thô. Việt Nam sẽ phải cải thiện những gì và cần hỗ trợ như thế nào để đạt được mục tiêu này ?Éric Mottet : Quy định hiện hành của Việt Nam về xuất khẩu khoáng sản thô đã được thắt chặt hơn rất nhiều bởi vì Hà Nội đặt mục tiêu triển khai lĩnh vực tinh chế ở trong nước. Nhưng Việt Nam lại phải đối phó với rất nhiều thách thức lớn về năng lực, công nghệ, kỹ thuật tinh chế. Việt Nam muốn hình thành một dây chuyền khép kín từ khai thác đến tinh luyện đất hiếm nhưng vấn đề đầu tiên của Viện Nam hiện giờ là phải phát triển được năng lực tinh chế khoáng sản. Đó lại là cả một quá trình phải làm trong hợp tác với các doanh nghiệp Úc, Hàn Quốc.Dù sao cũng có một tin vui, đó là chuyến công du Việt Nam năm 2023 của tổng thống Mỹ Joe Biden. Hà Nội và Washington đã ký một thỏa thuận nhằm tăng cường năng lực của Việt Nam, nhất là về thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khai thác đất hiếm. Nhưng Hoa Kỳ cũng không phải là một nước làm chủ được công nghệ tinh chế đất hiếm, bởi vì phần lớn khối lượng đất hiếm được khai thác ở Mỹ, nhất là ở bang California, cũng lại được chuyển sang Trung Quốc để tinh chế.Vấn đề hiện nay đối với Việt Nam là họ muốn phát triển một lĩnh vực với các đối tác phương Tây, như Úc, Mỹ hoặc ở trong khu vực như Hàn Quốc, nhưng những nước này cũng không làm chủ hoàn toàn được công nghệ tinh chế hoặc tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp. Cho nên có thể thấy là Việt Nam phần nào bị bí. Họ muốn phát triển khả năng tinh luyện đất hiếm nhưng lại không dựa vào đúng đối tượng.Bắc Kinh hiểu rõ vấn đề của Việt Nam và đánh tiếng với chính phủ Việt Nam rằng quốc gia tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp chỉ có Trung Quốc và nếu Việt Nam muốn phát triển lĩnh vực này thì phải hướng sang Trung Quốc. Nhưng đây là điều mà hiện giờ chính phủ Việt Nam chưa tính đến.RFI : Như ông vừa nêu, nhiều công ty nước ngoài đã quan tâm đến việc khai thác đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ vẫn chỉ ở giai đoạn thăm dò, nghiên cứu. Liệu có thể hy vọng là sẽ có nhiều tiến triển trong thời gian tới ? Những yếu tố nào có thể tác động đến những tiến bộ đó ? Éric Mottet : Người ta từng nghĩ rằng mọi chuyện sẽ tiến triển trong năm 2023, 2024. Vì những lý do mà tôi đã nêu ở trên, nhất là chiến dịch chống tham nhũng trong các ngành công nghiệp và lĩnh vực khai thác mỏ ở Việt Nam, nên mọi chuyện bị chậm lại.Tuy nhiên, có một yếu tố có thể thúc đẩy tình hình, đó là Hoa Kỳ muốn hỗ trợ Việt Nam phát triển lĩnh vực đất hiếm này. Mỹ đã đề xuất, đã ghi trong khuôn khổ một thỏa thuận là giúp Việt Nam lập bản đồ các nguồn trữ đất hiếm vì thường thì việc này sẽ cho phép thu hút các nhà đầu tư chất lượng vào Việt Nam. Mỹ muốn giúp Việt Nam phát triển ngành công nghiệp này cũng là để giúp Mỹ giảm phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc về đất hiếm. Phía Hoa Kỳ thực sự tỏ thiện chí giúp đỡ Việt Nam phát triển ngành này. Đây là điều có thể coi là rất tích cực và tôi nghĩ đó là một yếu tố quan trọng trong tương lai đối với ngành khai thác đất hiếm ở Việt Nam.Nhưng tôi cũng xin nhắc nhắc lại là Việt Nam đang dựa vào những đối tác mà hiện giờ chưa làm chủ hoàn toàn công nghệ chế biến đất hiếm. Thêm vào đó còn có một trở ngại khác. Đó là Trung Quốc, nước từng đề xuất giúp đỡ Việt Nam phát triển những công nghệ khác nhau trong các khâu khai thác, chế biến, xử lý và tinh chế đất hiếm, vào tháng 12/2023 đã quyết định ngừng xuất khẩu một phần công nghệ này ra nước ngoài để giữ phần nào độc quyền và vai trò quan trọng về lĩnh vực này.Hiện giờ, Việt Nam bị kẹt giữa một bên là các nước phương Tây muốn giúp Việt Nam và muốn đầu tư nhưng lại không hoàn toàn yên tâm về kế hoạch chính sách ở Việt Nam và họ cũng không hẳn làm chủ công nghệ và bên kia là Trung Quốc, nước không còn muốn xuất khẩu công nghệ của họ ra nước ngoài, trong đó có thể có Việt Nam.Có thể thấy là trong những năm 2023, 2024 có rất nhiều lạc quan về vấn đề đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ, tôi cho rằng lạc quan đó đã bớt đi phần nào so với chỉ cách đây vài tháng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS.
Chính sách phi liên kết không phải là hoàn toàn mới nhưng được cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong “ngoại giao cây tre”. Một “di sản” được ông cố vun đắp từ Hội nghị Đối ngoại toàn quốc (14/12/2021) và được coi là một “trường phái đối ngoại” của Việt Nam. Nhà nghiên cứu Hoàng Thị Hà tại Singapore, trong một bài viết đăng ngày 24/10/2023 trên trang Fulcrum (1), nhận định “mặc dù thiếu nội dung thực chất, nhưng khái niệm “ngoại giao tre Việt Nam” đã phát triển song song với sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông Trọng khi ông củng cố vị trí nổi bật trong hệ thống lãnh đạo tập thể của Việt Nam trong những năm gần đây. Sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông cũng phụ thuộc vào cơ may địa-chính trị của Việt Nam, khi cả Mỹ và Trung Quốc đều cạnh tranh để kéo Việt Nam về phía họ. Người ta có thể lập luận rằng “ngoại giao cây tre” của ông Trọng xuất phát từ sự tình cờ về mặt địa chính trị của Việt Nam hơn là từ sự đổi mới chính sách”.Còn trong một bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 06/06/2024, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng lưu ý “khái niệm (“ngoại giao cây tre”) là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước” (2). Tuy nhiên, sau 14 năm, đảng Cộng Sản Việt Nam có tổng bí thư mới. Đại tướng Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi lần lượt giữ chức chủ tịch nước và tổng bí thư, ít nhất cho đến Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIV, dự kiến diễn ra vào tháng 01/2026.Di sản “ngoại giao cây tre” sẽ được tiếp tục như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Vũ Khang, chuyên về an ninh Đông Á, trường Đại học Boston (Boston Collegue), Hoa Kỳ.RFI : Đảng Cộng Sản Việt Nam bước sang trang mới sau 14 năm lãnh đạo của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ có thay đổi như thế nào với sự kiện này ? Chiến lược “ngoại giao cây tre” sẽ vẫn được tiếp tục ?Vũ Khang : Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ không có thay đổi gì dưới thời của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm vì có hai lý do chính.Thứ nhất, ngoại giao Việt Nam từ xưa đến nay vẫn có mục tiêu đầu tiên, đó chính là kiềm chế và trấn an được Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam với Trung Quốc vẫn đang ổn định nên Việt Nam không có nhu cầu để phải có những thay đổi lớn trong ngoại giao. Nếu Việt Nam có những hành động thay đổi lớn trong chính sách “ngoại giao cây tre”, nhất là Việt Nam muốn mở rộng quan hệ ngoại giao đối với những nước “thù địch” với Trung Quốc thì điều đó có thể khiến Trung Quốc phật lòng. Và trong trường hợp đấy, Việt Nam sẽ phải hứng chịu những đáp trả không cần thiết từ Trung Quốc. Nhưng trong trường hợp hiện nay, Việt Nam với Trung Quốc hoàn toàn không có những lý do gì để hạ quan hệ ngoại giao song phương. Cho nên Hà Nội không có lý do gì để mà thay đổi đường lối “ngoại giao cây tre” hiện giờ. Đọc thêm : 2023: Năm thành công của "ngoại giao cây tre" Việt NamLý do thứ hai, chính sách đối ngoại của Việt Nam từ xưa đến nay vẫn do Bộ Chính Trị quyết định chứ không phải là do một cá nhân, bất kể cá nhân đấy có là tổng bí thư hay là chủ tịch nước đi chăng nữa. Cần phải hiểu rõ là chính mô hình của Bộ Chính Trị này tạo điều kiện cho một tập thể lãnh đạo, ra quyết sách, quyết định của đất nước, chứ không phải là một cá nhân. Cho nên, chừng nào các thành viên còn lại trong Bộ Chính Trị không muốn thay đổi đường lối chính sách “ngoại giao cây tre” hiện giờ thì việc thay đổi nhà lãnh đạo cấp cao nhất là tổng bí thư cũng sẽ không có tác động lớn đối với đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam.RFI : Như anh vừa nêu phần nào, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm hiện giờ là nhà lãnh đạo quyền lực nhất Việt Nam nhưng dường như lại không có nhiều kinh nghiệm đối ngoại, điều này có thác động như thế nào đến ngoại giao của Việt Nam, đặc biệt là với Trung Quốc và Hoa Kỳ ?Vũ Khang : Thực ra kinh nghiệm đối ngoại không quá quan trọng trong hoàn cảnh hiện nay. Nhất là khi các quyết sách ngoại giao của Việt Nam được thông qua bởi Bộ Chính Trị chứ không phải một cá nhân. Tóm lại, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm có thể không có kinh nghiệm ngoại giao nhiều như những người tiền nhiệm nhưng không có nghĩa là những người đồng chí ở trong Bộ Chính Trị hoặc những nhà hoạch định chính sách dưới quyền của ông Tô Lâm trong nước cũng không có kinh nghiệm ngoại giao nào cả.Có thể hình dung ra rằng ông Tô Lâm như là một người đại diện lớn nhất cho chính sách đối ngoại của Việt Nam chứ ông cũng chỉ là một nhân tố quyết định chính sách đối ngoại. Cho nên kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm, mặc dù về tương lai sẽ quan trọng, nhưng hiện giờ trong bối cảnh Việt Nam đang có sự thay đổi lớn về thượng tầng lãnh đạo, thì kinh nghiệm ngoại giao không phải là ưu tiên quan trọng nhất lúc này. Và cần phải nhấn rõ rằng kinh nghiệm ngoại giao cần phải được đúc kết về lâu về dài. Nhiều nhà lãnh đạo, kể cả những tổng thống của Mỹ hay những nước phương Tây khác, khi họ lên chưa chắc họ cũng đã có kinh nghiệm ngoại giao. Nhưng trải qua những lần công tác hay là những cuộc gặp quốc tế, họ dần trở nên bạo dạn hơn và có những tiếp xúc giúp cho họ có thêm kinh nghiệm để đối đáp với những đối tác nước ngoài.Điểm tiếp theo, đó là về mặt quan điểm chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam không thay đổi, cho nên đấy mới là điều mà Mỹ với Trung Quốc muốn nghe nhất thời điểm này, hơn là kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm. Bởi vì thực ra Mỹ với Trung Quốc đều hiểu rằng là chừng nào Việt Nam còn duy trì một vị trí trung lập, kinh nghiệm ngoại giao của người đứng đầu hệ thống đảng và nhà nước không quá là quan trọng. Đọc thêm : Việt Nam : Ngoại giao cây tre với Trung Quốc mang đặc tính « tân triều cống »RFI : Với nhiều nước Liên Hiệp Châu Âu, đặc biệt là Đức và Slovakia, khủng hoảng ngoại giao liên quan vụ bắt giữ ông Trịnh Xuân Thanh tại Berlin cũng như là những vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, có còn là rào cản trong mối liên hệ với nhà lãnh đạo quyền lực nhất hiện nay không ?Vũ Khang : Các nước phương Tây vẫn giương cao ngọn cờ dân chủ, nhân quyền khi có những trao đổi qua lại với chính quyền Việt Nam. Đây cũng là một cách để họ có thể ép Việt Nam phải có những nhượng bộ về ngoại giao. Họ có thể sử dụng những lá bài này để lên án Việt Nam trên trường quốc tế nhằm làm tổn hại uy tín của Việt Nam. Tuy vậy, việc sử dụng ngọn cờ dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong rất nhiều phương thức để phương Tây bảo vệ quyền lợi của họ trong quan hệ với Việt Nam.Chính việc dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong nhiều phương thức tạo điều kiện cho phương Tây. Đôi khi họ đặt những quyền lợi cốt lõi của họ, quyền lợi về kinh tế hoặc là quyền lợi về chính trị, lên trên cả những giá trị phổ quát về dân chủ, nhân quyền. Đơn cử Mỹ chẳng hạn, trong quá khứ, Mỹ cũng đã rất nhiều lần cho thấy là họ cũng không ngần ngại hợp tác, tăng cường quan hệ với nhà nước độc đảng nếu các nhà nước độc đảng đó có chung lợi ích với Mỹ.Và chính Liên Hiệp Châu Âu cũng đã đánh tín hiệu với chính quyền của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm là họ coi trọng, muốn hợp tác với chính quyền mới của ông khi phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh, ông Josep Borrell đã đến Việt Nam và dự lễ tang của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Sau khi dự lễ tang, ông đã có cuộc gặp với ông Tô Lâm. Chính cuộc gặp với một nhà lãnh đạo mới của Việt Nam cũng khẳng định rằng Liên Hiệp Châu Âu cũng không muốn những hiểu lầm, những sự kiện trong quá khứ làm tổn hại mối quan hệ giữa EU và nhà lãnh đạo mới của Việt Nam. Đọc thêm : Liên Hiệp Châu Âu muốn nâng cấp quan hệ với Việt NamCần phải nói rõ vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu đang ngày càng đi lên, nhất là khi Mỹ và các đồng minh đang nỗ lực chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc đến những nước “bớt thù nghịch hơn” như Việt Nam. Trong hoàn cảnh này, chính Liên Hiệp Châu Âu cũng không có lý do gì để một chuyện trong quá khứ hoặc những vấn đề dân chủ, nhân quyền làm tổn hại tương lai, lợi ích của họ khi chính họ cũng nhìn ra được rằng mở rộng hợp tác kinh tế với Việt Nam đang là xu thế toàn cầu và đang là một xu thế có lợi cho kinh tế của phương Tây.RFI : Mới đây, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm đã điện đàm với tổng thống Nga và hai bên khẳng định về mối quan hệ song phương. Trong thời gian tới, mối quan hệ giữa Việt Nam và Nga sẽ đi theo hướng như nào ?Vũ Khang : Trước khi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, vào tháng 07/2024, ông Tô Lâm đã là người đại diện cho chính quyền Việt Nam đón tổng thống Nga Vladimir Putin. Việc Nga gửi lời trao đổi với ông Tô Lâm trong tuần vừa rồi (ngày 08/08/2024) về việc Việt Nam và Nga muốn tăng cường quan hệ ngoại giao, thực ra không có gì là mới hay bất ngờ bởi vì từ xưa đến nay, chính sách đối ngoại của Nga luôn luôn coi Việt Nam là một trong những đối tác châu Á quan trọng song song với Ấn Độ khi mà Nga và Việt Nam có mối quan hệ quân sự từ rất lâu và quan hệ giữa hai nước chưa bao giờ gặp phải khủng hoảng đến mức trầm trọng như quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ hoặc với Trung Quốc. Đọc thêm : Việt Nam không ngại bị chỉ trích khi đón tổng thống Putin bị CPI truy nã vì "tội ác chiến tranh"Trong hoàn cảnh Việt Nam cũng nhận thấy rằng “ngoại giao cây tre” cần phải được liên tục phát triển và nhấn mạnh, thông qua việc Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác lớn như Mỹ, Trung Quốc và Nga, việc Việt Nam và Nga có cuộc điện đàm để tái khẳng định chuyến thăm của ông Putin đến Hà Nội là một điều rất bình thường và cũng là một điều nằm trong chính sách đối ngoại “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. Sự kiện đó cũng muốn tái khẳng định rằng chính sách “ngoại giao cây tre” của Việt Nam dưới thời tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sẽ không có gì thay đổi so với thời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Vũ Khang, trường Đại học Boston, Hoa Kỳ.*******(1) Nguyen Phu Trong's ‘Bamboo Diplomacy': Legacy in the Making?(2) Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp đổi mới đất nước
Sau khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời ngày 19/07/2024, chủ tịch nước Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, tạm giữ chức tổng bí thư, câu hỏi đang được đặt ra là chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “chiến dịch đốt lò”, do ông Trọng phát động rồi sẽ đi đến đâu? Cùng với cuộc chiến chống tham nhũng, đấu đá trong nội bộ đảng để giành chiếc ghế lãnh đạo tối cao sẽ diễn ra như thế nào từ đây đến Đại hội Đảng năm 2026? Tong phần tạp chí hôm nay, RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, về chủ đề này. RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, trước hết điểm lại những gì mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong cuộc chiến chống tham nhũng do chính ông phát động kể từ khi lên lãnh đạo đảng cách đây hơn 1 thập niên, anh nhận thấy có những điểm gì đáng ghi nhận?Lê Hồng Hiệp: “Có thể nói thành tựu quan trọng nhất của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại chính là đã phát động và dẫn dắt thành công một chiến dịch chống tham nhũng có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” nhắm vào các quan chức thuộc mọi cấp bậc.Từ năm 2011, khi bắt đầu nắm chức tổng bí thư, ông đã bắt đầu phát động chiến dịch này, nhưng do một số trở ngại, đặc biệt là có sự lãnh đạo chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng thời bấy giờ, vai trò của đảng và của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc chống tham nhũng còn hạn chế. Tuy nhiên, kể từ năm 2016, khi ông Trọng đã củng cố được quyền lực, chiến dịch này đã tăng tốc rất mạnh, tạo ra một làn sóng thanh lọc trong nội bộ đảng.Từ 2016 đến nay, có khoảng 139 ngàn đảng viên đã bị kỷ luật, trong đó có hơn 40 ủy viên trung ương đảng và 50 tướng lĩnh trong lực lượng quân đội, công an. Đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 2021 đến nay, có 7 ủy viên Bộ Chính trị, trong đó có những vị trong “tứ trụ”, như chủ tịch nước Võ Xuân Phúc, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ và nguyên Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai đã bị buộc phải thôi nhiệm vụ vì các lý do khác nhau liên quan đến các vụ tham nhũng. Để so sánh thì chúng ta thấy là từ 1986 đến 2016, không có một ủy viên Bộ Chính trị nào bị cách chức vì tham nhũng, chỉ có 9 ủy viên trung ương đảng bị kỷ luật vì các vi phạm liên quan đến tham nhũng.Trong cương vị tổng bí thư, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông Trọng là bảo vệ sự sinh tồn của đảng, cũng như duy trì vai trò cầm quyền của đảng. Ông luôn tâm niệm tham nhũng là mối đe dọa đối với sự tồn vong và vai trò lãnh đạo của đảng, chính vì vậy ông luôn nhấn mạnh chống tham nhũng là biện pháp để duy trì vai trò của đảng. Tham nhũng đã ăn rất sâu ở Việt Nam và đã gây tác hại rất lớn, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xảy ra nhiều vụ tham nhũng mà cho tới nay người ta vẫn phải mất rất nhiều công sức để giải quyết hậu quả.Bản thân ông Trọng cũng có nhu cầu dùng chiến dịch chống tham nhũng này để nâng cao vai trò kiểm soát của đảng, đặc biệt là sau thời kỳ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giai đoạn mà vai trò của bên chính phủ đã lấn át vai trò của lãnh đạo đảng. Cuộc chiến chống tham nhũng này cũng là một cách để giúp khôi phục vai trò kiểm soát của đảng trong hệ thống chính trị. Qua đó gián tiếp củng cố vai trò, quyền lực cá nhân của ban lãnh đạo đảng, trong đó có tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng."RFI: Như vậy những yếu tố nào đã giúp ông Nguyễn Phú Trọng có thể mạnh tay như thế trong chiến dịch chống tham nhũng?Lê Hồng Hiệp: "Ông Trọng hơi khác chút so với các lãnh đạo khác đó là ông được tiếng trong sạch thanh liêm, trong quá trình vươn lên nắm quyền, ông không dính vào các bê bối tham nhũng, ít nhất là cho đến lúc này. Chính vì vậy là ông có thẩm quyền đạo đức, có tiếng nói đủ lớn để có thể dẫn dắt cuộc chiến chống tham nhũng này mà không gặp sự kháng cự, không có các điểm yếu mà các đối thủ của ông có thể khai thác.Mặt khác, ông cũng có khả năng tập hợp được sự ủng hộ, hợp tác của một bộ phận lãnh đạo, từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cho tới bộ Công An và những cơ quan giúp thực thi chiến dịch này. Đặc biệt là ông Trọng đã đóng vai trò trong Đảng ủy Công an Trung ương, một vai trò mà các tổng bí thư trước ông Trọng chưa từng có, kiểm soát bộ Công an thành một công cụ hiệu quả trong việc chống tham nhũng. Nhờ vậy mà ông Trọng đã rất thành công trong việc thực hiện chiến dịch chống tham nhũng cho đến nay. Di sản đó được duy trì đến đâu trong thời gian tới?Đó vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.”RFI: Tuy chủ trương “Diệt chuột không để vỡ bình”, nhưng ta đã thấy là trong thời gian qua, kể cả các ủy viên Bộ Chính trị cũng bị kỹ luật, bị cách chức. Vậy thì chiến dịch chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng phát động đã có tác động như thế nào đến thượng tầng lãnh đạo của Đảng?Lê Hồng Hiệp:“Diệt chuột không để vỡ bình tức là không để ảnh hưởng tới sự sinh tồn của chế độ, không để những người mà đảng xem là “các thế lực thù địch”, hoặc những người chống đối vai trò lãnh đạo của đảng “lợi dụng” để làm suy yếu đảng. Chính vì vậy mà trong quá trình chống tham nhũng, thay vì nâng cao vai trò của báo chí, xã hội dân sự, những thành phần có thể đóng góp vào cuộc chiến chống tham nhũng bằng cách phơi bày các quan chức tham nhũng, thì trong thời kỳ vừa qua, đảng đã thắt chặt kiểm soát đối với báo chí và xã hội dân sự. Đảng muốn chống tham nhũng theo cách của đảng và các biện pháp được thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát của đảng, không thể ảnh hưởng đến an ninh chế độ.Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng những tác dụng phụ nhất định: Ngoài việc thắt chặt đối với không gian công cộng, không gian xã hội dân sự, không gian tự do báo chí ở Việt Nam, khi người ta nhấn mạnh đến chống tham nhũng, trong một số trường hợp, cuộc chiến chống tham nhũng biến thành công cụ tranh giành quyền lực hoặc thanh lọc các đối thủ chính trị. Rất nhiều lãnh đạo, kể cả trong “tứ trụ”, đã bị loại bỏ, bị thay thế, dẫn đến biến động trong cấu trúc thượng tầng lãnh đạo của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, họ sẽ không cho phép những biến động này ảnh hưởng tới an ninh của chế độ. Một tác dụng phụ khác, đó là cuộc chiến chống tham nhũng này cũng tạo ra cảm giác bất an, xuống tinh thần, trong một bộ phận cán bộ, công chức, thể hiện qua việc họ thường xuyên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, hay tránh đưa ra các quyết định về các dự án hay các quyết định đầu tư, do lo sợ trách nhiệm về mặt pháp lý khi đưa ra các quyết định mà sau này có thể bị coi là có vi phạm, ảnh hưởng tới sinh mệnh chính trị của họ. Việc đùn đẩy trách nhiệm, né tránh ra quyết định cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.Về lâu dài, những biến động về chính trị và trì trệ về kinh tế cũng là những thách thức mà đảng không thể bỏ qua, trong ngắn hạn không phải là vấn đề, nhưng nếu nó kéo dài quá lâu thì sẽ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, ổn định chính trị của đất nước và làm giảm uy tín của đảng. Chính vì vậy, tôi nghĩ trong tương lai có thể họ sẽ phải có một số điều chỉnh, không để các tác dụng phụ này kéo dài, ảnh hưởng quá lớn đến vai trò, uy tín của đảng, cũng như sự phát triển của đất nước.” RFI: Ngay trước khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời thì Bộ chính trị đã giao cho ông Tô Lâm tạm nắm quyền tổng bí thư, không biết ông sẽ nắm chức vụ này đến lúc nào, nhưng có vẻ như ông Tô Lâm đang có lợi thế rất lớn để tranh chức tổng bí thư sau này. Liệu có nguy cơ là kể từ nay ông có toàn quyền để tiếp tục chống tham nhũng nhưng là để củng cố thế lực cá nhân của ông? Lê Hồng Hiệp: “Hiện tại ông Tô Lâm có một số lợi thế trong việc kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên việc bầu ông Tô Lâm hay ai đó thì vẫn còn phải chờ quyết định của Bộ Chính trị và Trung ương đảng. Tuy nhiên, bất kể ai được bầu chọn thì cũng sẽ tiếp tục cuộc chiến chống tham nhũng này. Lý do thứ nhất đó là di sản ông Nguyễn Phú Trọng để lại quá lớn. Người kế nhiệm ông Trọng không thể làm ngơ trước di sản đó, không thể một sớm một chiều lật ngược di sản đó. Di sản quan trọng nhất của ông là chống tham nhũng, vì vậy người kế nhiệm sẽ gặp áp lực rất lớn, không thể không tiếp tục cuộc chiến này, để thể hiện tính chính danh của đảng, cũng như của bản thân người đó.Thứ hai, bản thân người kế nhiệm cũng thấy có lợi ích trong việc duy trì cuộc chiến chống tham nhũng này, cụ thể là sẽ tiếp tục sử dụng nó như một công cụ hiệu quả để kiểm soát nội bộ và có thể hướng tới kiểm soát các đối thủ chính trị, thông qua việc thanh trừng những người có thể là nguy cơ đối với quyền lực của họ. Cuộc chiến chống tham nhũng này vẫn sẽ tiếp tục dưới thời lãnh đạo mới. Vấn đề đặt ra là cách thức tiến hành của họ sẽ như thế nào, quy mô, cũng như cường độ của cuộc chiến sẽ ra sao. Có thể sẽ có một số điều chỉnh, ví dụ như họ có thể có những sáng kiến mới để vừa duy trì được nhiệm vụ chống tham nhũng, vừa hóa giải được một số thách thức về phát triển kinh tế xã hội phù hợp với mục tiêu của nhà lãnh đạo mới, tức là vừa duy trì được quyền lực, vừa có thể chống tham nhũng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cũng như duy trì được sự ổn định trong thượng tầng kiến trúc của hệ thống chính trị. Liệu ông Tô Lâm, hay một ai đó, có sẽ thay đổi cách tiếp cận hay không? Chúng ta hãy chờ xem.”
Sau khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời ngày 19/07/2024, chủ tịch nước Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, tạm giữ chức tổng bí thư, câu hỏi đang được đặt ra là chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “chiến dịch đốt lò”, do ông Trọng phát động rồi sẽ đi đến đâu? Cùng với cuộc chiến chống tham nhũng, đấu đá trong nội bộ Đảng để giành chiếc ghế lãnh đạo tối cao sẽ diễn ra như thế nào từ đây đến Đại Hội Đảng năm 2026? RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, về chủ đề này. RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, trước hết điểm lại những gì mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong cuộc chiến chống tham nhũng do chính ông phát động kể từ khi lên lãnh đạo Đảng cách đây hơn 1 thập niên, anh nhận thấy có những điểm gì đáng ghi nhận?Lê Hồng Hiệp: “Có thể nói thành tựu quan trọng nhất của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại chính là đã phát động và dẫn dắt thành công một chiến dịch chống tham nhũng có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” nhắm vào các quan chức thuộc mọi cấp bậc.Từ năm 2011, khi bắt đầu nắm chức tổng bí thư, ông đã bắt đầu phát động chiến dịch này, nhưng do một số trở ngại, đặc biệt là có sự lãnh đạo chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng thời bấy giờ, vai trò của Đảng và của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc chống tham nhũng còn hạn chế. Tuy nhiên, kể từ năm 2016, khi ông Trọng đã củng cố được quyền lực, chiến dịch này đã tăng tốc rất mạnh, tạo ra một làn sóng thanh lọc trong nội bộ Đảng.Từ 2016 đến nay, có khoảng 139 ngàn đảng viên đã bị kỷ luật, trong đó có hơn 40 ủy viên Trung ương Đảng và 50 tướng lĩnh trong lực lượng quân đội, công an. Đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 2021 đến nay, có 7 ủy viên Bộ Chính Trị, trong đó có những vị trong “tứ trụ”, như chủ tịch nước Võ Xuân Phúc, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ và nguyên Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai đã bị buộc phải thôi nhiệm vụ vì các lý do khác nhau liên quan đến các vụ tham nhũng. Để so sánh thì chúng ta thấy là từ 1986 đến 2016, không có một ủy viên Bộ Chính Trị nào bị cách chức vì tham nhũng, chỉ có 9 ủy viên Trung ương Đảng bị kỷ luật vì các vi phạm liên quan đến tham nhũng.Trong cương vị tổng bí thư, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông Trọng là bảo vệ sự sinh tồn của Đảng, cũng như duy trì vai trò cầm quyền của Đảng. Ông luôn tâm niệm tham nhũng là mối đe dọa đối với sự tồn vong và vai trò lãnh đạo của Đảng, chính vì vậy ông luôn nhấn mạnh chống tham nhũng là biện pháp để duy trì vai trò của Đảng. Tham nhũng đã ăn rất sâu ở Việt Nam và đã gây tác hại rất lớn, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xảy ra nhiều vụ tham nhũng mà cho tới nay người ta vẫn phải mất rất nhiều công sức để giải quyết hậu quả.Bản thân ông Trọng cũng có nhu cầu dùng chiến dịch chống tham nhũng này để nâng cao vai trò kiểm soát của Đảng, đặc biệt là sau thời kỳ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giai đoạn mà vai trò của bên chính phủ đã lấn át vai trò của lãnh đạo Đảng. Cuộc chiến chống tham nhũng này cũng là một cách để giúp khôi phục vai trò kiểm soát của Đảng trong hệ thống chính trị. Qua đó gián tiếp củng cố vai trò, quyền lực cá nhân của ban lãnh đạo Đảng, trong đó có tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng."RFI: Như vậy những yếu tố nào đã giúp ông Nguyễn Phú Trọng có thể mạnh tay như thế trong chiến dịch chống tham nhũng?Lê Hồng Hiệp: "Ông Trọng hơi khác chút so với các lãnh đạo khác đó là ông được tiếng trong sạch thanh liêm, trong quá trình vươn lên nắm quyền, ông không dính vào các bê bối tham nhũng, ít nhất là cho đến lúc này. Chính vì vậy là ông có thẩm quyền đạo đức, có tiếng nói đủ lớn để có thể dẫn dắt cuộc chiến chống tham nhũng này mà không gặp sự kháng cự, không có các điểm yếu mà các đối thủ của ông có thể khai thác.Mặt khác, ông cũng có khả năng tập hợp được sự ủng hộ, hợp tác của một bộ phận lãnh đạo, từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cho tới bộ Công An và những cơ quan giúp thực thi chiến dịch này. Đặc biệt là ông Trọng đã đóng vai trò trong Đảng ủy Công an Trung ương, một vai trò mà các tổng bí thư trước ông Trọng chưa từng có, kiểm soát bộ Công An thành một công cụ hiệu quả trong việc chống tham nhũng. Nhờ vậy mà ông Trọng đã rất thành công trong việc thực hiện chiến dịch chống tham nhũng cho đến nay. Di sản đó được duy trì đến đâu trong thời gian tới? Đó vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.”RFI: Tuy chủ trương “Diệt chuột không để vỡ bình”, nhưng ta đã thấy là trong thời gian qua, kể cả các ủy viên Bộ Chính Trị cũng bị kỷ luật, bị cách chức. Vậy thì chiến dịch chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng phát động đã có tác động như thế nào đến thượng tầng lãnh đạo của Đảng?Lê Hồng Hiệp:“Diệt chuột không để vỡ bình tức là không để ảnh hưởng tới sự sinh tồn của chế độ, không để những người mà Đảng xem là “các thế lực thù địch”, hoặc những người chống đối vai trò lãnh đạo của Đảng “lợi dụng” để làm suy yếu Đảng. Chính vì vậy mà trong quá trình chống tham nhũng, thay vì nâng cao vai trò của báo chí, xã hội dân sự, những thành phần có thể đóng góp vào cuộc chiến chống tham nhũng bằng cách phơi bày các quan chức tham nhũng, thì trong thời kỳ vừa qua, Đảng đã thắt chặt kiểm soát đối với báo chí và xã hội dân sự. Đảng muốn chống tham nhũng theo cách của Đảng và các biện pháp được thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát của Đảng, không thể ảnh hưởng đến an ninh chế độ.Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng những tác dụng phụ nhất định: Ngoài việc thắt chặt đối với không gian công cộng, không gian xã hội dân sự, không gian tự do báo chí ở Việt Nam, khi người ta nhấn mạnh đến chống tham nhũng, trong một số trường hợp, cuộc chiến chống tham nhũng biến thành công cụ tranh giành quyền lực hoặc thanh lọc các đối thủ chính trị. Rất nhiều lãnh đạo, kể cả trong “tứ trụ”, đã bị loại bỏ, bị thay thế, dẫn đến biến động trong cấu trúc thượng tầng lãnh đạo của đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, họ sẽ không cho phép những biến động này ảnh hưởng tới an ninh của chế độ. Một tác dụng phụ khác, đó là cuộc chiến chống tham nhũng này cũng tạo ra cảm giác bất an, xuống tinh thần, trong một bộ phận cán bộ, công chức, thể hiện qua việc họ thường xuyên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, hay tránh đưa ra các quyết định về các dự án hay các quyết định đầu tư, do lo sợ trách nhiệm về mặt pháp lý khi đưa ra các quyết định mà sau này có thể bị coi là có vi phạm, ảnh hưởng tới sinh mệnh chính trị của họ. Việc đùn đẩy trách nhiệm, né tránh ra quyết định cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.Về lâu dài, những biến động về chính trị và trì trệ về kinh tế cũng là những thách thức mà Đảng không thể bỏ qua, trong ngắn hạn không phải là vấn đề, nhưng nếu nó kéo dài quá lâu thì sẽ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, ổn định chính trị của đất nước và làm giảm uy tín của Đảng. Chính vì vậy, tôi nghĩ trong tương lai có thể họ sẽ phải có một số điều chỉnh, không để các tác dụng phụ này kéo dài, ảnh hưởng quá lớn đến vai trò, uy tín của Đảng, cũng như sự phát triển của đất nước.” RFI: Ngay trước khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, Bộ Chính Trị đã giao cho ông Tô Lâm tạm nắm quyền tổng bí thư, không biết ông sẽ nắm chức vụ này đến lúc nào, nhưng có vẻ như ông Tô Lâm đang có lợi thế rất lớn để tranh chức tổng bí thư sau này. Liệu có nguy cơ là kể từ nay ông có toàn quyền để tiếp tục chống tham nhũng nhưng là để củng cố thế lực cá nhân của ông? Lê Hồng Hiệp: “Hiện tại ông Tô Lâm có một số lợi thế trong việc kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên việc bầu ông Tô Lâm hay ai đó thì vẫn còn phải chờ quyết định của Bộ Chính Trị và Trung ương Đảng. Tuy nhiên, bất kể ai được bầu chọn thì cũng sẽ tiếp tục cuộc chiến chống tham nhũng này. Lý do thứ nhất đó là di sản ông Nguyễn Phú Trọng để lại quá lớn. Người kế nhiệm ông Trọng không thể làm ngơ trước di sản đó, không thể một sớm một chiều lật ngược di sản đó. Di sản quan trọng nhất của ông là chống tham nhũng, vì vậy người kế nhiệm sẽ gặp áp lực rất lớn, không thể không tiếp tục cuộc chiến này, để thể hiện tính chính danh của Đảng, cũng như của bản thân người đó.Thứ hai, bản thân người kế nhiệm cũng thấy có lợi ích trong việc duy trì cuộc chiến chống tham nhũng này, cụ thể là sẽ tiếp tục sử dụng nó như một công cụ hiệu quả để kiểm soát nội bộ và có thể hướng tới kiểm soát các đối thủ chính trị, thông qua việc thanh trừng những người có thể là nguy cơ đối với quyền lực của họ. Cuộc chiến chống tham nhũng này vẫn sẽ tiếp tục dưới thời lãnh đạo mới. Vấn đề đặt ra là cách thức tiến hành của họ sẽ như thế nào, quy mô, cũng như cường độ của cuộc chiến sẽ ra sao. Có thể sẽ có một số điều chỉnh, ví dụ như họ có thể có những sáng kiến mới để vừa duy trì được nhiệm vụ chống tham nhũng, vừa hóa giải được một số thách thức về phát triển kinh tế xã hội phù hợp với mục tiêu của nhà lãnh đạo mới, tức là vừa duy trì được quyền lực, vừa có thể chống tham nhũng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cũng như duy trì được sự ổn định trong thượng tầng kiến trúc của hệ thống chính trị. Liệu ông Tô Lâm, hay một ai đó, có sẽ thay đổi cách tiếp cận hay không? Chúng ta hãy chờ xem.”
Việt Nam tổ chức Triển lãm Quốc phòng Quốc tế lần thứ 2 tại Hà Nội từ ngày 10-22/12/2024. Đây sẽ là cơ hội để Việt Nam mở rộng tiếp xúc, tìm đối tác mới trong bối cảnh Nga - nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Hà Nội - vẫn bị trừng phạt do gây chiến ở Ukraina. Dù có ngân sách mua sắm vũ khí hàng năm khoảng 1 tỉ đô la, Việt Nam đã không ký bất kỳ hợp đồng nào năm 2023. Trong báo cáo ngày 11/03/2024, Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế (SIPRI) cho biết Hà Nội chỉ nhận một tầu hộ tống loại biên do Ấn Độ tặng. Giáo sư Carl Thayer cho rằng « Trung Quốc sẽ gia tăng lợi thế về sức mạnh quân sự quy ước nếu Việt Nam tiếp tục giậm chân tại chỗ ».Tại sao Việt Nam không nhập khẩu vũ khí năm 2023 ? Năng lực quốc phòng của Việt Nam sẽ bị tác động như nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.RFI : Viện SIPRI cho biết Việt Nam gần như không mua vũ khí trong năm 2023. Cần hiểu sự kiện này như thế nào ?Nguyễn Thế Phương : Có nhiều lý giải cho sự kiện lần này. Thứ nhất, phải đặt trong bối cảnh là cuộc chiến Nga-Ukraina đang diễn ra hết sức khốc liệt. Có thể nói Nga là đối tác cung cấp vũ khí hàng đầu của Việt Nam. Việc Nga bị vướng vào cuộc chiến, bị phương Tây cấm vận và khả năng các quốc gia mua vũ khí của Nga sẽ bị cấm vận, đặt Việt Nam trong một tình thế khá là khó khi mà Việt Nam, ở thời điểm hiện tại, hầu như là không thể mua sắm các loại vũ khí mới.Nhưng nếu nhìn lại trong báo cáo, ngân sách quốc phòng của Việt Nam vẫn tăng. Vậy có thể hiểu như thế nào ? Ngân sách dành cho mua sắm vũ khí nước ngoài giảm xuống, chủ yếu vẫn là do cuộc chiến Nga và Ukraina và những vấn đề phức tạp địa-chính trị. Nhưng các chi tiêu khác cho quân đội vẫn gia tăng : Chi tiêu cho lương bổng, hỗ trợ, hành chính ; Chi tiêu liên quan đến vấn đề bảo trì-bảo dưỡng vũ khí ; Chi tiêu cho nghiên cứu khoa học. Đặt nghiên cứu này trong bối cảnh Việt Nam đã hướng tới ưu tiên phát triển một tổ hợp công nghiệp quốc phòng trong tương lai nên việc Việt Nam đầu tư, chi nhiều tiền vào nghiên cứu và phát triển cũng là việc hiển nhiên. Chưa kể đến việc sắp tới quy mô quân đội sẽ diễn ra nhiều thay đổi, ví dụ lục quân tái cấu trúc, chuẩn bị đầu tư một số dự án phát triển mới, do đó ngân sách quốc phòng sẽ tiếp tục tăng lên. Đọc thêm : Chính sách quốc phòng "Bốn Không" của Việt Nam và thực tế ở Biển ĐôngThứ ba, hiện nay, tỉ lệ ngân sách quốc phòng trên tổng GDP của Việt Nam là dưới 3%. Trong tương lai, khi GDP tăng lên, rõ ràng số tuyệt đối về ngân sách quốc phòng sẽ phải tăng theo. Tỉ trọng chi tiêu quốc phòng so với GDP sẽ tăng. Và hai cái tăng này sẽ làm cho chỉ số tuyệt đối tiếp tục tăng mạnh hơn trong tương lai. Như báo cáo của SIPRI, tới năm 2030, tổng chi tiêu quốc phòng của Việt Nam sẽ là từ 10 đến 12 tỉ, chưa kể những chi tiêu mà Việt Nam không đưa vào ngân sách quốc phòng chính thức nhưng có liên quan đến quân đội, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến kinh tế của quân đội, ví dụ những tập đoàn kinh tế quân đội. Con số đó sẽ nhiều hơn 12 tỉ. Đó là lý do giải thích cho việc ngân sách quốc phòng của Việt Nam sắp tới sẽ vẫn tiếp tục tăng, nhưng chi tiêu cho mua sắm vũ khí nước ngoài sẽ giảm. Và hiện tượng đó bắt đầu từ cuộc chiến Nga và Ukraina năm 2022.RFI : Sự sụt giảm này có thể tác động như thế nào đến khả năng phòng thủ của Việt Nam, đặc biệt trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột trong vùng, theo như đánh động của một số chuyên gia ? Nguyễn Thế Phương : Việc này sẽ tác động tương đối lớn tới khả năng Việt Nam có thể tiến hành hoặc tham gia vào một cuộc xung đột cường độ cao, bởi vì quân đội là một mắt xích rất quan trọng trong toàn bộ hệ thống quốc phòng, cũng như các lực lượng vũ trang và họ sẽ là lực lượng gánh vác sứ mệnh cao nhất khi có xung đột cường độ cao xảy ra.Theo nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, các lực lượng như hải quân, không quân, một số lực lượng tác chiến điện tử, lực lượng đặc biệt… sẽ được hiện đại hóa ngay lập tức. Mục tiêu này cho đến năm 2030 chắc chắn sẽ bị tác động tương đối lớn bởi cuộc chiến Nga-Ukraina, vì Nga là đối tác quốc phòng và an ninh quan trọng nhất của Việt Nam trong mua bán vũ khí, đặc biệt là những vũ khí lớn, ví dụ xe tăng, máy bay, tàu chiến. Đọc thêm : Tác động của chiến tranh Ukraina đến chương trình hiện đại hóa quân sự của Việt NamQuá trình đa dạng hóa nguồn cung vũ khí từ nước ngoài đã diễn ra trước cuộc chiến Nga-Ukraina, nhưng còn chậm. Tuy nhiên, sau khi xảy ra chiến tranh Nga-Ukraina, quá trình này bắt đầu được đẩy nhanh hơn, với việc Việt Nam tiếp xúc với rất nhiều đối tác quốc phòng khác ngoài Nga, mà không phải là truyền thống. Đối tác truyền thống có có Israel, Ấn Độ. Bây giờ, Việt Nam bắt đầu mở rộng ra, có Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia khác ở Đông Âu, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã có tiếp xúc.Sự kiện này cho thấy rằng Việt Nam đang cố gắng đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa nguồn cung nhưng không tiến triển nhanh được, cũng sẽ phải có một khoảng thời gian để Việt Nam có thể làm quen, tiếp xúc, để thay đổi một số cấu trúc bên trong quân đội để có thể thích ứng quá trình mới. Nhưng hiện nay, Việt Nam đầu tư cho các lực lượng, đặc biệt là các lực lượng hàng hải, ví dụ hải cảnh, dân quân biển, kiểm ngư, bởi vì trong nhãn quan của quân đội Việt Nam, ở thời điểm hiện tại, mối nguy hại cao nhất vẫn là những điểm nóng xung đột cường độ thấp.Cường độ thấp ở đây là gì ? Có thể hiểu một cách nôm na là chiến lược hoặc là chiến thuật « vùng xám » của Trung Quốc, có thể nhìn thấy rõ nhất thông qua những gì Trung Quốc đang làm với Philippines ở Bãi Cỏ Mây. Đó chính là xung đột cường độ thấp. Trung Quốc không sử dụng hải quân, không đe dọa tiến hành chiến tranh xâm lược vào lãnh thổ của một nước khác. Ít nhất là ở thời điểm hiện tại, họ chỉ sử dụng các lực lượng hải cảnh, dân quân biển để tăng cường sức ép lên quốc gia nhỏ hơn liên quan đến tranh chấp Biển Đông. Quân đội Việt Nam hiện nay ưu tiên kiểu này nhiều hơn, bằng chứng là họ đầu tư rất nhiều cho lực lượng hải cảnh, dân quân biển, kiểm ngư. Đọc thêm : Hợp tác an ninh hàng hải giữa Úc với Việt Nam sẽ “không phô trương” như với Philippines Trước mắt, quá trình hiện đại hóa không quân và hải quân, tức là những lực lượng chuyên biệt đối phó với các xung đột cường độ cao sẽ bị chững lại. Nhưng với ưu tiên quốc phòng của Việt Nam hiện nay, sự chững lại đó là chấp nhận được khi mà khả năng xảy ra xung đột cường độ cao không có nhiều. Hiện nay, mối đe dọa chủ quyền và an ninh lớn nhất đối với Việt Nam là các xung đột cường độ thấp do Trung Quốc gây ra. Vì thế hiện nay, song song với việc vẫn tiếp tục những yếu tố như quan hệ với các quốc gia, mở rộng và đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, đầu tư vào công nghiệp quốc phòng nội địa, thì một phần nguồn lực quốc phòng sẽ đầu tư ngược lại cho các lực lượng chuyên đối phó với các xung đột cường độ thấp.RFI : Việt Nam chú trọng phát triển ngành công nghiệp quốc phòng trong nước. Lĩnh vực này hiện đáp ứng được đến mức nào nhu cầu của quốc phòng Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Tổng Cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam đã liệt kê ra một số mũi nhọn mà ngành công nghiệp quốc phòng và các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Việt Nam sẽ cố gắng đáp ứng trong tương lai. Danh mục đó khá là dài, nhưng tóm tắt lại thì có thể nói hiện nay, Việt Nam có khả năng làm chủ công nghệ sản xuất một số loại vũ khí liên quan đến bộ binh, như súng đạn, lựu đạn, pháo hoặc một số yếu tố liên quan đến công nghệ cao, tác chiến điện tử, thiết bị không người lái thì Việt Nam cũng dần dần tiếp cận được. Hoặc trong lĩnh vực đóng tàu, các loại tàu của cảnh sát biển, kiểm ngư, dân quân biển, thì ngành công nghiệp đóng tàu nội địa Việt Nam, cả dân sự lẫn quân sự, đều đã có khả năng đóng những lớp tàu đó. Đọc thêm : Việt Nam gia tăng hợp tác quân sự với Israel nhằm làm chủ công nghệ quốc phòngNhưng vấn đề ở đây là những loại thiết bị công nghệ cao thì hiện giờ Việt Nam vẫn hoàn toàn phải nhập khẩu, đặc biệt là các loại công nghệ nền và công nghệ lõi để vũ khí đó có thể vận hành được. Do đó, năng lực của công nghiệp quốc phòng Việt Nam, mặc dù đã phát triển hơn trước rất nhiều, rất là tốt so với trước đây, không những phục vụ cho nhu cầu của quân đội Việt Nam mà một số sản phẩm hoặc bán thành phẩm của công nghiệp quốc phòng Việt Nam đã được xuất khẩu ra nước ngoài, nhưng đó chỉ là những sản phẩm có nền công nghệ ở tầm thấp đến tầm trung. Những sản phẩm đó chỉ đáp ứng một phần khả năng, cũng như nhu cầu của quân đội.Đặc biệt ngay cả trong tương lai tầm trung từ 10-15 năm, Việt Nam vẫn chưa có khả năng tạo ra được một loại vũ khí lớn, ví dụ máy bay, tầu chiến. Do đó, hiện tại vẫn cần có thời gian rất dài để có thể có đủ nguồn lực để đầu tư tập trung phát triển công nghệ, tiếp theo là tập trung công nghệ. Muốn làm được việc đó, hiện nay phải đi tìm và chi nguồn lực cho vấn đề đó. Đây cũng là một phần lý do giải thích tại sao ngân sách quốc phòng sẽ vẫn tiếp tục tăng trong tương lai.RFI : Nhật Bản sửa đổi chính sách, bật đèn xanh cho xuất khẩu chiến đấu cơ hợp tác chung với Ý và Anh. Việt Nam được nêu trong danh sách các thị trường tiềm năng. Về lâu dài, liệu Nhật Bản sẽ trở thành đối tác bền vững của Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Nhật Bản là một trong những đối tác đang nổi của quốc phòng và an ninh Việt Nam, cũng như là của ngành công nghiệp quốc phòng. Ngoài Nhật Bản, còn có Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác, một số quốc gia phương Tây, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Ấn Độ.Vấn đề ở đây là từ « tiềm năng » đến « thực tế » là một khoảng cách tương đối xa và cần nỗ lực rất lớn của cả Việt Nam và Nhật Bản trong việc định hình chính sách cụ thể để biến « tiềm năng » thành thực tế. Việc này thực sự không đơn giản và cần thời gian. Ví dụ sẽ phải xác định xem lĩnh vực nào, loại khí tài cụ thể nào cả hai bên mong muốn phát triển hoặc trao đổi mua bán với nhau, số lượng như nào. Đặc biệt Việt Nam sẽ mong muốn rằng nếu có khả năng, Nhật Bản sẽ chuyển giao một số loại công nghệ quốc phòng cho Việt Nam. Và Việt Nam cũng phải xác định cụ thể Nhật Bản có thế mạnh gì. Sự sẵn sàng của Nhật cũng rất quan trọng, bởi vì toàn bộ hệ thống công nghệ quốc phòng của Nhật Bản liên quan mật thiết đến công nghệ quốc phòng của Mỹ. Mối quan hệ quốc phòng Việt-Nhật có thể phát triển tốt cũng dựa vào mối quan hệ Việt - Mỹ tốt đẹp. Đọc thêm : Nhật Bản, Việt Nam ký thỏa thuận chuyển giao thiết bị, công nghệ quốc phòngCho nên, tiềm năng là có và tương đối lớn. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây vẫn là các chính sách tư duy cụ thể để biến tiềm năng thành thực tế. Trong trường hợp của Việt Nam, những điểm này không nhanh được, cần thời gian và trong nhiều trường hợp là cần khá nhiều thời gian để biến thành hiện thực. Cho nên, hãy đặt kỳ vọng đó trong giai đoạn 10 năm. Sau năm 2030 mới kỳ vọng thấy được điều gì đó cụ thể. Còn từ đây đến 2030 chỉ là quá trình đặt nền tảng cho quan hệ quốc phòng Việt-Nhật chứ chưa có gì nổi trội. Cùng lắm là Việt Nam có thể mua một số khí tài đã qua sử dụng của Nhật Bản, cũng không phải là những khí tài lớn, không phải máy bay, xe tăng hay tầu chiến, mà là chuyển giao công nghệ, hoặc những khí tài như tên lửa nhưng đã qua sử dụng.Thứ hai, tiềm năng giữa Việt Nam và Nhật Bản về hợp tác an ninh quốc phòng cũng phải đặt trong bối cảnh Việt Nam quan tâm nhất hiện nay đến việc gì. Đó chính là xung đột cường độ thấp và sẽ tập trung nhiều hơn vào những "phần mềm" của hợp tác quốc phòng : huấn luyện, trao đổi đoàn, hỗ trợ ODA, một số tàu tuần tra… Những điểm này sẽ được tiếp tục đẩy mạnh. Còn về xung đột cường độ cao liên quan đến những vũ khí lớn thì phải cần rất nhiều thời gian.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.
Milan Kundera, nhà văn nổi tiếng quốc tế với những tác phẩm văn học bất đồng chính kiến ở Tiệp Khắc thời Cộng Sản. Trong Tập sách cái cười và sự lãng quên - Le Livre du rire et de l'oubli là những cái cười « ra nước mắt », còn « sự lãng quên » là « cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực, là cuộc đấu tranh của trí nhớ chống lại sự lãng quên ». Sinh năm 1929 tại Brno ông đã định cư tại Pháp từ năm 1975 do sách của ông bị kiểm duyệt và tác giả đã bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản Tiệp Khắc. Khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, Tiệp Khắc trở thành hai quốc gia Cộng Hòa Séc và Slovakia.Hai trong số rất nhiều tác phẩm của ông đã được dịch giả Trịnh Y Thư dịch sang tiếng Việt, đấy là Tập sách Cái cười và sự lãng quên - Le Livre du rire et de l'oubli (1978) và Đời nhẹ khôn kham -L'insoutenable légèreté de l'être (1984).Trong bài tưởng niệm nhà văn Kundera vừa qua đời tại Paris hồi tháng 7/2023, dịch giả Trịnh Y Thư đã nhắc lại « Đời nhẹ khôn kham, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Kundera, mở đầu với cảnh xe tăng Liên Xô nghiến nát đường phố Praha, thủ đô của Cộng hòa Séc, là quê hương của tác giả cho đến khi ông sang Pháp chọn cuộc đời lưu vong từ năm 1975. Đan xen các chủ đề về tình yêu và sự lưu vong, chính trị mang tính cá nhân sâu sắc, tiểu thuyết của Kundera đã giành được sự tán thưởng của giới phê bình, giúp ông có được lượng độc giả rộng rãi chẳng những ở phương Tây mà còn khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam ».Cùng với dịch giả Trịnh Y Thư mời quý vị cùng tìm đến với Tập sách cái cười và sự lãng quên, được ông dịch sang tiếng Việt, xuất bản tháng 1/2021. *****RFI : Xin kính chào dịch giả Trịnh Y Thư, Le livre du rire et de l'oubli là một cuốn tiểu thuyết với cấu trúc lạ kỳ, với những câu chuyện khác nhau và đôi khi tác giả tưởng chừng là « lười biếng » khi cần đặt tựa cho mỗi truyện ngắn của ông : Trịnh Y Thư : Kundera viết Tập sách cái cười và sự lãng quên vào quãng giữa thập niên 70. Tác phẩm có bẩy phần. Gọi mỗi phần là một truyện ngắn cũng đúng, nhưng theo chính Kundera, ta nên xem nó là một tổ khúc, như tổ khúc âm nhạc gồm bẩy biến tấu mà mỗi biến tấu là một cuộc truy tìm hiện hữu khác nhau. Khác nhau nhưng vẫn có sự liền lạc chặt chẽ bởi mô-típ thắt buộc toàn tác phẩm : Cái cười và Sự lãng quên. Những phần của sách nối tiếp nhau như những chặng đường chuyến du hành dẫn đến cái nội tại của chủ đề, nội tại một suy tưởng, nội tại một tình huống duy nhất, giản dị, mà cái hiểu cứ dần dà trôi mất về cõi xa, ra khỏi tầm nhìn của chính tác giả.Nếu bạn đọc cuốn sách này một cách kiên nhẫn và thành tâm, nó có thể thay đổi cuộc đời bạn.RFI : Nửa thế kỷ từ ngày tác phẩm này được xuất bản, giờ đây điều gì có thể thôi thúc độc giả tìm đến với Tập sách cái cười và sự lãng quên ?Trịnh Y Thư : Lý do giản dị lắm, thưa chị, vì đó là một tác phẩm cực hay. Tôi xin mượn phát biểu của ba nhà văn, nhà phê bình Mỹ nói về cuốn sách này của Kundera. John Updike từng đánh giá đây là cuốn sách xuất sắc và độc sáng, được viết với sự trong trẻo và minh triết, nó mời mọc chúng ta trực tiếp đi vào. Còn John Leonard thì quan niệm Tập sách cái cười và sự lãng quên tự gọi là một cuốn tiểu thuyết, mặc dù nó là một phần truyện thần tiên, một phần phê bình, một phần chính luận, một phần nhạc học, một phần tự truyện. Nó có thể gọi bất kỳ cái gì nó muốn, bởi tổng thể cuốn sách là một thiên tài. Ted Solotaroff nhận xét, ảo diệu… Nếu bạn đọc cuốn sách này một cách kiên nhẫn và thành tâm, nó có thể thay đổi cuộc đời bạn.Thiết tưởng, với những lời ca ngợi ấy, cuốn sách rất xứng đáng được nằm trên kệ sách của tất cả những ai quan tâm đến chữ nghĩa.Milan Kundera : « Con người luôn luôn ấp ủ tham vọng muốn viết lại tiểu sử của chính mình, muốn thay đổi quá khứ, muốn bôi xóa mọi dấu vết của chính hắn và kẻ khác »RFI : Về « cái cười » và về « sự lãng quên » : chúng ta có dễ tìm đến với « cái cười » của Kundera hay không ? Còn « sự lãng quên », những nguyên nhân nào dẫn tới « cái quên » đó và các nhân vật trong tiểu thuyết của Kundera cần « quên » cái gì ?Trịnh Y Thư : Đọc Kundera, chúng ta dễ dàng nhận ra tính hài (và ở chừng mực nào đó, châm biếm) thấm đẫm trong văn ông. Kỳ thực, đối với ông, hài là một thuộc tính bất khả tách ly của văn chương. Tập sách cái cười và sự lãng quên không thiếu những mạch đoạn khiến người đọc cười chảy nước mắt, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta hiểu chủ ý của ông là chọc cười độc giả. Để hiểu tính hài của Kundera, ta phải tìm hiểu tính hài trong văn Kafka. Vâng, chính Kafka đã cho ông nguồn cảm hứng bất tận đem tính hài vào văn chương. Kafka lấy mặt nạ của cái khả lý đeo lên cái bất khả lý, trong lúc tuyệt đối duy trì tính chính xác tâm lý, nó khiến tiểu thuyết của ông mang vẻ mê hoặc, huyền ảo lạ lùng. Chuyện bông đùa, giai thoại, chuyện hài hước: chúng là những bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy giữa cảm quan nhạy bén của hiện thực và thần trí tưởng tượng, tiểu thuyết liều lĩnh đi vào cái bất khả lý. Kundera bảo như vậy.Còn « Sự lãng quên », cụm từ này có ý nghĩa gì trong tác phẩm ? Ta hãy nghe chính Kundera định nghĩa như sau về « sự lãng quên » và nó chính là chủ đề tái hiện hoài hoài suốt cuốn sách. Kundera bảo : « Cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực là cuộc đấu tranh của trí nhớ chống lại sự lãng quên ». Về điểm này, Kundera nói rõ trong tập tiểu luận Nghệ thuật tiểu thuyết : « Con người luôn luôn ấp ủ tham vọng muốn viết lại tiểu sử của chính mình, muốn thay đổi quá khứ, muốn bôi xóa mọi dấu vết của chính hắn và kẻ khác ». Ông cũng nói thêm, nó không phải sự lừa dối, nó tuyệt đối không có công lý trong đó, nhưng cùng lúc nó đem lại nguồn an ủi.Kundera không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần như thù hận, với nước Nga, bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai họa và thống khổ cho quê hương, dân tộc ông, thậm chí cho chính cá nhân ông, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc giữa những dòng chữ ông viết để tìm kiếm một thông điệp hay luận đề chính trị nào. RFI : Ngoài « cái cười » và « sự lãng quên » tiểu thuyết này của Milan Kundera đầy thi vị và có thể nói là một Kundera đã viết về tình yêu ? Tuy nhiên bối cảnh chính trị thời kỳ Chiến Tranh lạnh, hình bóng của một chế độ toàn trị luôn ẩn hiện trong các tác phẩm của ông. Đọc Kundera dưới lăng kính đó, không thể phủ nhận là sách của ông rất mang tính thời sự. Trịnh Y Thư : Đúng vậy, thưa chị, mặc dù tiểu thuyết Kundera không thiếu những mạch đoạn viết về chính trị – đúng hơn lịch sử chính trị – và ông không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần như thù hận, với nước Nga, bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai họa và thống khổ cho quê hương, dân tộc ông, thậm chí cho chính cá nhân ông, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc giữa những dòng chữ ông viết để tìm kiếm một thông điệp hay luận đề chính trị nào. Ông có vẻ dị ứng với tất cả những điều đó.Với ông, lịch sử chỉ là tấm phông trừu tượng mà ông ví tiểu thuyết gia như nhà thiết kế sân khấu kịch sử dụng một cách dè sẻn để kiến dựng một tiết kịch. Câu nói « Tiểu thuyết gia không phải kẻ hầu của sử gia » thường được ông nhắc đi nhắc lại trong những bài tiểu luận. Cũng như hầu hết các tiểu thuyết gia tầm vóc khác của thế giới, Kundera cương quyết chống lại mọi chủ thuyết luận đề trong văn chương. Tuy vậy, bàng bạc trong những tác phẩm của ông, người ta nhận thấy những chủ đề sau hiển lộ rõ ràng : cuộc sống lưu vong ; căn tính, đời sống vượt qua lằn ranh biên thùy (bên kia tình yêu, bên kia nghệ thuật, bên kia sự nghiêm túc) ; lịch sử như cái gì liên tục trở lại ; và lạc thú của một đời sống ít có những điều « quan trọng ».Bởi, như phần lớn chúng ta, Kundera chẳng thể nào đứng ngoài những biến động lịch sử khốc liệt của thế hệ ông. Thế kỷ XX, châu Âu của ông chứng kiến sự đổ nát kinh hoàng chưa từng thấy trước đó bao giờ. Hai cuộc Thế chiến, Lò thiêu, Quốc xã, Quân phiệt, Cộng sản, như những bóng ma, cho đến tận bây giờ vẫn ám ảnh tâm tư người dân lục địa đó. Bohemia của ông – miền đất tuy nhỏ bé nép mình giữa hai cường quốc Đức và Nga nhưng lại là giao điểm chính trị và văn hóa quan trọng – luôn luôn là mảnh đất chịu thiệt thòi và bị giẫm nát trong bất kỳ cuộc tương tranh lớn nhỏ nào. Ở châu Âu, ngoài Ireland, Bohemia có lẽ là quốc gia duy nhất mà nền văn học bao giờ cũng trĩu nặng tính thời đại và lịch sử. Dù sao chăng nữa, Kundera khó lòng hoàn toàn đi chệch ra khỏi quy luật đó.« (...) Bản ngã là gì? Làm cách nào thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết »RFI : Nhưng nếu lịch sử chính trị chỉ là bối cảnh, chỉ là cái phông của tiết kịch, thì cái gì chiếm cứ phần trọng đại nhất trong tiểu thuyết Kundera ?Trịnh Y Thư : Câu trả lời giản dị lắm : Đó chính là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. Đưa ra một định nghĩa cho tiểu thuyết, ông nói : « Ngay khi bạn tạo dựng một hiện hữu tưởng tượng, một nhân vật, tự động bạn đối đầu câu hỏi : Bản ngã là gì? Làm cách nào thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết ». Kundera cả quyết rằng sự nảy sinh của nhân vật tiểu thuyết không giống sự ra đời của con người nơi cuộc sống bên ngoài ; « họ có mặt do một tình huống, một câu văn hay một ẩn dụ bên trong cái vỏ bọc hàm chứa những khả thể cơ bản liên quan đến con người mà tác giả nghĩ rằng chưa ai khám phá hay đề cập điều gì trọng yếu về nó ». Xem thế, tính sáng tạo trong tiểu thuyết Kundera chủ yếu nằm ở điểm này. Và qua tác phẩm chúng ta thấy ông truy xét cái bản ngã đó đến tận cùng. Bản ngã bị ông lật trái lật phải, lật ngang lật dọc đến chóng mặt. Nhưng không phải vì thế ông nắm bắt được điều muốn tìm kiếm; bản ngã vẫn vuột khỏi tầm tay, và ông thú nhận cuộc truy tìm bao giờ cũng chấm dứt trong nghịch lý.
Milan Kundera, nhà văn nổi tiếng quốc tế với những tác phẩm văn học bất đồng chính kiến ở Tiệp Khắc thời Cộng Sản. Trong Tập sách cái cười và sự lãng quên - Le Livre du rire et de l'oubli là những cái cười « ra nước mắt », còn « sự lãng quên » là « cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực, là cuộc đấu tranh của trí nhớ chống lại sự lãng quên ». Sinh năm 1929 tại Brno ông đã định cư tại Pháp từ năm 1975 do sách của ông bị kiểm duyệt và tác giả đã bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản Tiệp Khắc. Khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, Tiệp Khắc trở thành hai quốc gia Cộng Hòa Séc và Slovakia.Hai trong số rất nhiều tác phẩm của ông đã được dịch giả Trịnh Y Thư dịch sang tiếng Việt, đấy là Tập sách Cái cười và sự lãng quên - Le Livre du rire et de l'oubli (1978) và Đời nhẹ khôn kham -L'insoutenable légèreté de l'être (1984).Trong bài tưởng niệm nhà văn Kundera vừa qua đời tại Paris hồi tháng 7/2023, dịch giả Trịnh Y Thư đã nhắc lại « Đời nhẹ khôn kham, cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Kundera, mở đầu với cảnh xe tăng Liên Xô nghiến nát đường phố Praha, thủ đô của Cộng hòa Séc, là quê hương của tác giả cho đến khi ông sang Pháp chọn cuộc đời lưu vong từ năm 1975. Đan xen các chủ đề về tình yêu và sự lưu vong, chính trị mang tính cá nhân sâu sắc, tiểu thuyết của Kundera đã giành được sự tán thưởng của giới phê bình, giúp ông có được lượng độc giả rộng rãi chẳng những ở phương Tây mà còn khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam ».Cùng với dịch giả Trịnh Y Thư mời quý vị cùng tìm đến với Tập sách cái cười và sự lãng quên, được ông dịch sang tiếng Việt, xuất bản tháng 1/2021. *****RFI : Xin kính chào dịch giả Trịnh Y Thư, Le livre du rire et de l'oubli là một cuốn tiểu thuyết với cấu trúc lạ kỳ, với những câu chuyện khác nhau và đôi khi tác giả tưởng chừng là « lười biếng » khi cần đặt tựa cho mỗi truyện ngắn của ông : Trịnh Y Thư : Kundera viết Tập sách cái cười và sự lãng quên vào quãng giữa thập niên 70. Tác phẩm có bẩy phần. Gọi mỗi phần là một truyện ngắn cũng đúng, nhưng theo chính Kundera, ta nên xem nó là một tổ khúc, như tổ khúc âm nhạc gồm bẩy biến tấu mà mỗi biến tấu là một cuộc truy tìm hiện hữu khác nhau. Khác nhau nhưng vẫn có sự liền lạc chặt chẽ bởi mô-típ thắt buộc toàn tác phẩm : Cái cười và Sự lãng quên. Những phần của sách nối tiếp nhau như những chặng đường chuyến du hành dẫn đến cái nội tại của chủ đề, nội tại một suy tưởng, nội tại một tình huống duy nhất, giản dị, mà cái hiểu cứ dần dà trôi mất về cõi xa, ra khỏi tầm nhìn của chính tác giả.Nếu bạn đọc cuốn sách này một cách kiên nhẫn và thành tâm, nó có thể thay đổi cuộc đời bạn.RFI : Nửa thế kỷ từ ngày tác phẩm này được xuất bản, giờ đây điều gì có thể thôi thúc độc giả tìm đến với Tập sách cái cười và sự lãng quên ?Trịnh Y Thư : Lý do giản dị lắm, thưa chị, vì đó là một tác phẩm cực hay. Tôi xin mượn phát biểu của ba nhà văn, nhà phê bình Mỹ nói về cuốn sách này của Kundera. John Updike từng đánh giá đây là cuốn sách xuất sắc và độc sáng, được viết với sự trong trẻo và minh triết, nó mời mọc chúng ta trực tiếp đi vào. Còn John Leonard thì quan niệm Tập sách cái cười và sự lãng quên tự gọi là một cuốn tiểu thuyết, mặc dù nó là một phần truyện thần tiên, một phần phê bình, một phần chính luận, một phần nhạc học, một phần tự truyện. Nó có thể gọi bất kỳ cái gì nó muốn, bởi tổng thể cuốn sách là một thiên tài. Ted Solotaroff nhận xét, ảo diệu… Nếu bạn đọc cuốn sách này một cách kiên nhẫn và thành tâm, nó có thể thay đổi cuộc đời bạn.Thiết tưởng, với những lời ca ngợi ấy, cuốn sách rất xứng đáng được nằm trên kệ sách của tất cả những ai quan tâm đến chữ nghĩa.Milan Kundera : « Con người luôn luôn ấp ủ tham vọng muốn viết lại tiểu sử của chính mình, muốn thay đổi quá khứ, muốn bôi xóa mọi dấu vết của chính hắn và kẻ khác »RFI : Về « cái cười » và về « sự lãng quên » : chúng ta có dễ tìm đến với « cái cười » của Kundera hay không ? Còn « sự lãng quên », những nguyên nhân nào dẫn tới « cái quên » đó và các nhân vật trong tiểu thuyết của Kundera cần « quên » cái gì ?Trịnh Y Thư : Đọc Kundera, chúng ta dễ dàng nhận ra tính hài (và ở chừng mực nào đó, châm biếm) thấm đẫm trong văn ông. Kỳ thực, đối với ông, hài là một thuộc tính bất khả tách ly của văn chương. Tập sách cái cười và sự lãng quên không thiếu những mạch đoạn khiến người đọc cười chảy nước mắt, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta hiểu chủ ý của ông là chọc cười độc giả. Để hiểu tính hài của Kundera, ta phải tìm hiểu tính hài trong văn Kafka. Vâng, chính Kafka đã cho ông nguồn cảm hứng bất tận đem tính hài vào văn chương. Kafka lấy mặt nạ của cái khả lý đeo lên cái bất khả lý, trong lúc tuyệt đối duy trì tính chính xác tâm lý, nó khiến tiểu thuyết của ông mang vẻ mê hoặc, huyền ảo lạ lùng. Chuyện bông đùa, giai thoại, chuyện hài hước: chúng là những bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy giữa cảm quan nhạy bén của hiện thực và thần trí tưởng tượng, tiểu thuyết liều lĩnh đi vào cái bất khả lý. Kundera bảo như vậy.Còn « Sự lãng quên », cụm từ này có ý nghĩa gì trong tác phẩm ? Ta hãy nghe chính Kundera định nghĩa như sau về « sự lãng quên » và nó chính là chủ đề tái hiện hoài hoài suốt cuốn sách. Kundera bảo : « Cuộc đấu tranh của con người chống lại quyền lực là cuộc đấu tranh của trí nhớ chống lại sự lãng quên ». Về điểm này, Kundera nói rõ trong tập tiểu luận Nghệ thuật tiểu thuyết : « Con người luôn luôn ấp ủ tham vọng muốn viết lại tiểu sử của chính mình, muốn thay đổi quá khứ, muốn bôi xóa mọi dấu vết của chính hắn và kẻ khác ». Ông cũng nói thêm, nó không phải sự lừa dối, nó tuyệt đối không có công lý trong đó, nhưng cùng lúc nó đem lại nguồn an ủi.Kundera không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần như thù hận, với nước Nga, bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai họa và thống khổ cho quê hương, dân tộc ông, thậm chí cho chính cá nhân ông, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc giữa những dòng chữ ông viết để tìm kiếm một thông điệp hay luận đề chính trị nào. RFI : Ngoài « cái cười » và « sự lãng quên » tiểu thuyết này của Milan Kundera đầy thi vị và có thể nói là một Kundera đã viết về tình yêu ? Tuy nhiên bối cảnh chính trị thời kỳ Chiến Tranh lạnh, hình bóng của một chế độ toàn trị luôn ẩn hiện trong các tác phẩm của ông. Đọc Kundera dưới lăng kính đó, không thể phủ nhận là sách của ông rất mang tính thời sự. Trịnh Y Thư : Đúng vậy, thưa chị, mặc dù tiểu thuyết Kundera không thiếu những mạch đoạn viết về chính trị – đúng hơn lịch sử chính trị – và ông không bao giờ che giấu thái độ hằn học, gần như thù hận, với nước Nga, bởi quốc gia này đã gây nên không biết bao nhiêu tai họa và thống khổ cho quê hương, dân tộc ông, thậm chí cho chính cá nhân ông, nhưng thật sai lầm nếu chúng ta bới móc giữa những dòng chữ ông viết để tìm kiếm một thông điệp hay luận đề chính trị nào. Ông có vẻ dị ứng với tất cả những điều đó.Với ông, lịch sử chỉ là tấm phông trừu tượng mà ông ví tiểu thuyết gia như nhà thiết kế sân khấu kịch sử dụng một cách dè sẻn để kiến dựng một tiết kịch. Câu nói « Tiểu thuyết gia không phải kẻ hầu của sử gia » thường được ông nhắc đi nhắc lại trong những bài tiểu luận. Cũng như hầu hết các tiểu thuyết gia tầm vóc khác của thế giới, Kundera cương quyết chống lại mọi chủ thuyết luận đề trong văn chương. Tuy vậy, bàng bạc trong những tác phẩm của ông, người ta nhận thấy những chủ đề sau hiển lộ rõ ràng : cuộc sống lưu vong ; căn tính, đời sống vượt qua lằn ranh biên thùy (bên kia tình yêu, bên kia nghệ thuật, bên kia sự nghiêm túc) ; lịch sử như cái gì liên tục trở lại ; và lạc thú của một đời sống ít có những điều « quan trọng ».Bởi, như phần lớn chúng ta, Kundera chẳng thể nào đứng ngoài những biến động lịch sử khốc liệt của thế hệ ông. Thế kỷ XX, châu Âu của ông chứng kiến sự đổ nát kinh hoàng chưa từng thấy trước đó bao giờ. Hai cuộc Thế chiến, Lò thiêu, Quốc xã, Quân phiệt, Cộng sản, như những bóng ma, cho đến tận bây giờ vẫn ám ảnh tâm tư người dân lục địa đó. Bohemia của ông – miền đất tuy nhỏ bé nép mình giữa hai cường quốc Đức và Nga nhưng lại là giao điểm chính trị và văn hóa quan trọng – luôn luôn là mảnh đất chịu thiệt thòi và bị giẫm nát trong bất kỳ cuộc tương tranh lớn nhỏ nào. Ở châu Âu, ngoài Ireland, Bohemia có lẽ là quốc gia duy nhất mà nền văn học bao giờ cũng trĩu nặng tính thời đại và lịch sử. Dù sao chăng nữa, Kundera khó lòng hoàn toàn đi chệch ra khỏi quy luật đó.« (...) Bản ngã là gì? Làm cách nào thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết »RFI : Nhưng nếu lịch sử chính trị chỉ là bối cảnh, chỉ là cái phông của tiết kịch, thì cái gì chiếm cứ phần trọng đại nhất trong tiểu thuyết Kundera ?Trịnh Y Thư : Câu trả lời giản dị lắm : Đó chính là cuộc truy tìm bản ngã con người để từ đó rất có thể lóe lên luồng sáng mới mẻ cho ta thấy rõ hơn cái ẩn mật của hiện tồn. Đưa ra một định nghĩa cho tiểu thuyết, ông nói : « Ngay khi bạn tạo dựng một hiện hữu tưởng tượng, một nhân vật, tự động bạn đối đầu câu hỏi : Bản ngã là gì? Làm cách nào thấu triệt được cái bản ngã đó? Đây là một trong những câu hỏi cơ bản của tiểu thuyết ». Kundera cả quyết rằng sự nảy sinh của nhân vật tiểu thuyết không giống sự ra đời của con người nơi cuộc sống bên ngoài ; « họ có mặt do một tình huống, một câu văn hay một ẩn dụ bên trong cái vỏ bọc hàm chứa những khả thể cơ bản liên quan đến con người mà tác giả nghĩ rằng chưa ai khám phá hay đề cập điều gì trọng yếu về nó ». Xem thế, tính sáng tạo trong tiểu thuyết Kundera chủ yếu nằm ở điểm này. Và qua tác phẩm chúng ta thấy ông truy xét cái bản ngã đó đến tận cùng. Bản ngã bị ông lật trái lật phải, lật ngang lật dọc đến chóng mặt. Nhưng không phải vì thế ông nắm bắt được điều muốn tìm kiếm; bản ngã vẫn vuột khỏi tầm tay, và ông thú nhận cuộc truy tìm bao giờ cũng chấm dứt trong nghịch lý.
Quan hệ giữa Hội Tam Điểm ( Franc-maçonnerie) với Việt Nam là một đề tài cho tới nay ít được nhắc đến trong các sách về lịch sử đương đại của Việt Nam. Một trong số hiếm hoi các nhà nghiên cứu quan tâm đến đề tài này là tiến sĩ Trần Thu Dung, hiện sống tại Pháp. Tháng 6 vừa qua, cuốn sách bằng tiếng Pháp của bà "Les Frères Francs-Maçons vietnamiens oubliés en Indochine" ( Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương ) vừa được nhà xuất bản L'Harmattan phát hành. Đây là một tài liệu quý hiếm và rất thú vị đối với những độc giả Pháp muốn tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của Hội Tam Điểm ở Việt Nam vào thời kỳ Đông Dương còn thuộc Pháp.Hội Tam Điểm nói chung là tập hợp các hội mà việc tuyển chọn là theo nguên tắc hội viên chọn giới thiệu các hội viên mới ( cooptaion ) và các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về nghề thợ nề. Tên gọi theo tiếng Việt Hội Tam Điểm được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác vuông cân.Hội Tam Điểm truyền bá một lối giáo dục dựa trên những biểu tượng và nghi lễ, khuyến khích hội viên hành động vì sự tiến bộ nhân loại, nhưng để cho mỗi người lựa chọn cách để thực hiện điều đó.Cho tới nay, các học giả vừa chưa xác định được chính xác thời điểm ra đời của Hội Tam Điểm, mà chỉ tạm xem Hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16 ở Scotland, sau đó là ở Anh Quốc rồi dần dần lan ra các quốc gia khác, trong đó có Pháp, từ đó được du nhập vào Việt Nam. Vậy những tư tưởng của Hội Tam Điểm đã được truyền bá ở Việt Nam như thế nào và những nhân vật nào đã là những hội viên nổi bật của Hội vào thời đó? Hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với, tác giả của cuốn sách “Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương”. RFI: Thưa tiến sĩ Trần Thu Dung, cuốn sách của chị có tựa "Les Frères Francs-Maçons vietnamiens oubliés en Indochine" ( Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương ) là để nói về những nhân vật lịch sử đã từng là hội viên Tam Điểm, nhưng cho tới nay ít ai biết đến điều đó. Nhưng trước tiên xin chị cho biết là Hội Tam Điểm đã được du nhập vào Việt Nam như thế nào trong bối cảnh Đông Dương lúc ấy còn thuộc Pháp?Trần Thu Dung: Lúc đó, những người Pháp đầu tiên sang Đông Dương làm thuộc địa, như Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, là thành viên của Hội tam Điểm, thành ra đại đa số trong ê kíp của ông cũng là hội viên Tam Điểm. Họ muốn khoa trương thời kỳ “hoàng kim” lúc ấy của Hội Tam Điểm, vì thế chúng ta thấy nóc Nhà Đông Dương là hình kim tự tháp, mà kim tự tháp là biểu tượng của Hội Tam Điểm. Khi đến Việt Nam, họ cũng có nhu cầu sinh hoạt bắt buộc. Họ tụ tập lại, nhưng ban đầu là ở Cochinchine, tức là Nam Kỳ, nơi thành lập đầu tiên các Hội Tam Điểm. Ngay cả cha của nhà văn Marguerite Duras cũng là hội viên của những Hội Tam Điểm đầu tiên. Tên của những hội này thay đổi liên tục cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, ví dụ như họ đổi thành hội Tonkinoise, hay trước kia có tên là Những anh em huynh đệ Bác Ái, nhưng sau này cũng đổi tên thành chẳng hạn như Ánh Sáng Bắc Kỳ. Lúc đó bắt đầu họ chiến thắng, đi đến tận Bắc Kỳ. Đến khoảng 1886, hội ngày càng phát triển mạnh và sau đó họ ra công khai, nhưng những hội đầu tiên đó là dành cho người Pháp, chứ người thuộc địa chưa được vào. RFI: Vậy thì kể từ thời gian nào người bản xứ ở Đông Dương mới bắt đầu được thâu nhận vào các Hội Tam Điểm?Trần Thu Dung: Hầu hết các lãnh đạo của Hội Tam Điểm thời đó đã đề nghị “Pháp Việt đề huề”. Khi ra chính sách “Pháp Việt đề huề”, thì bắt buộc phải đưa những người bản xứ vào hội.Nhưng vào năm 1917 hay 1919 ( tôi không nhớ chính xác, phải xem lại lịch sử ), Pháp bắt đầu xóa kỳ thi của Việt Nam theo hệ thống Khổng Tử, tức là hệ thống theo ảnh hưởng của Trung Quốc, áp đặt kỳ thi tuyển theo Pháp. Thành ra chúng ta mới có câu thơ: “ Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng”. Pháp bắt đầu áp đặt rằng tất cả những người lãnh đạo đều phải biết tiếng Pháp và do Pháp đào tạo.Bắt đầu từ đó, khoảng đầu thế kỷ 20, mới xuất hiện người Việt Nam trong Hội Tam Điểm. Nhưng các hội viên đầu tiên là được kết nạp bên Pháp. Đó là những sinh viên đi du học nhưng rất yêu nước, muốn tìm một con đường để đi cứu nước. Họ vào những hội mà họ nghĩ là theo đúng phương châm Tự do Bình đẳng Bác ái, đảng nào vào cũng được, vì hội là phi chính trị, phi đảng phái, phi tôn giáo. Họ nghĩ đó là cái hay nhất, bởi vì như thế là anh có theo đảng nào, theo tôn giáo nào thì tôi cũng không cấm, miễn là tôi bình đẳng với anh, bình đẳng trong suy nghĩ, tôn trọng kiến thức của nhau.Rất nhiều trí thức Việt Nam lúc ấy đã đi theo con đường này, đầu tiên là ở bên Pháp, rồi họ trở về Việt Nam. Trở về Việt Nam thì phải có nhu cầu họp hàng tháng, nên họ kiến nghị lên trên để đòi hỏi: Chúng tôi về Việt Nam thì sẽ được hoạt động ở đâu? Ban đầu những người Pháp thuộc địa không muốn nhận, nhưng rồi cũng phải chấp nhận những huynh đệ người Việt từ Pháp trở về. Cho nên bắt đầu xuất hiện những người Việt Nam trong các Hội Tam Điểm. Sau này thì kết nạp rất nhiều, chẳng hạn như Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Lúc ấy có Hội chợ Thuộc địa ở Pháp, các cụ mới sang và được giới thiệu gặp những hội viên Tam Điểm bên đây. Bao giờ khi kết nạp thì cũng phải có 2 hay 3 người giới thiệu. Nhưng khi còn ở Việt Nam thì rất khó. Tôi có đọc được thư của những hội viên Tam Điểm người Pháp không muốn kết nạp người Việt, cho nên những hội viên Tam Điểm tiến bộ hơn đã đưa những người Việt này sang Pháp để gặp lại những người Tam Điểm này, bắt buộc họ giới thiệu và kết nạp những hội viện mới là người Việt. Những người như Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh là những người nổi tiếng, có rất nhiều bạn bè, thì họ mới đưa những người bạn đến để được kết nạp ở Việt Nam.RFI: Như vậy là nhờ nguyên tắc hoạt động là kết nạp qua giới thiệu, thành ra mới mở rộng được số thành viên người Việt trong các Hội Tam Điểm?Trần Thu Dung: Đúng vậy, tức là phải có 2 hoặc 3 người, và có một người gọi là điều tra viên đến xem tư tưởng của anh là như thế nào, nhưng anh phải đề cao tính nhân đạo, phải tôn trọng ý kiến của người khác và đấu tranh trực diện bằng tư tưởng của anh. Người Việt vào được là vì họ cũng bắt đầu đấu tranh, đấu tranh từng bước một, chứ không phải tự nhiên là được vào. Chẳng hạn như khi bầu bán lãnh đạo hội hai năm một lần, người Việt hầu như không được bầu, vì họ vẫn bị xem như là subalterne ( cấp thấp ), giống như là bù nhìn. Nhưng khi người Việt vào đông, bắt đầu có người Việt ứng cử trong các cuộc bầu cử hai năm một lần một người phụ trách thay phiên nhau, ai cũng có thể làm người phụ trách, theo hình tam giác: làm thầy rồi làm thợ, làm thợ rồi làm thầy, bởi vì thầy cũng phải vươn lên, học những người giỏi hơn. Chính là lúc đó mà ông Phạm Huy Lục được bầu, nhưng tôi đã đọc được những lá thư chống đối vì không muốn người Pháp đứng dưới một người Việt trong một hội như thế, nhưng cuối cùng họ cũng phải chấp nhận. Phạm Huy Lục cũng đã từng là dân biểu Pháp tại Việt Nam. RFI: Vấn đề Hội Tam Điểm ở Việt Nam cho tới nay vẫn còn là một đề tài tế nhị, ít ai nhắc đến. Nhờ cuốn sách của chị mà chúng ta biết được là một số nhân vật chính trị nổi tiếng của Việt Nam như Nguyễn Ái Quốc, tức là Hồ Chí Minh, hay cựu thủ tướng Trần Trọng Kim, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, luật sư Trịnh Đình Thảo, hay nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, nhà trí thức Phạm Quỳnh đã từng là hội viên Tam Điểm. Họ đã tiếp thu các tư tưởng của Hội Tam Điểm như thế nào và áp dụng những tư tưởng đó như thế nào trong cuộc đấu tranh ở Việt Nam?Trần Thu Dung: Lúc ấy đã bắt đầu có sự mâu thuẫn với nhau, bởi vì có những người cho rằng đi theo Hội Tam Điểm là con đường đấu tranh không đổ máu nhất cho dân, vì kinh tế, chính trị, vũ khí mình đều thua Pháp. Họ nghĩ là không thể làm một cuộc cách mạng lớn, nên phải đi theo con đường ôn hòa, tức là ủng hộ “Pháp Việt đề huề”.Trước năm 1945, không có người Việt nào làm thị trưởng thành phố Hà Nội, chỉ sau 45, mới bắt đầu xuất hiện, mà ban đầu bao gồm đến 2 phần 3 là người Tam Điểm, thay phiên nhau nắm quyền, như ông Trần Văn Lai, rồi Thẩm Hoàng Tín, những thị trưởng do Pháp chỉ định. Lúc đó, Pháp đã rút, nhưng vẫn cứ muốn nắm quyền ở Đông Dương, cho nên lúc đấy mới sử dụng người Việt để trị người Việt, để tiếp tục “Pháp Việt đề huề”, nhưng không thành bởi vì có một số mâu thuẫn, chẳng hạn như Hồ Chí Minh thì theo Nga, tức là theo một hướng khác. Nhưng lúc ấy, những đảng ở Việt Nam nằm trong liên minh Việt Nam Độc lập Đồng minh, tức Việt Minh, thì các trưởng đảng như tổng thư ký hay phó thường cũng là hội viên Tam Điểm. Hồ Chí Minh cũng là thành viên Tam Điểm, nhưng dù đều là huynh đệ, nhưng họ chọn những con đường khác nhau để đi đến giành độc lập, chứ tất cả không thống nhất với nhau. Cho nên đã có những cái hiểu nhầm nhau.Người ta nói là đã có sự thanh trừng lẫn nhau ( giữa các huynh đệ Tam Điểm ), tôi không nắm được chuyện đó, nhưng chắc là cũng có. Nhưng có một chuyện này là chuyện rất thật: con của cụ Phạm Huy Lục, người được bầu là “đại sư” của Hội Tam Điểm có đông người Việt, kể lại khi có bạo loạn, lúc ấy ông mới 18 tuổi: “ Tôi biết là bố tôi cám ơn ông Hoàng Minh Giám ( bộ trưởng Ngoại Giao của Hồ Chí Minh ) đã báo cho bố tôi phải đi ngay đi vì có thể sẽ bị hiểu nhầm và bị ám sát, cho nên cụ đã bỏ đi vào Nam, rồi sang Pháp”Đã có những cái mâu thuẫn trong anh em: theo Pháp, “Pháp Việt đề huề”, hay giành độc lập một cách tuyệt đối bằng một cuộc cách mạng.RFI: Như vậy là bối cảnh chính trị lúc ấy làm cho Hội Tam Điểm Việt Nam bị phân hóa. Thành ra có những người phục vụ cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, những người khác thì phục vụ cho các chính phủ ở miền nam, mà đầu tiên là chính phủ lâm thời do Pháp dựng nên?Trần Thu Dung: Đúng như thế. Tôi nghĩ rằng đã có những mâu thuẫn rất lớn, đã có những chia rẽ. Đi đến hòa hợp hay không là tùy suy nghĩ chính trị của từng người. Vì thế tôi mới viết cuốn sách này để cho thấy là trong cuộc đấu tranh đó, có rất nhiều hướng đi khác nhau.RFI: Vì sao cho tới nay, Hội Tam Điểm ở Việt Nam vẫn còn là một chủ đề tế nhị? Thậm chí xuất bản một cuốn sách về đề tài này ở Việt Nam cũng không phải là đơn giản?Trần Thu Dung: Vì ngày xưa, họ cứ gọi là “theo gót Tây”, “xỏ nhầm giày, để nói về những người ủng hộ Pháp, họ muốn xóa nhòa tất cả những gì dính đến Pháp. Chẳng hạn như vào năm 1945, ông Trần Văn Lai là người của Hội Tam Điểm, nhưng chính ông là người đầu tiên đứng ra giựt các tượng mà Hội Tam Điểm tặng, tức là tượng Nữ thần Tự do, đổi hết tên các con đường của Pháp thành tên những anh hùng. Họ muốn xóa hết những dấu vết và hầu như thanh trừng những người còn ủng hộ Pháp, hay dính đến Pháp.Trong quyển sách này tôi đưa ra các bằng chứng về một khía cạnh lịch sử, về cuộc đấu tranh mà không ai biết đến, các cụ đều tham gia, nhưng đấy là một con đường mà họ đi tìm để giành độc lập dân tộc. Bây giờ lớp trẻ đọc được họ mới hiểu đấy là một con đường, chứ không phải cái gì dính đến Pháp là xấu.
Quan hệ giữa Hội Tam Điểm ( Franc-maçonnerie) với Việt Nam là một đề tài cho tới nay ít được nhắc đến trong các sách về lịch sử đương đại của Việt Nam. Một trong số hiếm hoi các nhà nghiên cứu quan tâm đến đề tài này là tiến sĩ Trần Thu Dung, hiện sống tại Pháp. Tháng 6 vừa qua, cuốn sách bằng tiếng Pháp của bà "Les Frères Francs-Maçons vietnamiens oubliés en Indochine" ( Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương ) vừa được nhà xuất bản L'Harmattan phát hành. Đây là một tài liệu quý hiếm và rất thú vị đối với những độc giả Pháp muốn tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của Hội Tam Điểm ở Việt Nam vào thời kỳ Đông Dương còn thuộc Pháp.Hội Tam Điểm nói chung là tập hợp các hội mà việc tuyển chọn là theo nguên tắc hội viên chọn giới thiệu các hội viên mới ( cooptaion ) và các nghi lễ gia nhập có liên hệ tới những ẩn dụ về nghề thợ nề. Tên gọi theo tiếng Việt Hội Tam Điểm được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác vuông cân.Hội Tam Điểm truyền bá một lối giáo dục dựa trên những biểu tượng và nghi lễ, khuyến khích hội viên hành động vì sự tiến bộ nhân loại, nhưng để cho mỗi người lựa chọn cách để thực hiện điều đó.Cho tới nay, các học giả vừa chưa xác định được chính xác thời điểm ra đời của Hội Tam Điểm, mà chỉ tạm xem Hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16 ở Scotland, sau đó là ở Anh Quốc rồi dần dần lan ra các quốc gia khác, trong đó có Pháp, từ đó được du nhập vào Việt Nam. Vậy những tư tưởng của Hội Tam Điểm đã được truyền bá ở Việt Nam như thế nào và những nhân vật nào đã là những hội viên nổi bật của Hội vào thời đó? Hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với, tác giả của cuốn sách “Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương”. RFI: Thưa tiến sĩ Trần Thu Dung, cuốn sách của chị có tựa "Les Frères Francs-Maçons vietnamiens oubliés en Indochine" ( Các huynh đệ Việt Nam bị lãng quên của Hội Tam Điểm ở Đông Dương ) là để nói về những nhân vật lịch sử đã từng là hội viên Tam Điểm, nhưng cho tới nay ít ai biết đến điều đó. Nhưng trước tiên xin chị cho biết là Hội Tam Điểm đã được du nhập vào Việt Nam như thế nào trong bối cảnh Đông Dương lúc ấy còn thuộc Pháp?Trần Thu Dung: Lúc đó, những người Pháp đầu tiên sang Đông Dương làm thuộc địa, như Bộ trưởng Bộ Thuộc địa, là thành viên của Hội tam Điểm, thành ra đại đa số trong ê kíp của ông cũng là hội viên Tam Điểm. Họ muốn khoa trương thời kỳ “hoàng kim” lúc ấy của Hội Tam Điểm, vì thế chúng ta thấy nóc Nhà Đông Dương là hình kim tự tháp, mà kim tự tháp là biểu tượng của Hội Tam Điểm. Khi đến Việt Nam, họ cũng có nhu cầu sinh hoạt bắt buộc. Họ tụ tập lại, nhưng ban đầu là ở Cochinchine, tức là Nam Kỳ, nơi thành lập đầu tiên các Hội Tam Điểm. Ngay cả cha của nhà văn Marguerite Duras cũng là hội viên của những Hội Tam Điểm đầu tiên. Tên của những hội này thay đổi liên tục cho phù hợp với từng giai đoạn lịch sử, ví dụ như họ đổi thành hội Tonkinoise, hay trước kia có tên là Những anh em huynh đệ Bác Ái, nhưng sau này cũng đổi tên thành chẳng hạn như Ánh Sáng Bắc Kỳ. Lúc đó bắt đầu họ chiến thắng, đi đến tận Bắc Kỳ. Đến khoảng 1886, hội ngày càng phát triển mạnh và sau đó họ ra công khai, nhưng những hội đầu tiên đó là dành cho người Pháp, chứ người thuộc địa chưa được vào. RFI: Vậy thì kể từ thời gian nào người bản xứ ở Đông Dương mới bắt đầu được thâu nhận vào các Hội Tam Điểm?Trần Thu Dung: Hầu hết các lãnh đạo của Hội Tam Điểm thời đó đã đề nghị “Pháp Việt đề huề”. Khi ra chính sách “Pháp Việt đề huề”, thì bắt buộc phải đưa những người bản xứ vào hội.Nhưng vào năm 1917 hay 1919 ( tôi không nhớ chính xác, phải xem lại lịch sử ), Pháp bắt đầu xóa kỳ thi của Việt Nam theo hệ thống Khổng Tử, tức là hệ thống theo ảnh hưởng của Trung Quốc, áp đặt kỳ thi tuyển theo Pháp. Thành ra chúng ta mới có câu thơ: “ Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân, ông cử ngỏng đầu rồng”. Pháp bắt đầu áp đặt rằng tất cả những người lãnh đạo đều phải biết tiếng Pháp và do Pháp đào tạo.Bắt đầu từ đó, khoảng đầu thế kỷ 20, mới xuất hiện người Việt Nam trong Hội Tam Điểm. Nhưng các hội viên đầu tiên là được kết nạp bên Pháp. Đó là những sinh viên đi du học nhưng rất yêu nước, muốn tìm một con đường để đi cứu nước. Họ vào những hội mà họ nghĩ là theo đúng phương châm Tự do Bình đẳng Bác ái, đảng nào vào cũng được, vì hội là phi chính trị, phi đảng phái, phi tôn giáo. Họ nghĩ đó là cái hay nhất, bởi vì như thế là anh có theo đảng nào, theo tôn giáo nào thì tôi cũng không cấm, miễn là tôi bình đẳng với anh, bình đẳng trong suy nghĩ, tôn trọng kiến thức của nhau.Rất nhiều trí thức Việt Nam lúc ấy đã đi theo con đường này, đầu tiên là ở bên Pháp, rồi họ trở về Việt Nam. Trở về Việt Nam thì phải có nhu cầu họp hàng tháng, nên họ kiến nghị lên trên để đòi hỏi: Chúng tôi về Việt Nam thì sẽ được hoạt động ở đâu? Ban đầu những người Pháp thuộc địa không muốn nhận, nhưng rồi cũng phải chấp nhận những huynh đệ người Việt từ Pháp trở về. Cho nên bắt đầu xuất hiện những người Việt Nam trong các Hội Tam Điểm. Sau này thì kết nạp rất nhiều, chẳng hạn như Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Lúc ấy có Hội chợ Thuộc địa ở Pháp, các cụ mới sang và được giới thiệu gặp những hội viên Tam Điểm bên đây. Bao giờ khi kết nạp thì cũng phải có 2 hay 3 người giới thiệu. Nhưng khi còn ở Việt Nam thì rất khó. Tôi có đọc được thư của những hội viên Tam Điểm người Pháp không muốn kết nạp người Việt, cho nên những hội viên Tam Điểm tiến bộ hơn đã đưa những người Việt này sang Pháp để gặp lại những người Tam Điểm này, bắt buộc họ giới thiệu và kết nạp những hội viện mới là người Việt. Những người như Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh là những người nổi tiếng, có rất nhiều bạn bè, thì họ mới đưa những người bạn đến để được kết nạp ở Việt Nam.RFI: Như vậy là nhờ nguyên tắc hoạt động là kết nạp qua giới thiệu, thành ra mới mở rộng được số thành viên người Việt trong các Hội Tam Điểm?Trần Thu Dung: Đúng vậy, tức là phải có 2 hoặc 3 người, và có một người gọi là điều tra viên đến xem tư tưởng của anh là như thế nào, nhưng anh phải đề cao tính nhân đạo, phải tôn trọng ý kiến của người khác và đấu tranh trực diện bằng tư tưởng của anh. Người Việt vào được là vì họ cũng bắt đầu đấu tranh, đấu tranh từng bước một, chứ không phải tự nhiên là được vào. Chẳng hạn như khi bầu bán lãnh đạo hội hai năm một lần, người Việt hầu như không được bầu, vì họ vẫn bị xem như là subalterne ( cấp thấp ), giống như là bù nhìn. Nhưng khi người Việt vào đông, bắt đầu có người Việt ứng cử trong các cuộc bầu cử hai năm một lần một người phụ trách thay phiên nhau, ai cũng có thể làm người phụ trách, theo hình tam giác: làm thầy rồi làm thợ, làm thợ rồi làm thầy, bởi vì thầy cũng phải vươn lên, học những người giỏi hơn. Chính là lúc đó mà ông Phạm Huy Lục được bầu, nhưng tôi đã đọc được những lá thư chống đối vì không muốn người Pháp đứng dưới một người Việt trong một hội như thế, nhưng cuối cùng họ cũng phải chấp nhận. Phạm Huy Lục cũng đã từng là dân biểu Pháp tại Việt Nam. RFI: Vấn đề Hội Tam Điểm ở Việt Nam cho tới nay vẫn còn là một đề tài tế nhị, ít ai nhắc đến. Nhờ cuốn sách của chị mà chúng ta biết được là một số nhân vật chính trị nổi tiếng của Việt Nam như Nguyễn Ái Quốc, tức là Hồ Chí Minh, hay cựu thủ tướng Trần Trọng Kim, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, luật sư Trịnh Đình Thảo, hay nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh, nhà trí thức Phạm Quỳnh đã từng là hội viên Tam Điểm. Họ đã tiếp thu các tư tưởng của Hội Tam Điểm như thế nào và áp dụng những tư tưởng đó như thế nào trong cuộc đấu tranh ở Việt Nam?Trần Thu Dung: Lúc ấy đã bắt đầu có sự mâu thuẫn với nhau, bởi vì có những người cho rằng đi theo Hội Tam Điểm là con đường đấu tranh không đổ máu nhất cho dân, vì kinh tế, chính trị, vũ khí mình đều thua Pháp. Họ nghĩ là không thể làm một cuộc cách mạng lớn, nên phải đi theo con đường ôn hòa, tức là ủng hộ “Pháp Việt đề huề”.Trước năm 1945, không có người Việt nào làm thị trưởng thành phố Hà Nội, chỉ sau 45, mới bắt đầu xuất hiện, mà ban đầu bao gồm đến 2 phần 3 là người Tam Điểm, thay phiên nhau nắm quyền, như ông Trần Văn Lai, rồi Thẩm Hoàng Tín, những thị trưởng do Pháp chỉ định. Lúc đó, Pháp đã rút, nhưng vẫn cứ muốn nắm quyền ở Đông Dương, cho nên lúc đấy mới sử dụng người Việt để trị người Việt, để tiếp tục “Pháp Việt đề huề”, nhưng không thành bởi vì có một số mâu thuẫn, chẳng hạn như Hồ Chí Minh thì theo Nga, tức là theo một hướng khác. Nhưng lúc ấy, những đảng ở Việt Nam nằm trong liên minh Việt Nam Độc lập Đồng minh, tức Việt Minh, thì các trưởng đảng như tổng thư ký hay phó thường cũng là hội viên Tam Điểm. Hồ Chí Minh cũng là thành viên Tam Điểm, nhưng dù đều là huynh đệ, nhưng họ chọn những con đường khác nhau để đi đến giành độc lập, chứ tất cả không thống nhất với nhau. Cho nên đã có những cái hiểu nhầm nhau.Người ta nói là đã có sự thanh trừng lẫn nhau ( giữa các huynh đệ Tam Điểm ), tôi không nắm được chuyện đó, nhưng chắc là cũng có. Nhưng có một chuyện này là chuyện rất thật: con của cụ Phạm Huy Lục, người được bầu là “đại sư” của Hội Tam Điểm có đông người Việt, kể lại khi có bạo loạn, lúc ấy ông mới 18 tuổi: “ Tôi biết là bố tôi cám ơn ông Hoàng Minh Giám ( bộ trưởng Ngoại Giao của Hồ Chí Minh ) đã báo cho bố tôi phải đi ngay đi vì có thể sẽ bị hiểu nhầm và bị ám sát, cho nên cụ đã bỏ đi vào Nam, rồi sang Pháp”Đã có những cái mâu thuẫn trong anh em: theo Pháp, “Pháp Việt đề huề”, hay giành độc lập một cách tuyệt đối bằng một cuộc cách mạng.RFI: Như vậy là bối cảnh chính trị lúc ấy làm cho Hội Tam Điểm Việt Nam bị phân hóa. Thành ra có những người phục vụ cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, những người khác thì phục vụ cho các chính phủ ở miền nam, mà đầu tiên là chính phủ lâm thời do Pháp dựng nên?Trần Thu Dung: Đúng như thế. Tôi nghĩ rằng đã có những mâu thuẫn rất lớn, đã có những chia rẽ. Đi đến hòa hợp hay không là tùy suy nghĩ chính trị của từng người. Vì thế tôi mới viết cuốn sách này để cho thấy là trong cuộc đấu tranh đó, có rất nhiều hướng đi khác nhau.RFI: Vì sao cho tới nay, Hội Tam Điểm ở Việt Nam vẫn còn là một chủ đề tế nhị? Thậm chí xuất bản một cuốn sách về đề tài này ở Việt Nam cũng không phải là đơn giản?Trần Thu Dung: Vì ngày xưa, họ cứ gọi là “theo gót Tây”, “xỏ nhầm giày, để nói về những người ủng hộ Pháp, họ muốn xóa nhòa tất cả những gì dính đến Pháp. Chẳng hạn như vào năm 1945, ông Trần Văn Lai là người của Hội Tam Điểm, nhưng chính ông là người đầu tiên đứng ra giựt các tượng mà Hội Tam Điểm tặng, tức là tượng Nữ thần Tự do, đổi hết tên các con đường của Pháp thành tên những anh hùng. Họ muốn xóa hết những dấu vết và hầu như thanh trừng những người còn ủng hộ Pháp, hay dính đến Pháp.Trong quyển sách này tôi đưa ra các bằng chứng về một khía cạnh lịch sử, về cuộc đấu tranh mà không ai biết đến, các cụ đều tham gia, nhưng đấy là một con đường mà họ đi tìm để giành độc lập dân tộc. Bây giờ lớp trẻ đọc được họ mới hiểu đấy là một con đường, chứ không phải cái gì dính đến Pháp là xấu.
Ngày 15/08/2023, bảng xếp hạng Đại học Thượng Hải được công bố. Năm thứ 4 liên tiếp Đại học Paris Saclay của Pháp duy trì được vị trí trong top 20 trường đại học tốt nhất thế giới và là trường đứng thứ nhất trong số các trường ở châu Âu lục địa. Tổng cộng Pháp có 27 trường, kể các ĐH cấp vùng, lọt vào bảng xếp hạng Thượng Hải. Một tín hiệu tốt là vị thế một số trường đã được cải thiện đáng kể, chẳng hạn ĐH Paris Sorbonne được nâng 10 hạng. Ấn tượng hơn là Đại học Côte d'Azur tăng 200 bậc. Bảng xếp hạng của Đại học Thượng Hải được coi là một bảng xếp hạng có uy tín trên thế giới, nhưng thiên về đánh giá dựa trên các tiêu chí nghiên cứu khoa học như số giải Nobel và huy chương Fields (toán) của những người từng theo học tại trường, số giải Nobel và huy chương Fields của các nhà nghiên cứu của trường, số bài báo được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế Nature và Science, số nhà nghiên cứu được trích dẫn … Bảng xếp hạng Thượng Hải cũng thiên về các ngành khoa học tự nhiên như toán, lý, hóa, công nghệ thông tin … hơn là các ngành khoa học xã hội và nhân văn. Cũng như mọi năm, năm nay có 2.500 được đánh giá để chọn ra 1.000 trường tốt nhất.Để hiểu thêm về thành tích và những hạn chế nên được khắc phục để các trường của Pháp có thể vươn lên những thứ hạng cao hơn nữa trong bảng xếp hạng Đại học danh tiếng thế giới, RFI Việt ngữ ngày 17/08/2023 có cuộc phỏng vấn Tiến sĩ vật lý, Phó giáo sư Lại Ngọc Điệp, người có nhiều năm kinh nghiệm giảng dạy - nghiên cứu và là phụ trách chương trình Master quốc tế Monabiphot của ENS Paris-Saclay, ĐH Paris-Saclay.RFI : Xin chào PGS.TS. Lại Ngọc Điệp, giảng viên trường ĐH Paris-Saclay của Pháp. Theo thông tin mới đây, ngày 15/08/2023, trường ĐH Paris Saclay được xếp hạng thứ 15 trong bảng xếp hạng đại học Thượng Hải. Anh có thể cho thính giả, độc giả của đài RFI biết thêm thông tin về thành tích này ?PGS.TS. Lại Ngọc Điệp : Trong bảng xếp hạng Thượng Hải, ĐH Paris-Saclay xếp hạng thứ 15 trên toàn thế giới và số 1 trong số các trường ĐH không nói tiếng Anh. Kết quả tương đối là tốt và cũng đã được dự đoán trước. Có nhiều bảng xếp đại học nhưng bản xếp hạng Thượng Hải rất nổi tiếng và được nhiều người tin tưởng hơn cả. Người ta đánh giá rất cao bảng xếp hạng này và thứ hạng thứ 15 toàn thế giới là một vinh dự cho ĐH Paris-Saclay.Thực ra ĐH Paris-Saclay mới được xếp hạng cao thế này từ 4 năm trở lại đây. Đứng thứ 15 không phải là quá tốt, không phải là quá tồi, bởi vì ĐH Paris-Saclay đã từng đứng thứ 13 vào năm 2021. Năm đầu tiên, năm 2020 thì đứng thứ 14. Năm 2022 thì thấp hơn một chút, đứng thứ 16 và có thể giải thích bằng nhiều lý do, chẳng hạn như Covid. Năm nay thứ hạng sụt giảm một chút so với năm 2021, nhưng lại tăng so với năm 2022, như vậy nói chung đây cũng là một tín hiệu tương đối tốt. RFI : Nhìn rộng ra thành tích của nước Pháp, theo anh đâu là nhưng yếu tố góp phần cải thiện thứ hạng của Pháp ? PGS.TS. Lại Ngọc Điệp : Về việc xếp hạng các trường đại học, tại Pháp các nhà nghiên cứu không quan tâm lắm vì nhiều lý do. Nhưng bây giờ, việc hợp tác quốc tế, thu hút sinh viên quốc tế và nhiều lý do khác khiến người ta cũng phải suy nghĩ đến việc nâng thứ hạng lên.Chính phủ Pháp từ nhiều năm nay, từ thời tổng thống Sarkozy, đã có những chiến lược để nâng thứ hạng của các trường. Một trong các cách đó là thay đổi mô hình đào tạo, bởi vì đào tạo đại học của Pháp có một đặc trưng là các trường rất nhỏ lẻ, không đáp ứng được các tiêu chuẩn xếp hạng. Thế nên chính phủ yêu cầu các trường nhỏ phải liên kết lại với nhau để tạo thành một đại học lớn hơn để thỏa mãn được các tiêu chí của bảng xếp hạng Thượng Hải. Nhờ thế từ 4 năm nay các đại học của Pháp, trong đó có đại học Paris-Saclay đã lọt vào các top, có thể là top 20, top 50 hay top 100. Như vậy là những kết quả gần đây, và nhất là năm nay, có được là từ chính sách của chính phủ thời các tổng thống trước.RFI :Anh vừa nói là chính sách gộp các nhiều đại học thành một tổ hợp đại học lớn đã có từ thời tổng thống Nicolas Sarkozy (2007-2012). Còn dưới thời tổng thống Macron hiện nay (2 nhiệm kỳ), anh có thấy sự khác biệt gì ? Các tài trợ, hỗ trợ của chính phủ được đẩy mạnh hơn không ? PGS.TS. Lại Ngọc Điệp : Kết quả ngày hôm nay thì phải nói đến là nhờ công lao của các đời tổng thống trước. Còn đến thời tổng thống Macron hiện nay thì họ tiếp tục phát huy ý tưởng đó, họ sẽ tăng cường hơn và thay đổi cơ chế, chính sách cho phù hợp hơn với các nghiên cứu hiện tại. Chẳng hạn trong lĩnh vực vật lý, thời tổng thống Macron là thời mà hướng nghiên cứu và ứng dụng về lượng tử rất phát triển trên thế giới. Các nước như Trung Quốc hay Mỹ họ đã đi rất xa trong lĩnh vực này rồi vì họ có những đầu tư từ rất sớm và phòng nghiên cứu của họ rất tốt.Nước Pháp thì không phải quá muộn, bởi vì về lượng tử thì ở Pháp trong năm vừa rồi, đại học Paris Saclay cũng được giải thưởng Nobel. Nước Pháp đã đi tiên phong về nghiên cứu đó nhưng đầu tư trong những năm trước đây có lẽ chưa nhiều. Đến thời Macron thì cũng đã có những chính sách rất khác, bây giờ thì chưa nhìn thấy nhưng trong tương lai sẽ cho phép có những sản phẩm nghiên cứu và ứng dụng liên quan đến lĩnh vực lượng tử.Chẳng hạn, năm 2021 tổng thống Macron đã khởi động một chương trình nghiên cứu và ứng dụng về công nghệ lượng tử. Chắc mọi người cũng thường nghe nói đến tương lai hay tác dụng của máy tính lượng tử để có thể giải quyết những vấn đề mà những công cụ hiện nay, chẳng hạn máy tính thông thường, không giải quyết được. Thế nên, nước Pháp rất hy vọng là trong tương lai các nghiên cứu có những đột phá nhất định trong lĩnh vực lượng tử, để đi tiên phong trong hướng nghiên cứu này.Về cách làm của chính phủ Macron hay dưới thời các tổng thống trước thì cũng rất đơn giản. Họ đầu tư một khoản tiền rất lớn để các phòng thí nghiệm có vùng một ý tưởng, cùng một hướng nghiên cứu có thể làm việc với nhau, kết nối lại thành một mạng lưới và dùng khoản tiền tài trợ lên đến hàng tỉ euro để gửi tiết kiệm và lấy lãi tiết kiệm hàng năm có thể lên đến hàng triệu, hàng trăm triệu euro để các nhóm nghiên cứu có thể đề xuất viết các đề tài, đề xuất các ý tưởng và có thể dùng khoản tiền đó để làm kinh phí nghiên cứu. Ý tưởng đó rất là hay. Hy vọng là tương lai hướng nghiên cứu trong lĩnh vực của tôi liên quan đến lượng tử sẽ có những kết quả rất tốt, đúng như kỳ vọng của chính quyền hiện nay.RFI : Theo anh thì tác động của bảng xếp hạng Thượng Hải ra sao đối với các trường ? Từ vài năm nay, ĐH Paris Saclay có thu hút được thêm nhiều sinh viên nước ngoài, nghiên cứu sinh nước ngoài nhờ kết quả bảng xếp hạng Thượng Hải hay không ? PGS.TS. Lại Ngọc Điệp : Theo tôi thì có. Việc các trường ĐH được xếp hạng thứ bậc cao sẽ có tác dụng rất tích cực đối với việc thu hút sinh viên quốc tế và hợp tác quốc tế. Các sinh viên quốc tế hay đặt nặng việc trường đó phải nổi tiếng, phải có thứ hạng. Khi các giảng viên, các nhà nghiên cứu đi ra nước ngoài, như tôi chẳng hạn, thì sinh viên hay hỏi là đến từ trường nào và trường xếp hạng thứ bao nhiêu. Trước đây giảng viên của Pháp rất khó trả lời cho các đối tác quốc tế. Bây giờ thì dễ rồi. Việc đứng vào top 20 thế giới thì lập tức thu hút sinh viên muốn đến học tập.Theo nhận xét cá nhân của tôi, đặc biệt là trong vai trò là quản lý chương trình master quốc tế, thì tôi thấy là trường đã thu hút được rất nhiều sinh viên quốc tế. Trong thư trao đổi với các thí sinh nước ngoài, tôi thấy người ta luôn luôn nhấn mạnh đến việc ĐH Paris-Saclay lọt vào top 20 thế giới và người ta mong muốn được học tập trong môi trường tốt như thế. Rõ ràng đấy là một hiệu quả rất tích cực.Ngoài việc thu hút sinh viên đến học tập, việc hợp tác quốc tế cũng quan trọng. Thứ hạng 20 thế giới (ranking) cũng thể hiện là trường đại học đấy, các phòng thí nghiệm, cũng như đào tạo, là rất tốt. Các phòng thí nghiệm quốc tế muốn tìm một đối tác để hợp tác trong một lĩnh vực nào đó, hay viết một đề tài, thì người ta cũng tìm đến các phòng thí nghiệm nổi tiếng thuộc trường đại học có ranking tốt để hợp tác. Vậy thì rõ ràng điều này thu hút các đối tác, từ các sinh viên trẻ tuổi đến các nhà nghiên cứu kỳ cựu trên thế giới.RFI :Có một số chuyên gia giáo dục nói rằng việc xếp hạng như thế này thì có thể gây bất lợi, thiệt thòi cho các trường ĐH nhỏ. Ngược lại đó cũng có thể là động lực cho các trường nhỏ phải tăng cường hợp tác để có thể vươn lên cao hơn trên bảng xếp hạng. Anh nghĩ sao về điều đó ? PGS.TS. Lại Ngọc Điệp : Đúng là nếu quan tâm đến xếp hạng thì chúng ta không thể tách ra khỏi xu hướng gộp các đại học nhỏ thành đại học lớn. Nếu không chịu gộp, muốn làm riêng thì phải rất là giỏi. Nếu không quan tâm đến thứ hạng thì cứ làm như vậy, còn nếu quan tâm đến thứ hạng thì chúng ta phải gộp lại. Theo tiêu chí của bảng xếp hạng Thượng Hải thì đứng một mình và nhỏ lẻ thì các trường không thể lọt vào danh sách tốt được. Đó là chiều chắc chắn.Mà thực ra thì chính sách của chính phủ từ nhiều năm nay là các trường đại học công lập phải gộp lại với các trường khác để tạo thành những trường đại học lớn. Thế nên các ĐH công lập thì không thể đứng một mình được. Các trường tư thì có thể, nhưng các trường tư thì họ cũng không quan tâm đến xếp hạng.RFI :Năm nay vị trí của các trường ĐH của Pháp đã được cải thiện khá nhiều trên bảng xếp hạng Thượng Hải. Nhưng Pháp vẫn có khả năng vươn lên cao hơn. Vậy theo anh đâu là những điểm hạn chế của các trường ĐH của Pháp ? Đâu là những điểm Pháp có thể khắc phục để cải thiện vị trí trên bảng xếp hạng ĐH Thượng Hải ?PGS.TS. Lại Ngọc Điệp : Theo tôi thì các trường ĐH của Pháp về cơ bản thì chất lượng rất tốt, từ đào tạo đến nghiên cứu. Trước đây, họ không có trong danh sách xếp hạng cao vì họ nhỏ lẻ quá. Bây giờ họ đã giải quyết được vấn đề nhỏ lẻ, đã gộp lại thành những trường ĐH lớn và rõ ràng họ đã nâng được vị thế các trường ĐH lên, đạt ranking rất là cao, chẳng hạn top 20. Trong top 50 cũng có khá nhiều trường của Pháp.Năm nay có một tín hiệu khá tích cực là có nhiều trường của Pháp lọt vào top 100, top 500, tức là các ĐH vùng của Pháp đã vươn lên, còn những đại học lớn ở Paris chẳng hạn thì thực ra từ mấy năm nay họ đã lọt vào top 50 rồi. ĐH Paris Saclay thì đã lọt top 20 từ 4 năm nay rồi. Đúng ra là ranking năm nay không phải là lên cao, thực ra thì có nhiều trường còn thụt lùi. Paris-Saclay thì lên được một bậc so với năm ngoái nhưng lại tụt 2-3 bậc so với cách nay vài năm. Top 20, top 50 đã là tốt rồi, nhưng nếu muốn nâng bậc nữa lên thì có lẽ là phải giải quyết được rất nhiều vấn đề.Các trường ĐH của Anh, của Mỹ người ta đã có truyền thống từ bao nhiêu năm nay rồi. Tiêu chí của ĐH Thượng Hải thì có nhiều, nhưng một tiêu chí khá quan trọng là phải được nhiều giải Nobel trong các lĩnh vực hay giải FIELD trong lĩnh vực toán. Mà muốn có được giải đó thì phải có truyền thống nghiên cứu từ rất lâu rồi.Đấy là một ví dụ thôi nhưng mà nâng từ hạng 15 lên hạng 1-2 là bài toán rất là khó, từ quy mô phải lớn, chất lượng phòng nghiên cứu, chất lượng nghiên cứu, chất lượng sinh viên. Mà việc giải quyết bài toán chất lượng thì liên quan đến tiền. Tại sao năm nay là năm đột phá của các trường ĐH Trung Quốc? Rất nhiều trường lọt vào top 500, top 1000, kể cả so với Mỹ. Đó là vì chiến lược của chính phủ Trung Quốc. Họ đầu tư rất nhiều tiền để có kết quả tốt, để viết được bài đăng trên Nature and Science.Có rất nhiều lý do, nhưng với quan điểm của tôi, một nhà nghiên cứu, và cũng theo như trao đổi giữa các nhà nghiên cứu với nhau thì Pháp hiện nay đang có một nhược điểm là kinh phí cho nghiên cứu rất là hạn chế. Chính phủ đã có những ưu tiên nhất định, những vẫn còn hạn chế so với những nước khác.RFI Tiếng Việt chân thành cảm ơn PGS.TS. Lại Ngọc Điệp đã tham gia chương trình!
Nhân chuyến viếng thăm của tổng thống Mỹ Joe Biden tại Việt Nam hai ngày 10 và 11/09, Washington và Hà Nội đã nâng cấp quan hệ song phương lên thành “Đối tác chiến lược toàn diện”. Đặc biệt, trong bản tuyên bố về nâng cấp quan hệ, hai nước đã thiết lập “Quan hệ đối tác mới về bán dẫn nhằm hỗ trợ phát triển chuỗi cung ứng bán dẫn bền vững, linh hoạt cho doanh nghiệp, người tiêu dùng và người lao động Hoa Kỳ”. Theo bản tuyên bố, Hoa Kỳ công nhận "tiềm năng của Việt Nam với vai trò quan trọng trong việc thiết lập chuỗi cung ứng bán dẫn”. Trong khuôn khổ Quỹ Đổi mới sáng tạo và An ninh Công nghệ Quốc tế (Quỹ ITSI), Hoa Kỳ sẽ hợp tác với Việt Nam “để phát triển hơn nữa hệ sinh thái bán dẫn, khung pháp lý, cũng như lực lượng lao động và nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay của Việt Nam.”Nói chung, Mỹ có kế hoạch biến Việt Nam thành cường quốc về chip bán dẫn và giúp Việt Nam đa dạng hóa chuỗi cung ứng chất bán dẫn. Nhưng vấn đề là Việt Nam phải cấp tốc đào tạo một đội ngũ chuyên gia, kỹ sư để đáp ứng nhu về nhân lực của ngành này.RFI Tiếng Việt phỏng vấn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về vấn đề này.RFI: Thưa chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn quan trọng đến mức đã được lãnh đạo hai nước nêu lên ngay trong phần đầu tiên của bản tuyên bố về nâng cấp quan hệ lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”. Vậy theo bà, vì sao Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam là một quốc gia "có tiềm năng lớn" để tham gia vào chuỗi cung ứng bán dẫn cho ngành công nghiệp Mỹ?Phạm Chi Lan: Chắc phía Mỹ cũng đã căn cứ vào việc theo dõi sự phát triển của Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi tập đoàn Intel vào Việt Nam năm 2003 để đầu tư vào dự án đầu tiên về công nghệ cao ở Việt Nam. Vào thời gian đó, Intel đã bỏ ra mấy năm trời để đàm phán với Việt Nam, tham khảo rất kỹ thị trường Việt Nam về các mặt, làm việc với chính phủ trung ương, với chính quyền các cấp, các bộ ngành liên quan, kể cả với các trường, là những nơi đào tạo nguồn nhân lực, rồi mới đi đến quyết định đó.Lúc đó tôi có được thủ tướng Phan Văn Khải đưa vào tổ công tác đặc biệt để làm việc với Intel, đứng đầu là ông Nguyễn Mại, từng là phó chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về đầu tư, rất thông thạo về đầu tư nước ngoài. Chúng tôi đàm phán với Intel trên cơ sở là xem xét tất cả các yêu cầu của Intel, đối chiếu với khả năng của Việt Nam, xem có thể đáp ứng được gì. Bất cứ những gì mà trong phạm vi quyền hạn của chính phủ có thể tạo điều kiện được, thì theo chỉ đạo của thủ tướng Phan Văn Khải, chúng tôi cố gắng làm tối đa. Thậm chí có những gì luật chưa quy định rõ thì chính phủ có thể đề nghị thêm với Quốc Hội để làm rõ về pháp luật, để từ đó Intel có thể đầu tư vào Việt Nam. Còn về những mặt mà Việt Nam còn thiếu hụt, như nguồn nhân lực, thì thúc đẩy các trường cố gắng đáp ứng được cho Intel.Chính vì thấy năng lực và thiện chí của phía Việt Nam tích cực giải quyết các vấn đề như vậy, cho nên Intel đã quyết định chọn Việt Nam trong, khi họ có 3 sự lựa chọn khác đang cân nhắc trong khu vực: Hàng Châu ( Trung Quốc ), Thái Lan và Ấn Độ. Cả ba đều có ưu thế so với Việt Nam, nhưng cuối cùng Intel chọn Việt Nam. Sau Intel, các tập đoàn công nghệ của các nước, nhất là Nhật Bản và Hàn Quốc, đã vào Việt Nam khá nhiều. Các công ty Hoa Kỳ trong những năm gần đây cũng đã quan tâm và có nhiều cuộc trao đổi với Việt Nam. Như vậy, càng ngày càng thấy rõ hơn khả năng của Việt Nam trong ngành công nghiệp như điện tử, mà điển hình là thành công của Samsung ở Việt Nam, có thể cho thấy Việt Nam có năng lực về lĩnh vực này. Trong những năm gần đây, lực lượng lao động của Việt Nam, với những người trẻ, đi học ở các nước rất nhiều, kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, các nước châu Âu, tức là những nước có nền tảng công nghệ cao. Từ đó, Việt Nam có cả một lực lượng những người trẻ là một nguồn nhân lực bổ sung rất tốt cho Việt Nam.Trong nước cũng vậy, ở các trường, nhiều em học sinh trẻ tham gia vào các ngành công nghệ thông tin cũng như công nghiệp điện tử đang chiếm tỷ lệ ngày càng cao. RFI: Thưa bà Phạm Chi Lan, có một vấn đề mà nhiều chuyên gia đã nêu lên đó là tình trạng thiếu nhân lực cho các ngành công nghệ cao như bán dẫn. Chủ tịch của tập đoàn FPT, ông Trương Gia Bình đã cho biết là Việt Nam cần phải đào tạo gấp từ 30.000 đến 50.000 chuyên gia bán dẫn để đáp ứng nhu cầu của ngành này. Theo bà thì liệu Việt Nam có thể nhanh chóng giải quyết tình trạng thiếu hụt nhân lực đó?Phạm Chi Lan: Các tập đoàn về công nghệ cũng thường hay nói như vậy. Nhưng trên thực tế, một khi đã có hướng rõ ràng, có nhà đầu tư vào làm, cần nguồn nhân lực trong lĩnh vực này, thì nguồn nhân lực đó ở Việt Nam có thể xuất hiện nhanh chóng trong vòng vài năm. Trong thời gian xây dựng nhà máy, chuẩn bị các cơ sở vật chất, những người muốn tham gia gia vào ngành đó sẽ tự chuẩn bị cho họ, ráo riết đi học cho kịp thời gian. Đó cũng là cơ hội công việc với tương lai tốt mà họ đã khát khao chờ đợi từ lâu. Họ sẽ không bỏ lỡ thời cơ. Các doanh nghiệp có thể yên tâm là Việt Nam sẽ nhanh chóng đáp ứng được.Những con số như ông Trương Gia Bình đưa ra thì cũng có cơ sở thôi, nhưng đó là bởi vì lâu nay ở Việt Nam đã có doanh nghiệp nào thật sự làm trong lĩnh vực này đâu! Chưa có ai đặt ra nhu cầu về nhân lực với một tiến độ rõ ràng: bao giờ cần, cần một nguồn nhân lực như thế nào. Nếu có nhà đầu tư nào đưa ra như vậy thì cái sự sẵn sàng đó sẽ cao hơn.Tôi nghĩ là thật ra các trường cũng đã học được bài học đầu tiên từ việc Intel vào Việt Nam. Tôi nhớ mãi lúc ấy Intel đã gặp 7 trường ở Sài Gòn để tìm khoảng 2.000 người làm việc cho Intel, nhưng trong đợt đầu tiên chỉ tuyển chọn được 90 người, số còn lại thiếu về mặt này hay mặt khác, hoặc về tiếng Anh, hoặc là về kỹ năng chuyên môn, cần thời gian đào tạo thêm. Nhưng đó là khi họ vừa bước chân vào, đang chuẩn bị nhà máy, nhưng sau đó, khi hình thành nhà máy thì dần dần Intel có đủ nguồn nhân lực cần thiết.Samsung sau này cũng vậy: Khi chính phủ khuyến khích Samsung lập cơ sở R&D ( Nghiên cứu và Phát triển ) ở Việt Nam, ban đầu họ cũng có chút ngần ngại, không biết có đủ nguồn nhân lực không. Nhưng bây giờ khi cơ sở đó hình thành thì nguồn nhân lực đó ở Việt Nam đã có đầy đủ, sẵn sàng làm việc cho Samsung. RFI: Thưa bà Phạm Chi Lan, ý định của Hoa Kỳ rõ ràng biến Việt Nam thành một nơi cung ứng sản phẩm bán dẫn cho thị trường Mỹ, nhằm bớt phụ thuộc vào nguồn cung ứng của Trung Quốc. Nhưng phải làm sao để Việt Nam không tiếp tục chỉ là một nơi sản xuất hàng hóa cho nước khác, tức là phải làm sao bảo đảm việc chuyển giao công nghệ thông qua hợp tác với Mỹ, để Việt Nam có thể dần dần nâng cao giá trị của nền kinh tế trong chuỗi cung ứng quốc tế?Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ là phía Việt Nam đã thấm bài học của việc thu hút đầu tư nước ngoài trong mấy chục năm qua. Rất nhiều dự án đầu tư ban đầu đều cam kết chuyển giao công nghệ, nhưng trên thực tế không làm được bao nhiêu. Tổng kết 30 năm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, hay nghị quyết về FDI của Bộ Chính trị của khóa 12 cũng đã nêu lên khá rõ điều đó và đã yêu cầu có những chỉnh sửa để làm sao thu hút được chuyển giao công nghệ, đòi hỏi được các nhà đầu tư đã cam kết chuyển giao công nghệ phải thực hiện cam kết của họ thì mới được nhận ưu đãi. Đây không chỉ là yêu cầu lớn của các lãnh đạo mà còn của người dân Việt Nam, nhất là những người trẻ. Họ sẽ không chấp nhận Việt Nam chỉ là nơi cung cấp lao động giá rẻ, chuyên làm thuê cho bên ngoài. Bây giờ gia đình những người trẻ ở Việt Nam rất chịu khó cho con em đi học ở các nơi để tiếp nhận các nguồn công nghệ, các kỹ năng tốt hơn, cũng với mục tiêu là sau này về các em sẽ làm những vị trí khác so với trước và có thể tham gia vào quá trình đổi mới, sáng tạo của chính người Việt Nam. Chẳng hạn như bạn Lương Việt Quốc đã về lập công ty RealTime Robotics, chế tạo những drone rất thành công ở Việt Nam, với những kỹ sư trè hoàn toàn được đào tạo ở Việt Nam, tạo những tấm gương rất tốt cho những người trẻ ở Việt Nam, chứng minh Việt Nam có thể tự mình nghiên cứu làm chủ được các sáng tạo công nghệ. Trong giai đoạn hiện nay của sự phát triển, rõ ràng Việt Nam vẫn cần tham gia tiếp vào chuỗi cung ứng trên toàn cầu và với một vị trí tốt hơn, cao hơn so với trước đây là chỉ làm trên cơ sở lao động giá rẻ, kỹ năng rất thấp và giá trị gia tăng không bao nhiêu, rồi tiến dần đến việc người Việt Nam làm chủ được một số lĩnh vực.RFI: Như vậy, theo bà, Việt Nam có thể tận dụng được những thế mạnh của Hoa Kỳ để xây dựng một ngành công nghiệp bán dẫn trình độ cao?Phạm Chi Lan: Hoa Kỳ có thế mạnh rất lớn, kỹ năng rất lớn và cách thức chuyển gao công nghệ của Hoa Kỳ cũng có những cái cởi mở và rõ ràng hơn so với một số quốc gia khác, cho nên tôi tin là sẽ làm được. Tôi nghĩ là các công ty Hoa Kỳ đến Việt Nam với một tinh thần hợp tác tốt và nhất là hiệp định mới có cam kết nhất cả ở cấp nhà nước với nhau, chắc chắn sẽ tạo thuận lợi cho các công ty, các doanh nghiệp và cá nhân những người lao động, những người trẻ tham gia vào quá trình cũng sẽ biết cách làm việc với nhau để tạo được lợi ích cao nhất cho cả hai bên.
Nhân chuyến viếng thăm của tổng thống Mỹ Joe Biden tại Việt Nam hai ngày 10 và 11/09, Washington và Hà Nội đã nâng cấp quan hệ song phương lên thành “Đối tác chiến lược toàn diện”. Đặc biệt, trong bản tuyên bố về nâng cấp quan hệ, hai nước đã thiết lập “Quan hệ đối tác mới về bán dẫn nhằm hỗ trợ phát triển chuỗi cung ứng bán dẫn bền vững, linh hoạt cho doanh nghiệp, người tiêu dùng và người lao động Hoa Kỳ”. Theo bản tuyên bố, Hoa Kỳ công nhận "tiềm năng của Việt Nam với vai trò quan trọng trong việc thiết lập chuỗi cung ứng bán dẫn”. Trong khuôn khổ Quỹ Đổi mới sáng tạo và An ninh Công nghệ Quốc tế (Quỹ ITSI), Hoa Kỳ sẽ hợp tác với Việt Nam “để phát triển hơn nữa hệ sinh thái bán dẫn, khung pháp lý, cũng như lực lượng lao động và nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng hiện nay của Việt Nam.”Nói chung, Mỹ có kế hoạch biến Việt Nam thành cường quốc về chip bán dẫn và giúp Việt Nam đa dạng hóa chuỗi cung ứng chất bán dẫn. Nhưng vấn đề là Việt Nam phải cấp tốc đào tạo một đội ngũ chuyên gia, kỹ sư để đáp ứng nhu về nhân lực của ngành này.RFI Tiếng Việt phỏng vấn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về vấn đề này.RFI: Thưa chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn quan trọng đến mức đã được lãnh đạo hai nước nêu lên ngay trong phần đầu tiên của bản tuyên bố về nâng cấp quan hệ lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”. Vậy theo bà, vì sao Hoa Kỳ đánh giá Việt Nam là một quốc gia "có tiềm năng lớn" để tham gia vào chuỗi cung ứng bán dẫn cho ngành công nghiệp Mỹ?Phạm Chi Lan: Chắc phía Mỹ cũng đã căn cứ vào việc theo dõi sự phát triển của Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi tập đoàn Intel vào Việt Nam năm 2003 để đầu tư vào dự án đầu tiên về công nghệ cao ở Việt Nam. Vào thời gian đó, Intel đã bỏ ra mấy năm trời để đàm phán với Việt Nam, tham khảo rất kỹ thị trường Việt Nam về các mặt, làm việc với chính phủ trung ương, với chính quyền các cấp, các bộ ngành liên quan, kể cả với các trường, là những nơi đào tạo nguồn nhân lực, rồi mới đi đến quyết định đó.Lúc đó tôi có được thủ tướng Phan Văn Khải đưa vào tổ công tác đặc biệt để làm việc với Intel, đứng đầu là ông Nguyễn Mại, từng là phó chủ nhiệm Ủy ban nhà nước về đầu tư, rất thông thạo về đầu tư nước ngoài. Chúng tôi đàm phán với Intel trên cơ sở là xem xét tất cả các yêu cầu của Intel, đối chiếu với khả năng của Việt Nam, xem có thể đáp ứng được gì. Bất cứ những gì mà trong phạm vi quyền hạn của chính phủ có thể tạo điều kiện được, thì theo chỉ đạo của thủ tướng Phan Văn Khải, chúng tôi cố gắng làm tối đa. Thậm chí có những gì luật chưa quy định rõ thì chính phủ có thể đề nghị thêm với Quốc Hội để làm rõ về pháp luật, để từ đó Intel có thể đầu tư vào Việt Nam. Còn về những mặt mà Việt Nam còn thiếu hụt, như nguồn nhân lực, thì thúc đẩy các trường cố gắng đáp ứng được cho Intel.Chính vì thấy năng lực và thiện chí của phía Việt Nam tích cực giải quyết các vấn đề như vậy, cho nên Intel đã quyết định chọn Việt Nam trong, khi họ có 3 sự lựa chọn khác đang cân nhắc trong khu vực: Hàng Châu ( Trung Quốc ), Thái Lan và Ấn Độ. Cả ba đều có ưu thế so với Việt Nam, nhưng cuối cùng Intel chọn Việt Nam. Sau Intel, các tập đoàn công nghệ của các nước, nhất là Nhật Bản và Hàn Quốc, đã vào Việt Nam khá nhiều. Các công ty Hoa Kỳ trong những năm gần đây cũng đã quan tâm và có nhiều cuộc trao đổi với Việt Nam. Như vậy, càng ngày càng thấy rõ hơn khả năng của Việt Nam trong ngành công nghiệp như điện tử, mà điển hình là thành công của Samsung ở Việt Nam, có thể cho thấy Việt Nam có năng lực về lĩnh vực này. Trong những năm gần đây, lực lượng lao động của Việt Nam, với những người trẻ, đi học ở các nước rất nhiều, kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, các nước châu Âu, tức là những nước có nền tảng công nghệ cao. Từ đó, Việt Nam có cả một lực lượng những người trẻ là một nguồn nhân lực bổ sung rất tốt cho Việt Nam.Trong nước cũng vậy, ở các trường, nhiều em học sinh trẻ tham gia vào các ngành công nghệ thông tin cũng như công nghiệp điện tử đang chiếm tỷ lệ ngày càng cao. RFI: Thưa bà Phạm Chi Lan, có một vấn đề mà nhiều chuyên gia đã nêu lên đó là tình trạng thiếu nhân lực cho các ngành công nghệ cao như bán dẫn. Chủ tịch của tập đoàn FPT, ông Trương Gia Bình đã cho biết là Việt Nam cần phải đào tạo gấp từ 30.000 đến 50.000 chuyên gia bán dẫn để đáp ứng nhu cầu của ngành này. Theo bà thì liệu Việt Nam có thể nhanh chóng giải quyết tình trạng thiếu hụt nhân lực đó?Phạm Chi Lan: Các tập đoàn về công nghệ cũng thường hay nói như vậy. Nhưng trên thực tế, một khi đã có hướng rõ ràng, có nhà đầu tư vào làm, cần nguồn nhân lực trong lĩnh vực này, thì nguồn nhân lực đó ở Việt Nam có thể xuất hiện nhanh chóng trong vòng vài năm. Trong thời gian xây dựng nhà máy, chuẩn bị các cơ sở vật chất, những người muốn tham gia gia vào ngành đó sẽ tự chuẩn bị cho họ, ráo riết đi học cho kịp thời gian. Đó cũng là cơ hội công việc với tương lai tốt mà họ đã khát khao chờ đợi từ lâu. Họ sẽ không bỏ lỡ thời cơ. Các doanh nghiệp có thể yên tâm là Việt Nam sẽ nhanh chóng đáp ứng được.Những con số như ông Trương Gia Bình đưa ra thì cũng có cơ sở thôi, nhưng đó là bởi vì lâu nay ở Việt Nam đã có doanh nghiệp nào thật sự làm trong lĩnh vực này đâu! Chưa có ai đặt ra nhu cầu về nhân lực với một tiến độ rõ ràng: bao giờ cần, cần một nguồn nhân lực như thế nào. Nếu có nhà đầu tư nào đưa ra như vậy thì cái sự sẵn sàng đó sẽ cao hơn.Tôi nghĩ là thật ra các trường cũng đã học được bài học đầu tiên từ việc Intel vào Việt Nam. Tôi nhớ mãi lúc ấy Intel đã gặp 7 trường ở Sài Gòn để tìm khoảng 2.000 người làm việc cho Intel, nhưng trong đợt đầu tiên chỉ tuyển chọn được 90 người, số còn lại thiếu về mặt này hay mặt khác, hoặc về tiếng Anh, hoặc là về kỹ năng chuyên môn, cần thời gian đào tạo thêm. Nhưng đó là khi họ vừa bước chân vào, đang chuẩn bị nhà máy, nhưng sau đó, khi hình thành nhà máy thì dần dần Intel có đủ nguồn nhân lực cần thiết.Samsung sau này cũng vậy: Khi chính phủ khuyến khích Samsung lập cơ sở R&D ( Nghiên cứu và Phát triển ) ở Việt Nam, ban đầu họ cũng có chút ngần ngại, không biết có đủ nguồn nhân lực không. Nhưng bây giờ khi cơ sở đó hình thành thì nguồn nhân lực đó ở Việt Nam đã có đầy đủ, sẵn sàng làm việc cho Samsung. RFI: Thưa bà Phạm Chi Lan, ý định của Hoa Kỳ rõ ràng biến Việt Nam thành một nơi cung ứng sản phẩm bán dẫn cho thị trường Mỹ, nhằm bớt phụ thuộc vào nguồn cung ứng của Trung Quốc. Nhưng phải làm sao để Việt Nam không tiếp tục chỉ là một nơi sản xuất hàng hóa cho nước khác, tức là phải làm sao bảo đảm việc chuyển giao công nghệ thông qua hợp tác với Mỹ, để Việt Nam có thể dần dần nâng cao giá trị của nền kinh tế trong chuỗi cung ứng quốc tế?Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ là phía Việt Nam đã thấm bài học của việc thu hút đầu tư nước ngoài trong mấy chục năm qua. Rất nhiều dự án đầu tư ban đầu đều cam kết chuyển giao công nghệ, nhưng trên thực tế không làm được bao nhiêu. Tổng kết 30 năm đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, hay nghị quyết về FDI của Bộ Chính trị của khóa 12 cũng đã nêu lên khá rõ điều đó và đã yêu cầu có những chỉnh sửa để làm sao thu hút được chuyển giao công nghệ, đòi hỏi được các nhà đầu tư đã cam kết chuyển giao công nghệ phải thực hiện cam kết của họ thì mới được nhận ưu đãi. Đây không chỉ là yêu cầu lớn của các lãnh đạo mà còn của người dân Việt Nam, nhất là những người trẻ. Họ sẽ không chấp nhận Việt Nam chỉ là nơi cung cấp lao động giá rẻ, chuyên làm thuê cho bên ngoài. Bây giờ gia đình những người trẻ ở Việt Nam rất chịu khó cho con em đi học ở các nơi để tiếp nhận các nguồn công nghệ, các kỹ năng tốt hơn, cũng với mục tiêu là sau này về các em sẽ làm những vị trí khác so với trước và có thể tham gia vào quá trình đổi mới, sáng tạo của chính người Việt Nam. Chẳng hạn như bạn Lương Việt Quốc đã về lập công ty RealTime Robotics, chế tạo những drone rất thành công ở Việt Nam, với những kỹ sư trè hoàn toàn được đào tạo ở Việt Nam, tạo những tấm gương rất tốt cho những người trẻ ở Việt Nam, chứng minh Việt Nam có thể tự mình nghiên cứu làm chủ được các sáng tạo công nghệ. Trong giai đoạn hiện nay của sự phát triển, rõ ràng Việt Nam vẫn cần tham gia tiếp vào chuỗi cung ứng trên toàn cầu và với một vị trí tốt hơn, cao hơn so với trước đây là chỉ làm trên cơ sở lao động giá rẻ, kỹ năng rất thấp và giá trị gia tăng không bao nhiêu, rồi tiến dần đến việc người Việt Nam làm chủ được một số lĩnh vực.RFI: Như vậy, theo bà, Việt Nam có thể tận dụng được những thế mạnh của Hoa Kỳ để xây dựng một ngành công nghiệp bán dẫn trình độ cao?Phạm Chi Lan: Hoa Kỳ có thế mạnh rất lớn, kỹ năng rất lớn và cách thức chuyển gao công nghệ của Hoa Kỳ cũng có những cái cởi mở và rõ ràng hơn so với một số quốc gia khác, cho nên tôi tin là sẽ làm được. Tôi nghĩ là các công ty Hoa Kỳ đến Việt Nam với một tinh thần hợp tác tốt và nhất là hiệp định mới có cam kết nhất cả ở cấp nhà nước với nhau, chắc chắn sẽ tạo thuận lợi cho các công ty, các doanh nghiệp và cá nhân những người lao động, những người trẻ tham gia vào quá trình cũng sẽ biết cách làm việc với nhau để tạo được lợi ích cao nhất cho cả hai bên.
Gần đây, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới có nhiều dấu hiệu khiến giới đầu tư và các nhà kinh tế lo ngại : xuất khẩu giảm, tiêu dùng giảm, thậm chí là nguy cơ xảy ra giảm phát. Theo chuyên gia kinh tế Philippe Aguinier, tại viện nghiên cứu Institut Montagne, mô hình kinh tế giúp Trung Quốc đạt được những tăng trưởng đáng kể trong hàng chục năm qua đã không còn hiệu quả nữa, "nhưng chưa ai biết mô hình nào có thể thay thế". Cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản bắt đầu từ vài năm qua, tiếp tục trầm trọng hơn khi những nhà đầu tư địa ốc lớn như Country Garden bên bờ vực phá sản, vì không trả được nợ, phải xin tái cấu trúc nợ vào tháng 8/2023. Theo Bloomberg, các công ty xây dựng thuộc doanh nghiệp Nhà nước Trung Quốc cũng báo cáo lỗ trong 6 tháng đầu năm nay.Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc đã ngừng công bố các số liệu quan trọng, như tỷ lệ thất nghiệp ở giới trẻ, sau 6 tháng liên tiếp tỷ lệ này tăng ở mức kỷ lục. Bắc Kinh cũng ngừng công bố khảo sát về mức độ sẵn sàng chi tiêu của người tiêu dùng (China consumer confidence index) sau khi các báo cáo trước đó chỉ ra rằng chỉ số này ngày càng xuống thấp, do người tiêu dùng bị khủng hoảng niềm tin.Vào tháng Bảy, thống kê của hải quan Trung Quốc cho thấy, giá trị xuất khẩu giảm 14,5 % so với cách nay 1 năm. Đây là mức giảm lớn nhất kể từ khi dịch Covid-19 bùng nổ vào tháng 2/2020, ảnh hưởng đến các hoạt động thương mại và sản xuất. Đồng Nhân dân tệ, hôm 16/08 vừa qua, đã xuống mức thấp nhất từ 16 năm qua, (1 đô la đổi 7,29 nhân dân tệ).Tám tháng kể từ khi chấm dứt chính sách "Zero Covid", kinh tế Trung Quốc không đưa ra bất cứ dấu hiệu phục hồi nào. Về tình hình nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn kinh tế gia Philippe Aguignier, giảng dạy môn kinh tế Trung Quốc tại Viện ngôn ngữ và văn minh phương Đông - Inalco, ông cũng là nhà nghiên cứu tại Institut Montagne.RFI : Tình hình kinh tế Trung Quốc không mấy khởi sắc có phải là điều khiến các nhà kinh tế ngạc nhiên ? Liệu đây có phải là điều có thể dự đoán trước hay không ?Philippe Aguignier : Tất cả những ai theo dõi kinh tế Trung Quốc đều biết rằng điều này không bắt đầu từ hôm qua mà từ vài năm nay. Đại dịch Covid-19 trên thực tế chỉ làm trầm trọng thêm các vấn đề nội tại của Trung Quốc. Chính quyền Trung Quốc cũng đã giải thích cách nay vài năm rằng không thể duy trì tăng trưởng 9 % 10 % và cần phải làm quen với một hiện tượng mà tiếng Trung gọi là tình trạng “bình thường mới”. Tức là trước kia, tăng trưởng 10 % là bình thường thì bây giờ Bắc Kinh hy vọng chỉ khoảng 5 %.Tôi thấy tỷ lệ này vẫn còn quá tham vọng (…) Có nhiều lý do dẫn đến tăng trưởng của Trung Quốc giảm. Thứ nhất là tình trạng dân số giảm (nhân lực vốn là một lợi thế của Trung Quốc). Thêm vào đó, kinh tế Trung Quốc phụ thuộc quá nhiều vào đầu tư hạ tầng và bất động sản. Đến khi các công trình xây đường sắt, đường cao tốc, bị chậm tiến độ, đã xây quá nhiều rồi những vẫn tiếp tục xây dựng thêm nữa thì lợi nhuận từ các khoản đầu tư mới không là bao.RFI : Nói đến thị trường bất động sản, vốn chiếm hơn 20 % GDP của Trung Quốc, hiện đang điêu đứng vì nhiều công ty bất động sản lớn gặp khó khăn, thiếu thanh khoản, không thể thanh toán nợ đáo hạn… điều này có tác động như thế nào đến nền kinh tế Trung Quốc ?Philippe Aguignier :Tại Trung Quốc, cách nay 30, 40 năm, nhu cầu về nhà ở tăng mạnh, vì dân số tăng, đi kèm với hiện tượng đô thị hoá. Do vậy chính quyền đã cấp các khoản vay để thúc đẩy phát triển lĩnh vực bất động sản. Tuy nhiên, khi quá trình đô thị hoá chậm lại, nhiều người đã mua được nhà, nhu cầu giảm. Cán cân cung cầu có sự chênh lệch, nhưng các nhà đầu tư bất động sản vẫn tiếp tục xây dựng thêm nhà, vì điều này tạo ra hoạt động kinh tế. Chính quyền địa phương rất hài lòng vì thu được tiền từ thuế (mua bán đất). Tuy nhiên vấn đề là khi có nhiều nhà không bán được thì số nợ cũng tăng theo. Các nhà đầu tư vốn đang mắc nợ nhưng vẫn tiếp tục xây thêm nhà trong thời gian dài.Mọi người chắc chắn vẫn nhớ đến cuộc khủng hoảng Evergrande cách nay 2 năm, trước đại dịch Covid. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế mà cả xã hội. Hàng triệu người đã mua nhà trên bản vẽ trước, nhưng nếu các nhà đầu tư bất động sản ngừng xây dựng thì những người đã trả tiền mua nhà không có nhà. Do vậy, thị trường bất động sản có những dấu hiệu suy yếu. Có thể nói rằng đó là một hiện tượng “ứng xử theo dự đoán” (anticipations auto-réalisatrices), nghĩa là mọi người bắt đầu lo lắng rằng giá sẽ giảm, và không đi mua vội. Vì họ cho rằng nếu không mua hôm nay thì sẽ rẻ hơn ngày mai, vậy nên đợi đến ngày mai. Khi cầu càng ít thì giá lại tiếp tục giảm. Tình hình càng trở nên phức tạp hơn, tồi tệ hơn, như rơi vào một vòng luẩn quẩn, khó có thể ra khỏi.Tình hình hiện nay ở Trung Quốc gợi lại cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản vào cuối những năm 1990, khiến kinh tế Nhật Bản bị chững lại trong một khoảng thời gian dài vì giảm phát. Liệu kinh tế Trung Quốc có đang phải đối mặt với giảm phát hay không ?Philippe Aguignier : Tất cả mọi người đều hốt hoảng vì những chỉ số mới ra gần đây, cho thấy giá cả đã giảm xuống, giá tiêu dùng cũng như giá sản xuất. Tuy nhiên, nếu xét kĩ, thì giá tiêu dùng so với cách nay 1 năm đúng là có giảm, nhưng so với tháng Bảy thì có tăng một chút. Do vậy vẫn còn quá sớm để nói rằng Trung Quốc rơi vào tình trạng giảm phát. Nhưng có thể nói rằng một số lĩnh vực trong kinh tế Trung Quốc trong tình trạng giảm phát, nhất là tại thị trường bất động sản, đó lại là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.Giảm phát tức là tình trạng giá cả giảm xuống kéo dài, không chỉ người tiêu dùng, nhà sản xuất, các doanh nghiệp, tất cả đều dự trù giá sẽ giảm, tức là dự trù giảm hoạt động kinh tế. Người tiêu dùng không mua ngay vì giá có thể còn giảm nữa trong 6 tháng hay một năm sau. Như vậy là tình hình ngày càng xấu đi (hiện tượng quả cầu tuyết) và kinh tế rơi vào suy thoái. Cầu càng ít thì cung cũng giảm. Đây là hiện tượng rất nguy hiểm cho nền kinh tế và cần phải tránh. Tôi cho rằng chính quyền Trung Quốc biết chuyện gì đang xảy ra và nhận thức được rủi ro và sẽ có nhiều biện pháp để đối phó. Vẫn còn quá sớm để nói rằng kinh tế Trung Quốc giảm phát, cần phải chờ thêm một vài quý nữa mới có thể đánh giá được.RFI: Vào tuần trước Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã tiếp tục giảm lãi suất, để khuyến khích cho vay với lãi ưu đãi. Trung Quốc cũng đã công bố các biện pháp để hỗ trợ thị trường bất động sản, giảm tỉ lệ trả trước và lãi suất cho vay đối với một số đối tượng mua nhà. Ông đánh giá thế nào về biện pháp mà chính quyền Trung Quốc đưa ra?Philippe Aguignier : Trung Quốc không ở trong tình huống giống như Hoa Kỳ hay châu Âu phải đối mặt với lạm phát. Tức là khi lạm phát xảy ra thì tăng lãi suất, nhưng Trung Quốc thì khác, lạm phát ở mức 0% thậm chí còn âm, giảm lãi suất là cách để kích hoạt lại nền kinh tế, do vậy khá là logic, nhưng hiệu quả thì ra sao thì khó có thể nói được. Khi lãi suất cho vay thấp, thì người vay sẽ trả ít lãi hơn. Nhưng tùy thuộc vào tình hình kinh tế của mỗi người. Trước nguy cơ giảm phát, giá giảm, thì không ai muốn đầu tư ngay cả khi lãi suất cho vay thấp.RFI : Khi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới gặp khó khăn, kinh tế toàn cầu sẽ bị tác động như thế nào ?Philippe Aguignier : Dĩ nhiên đây không phải là điều tích cực đối với kinh tế thế giới, đặc biệt là các nước xuất khẩu sang Trung Quốc, các nước châu Âu, như Pháp chẳng hạn, mặc dù vốn nhập từ Trung Quốc nhiều hơn là xuất sangNếu kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại thì có nghĩa cầu sẽ ít hơn, xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ (tiếp tục giảm). Trung Quốc cũng là nước tiêu thụ nguyên liệu thô lớn, tất cả các nước xuất khẩu sang Trung Quốc cũng sẽ bị ảnh hưởng, đặc biệt là các nước ở châu Mỹ La Tinh và châu Phi. Ngoài ra, phải nói rằng Trung Quốc có khả năng sản xuất công nghiệp rất lớn, lớn hơn cả nhu cầu nội địa. Nếu như thị trường nội địa đã quá tải thì điều gì sẽ xảy ra ? Các nhà sản xuất Trung Quốc sẽ tìm cách xuất khẩu nhiều hơn, và có khả năng phá giá. Vậy thì một số lĩnh vực mà Trung Quốc vốn đang cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới, sẽ càng cạnh tranh khốc liệt hơnĐó là điều đã xảy ra cách nay vài năm, trong lĩnh vực pin mặt trời. Các nhà sản xuất Trung Quốc sản xuất với giá thấp, nên họ đã phá giá thị trường quốc tế, khiến các nhà sản xuất khác không có chỗ đứng, bị phá sản.Điều này có thể xảy ra trong các thị trường khác, hiện nay là xe điện. Khả năng sản xuất của các doanh nghiệp Trung Quốc quá lớn, mà thị trường tiêu thụ trong nước không thể đáp ứng. Do vậy có nguy cơ, xe điện Trung Quốc có thể tấn công vào thị trường của phương Tây.RFI : Nhưng mỗi khi kinh tế Trung Quốc gặp vấn đề, nhiều người nói đến mô hình kinh tế Trung Quốc đã sụp đổ, ông có nhận định như thế nào về điều này ?Philippe Aguignier : Tôi nghĩ rằng một phần là đúng. Trung Quốc đã duy trì một mô hình kinh tế trong thời gian dài : ưu tiên đầu tư so với tiêu dùng. Nhưng mô hình này dần không hiệu quả nữa. Cách nay vài năm, lợi nhuận từ các khoản đầu tư mới đã giảm. Vì ngày càng có nhiều đầu tư được tài trợ từ các khoản nợ, điều này dẫn đến những vấn đề trong hệ thống tài chính. Các doanh nghiệp bị nợ quá nhiều. Do vậy, ngày nay cần phải thay đổi mô hình kinh tế này, tức là tăng tiêu dùng so với đầu tư. Điều này nói thì dễ nhưng để thực hiện thì không dễ chút nào.Ví dụ trong lĩnh vực địa ốc, rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay, cầu ngày càng giảm, do vậy cần phải có điều chỉnh. Tuy nhiên, sau nhiều năm tăng trưởng trong lĩnh vực bất động sản, chính phủ Trung Quốc, đặc biệt là chính quyền địa phương, của các tỉnh thành lớn, đã sử dụng thị trường bất động sản để có được nguồn thu tài chính. Đó là một nguồn thu nhập lớn. Ban đầu là từ lĩnh vực địa ốc, sau đó là việc bán đất, thuế thu được từ bán đất…Để thay đổi mô hình kinh tế thì cần phải thay đổi toàn bộ mô hình tài chính của chính quyền cấp địa phương, đây không phải là điều dễ dàng, không thể làm được trong ngày một ngày hai. Tôi cho rằng chính quyền Trung Quốc nhận thức được điều này nhưng không thể tìm được giải pháp ngay lập tức.Khi có quá nhiều nợ, và những khoản nợ này không thể hoàn toàn trả được thì có nghĩa là sẽ bị thất thoát vốn và cần phải chia ra, ai sẽ trả ? Nhà nước Trung ương ? hay các chính quyền địa phương ? Người tiêu dùng hay ngân hàng ? Đây là vấn đề khá phức tạp và cũng là một vấn đề chính trị.Mô hình kinh tế Trung Quốc đúng là đã kiệt quệ, nhưng không ai có ý tưởng rõ ràng về một mô hình mới, và làm sao có thể thay thế mô hình cũ này.
Berlin cảnh giác cao độ về khả năng mật vụ Việt Nam bắt cóc bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, cựu chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế - AIC, ngay trên lãnh thổ Đức. Nữ doanh nhân 56 tuổi bị truy nã trong ba vụ án hình sự liên quan đến đấu thầu, hối lộ. Theo nhiều cơ quan truyền thông Slovakia và Đức, bà Nhàn đã ở Đức « được vài tháng ». Bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn bị cáo buộc lũng đoạn đấu thầu trong các gói thầu tại Bệnh viện Đồng Nai, Trung tâm Công nghệ sinh học thành phố Hồ Chí Minh và các đơn vị liên quan, Bệnh viện Sản-Nhi Quảng Ninh. Vào cuối năm 2022, bà Nhàn bị kết án vắng mặt tổng cộng 30 năm tù trong vụ đầu tiên. Hai vụ tiếp theo vẫn đang trong quá trình xét xử.Vào tháng 05/2022, khi xác định bà Nhàn đã bỏ trốn, cơ quan Cảnh sát điều tra bộ Công An phát lệnh truy nã bà Nhàn và 7 người khác gồm cấp dưới tại công ty AIC và lãnh đạo một số doanh nghiệp thân quen. Theo trang TAZ của Đức, bà Nhàn dường như đã đến Nhật Bản, sau đó qua Luân Đôn (Anh) và đã đến Đức từ vài tháng nay.Trang Thoibao.de hôm 11/08 cho biết Việt Nam đã gửi cho Đức đơn yêu cầu dẫn độ bà Nhàn, nhưng Sở Tư pháp Liên bang Đức đã bác đơn này. Đồng thời, bộ Ngoại Giao Đức được cho là đã cảnh cáo Việt Nam là « sẽ không tha thứ cho bất kỳ sự can thiệp nào của các quốc gia nước ngoài trên lãnh thổ Đức ». Cảnh sát Đức cũng đã liên lạc trực tiếp với bà Nhàn và cảnh báo về tình trạng nguy hiểm của bà.Liệu một vụ bắt cóc thứ hai có khả năng xảy ra hay không ? Trong trường hợp xảy ra, việc này sẽ tác động đến quan hệ ngoại giao Việt Nam và Đức như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà báo Trung Khoa của trang Thoibao.de tại Berlin.RFI : Một số cơ quan truyền thông Slovakia và Đức đưa tin là bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, nguyên chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty AIC đang ở Đức. Xin anh cho biết những thông tin mới nhất về vụ việc ! Nhà báo Trung Khoa : Những thông tin mà tôi tổng hợp và nhận được thì rất nhiều. Đầu tiên, chúng ta cũng biết thông tin bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn bỏ trốn đã được công bố, sau đó Việt Nam đã phát lệnh truy nã. Thông tin gần đây nhất mà chúng tôi nhận được là bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn đã sang Đức.Sau đó, các tờ báo của Đức, của quốc tế lần lượt đưa tin sau khi họ hỏi chính quyền Đức. Họ được biết những thông tin rất nhạy cảm. Những thông tin này được đưa ra và đăng trên các tạp chí, cũng như là trên Đài truyền hình Slovakia RTVS tối 05/08, cũng như là trên báo TAZ của Đức vào ngày 06/08, trong đó có rất nhiều thông tin đặc biệt về việc bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn đang ở Đức.RFI : Có tin nói rằng đề nghị dẫn độ bà Nhàn từ phía Việt Nam nhưng từ chối. Liệu có lý do nào giải thích quyết định của Đức ? Nhà báo Trung Khoa : Tôi nghĩ chính quyền Đức từ chối bởi vì lần trước khi vụ án ông Trịnh Xuân Thanh xảy ra vào năm 2017, khi đó phía việt Nam cũng đã đề nghị dẫn độ nhưng bà thủ tướng Angela Merkel lúc đó trả lời rằng việc này là do bên cơ quan Tư pháp làm. Dường như Việt Nam không đợi được các cơ quan Tư pháp của Đức làm việc tiếp mà họ đã bắt cóc.Vụ việc của bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn khá giống với trường hợp của ông Trịnh Xuân Thanh trước đây. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Thanh Nhà là người có nhiều mối quan hệ và nhiều thông tin quan trọng hơn ông Trịnh Xuân Thanh rất nhiều. Và bà cũng không đi một mình mà đi cùng với rất nhiều cộng sự của bà. Trước khi việc truy tố diễn ra ở Việt Nam, bà Nhàn đã chuẩn bị rất kỹ.Ở Đức là tam quyền phân lập. Đức chưa có hiệp định về dẫn độ, giữa hai nước cũng chưa có hiệp định tương trợ tư pháp. Còn phía Việt Nam cũng đang rất cố gắng để tìm cách đưa bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn về. Nhưng phía Đức, đó là Nhà nước pháp quyền nên bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn chắc chắn sẽ có những luật sư để bảo vệ bà chống dẫn độ về Việt Nam.RFI : Anh nghĩ Đức sẽ phản ứng như thế nào nếu xảy ra trường hợp bắt cóc thứ 2 ? Việt Nam có khả năng làm không sau khi đã xảy ra sự cố, căng thẳng ngoại giao và bị chỉ trích sau vụ bắt cóc lần trước ? Nhà báo Trung Khoa : Rõ ràng là những thông tin mà báo chí Đức đã đăng tải sau khi họ có những nguồn tin từ nội bộ chính phủ Đức đưa ra là phía Đức đã cảnh báo phía Việt Nam là không được làm vụ bắt cóc lần nữa. Nếu Việt Nam vẫn cố tình làm thì đương nhiên nước Đức, một Nhà nước pháp quyền, nói rõ là sẽ không chấp nhận và dung thứ cho bất cứ hành động nào như vậy trên đất nước Đức nữa.Đầu tiên nếu Việt Nam bắt có thì có thể phía Đức sẽ trục xuất ông đại sứ hiện nay của Việt Nam tại Đức chẳng hạn. Còn chuyện chấm dứt quan hệ với Việt Nam, tôi nghĩ chắc là không, bởi vì Đức cũng có những mối quan hệ và những mối quan tâm về mặt chiến lược tại Việt Nam. Nhưng những chương trình, những dự án hỗ trợ Việt Nam hoặc những công việc khác của chính phủ Đức với Việt Nam và giữa hai nước sẽ bị đóng băng trong thời gian rất dài.Tôi nghĩ rằng phía Việt Nam, không phải là một Nhà nước pháp quyền, cho nên họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì, miễn là đạt được mục đích của mình. Qua những sự việc đã diễn ra từ trước đến nay, chúng ta có nhiều bằng chứng rõ ràng. Cho nên phía Đức, mặc dù đã cảnh báo như vậy, nhưng họ cũng đã gặp gỡ trực tiếp bà Nhàn, theo như báo chí Đức đăng tải, để cảnh báo bà cẩn thận với những cơ quan của Việt Nam. Họ có thể tiếp cận và tìm cách đưa bà về Việt Nam hoặc là có những hành động bất hợp pháp tại Đức.RFI : Liệu anh có những thông tin là phía Việt Nam đang tiến hành những thủ tục và hợp tác với Đức như thế nào để phía Đức đồng ý đưa bà Nhàn về Việt Nam ? Nhà báo Trung Khoa : Đương nhiên, như đã nói, phía Việt Nam luôn tìm mọi cách để đưa bà Nhàn về, không chỉ ở Đức mà ở bất cứ nước nào, nếu họ phát hiện bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn đang ở quốc gia đó.Việc đưa bà Nhàn về, nếu dùng các thủ tục pháp lý, cũng phải trải qua những quy trình rất rõ ràng, minh bạch. Và bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn cũng có những luật sư của bà để bảo vệ cho thân chủ. Tôi nghĩ rằng việc đưa bà Nhàn về theo hình thức đó là rất khó, bởi vì nước Đức là một Nhà nước pháp quyền, họ sẽ thực hiện theo đúng Hiến Pháp, cũng như pháp luật của họ.RFI : Nhưng trong trường hợp như vậy, có thể có những ý kiến cho rằng Đức dung túng, bao che cho một tội phạm đang bị truy nã ở Việt Nam !Nhà báo Trung Khoa : Phải nói là khi bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn sang Đức, cũng giống như trường hợp ông Trịnh Xuân Thanh khi sang đến Đức, lúc đó họ chưa hề bị lệnh truy nã nào và cũng chưa bị truy tố. Vậy thì không thể nói rằng bà là một tội phạm.Còn ở phía Đức, họ coi những tòa án ở Việt Nam là không độc lập, tức là đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam, cho nên những quyết định của những tòa án đó thường mang tính chất là đã được định sẵn, mà người ta hay gọi là « án bỏ túi ». Cho nên, điều đó rất khó xảy ra đối với phía Đức, khi họ có thể là bằng sức ép nào đó của Việt Nam, để có thể dẫn độ bà Nhàn về Việt Nam theo như mong muốn của nhà cầm quyền ở Hà Nội. Đó là thông tin mà tôi nghĩ rằng sẽ diễn ra như vậy.Và vụ việc này chưa chấm dứt ở đây. Chắc chắn sẽ còn những thông tin mới trong thời gian sắp tới đối với vụ bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn trốn ra nước ngoài và được báo chí Đức và quốc tế đăng tải là được phát hiện đang ở Đức.RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà báo Trung Khoa tại Berlin !Khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân ThanhÔng Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc ngay giữa thủ đô Berlin ngày 23/07/2017. Vụ bắt cóc được tính toán kỹ, ly kỳ, lợi dụng quan hệ ngoại giao với Slovakia để đưa Trịnh Xuân Thanh ra khỏi khối Schengen và về Việt Nam. Tư pháp Đức vẫn tiếp tục điều tra vụ việc.Trang tin Đức DW nhắc lại hôm 02/06/2022 : « Chính phủ Đức coi vụ bắt cóc là xâm phạm chủ quyền quốc gia. Đức cũng từng trục xuất hai nhà ngoại giao Việt Nam vì vụ bắt cóc và bày tỏ phản đối với đại sứ Việt Nam ». Sau sự kiện gây chấn động này, chính phủ Đức đã quyết định tạm đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam kể từ ngày 22/09/2017, sau đó là tạm đình chỉ hiệp định giữa hai nước về việc miễn thị thực (visa) đối với hộ chiếu ngoại giao Việt Nam.Ngày 01/11/2018, thứ trưởng thường trực bộ Ngoại Giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn đã sang Berlin để đàm phán với phía Đức nhằm hàn gắn lại mối quan hệ ngoại giao đã bị khủng hoảng sau vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Sau đó, khi được trang TAZ đặt câu hỏi, bộ Ngoại Giao Đức chỉ xác nhận là « có cuộc đàm phán tại bộ Ngoại Giao ngày hôm nay (thứ Năm ngày 01/11/2018) » trong « quá trình trao đổi chặt chẽ » với Việt Nam về « các vấn đề quốc tế và song phương ». Mối quan hệ Việt-Đức được cho là bước sang một chương mới với chuyến công du Hà Nội của thủ tướng Olaf Scholz trong hai ngày 13-14/11/2022. Nhưng chưa đầy một năm sau, sóng gió lại có thể nổi lên với vụ bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn.
Việt Nam được đánh giá cao tại Hội nghị COP26 về Khí hậu của Liên Hiệp Quốc ở Glasgow năm 2021 khi cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Việt Nam cũng nằm trong số ba nước trên thế giới (Nam Phi và Indonesia) được nhóm G7 viện trợ (15,5 tỉ đô la) để giảm phụ thuộc vào các nhà máy nhiệt điện. Nhưng từ đó, kế hoạch được ngưỡng mộ dường như giậm chân tại chỗ, trong khi tình trạng hạn hán do biến đổi khí hậu đang khiến Việt Nam thúc đẩy nguồn nhiệt điện.Hạn hán nghiêm trọng trong tháng 06/2023 đã khiến miền bắc Việt Nam chịu cảnh cắt điện luân phiên do các nhà máy thủy điện không có nước hoạt động. Thiếu điện ở miền Bắc đã được cảnh báo vài năm trước, theo ông Nguyễn Anh Tuấn, phó viện trưởng Viện Năng lượng và Môi trường, được trang VnExpress trích dẫn ngày 14/06/2023, nhưng để đưa vào được nguồn điện phải cần ít nhất 3-4 năm, thậm chí lâu hơn. Chưa kể nhiều dự án nguồn điện lớn chậm tiến độ nhiều năm so với quy hoạch được phê duyệt.Điện là điều kiện cơ bản, tiên quyết để thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, để đối phó với tình trạng thiếu điện do hạn hán có nguy cơ xảy ra thường xuyên hơn vì biến đổi khí hậu, nhiệt điện (than, dầu, khí) được đẩy mạnh hết công suất, và như vậy, chưa thể thực hiện ngay những tham vọng trung hòa khí phát thải. Ngoài ra, Quy hoạch điện VIII, được công bố sau thời gian dài trì hoãn, vẫn tập trung sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Ngoài than, khí hóa lỏng trở thành một phần cơ bản của cơ cấu năng lượng, trong khi đây cũng là một nguồn nhiên liệu góp phần làm Trái đất nóng lên. RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với giáo sư Éric Mottet, giám đốc nghiên cứu các Thế giới trỗi dậy (CReME), Đại học Công giáo Lille và bà Pauline Vo, trợ lý nghiên cứu tại CReMe, sinh viên thạc sĩ ngành Quan hệ Quốc tế, Đại học Khoa học Nhân văn (FLSH).RFI : Nhóm G7 cam kết tài trợ cho Việt Nam 15,5 tỉ đô la Mỹ để giúp Việt Nam thực hiện mục tiêu trung hòa khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính từ nay đến năm 2050. Nhóm G7 đặt ra những điều kiện gì ? Và Việt Nam cam kết gì ? Éric Mottet : Đúng là có một thỏa thuận giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam với nhóm được gọi là “các đối tác quốc tế”. Hai bên nhất trí một hợp tác đối tác (JETP) trị giá 15,5 tỉ đô la đầu tư công và tư, từ 3 đến tối đa là 5 năm, có nghĩa là tới khoảng năm 2028. Điều thú vị trong hợp tác đối tác này là một nửa ngân sách là do các đối tác quốc tế công cấp, như Ngân hàng Phát triển châu Á. Nửa còn lại, khoảng 7,75 tỉ đô la, là từ các ngân hàng tư nhân của châu Âu, châu Á hoặc Mỹ. Nhưng khoản đầu tư 7,75 tỉ đô la, tương đương khoảng 50% tổng ngân sách, sẽ chỉ được giải ngân nếu như lĩnh vực công đầu tư ồ ạt vào các chương trình giúp Việt Nam bắt đầu chuyển đổi năng lượng. Đổi lại, Việt Nam phải đáp ứng những yêu cầu gì ? Thực ra những yêu cầu đó không quá đáng. Đây là điểm đáng ngạc nhiên. Nhóm G7 yêu cầu cho đến năm 2030, Việt Nam giảm 30% lượng khí thải CO2, tăng thêm 47-48% lượng điện từ năng lượng tái tạo và giảm lượng điện than. Và để thực hiện được những mục tiêu đó, các nước G7 sẽ hỗ trợ Việt Nam triển khai toàn bộ khung pháp lý mới, thực hiện chuyển hóa xanh, nền kinh tế xanh của Việt Nam. Việt Nam được yêu cầu cải thiện hiệu quả năng lượng và tăng cường mạng lưới điện. Cải thiện hiệu quả năng lượng có nghĩa là Việt Nam phải tiêu thụ ít điện hơn. Đây là điều mà chúng ta đã thấy phần nào trong thời gian vừa qua.RFI : Quy hoạch Điện VIII đặt trọng tâm vào sự kết hợp các loại năng lượng, trong đó có khí hóa lỏng (LNG). Tuy nhiên, việc vận chuyển và chuyển đổi khí LNG đặt ra vấn đề về phát thải khí CO2 ! Éric Mottet : Đúng là hiện giờ Việt Nam, ít hướng đến tiêu thụ khí hóa lỏng, đã triển khai một dự án đầy tham vọng bởi vì có đến 13 trạm vận hành sẽ được xây dựng để tiếp nhận khí hóa lỏng. Nhưng việc này cũng đặt ra vấn đề về chuyển đổi năng lượng của Việt Nam, như chị nêu. Đúng là khí hóa lỏng không gây ô nhiễm môi trường như than, ít hơn 50% so với than, nhưng sẽ phát thải nhiều khí CO2, kể cả khí metan, trong quá trình sản xuất, vận tải và tiêu thụ. Đó là một nguồn năng lượng gây ô nhiễm. Nhưng đáng tiếc, tôi cho rằng hiện giờ Việt Nam không có quá nhiều lựa chọn do khó khăn trong cung ứng khí đốt tự nhiên của Nga, bị trừng phạt do chiến tranh Ukraina. Nhưng qua sự kết hợp các nguồn năng lượng tương lai này, Việt Nam cho thấy quyết tâm đa dạng hóa các nguồn năng lượng tiềm năng, trong đó có khí hóa lỏng được xếp ngang với điện gió, điện mặt trời. Đúng là nghịch lý khi muốn sử dụng khí hóa lỏng để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng. Nhưng phải nói là hầu hết các nước Đông Nam Á đều gộp khí hóa lỏng vào chiến lược chuyển đổi năng lượng của họ, cho nên Việt Nam không phải là trường hợp cá biệt. Đó là điều mà người ta thường thấy ở khắp châu Á.RFI : Miền bắc Việt Nam bị cắt điện luân phiên vào đầu mùa hè. Tình hình chỉ có thể ổn định trở lại vào cuối năm. Hạn hán là một trong nhưng nguyên nhân gây thiếu điện. Điện than được huy động để bù phần nào. Thế nhưng đây lại cũng là một nghịch lý giữa thực tế và mục tiêu môi trường được vạch ra trong chiến lược chung ?Éric Mottet : Tình trạng thiếu nước nghiêm trọng đã xảy ra, nhất là ở miền bắc Việt Nam nơi nhiều nhà máy thủy điện bị giảm sản lượng 30-40%. Vấn đề này là rất lớn bởi, vì cần biết là khoảng 40-50% điện ở miền bắc Việt Nam là nhờ vào thủy điện. Tình trạng này diễn ra theo chu kỳ, có nghĩa là sẽ kéo dài vài tháng, gây khó khăn cho sản xuất điện và kéo theo hệ quả nghiêm trọng về cung cấp.Ngoài khó khăn của thủy điện, phải nói thêm khó khăn về cung ứng than mà Việt Nam gặp phải, nhất là than nhập từ Indonesia không đến đúng hạn. Vừa bị hạn hán khiến sản lượng điện giảm, vừa bị chậm trễ trong nhập khẩu than nên các nhà máy nhiệt điện không hoạt động hết công suất, dẫn đến hệ quả là cắt điện hàng loạt, đôi khi không báo trước. Chúng ta đã thấy có rất nhiều phàn nàn từ các nhà công nghiệp nước ngoài gửi đến chính phủ Việt Nam để nói rằng chuyện cắt điện là không bình thường, hoặc nếu phải cắt thì ít ra họ phải được báo trước.Vấn đề này mang tính tình thế. Than được tiêu thụ nhiều hơn để sản xuất điện vì các nhà máy thủy điện không còn khả năng cung cấp đủ lượng điện cho tất cả các doanh nghiệp được thành lập ở Việt Nam trong những năm gần đây. Đúng là có một nghịch lý, nhưng chính phủ Việt Nam tỏ ra khá yên tâm, vì đây chỉ là vấn đề tạm thời. Tình hình sẽ cân bằng trở lại vào cuối năm, ít ra là hy vọng thế !RFI : Các loại hình năng lượng tái tạo đã phát triển ở Việt Nam từ nhiều năm qua, nhưng dường như không được khai thác một cách hợp lý. Người ta nói đến lãng phí. Phải giải thích hiện tượng này như thế nào, trong khi Việt Nam lại bị thiếu điện ?Éric Mottet : Đối với những người biết Việt Nam thì hiểu rằng việc này có lẽ do mạng lưới vận tải và lưu trữ điện và năng lượng vô cùng yếu kém. Theo một nghiên cứu mới được công bố, chính phủ Việt Nam thẩm định là từ nay đến năm 2030, có lẽ cần phải đầu tư 15 tỉ đô la để xây dựng và hiện đại hóa khoảng 36.000 km đường điện trung thế và cao thế. Ngoài ra, cũng cần kinh phí để xây dựng hoặc chuẩn hóa 170.000 trạm biến thế giúp lưu trữ phân phối điện. Chúng ta thấy rõ là có một nhu cầu lớn về mặt hiện đại hóa vấn đề tải điện. Đây đúng là một vấn đề lớn cho Việt Nam với những đợt cắt điện nghiêm trọng. Cho nên hiện giờ, Việt Nam đang cố dựa vào nhiều đối tác khắp thế giới. Tôi thấy Nga vừa mới ký một thỏa thuận với Việt Nam để hiện đại hóa hệ thống vận tải điện. Phải giải thích hiện tượng này như thế nào ư ? Hệ thống hiện đang đặt ra vấn đề và phần nào khiến cả chính phủ cũng như các đối tác chán nản. Chúng ta thấy hiện tượng thừa ở nhiều vùng sản xuất năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời. Nhưng mạng lưới điện đang bị quá tải và không thể quản lý được lượng điện dư thừa này hay đơn thuần là chỉ chuyển đến các khu vực tiêu thụ. Đây là một ví dụ về khó khăn, có những vùng sản xuất quá nhiều điện nhưng lại không thể chuyển điện đến những vùng bị thiếu, nhất là ở miền bắc hiện nay. Do đó, Việt Nam đang suy tính để cùng với các đối tác nước ngoài đầu tư những khoản tiền lớn để có thể chuyển điện từ vùng này sang vùng khác trong tương lai và tránh lặp lại vấn đề thiếu điện như ở miền Bắc Việt Nam hiện nay. RFI : Ông nêu ở trên là các nước G7 đề nghị Việt Nam giảm tiêu thụ điện. Chúng ta cũng đã nói đến tình trạng thiếu điện. Những vấn đề này có thể tác động đến sức hấp dẫn của Việt Nam đối với đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài, trong khi Việt Nam vẫn còn bất cập về quỹ đất cho doanh nghiệp nước ngoài ? Éric Mottet : Về mặt chính thức, chính phủ Việt Nam đã yêu cầu các ngành công nghiệp giảm 2% lượng tiêu thụ năng lượng hàng năm cho đến năm 2030. Nhưng trên thực tế, chúng tôi đã trao đổi với một số người và họ cho biết một số ngành công nghiệp được yêu cầu giảm 10% lượng điện tiêu thụ, thay vì 2%. Việc này đã gây ra một vài căng thẳng nhỏ và lo lắng trong một số lĩnh vực công nghiệp mới chỉ bắt đầu hoạt động ở Việt Nam được vài năm, từ gia công đến các ngành công nghiệp nặng như luyện thép, sản xuất nhôm cần tiêu thụ lượng điện lớn. Công ty Điện lực Việt Nam bị yêu cầu giải trình và đưa ra biện pháp khắc phục. Nhiều lĩnh vực công nghiệp chất vấn Công ty Điện lực tại sao họ bị cắt điện và yêu cầu được bồi thường. Có thể nói là đang có một số vấn đề có thể rất nghiêm trọng trong tương lai đối với Việt Nam. Việt Nam đã triển khai chính sách tiếp nhận đầu tư nước ngoài trên toàn lãnh thổ nhưng hiện giờ lại không thể cung cấp điện theo tỉ lệ thông thường. Về lâu dài, việc này có thể khiến các tập đoàn lớn đã hoạt động ở Việt Nam như Samsung hay Apple dời một phần hoạt động khỏi đất nước. Và như vậy sẽ không thuyết phục được những doanh nghiệp khác đến Việt Nam hoạt động.Vì vậy, năng lượng là một vấn đề vô cùng nhạy cảm ở Việt Nam, có thể dẫn đến việc giảm đáng kể đầu tư vào Việt Nam và như vậy tác động đến phát triển kinh tế của đất nước. Cho nên cần phải theo dõi vấn đề này. Cách đây 3-4 năm, tôi nói vấn đề của Việt Nam liên quan đến đất đai, có nghĩa là quản lý đất như thế nào, hoặc việc thu hồi đất gây ra hàng loạt vấn đề. Hiện giờ, vấn đề đất đai vẫn còn đó, nhưng tôi cho là đã bị đẩy xuống hàng thứ hai, sau những khó khăn về năng lượng và cung cấp điện cho các nhà máy phải hoạt động 24/24 giờ để có thể có lãi.Chính phủ Việt Nam dường như hiểu hết vấn đề này. Họ đang cố tìm kiếm các đối tác nước ngoài để có thể giúp Việt Nam sản xuất điện một cách ổn định. Nhưng mọi chuyện chưa được giải quyết và sẽ cần đến những khoản đầu tư khổng lồ. Cần phải hiểu khoản đầu tư 15,5 tỉ đô la của nhóm G7 chủ yếu là các khoản vay, rất ít viện trợ. Dù có lãi suất rất ưu đãi so với tỉ giá trên thị trường chung, đó cũng là những khoản tiền phải hoàn trả.Tôi cho là tình hình hiện giờ khá là kịch tính. Nhưng chính phủ Việt Nam sẽ phải rất lanh lợi, mở rộng được các mối quan hệ đối tác trong nhiều lĩnh vực để có thể tiếp tục có chính sách phát triển dựa trên đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó thu hút các công ty nước ngoài vào Việt Nam.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Éric Mottet, giảng viên Trường Đại học Công giáo Lille.
Cùng với Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và một vài nước châu Mỹ La-tinh, Pháp là 1 trong ít nước trên thế giới vẫn còn cho phép tổ chức các cuộc đấu bò tót - corrida. Mùa hè là mùa diễn ra lễ hội đấu bò tót (feria) thu hút khá đông du khách đến miền nam Pháp. Nhưng đấu bò tót tại Pháp, trong suốt hơn 1 thế kỷ rưỡi tồn tại, vẫn chứa đựng nhiều mâu thuẫn, thậm chí còn bị xem là nghịch lý kiểu Pháp. Bị tố là môn đấu dã man, nhưng đấu bò tót lại được xem là truyền thống, di sản văn hóa địa phương ở 3 tỉnh miền nam Pháp : Nouvelle-Aquitaine, Occitanie và Provence-Alpes-Côte-d'Azur, nên không bị bộ Luật hình sự quy vào các hành vi ngược đãi động vật, vốn dĩ thường bị phạt nặng tại Pháp, làm dấy nên nhiều tranh cãi. Để hiểu thêm về corrida tại Pháp, RFI ngày 08/03/2023 đã có buổi phỏng vấn giáo sư Eric Baratay, Đại học Lyon, chuyên về lịch sử động vật. RFI : Xin giáo sư cho biết nguồn gốc môn corrida - đấu bò tót tại Pháp ? Eric Baratay : Về mặt lịch sử, đấu bò tót ra đời tương đối gần đây, từ nửa sau thế kỷ 19. Các công ty biểu diễn từ Tây Ban Nha đã đến Pháp và đề xuất tổ chức các trận đấu bò tót. Vào thời đó, họ đề xuất tổ chức đấu bò tót trên khắp nước Pháp, họ không giới hạn các trận đấu bò tót ở miền nam nước Pháp, mà còn đề xuất tổ chức ở nhiều nơi tại Paris và các thành phố miền bắc, chẳng hạn ở Lille …Thời kỳ đầu, những đề xuất tổ chức đấu bò tót đã vấp phải 2 kiểu phản đối : Trước hết là đạo luật Grammont được thông qua vào năm 1850, cấm ngược đãi vật nuôi, một khung pháp lý đủ mạnh và đã khiến các công ty, nhà tổ chức biểu diễn người Tây Ban Nha phải đề xuất các trận đấu bò tót giả, nghĩa là các trận đấu mà bò tót không bị đâm chết. Sự phản đối thứ hai diễn ra đặc biệt mạnh mẽ trong giới trí thức, báo chí và quan chức chính phủ, chủ yếu là ở Paris. Chính vì những lẽ đó, môn đấu bò tót gặp nhiều khó khăn ở giai đoạn đầu khi mới được đưa vào Pháp, trong vòng khoảng 50 năm, cho đến những năm 1900.RFI : Vậy từ khi nào các trận đấu bò tót được tổ chức nhiều ở Pháp ? Eric Baratay : Có một bước ngoặt diễn ra vào những năm 1900 - 1910, khi các cuộc đấu bò tót, mà trong trận đấu con vật bị đâm chết, đã được tổ chức ở miền nam nước Pháp. Trên thực tế, các đời chính phủ kế tiếp nhau đều để mặc cho mọi chuyện diễn ra để không làm mất lòng cử tri địa phương, bởi một số cử tri là những người thuộc giai cấp tư sản ở địa phương, thích những thứ ngoại lai. Đấu bò tót được du nhập từ nước ngoài nên họ rất thích. Một số cử tri khác là người Tây Ban Nha nhập cư : ngày càng có nhiều người Pháp gốc Tây Ban Nha ở miền nam nước Pháp. Đối với những người này, đấu bò tót là ký ức về nguồn cội Tây Ban Nha của họ, cho phép họ nhớ đến gốc gác Tây Ban Nha. Chính dưới áp lực kép nói trên mà các đời chính phủ Pháp đã cho phép các trận đấu bò tót, mà trong trận đấu con vật bị đâm chết, được diễn ra ở miền nam nước Pháp. Họ không dám can thiệp vì lý do bầu cử và các nỗ lực cấm đấu bò tót trong những năm 1900 - 1920 đều đã thất bại vì những lý do liên quan đến bầu cử.Như vậy là đấu bò tót phát triển tại Pháp rất chậm. Chẳng hạn, thành phố Nimes, hiện nay được xem là thủ phủ của các trận đấu bò tót ở Pháp, nhưng ban đầu cũng phải sau rất nhiều thời gian thì mới chấp nhận môn đấu bò tót. Trước đây, cũng có rất nhiều ý kiến phản đối đấu bò tót kể cả ở Nimes, bởi vì phần đông dân cư cho rằng đó không phải là đấu bò truyền thống kiểu Pháp, họ phản đối các cuộc đấu bò kiểu Tây Ban Nha. Phải đến những năm 1910-1920 thì đấu bò tót mới thực sự được chấp nhận ở Nimes. RFI : Nhưng hiện nay có nhiều người bảo vệ corrida với lý do là đấu bò tót là truyền thống ở miền nam Pháp ?Eric Baratay : Thời trước, đấu bò tót không phải truyền thống địa phương, nhưng bây giờ người hâm mộ lại bảo vệ corrida và nói rằng đấu bò tót là một truyền thống của miền nam Pháp, tức là đã có sự đảo chiều. Dẫu sao thì truyền thống này cũng chỉ là rất gần đây thôi và cũng chỉ được công nhận trong cộng đồng người hâm mộ, chứ còn khá đông người dân miền nam Pháp vẫn không thừa nhận corrida là truyền thống. RFI : Corrida phát triển mạnh nhất trong giai đoạn lịch sử nào ? Và tại sao lại có tính vùng miền nam - bắc như hiện nay ?Eric Baratay : Corrida đã đạt một thành công rất lớn ở miền nam Pháp, đặc biệt là vào những năm 1950 - 1970, khi số các các trận đấu bò tót được tổ chức tăng rất nhiều cùng với sự phát triển của loại hình du lịch đại chúng trong giai đoạn 30 năm huy hoàng, nhiều người đến từ Bắc Âu hay từ miền bắc đất nước để xem đấu bò vì họ có cảm tưởng đó thực sự là một tập tục của miền nam nước Pháp. Vậy đấy, đấu bò đã rất thành công ở miền nam nước Pháp, trái lại môn corrida chưa bao giờ có được thành công ở miền bắc nước Pháp. Các trận đấu bò chưa bao giờ được tổ chức thường xuyên ở miền bắc. Các công ty Tây Ban Nha đã cố gắng rất nhiều, nhưng họ vấp phải quá nhiều sự phản đối gay gắt ở miền bắc.Đến năm 1951, đấu bò đã được Hạ Viện Pháp hợp pháp hóa. Hạ Viện cho phép tổ chức corrida ở miền nam đất nước nhưng cấm ở miền bắc, điều này càng củng cố suy nghĩ rằng đấu bò là một tập tục của miền nam Pháp. Và do đó, đấu bò đã rất phát triển trong những năm 1950 - 1970.RFI : Từ khi nào corrida bắt đầu thoái trào ? Eric Baratay : Từ những năm 1980, corrida đã bắt đầu đi xuống và tôi có thể nói là từ khoảng 20 năm trở lại đây thì suy giảm mạnh. Số trận đấu bò giảm rất nhiều, các địa điểm tổ chức đấu bò cũng giảm mạnh. Bây giờ các trận đấu bò được tổ chức tập trung trong đợt lễ hội kéo dài nhiều ngày, được gọi là « feria ». Các trận đấu bò giờ chỉ còn được duy trì tại các feria, bởi vì khi đó có đông người hơn nên các trận đấu bò vẫn thu hút một được một nhóm khán giả, nhưng quả thực đã có sự giảm sút mạnh. Hơn nữa, ngay cả tại các đợt lễ hội feria, chẳng hạn ở thành phố Nîmes, những trận đấu bò cũng không thể được tiếp tục nếu không có trợ cấp của chính quyền địa phương, của nhà nước vì không còn nhiều người xem như cách nay 40 - 50 năm. Bây giờ, nếu chỉ dựa vào khán giả thì sẽ bị thâm hụt và các trận đấu không thể diễn ra. RFI : Nhưng tại sao hiện nay vẫn còn dấy lên những tranh cãi về việc cấm đấu bò tót ? Eric Baratay : Các cuộc tranh luận đã diễn ra hồi thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20, rồi biến mất vào nửa cuối thế kỷ 20 bởi vì corrida đã được Hạ Viện Pháp hợp pháp hóa hồi năm 1951.Từ khoảng 20 năm trở lại đây thì tranh luận lại dấy lên và ngày càng gay gắt, bởi vì những người phản đối đấu bò đặt vấn đề về số phận con vật, về cách đối xử với những con bò tót. Trước đây, trong thế kỷ 19, cuộc tranh luận chủ yếu liên quan đến vấn đề về đạo đức, tinh thần : Liệu có thể để mọi người xem các trận đấu hung dữ, bạo lực như vậy không ? Người ta nghĩ rằng xem những trận đấu như vậy sẽ mang lại bạo lực giữa con người với con người, chứ người ta không quan tâm đến số phận của những con bò tót. Bây giờ thì vấn đề được quan tâm nhiều nhất là số phận dành cho chúng. Từ những năm 1990, người ta đã có thể đo lường mức độ đau đớn và chịu đựng của động vật. Nếu con bò chịu đau trong trận đấu, nó sẽ tiết ra một số chất, hoặc là những chất để giúp nó vượt qua cơn đau, hoặc các chất tiết ra để che giấu sự kiệt sức của cơ thể chúng, nhưng thực tế là con vật không thể chịu nổi nữa. Chỉ cần đo nồng độ các chất này trong cơ thể chúng là biết con vật đang phải chịu đựng những đau đớn. Các nghiên cứu đã được thực hiện đối với những con bò sau cuộc đấu và người ta đã chứng minh rằng chúng thực sự đã chịu những cơn đau mạnh. Trước đây, trong một thời gian rất dài, người hâm mộ đã phản đối những điều này. Chẳng hạn, trong cuốn sách « Chết vào buổi chiều », nhà văn Heminway đã khẳng định rằng một con bò sắp chết, sau khi lãnh những nhát kiếm, còn cảm thấy ít đau hơn một người bị bong gân. Cho đến những năm 1990, thì vẫn cứ có người nói ngược, người nói xuôi, có những người nói rằng chúng không đau đớn, một số khác lại nói là chúng phải chịu đau. Nhưng kể từ những năm 1990 thì mọi chứng cớ đã rõ ràng, làm dấy lên những phản đối từ phe chống corrida.Còn về những người ủng hộ môn đấu bò, lập luận của họ không còn là con vật không phải chịu đau, mà họ nói rằng đó là một truyền thống. Họ còn có xu hướng nói rằng đó là một truyền thống có từ thời xa xưa, thậm chí là từ hàng ngàn năm nay. Họ liên hệ một cách dễ dàng môn đấu bò tót với những bức khắc họa từ thời tiền sử và khẳng định rằng có một tín ngưỡng tôn thờ bò tót và đó là nguồn cội của môn đấu bò tót. Họ cũng dễ dàng tạo mối liên hệ giữa đấu bò tót với các trò chơi ở đảo Crète thời cổ đại, nhưng chúng tôi biết rằng chưa bao giờ các trò chơi thời cổ đại này tạo ra những ảnh hưởng ở Tây Ban Nha, người Crète chưa bao giờ đến Tây Ban Nha. Đó chỉ là cách để họ nói rằng đấu bò là một truyền thống lâu đời, trong khi thực tế là ở Pháp, nó mới chỉ có từ hơn trăm năm nay, chứ không phải là từ xa xưa. Thế nhưng, ngày nay, lý lẽ về truyền thống là một lập luận thắng thế ở Pháp, được lắng nghe tương đối và họ có xu hướng tranh thủ lý lẽ này và nói rằng đấu bò là một phần bản sắc của miền nam nước Pháp.RFI : Vậy ở các nước khác mà môn đấu bò trước nay đã phát triển mạnh, như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, châu Mỹ La-tinh tình hình hiện nay biến chuyển ra sao ? Ở Tây Ban Nha, đấu bò cũng đã bắt đầu bị phản đối, Barcelona ở xứ Catalulya đã cấm đấu bò tót. Nhiều cuộc tranh luận về đấu bò tót ở Tây Ban Nha đã nổ ra vì ngay cả tại nước này, đa số người dân đều không ủng hộ môn đấu bò tót. Còn ở châu Mỹ La-tinh, môn đấu bò tót đang suy giảm mạnh, hoặc đã bị cấm hoặc đang trong quá trình bị cấm, nhiều quốc gia đang có kế hoạch cấm, bởi vì ngoài lập luận là con vật phải chịu đựng cơn đau, còn có một lập luận khác rất có ý nghĩa, đó là đấu bò bị xem là một tập tục của những kẻ đô hộ xuất phát từ Tây Ban Nha và do thực dân áp đặt, nên cần loại trừ. Chính điều này khiến ở châu Mỹ La-tinh, môn đấu bò tót đang suy giảm mạnh. RFI tiếng Việt chân thành cảm ơn giáo sư Eric Baratay đã tham gia chương trình !
Ngày 12/04/2023, Việt Nam và Pháp kỉ niệm tròn 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Năm 2023 cũng đánh dấu tròn 10 năm quan hệ đối tác chiến lược Pháp-Việt. Nhân dịp này, ngài Đại sứ Pháp tại Việt Nam Nicolas Warnery đã trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt qua điện thoại ngày 07/04/2023. RFI : Thưa ngài Đại sứ, trong buổi họp báo ngày 14/03, ông đã giới thiệu rất nhiều hoạt động kỉ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Pháp - Việt và 10 năm quan hệ đối tác chiến lược trong năm 2023. Những sự kiện rất đa dạng này, từ văn hóa ngoại giao, quốc phòng đến kinh tế, có phản ánh được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa hai nước ? Cột mốc này sẽ đánh dấu cho sức bật mới cho quan hệ song phương ? Đại sứ Nicolas Warnery : Mối quan hệ Pháp-Việt có điều gì đó rất đặc biệt bởi vì đó là thành quả của một quá trình lịch sử chung giữa hai nước chúng ta, với những thời điểm đau thương, tăm tối, sau đó là những lúc tươi sáng, hạnh phúc. Đó là mối quan hệ chính trị, mà chúng ta đều thấy ở cấp cao giữa các nhà lãnh đạo, mối quan hệ đa dạng với những hợp tác ở cấp địa phương, giữa các trường đại học, bệnh viện, doanh nghiệp. Đó là chưa kể những mối quan hệ cá nhân nhờ vào những người sống ở Pháp hoặc ở Việt Nam do nguồn gốc xuất thân của họ, do quá trình học tập, do sự nghiệp hoặc từ những chuyến đi, đóng vai trò cầu nối giữa hai nước. Từ 50 năm nay, chúng ta đã có những thành công tốt đẹp về thương mại-đầu tư, về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu, về giáo dục đại học, nghiên cứu, y tế, quản trị, hành chính và trong nhiều lĩnh vực có thể ít được biết đến hơn như an ninh và quốc phòng. Điều mà tôi thấy hữu hiệu và mạnh mẽ, đó là những mối quan hệ hợp tác cụ thể, đáp ứng những ưu tiên mà hai nước chúng ta cùng chia sẻ. Chúng ta không tuyên bố suông mà tiến hành cụ thể. Và những năm gần đây, chúng ta đã cố nâng tầm mối quan hệ đối tác này qua việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, được ký cách đây 10 năm. Do đó, năm nay, chúng tôi cố gắng thực hiện một chương trình hành động đa dạng, phong phú để kỉ niệm sự kiện này, đồng thời cho thấy mọi mặt của mối quan hệ rất đặc biệt với khẩu hiệu bên dưới logo mà chắc quý vị đã thấy, đó là « Các nền văn hóa được chia sẻ ». Gọi là « Các nền văn hóa » để chứng minh rằng chúng ta chia sẻ thực sự hai nền văn hóa với nhau. Tất cả các sự kiện được nêu trên trang web và mạng xã hội Facebook của Đại sứ quán Pháp.Để có thể hình dung ra phần nào, tôi xin nêu một vài sự kiện, ví dụ triển lãm tại Văn Miếu về di sản và lịch sử, triển lãm trên đường phố và tại nhiều gallery ảnh về Hà Nội bắt đầu khoảng 15 ngày tới, lễ hội ẩm thực ngoài phố « Dạo chơi nước Pháp » ở Hà Nội, tuần lễ ẩm thực ở thành phố Hồ Chí Minh, buổi diễn nhạc kịch về chủ đề Hoàng tử bé ở nhà hát Hà Nội vào tháng 05, tuần lễ thiết kế thời trang ở Sài Gòn, giải thưởng Goncourt của sinh viên Việt Nam vào mùa thu tới và cuối cùng là màn pháo hoa, trình diễn ánh sáng ở kinh thành Huế dự kiến vào tháng 12.Có thể thấy một năm rất sinh động. Chúng tôi không những muốn nhớ về quá khứ mà còn hướng đến hiện tại và tương lai với nhiều ước vọng lớn. Chúng tôi muốn phát triển trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai nước dựa trên thỏa thuận tự do thương mại giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam. Chúng tôi cũng muốn tập trung sức lực vào mảng chống biến đổi khí hậu, đồng hành với Việt Nam trong quá trình chuyển đổi năng lượng. Và chúng tôi cũng muốn tăng cường hợp tác quốc phòng. Quý vị có thể thấy đây là một năm kỉ niệm, nhưng cũng là bàn đạp để hướng đến tương lai gần.RFI : Nhân nói về văn hóa, Việt Nam đã đàm phán thành công với nhà bán đấu giá Pháp Millon và hồi hương ấn vàng của vua Minh Mạng nhờ một nhà sưu tập Việt Nam. Rất nhiều người nổi tiếng đề nghị chính phủ Việt Nam lập một ủy ban thống kê cổ vật Việt Nam được bảo quản ở nước ngoài, trong đó có Pháp. Pháp sẽ hỗ trợ và hợp tác với Việt Nam trong dự án này không ?Đại sứ Nicolas Warnery : Chúng tôi đã rất chú ý theo dõi quãng thời gian đàm phán hồi hương ấn vàng của vua Minh Mạng mà cựu hoàng Bảo Đại sở hữu. May là quãng thời gian này rất ngắn. Chúng tôi được thông báo về việc này rất sớm. Lúc đó, chúng tôi đã báo ngay cho Paris về thực chất của vấn đề, tiếp theo là kết nối chính quyền Việt Nam với nhà bán đấu giá để bên muốn có được ấn vàng có thể thỏa thuận mua và tránh bán công khai. Phải nhắc lại là đây là một cổ vật quý giá, đầy ý nghĩa lịch sử xúc động. Tôi rất vui vì mọi chuyễn đã diễn ra tốt đẹp và ấn vàng đã có thể được đưa về Việt Nam. Ở điểm thứ hai liên quan đến ủy ban thống kê bảo vật, đúng là chúng tôi đã nghe nói nhưng hiện giờ chúng tôi chưa được đề nghị hỗ trợ.RFI : Trong lĩnh vực du lịch, năm 2021, chính phủ Pháp công bố kế hoạch « Destination France » để đưa Pháp thành điểm du lịch hàng đầu thế giới và du lịch bền vững. Đại sứ quán Pháp và các đối tác giới thiệu nước Pháp đến với người Việt như thế nào ? Có phải do thành công mà thời hạn xử lý hồ sơ xin thị thực bị kéo dài trong thời gian gần đây ? Cơ quan lãnh sự nhận được rất nhiều đơn xin visa du lịch ?Đại sứ Nicolas Warnery : Đúng là có rất nhiều đơn xin thị thực. Tôi xác nhân điều đó. Giờ Pháp mở cửa trở lại và cuộc khủng hoảng đại dịch đã lùi xa, « Điểm đến nước Pháp » lại thu hút đông đảo người Việt Nam. Chúng tôi thấy số lượng đơn xin thị thực du lịch bùng nổ từ mùa hè năm ngoái và rất vui về điều này. Nhưng đó không phải là lý do khiến việc cấp thị thực bị trễ mà do thời hạn xử lý hồ sơ kéo dài hơn. Thêm vào đó, chúng tôi mới triển khai một cổng dịch vụ mới, một hệ thống mới hiệu quả hơn. Như quý vị vẫn biết, thỉnh thoảng có chút vấn đề trong giai đoạn chạy thử.Vì thế, lời khuyên của chúng tôi là quý vị dự tính xin visa càng sớm càng tốt. Khi quý vị biết là sẽ đi du lịch thì nên sớm xin thị thực, có thể xin ngay cả trước khi có vé máy bay, trước cả khi biết ngày khởi hành chính xác. Phải tính xa càng sớm càng tốt. Đó thực sự là thông điệp chính của chúng tôi.Về phần mình, dĩ nhiên chúng tôi tiếp tục quảng bá các sự kiện, hình ảnh về nước Pháp. Chúng tôi cũng tiếp tục thông tin về những sự kiện được tổ chức ở Việt Nam nhân dịp kỉ niệm 50 năm này, cũng như những sự kiện có thể diễn ra ở Pháp. Chúng tôi muốn cho thấy hình ảnh một nước Pháp biết rõ những điểm mạnh của mình và nổi tiếng về ẩm thực và di sản. Ngoài ra, chúng tôi cũng tìm cách làm nổi bật những thế mạnh khác, đôi khi ít được biết đến hơn, như tính hiện đại, đổi mới, khoa học và công nghệ cao, cũng là những chủ đề tham quan, như khu khoa học Cité des Sciences có rất nhiều địa điểm ở Pháp, dù là ở vùng Paris hay ở tỉnh, hướng đến tương lai, khoa học, phát triển kiến thức. Đó cũng là những thế mạnh du lịch của Pháp, tương tự với du lịch bền vững, du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp… Chúng tôi muốn đề cao giá trị của tất cả những hình thức này. Cho nên, khách có thể đến Pháp với những chương trình du lịch rất khác nhau. RFI : Điểm thứ ba liên quan đến quốc phòng, tuần dương hạm Prairial vừa mới kết thúc chuyến thăm cảng Hải Phòng để khẳng định hợp tác quốc phòng song phương và cam kết của Pháp trong việc tôn trọng luật pháp quốc tế và tự do lưu thông ở những khu vực chung. Vào đầu tháng 12/2022, nhiều công ty Pháp đã tham dự Triển lãm Quốc phòng Quốc tế lần đầu tiên do Việt Nam tổ chức. Qua đó liệu có thể nghĩ đến một mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn, rộng hơn trong khi Việt Nam đang tìm cách đa dạng mạng lưới đối tác quốc phòng kể từ khi xảy ra chiến tranh Ukraina ? Đại sứ Nicolas Warnery : Tuần dương hạm Prairial dừng ở Hải Phòng bốn ngày và đã rời cảng hôm qua (06/04) hướng ra Biển Đông (đại sứ Pháp sử dụng từ « Mer de l'Est » - Biển Đông) nơi tầu đang hoạt động. Đây là một chuyến cập cảng xã giao truyền thống và hợp tác nhưng cũng là một chuyến thăm đặc biệt vì là chuyến thăm đầu tiên từ sau đại dịch Covid. Còn những lần cập cảng trước đều diễn ra trong bối cảnh rất đặc biệt, đúng lúc phong tỏa, thủy thủ đoàn được đưa thẳng đến khách sạn để nghỉ ngơi và không có bất kì tiếp xúc trực tiếp nào với các đồng nhiệm, đối tác và người dân Việt Nam. Vì thế, chuyến thăm lần này thực sự diễn ra tốt đẹp với nhiều hoạt động tương tác, được gọi là « PASSEX » giữa tầu và Hải quân Việt Nam. Hải quân Việt Nam lên thăm tầu Prairial, còn thủy thủ Pháp lên thăm một tầu thủy đạc Việt Nam. Ngoài ra, còn có nhiều hoạt động giao lưu hữu nghị và thể thao khác, như đội ngũ y tế trên tầu đã gặp lãnh đạo trường Đại học Y Dược Hải Phòng. Sự kiện cho thấy tinh thần vô cùng tích cực, nhất là lại diễn ra vào dịp đặc biệt kỉ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao mà chúng ta đề cập ở trên.Ngoài tính chất đặc biệt của chuyến cập cảng lần này, mỗi chuyến thăm của tầu Pháp là một dấu ấn của Pháp về sự hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong việc bảo vệ luật biển quốc tế, quyền tự do lưu thông trên không và trên biển ở Biển Đông và bảo vệ những khu vực chung thuộc vùng biển quốc tế. Pháp và Việt Nam đang cùng nhau bảo vệ chủ nghĩa đa phương, hòa bình, tự do lưu thông, tôn trọng luật pháp quốc tế. Và đối với chúng tôi, những chuyến ghé thăm cảng như này thể hiện cho mong muốn cùng nhau hành động vì hòa bình, ổn định, an ninh trong khu vực.Chị nhắc đến hợp tác quốc phòng ở trên. Tôi xin nhấn mạnh là vào tháng 11/2021, khi thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính thăm Paris, lãnh đạo chính quyền hai nước đã nhất trí phát triển nhiều dự án cơ cấu trong lĩnh vực quốc phòng, trong đó có những dự án cung cấp trang thiết bị, bởi vì cùng phối hợp vì hòa bình thường đi đôi với hợp tác công nghiệp và về mặt trang thiết bị.RFI : Có nghĩa là sẽ có thêm nhiều doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng Pháp hiện diện ở Việt Nam ? Đại sứ Nicolas Warnery : Đúng vậy. Điều mà tôi giải thích ở đây đó là chính sách của Pháp. Việc này đi kèm với sự hiện diện liên tục của công ty cung cấp thiết bị quân sự. Họ đã có mặt ở Việt Nam trước đại dịch Covid, giữ liên lạc trong giai đoạn đại dịch. Họ tham gia Triển lãm Quốc Phòng mà chị nói ở trên và họ hoàn toàn sẵn sàng làm việc với bộ Quốc Phòng Việt Nam, với những đối tác Việt Nam có thẩm quyền trong những lĩnh vực này. RFI : Nhóm G7 và Liên Hiệp Châu Âu, trong đó có Pháp, đã ký với các nhà lãnh đạo Việt Nam một thỏa thuận đối tác đầy tham vọng về chuyển đổi năng lượng ngày 14/12/2022. Pháp có những dự án hỗ trợ Việt Nam như nào ? Đổi lại, Pháp trông đợi gì từ phía các đối tác Việt Nam ?Đại sứ Nicolas Warnery : Chị có lý khi nhắc đến Thỏa thuận Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) ký ở Bruxelles ngày 14/12/2022, bởi vì đó là một thỏa thuận vô cùng quan trọng, được ký chỉ hơn một năm sau khi Việt Nam đưa ra những cam kết tại Hội nghị về Biến đổi Khí hậu của Liên Hiệp Quốc - COP 26 ở Glasgow mà chúng tôi hết sức ủng hộ, cổ vũ, và sau chuyến thăm Paris của thủ tướng Phạm Minh Chính. Pháp và Việt Nam cam kết nỗ lực hoàn toàn trong cuộc chiến chung này để bảo vệ hành tinh, chống biến đổi khí hậu và dĩ nhiên là có chuyện chuyển đổi năng lượng vì hai mảng này liên hệ mật thiết với nhau.Hiện giờ, điện là lĩnh vực phát thải nhiều khí carbon nhất ở Việt Nam. Đây là điểm phải cần nhiều nỗ lực. Trong thỏa thuận JETP này, có khoảng 15,5 tỉ đô la ngân sách công và tư được dự trù và sẽ được huy động để chủ yếu tăng cường mạng lưới điện Việt Nam, triển khai các năng lượng tái tạo trên cả nước. Đây là cách chúng ta loại trừ khí thải trong quá trình sản xuất điện ở Việt Nam và hoạt động tăng trưởng của Việt Nam về mặt năng lượngThực ra, Pháp đã tham gia rất tích cực vào lĩnh vực năng lượng ở Việt Nam. Cơ quan Phát triển Pháp - AfD (Agence française de développement) đã được giao nhiệm vụ « 100% Khí hậu » - theo cách chúng tôi vẫn gọi. Có nghĩa là tất cả các dự án này đều cam kết giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu. Tôi xin đưa ra một vài ví dụ, nhà máy thủy điện Huội Quảng (Sơn La) với khoản đầu tư 100 triệu euro từ năm 2010, nhà máy điện mặt trời Sê San (Gia Lai) 24 triệu euro từ năm 2019, mở rộng nhà máy thủy điện Yali (Kon Tum) 75 triệu euro năm 2021, thủy điện Hòa Bình 70 triệu euro năm 2021. Đó là nỗ lực liên tục và đã được cam kết.Điều thay đổi với thỏa thuận JETP là chúng tôi sẽ gia tăng nỗ lực. Thông qua một thỏa thuận đối tác ba bên, gồm AfD (Cơ quan Phát triển Pháp) - EDF (Công ty Điện lực Pháp) - EVN (Công ty Điện lực Việt Nam), chúng tôi sẽ tăng cường quan hệ đối tác để giúp Việt Nam lập kế hoạch chuyển đổi năng lượng. Phải chuẩn bị cho cả quá trình này vì việc đó đòi hỏi rất nhiều công sức trước khi thực hiện các dự án và để tài trợ cho các khoản đầu tư cần thiết cho quá trình chuyển đổi năng lượng.Dự định là vậy : Làm tất cả để Việt Nam có thể giữ được mọi cam kết. Về phần mình, chính phủ Việt Nam cần đưa ra những dự án cụ thể, những tài trợ cụ thể và chương trình tài chính cụ thể. Chính phủ cũng cần tạo ra một môi trường pháp lý hấp dẫn để các doanh nghiệp, vì có cả lĩnh vực tư nhân như tôi nói ở trên, có tầm nhìn tốt hơn về các dự án phát triển năng lượng tái tạo và có thể đến đầu tư một cách an toàn, ví dụ xây dựng những trang trại điện mặt trời hoặc điện gió.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ngài đại sứ Nicolas Warnery.
Chỉ trong một năm, Việt Nam vượt 10 bậc trong bảng Chỉ số nhận thức tham nhũng (Corruption Perceptions Index) của tổ chức Minh Bạch Quốc Tế : từ vị trí 87/180 quốc gia năm 2021 lên vị trí 77 năm 2022. Một chủ tịch nước “thôi mọi chức vụ” chỉ sau 21 tháng nắm quyền là sự kiện chưa từng có tại Việt Nam cho thấy chính sách của đảng Cộng Sản triệt tận gốc vấn tham nhũng trên thượng tầng. Đảng đang hình thành “văn hóa từ chức”. Nhưng theo một số chuyên gia được trang The Diplomat trích dẫn ngày 09/02/2023, đảng lại tạo ra một hệ thống có hai cấp độ : Một số lãnh đạo được “hạ cánh an toàn”, tránh mọi hệ lụy cho gia đình, như trường hợp của ông Nguyễn Xuân Phúc ; số khác, thường là cấp dưới, không có vây cánh mạnh, phải chịu trách nhiệm, hậu quả nặng. Điều này trái với phát biểu của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày 30/06/2022 tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012-2022 : “Quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn”.Trang The Diplomat cho rằng “chiến dịch chống tham nhũng còn kéo dài chừng nào ông Nguyễn Phú Trọng còn giữ chức tổng bí thư nhưng khó triệt để”, bởi vì “cội nguồn của nạn tham nhũng ở Việt Nam là do chỉ có một đảng lãnh đạo”. Những đại án tham nhũng gần đây, cùng với những xáo trộn trên thượng tầng lãnh đạo - hệ quả từ chống tham nhũng - có khiến các nhà đầu tư ngoại quốc phân vân ? Sức hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam có bị ảnh hưởng không ?Giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM) của Trường Quân sự Pháp, trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt ngày 10/02/2023.RFI : Một chủ tịch nước từ chức là sự kiện chưa từng có ở Việt Nam. Ngày 17/01/2023, ông Nguyễn Xuân Phúc thông báo thôi mọi chức vụ và nghỉ hưu, trong khi vị trí “Tứ trụ” thường được đàm phán quyết liệt ở Việt Nam. Buộc một chủ tịch nước “tự nguyện” rời vị trí, phải chăng đảng Cộng Sản khẳng định quyền lực tuyệt đối của mình ?Benoît de Tréglodé : Đúng, không thể nói là tự nguyện từ chức. Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã chính thức thôi mọi chức vụ, đó là điều được công bố ở Việt Nam. Ông phải từ chức vì có nghi ngờ mối quan hệ giữa vợ ông với công ty Việt Á, nơi nhập khẩu kit xét nghiệm Covid của Trung Quốc, sau đó được bán lại với giá rất cao cho các tỉnh trên cả nước. Đây là nguồn gốc của đại án tham nhũng ở Việt Nam. Phát biểu trong buổi bàn giao công tác, ông Nguyễn Xuân Phúc nói là ông từ chức vì chịu trách nhiệm chính trị khi một số cán bộ cấp dưới của ông vi phạm và dính vào tai tiếng tham nhũng.Nhưng thực ra, chuyện lại thú vị hơn, liên quan đến chủ trương được tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng ủng hộ. Chúng ta nhớ là ông Trọng đang giữ nhiệm kỳ thứ 3 sau khi được bầu lại tại Đại hội Đảng lần thứ 13 vào tháng 01/2021 và sẽ 79 tuổi vào tháng Tư tới. Ở đây không có chuyện tính toán, không có ý đồ chính trị cá nhân. Điều thực sự là trọng tâm trong những mối bận tâm của ông Trọng, đó là bảo vệ hệ tư tưởng, sự trong sạch của chế độ, cũng như nỗi ám ảnh duy trì đảng cầm quyền trong xã hội Việt Nam. Đó mới thực sự là thách thức ưu tiên đối với đảng. Vì thế, ông Trọng bảo vệ chân lý này bằng những chiến dịch chống tham nhũng, vẫn thường gặp trong chế độ kiểu này và đôi lúc cũng vì lý do chính trị. Nhưng nên nhớ đó chỉ là vì mục đích trong sạch về tư tưởng, bảo vệ tư tưởng. Điều đó rất quan trọng đối với ông tổng bí thư.RFI : Sau sự kiện chủ tịch Nguyễn Xuân Phúc từ chức, hình ảnh chống tham nhũng mà đảng Cộng Sản Việt Nam gửi đi có thể được hiểu theo hai hướng : khẳng định chính sách chống tham nhũng triệt để nhưng cũng cho thấy nạn tham nhũng trên thượng tầng lãnh đạo ? Benoît de Tréglodé : Người ta vẫn nói với nhau về tham nhũng trên thượng tầng lãnh đạo trong các quán cà phê ở Việt Nam. Mọi người đều biết là tham nhũng tồn tại nhưng đành phải chấp nhận thực tế. Chúng ta vẫn nhớ câu chuyện của bộ trưởng Công An Tô Lâm ăn thịt bò ở Luân Đôn (Anh) với giá cắt cổ. Tất cả mọi người đều biết. Ở Việt Nam, họ truyền nhau video quay cảnh ông Lâm ăn thịt bò dát vàng. Nhưng chuyện đó đã không làm suy yếu hẳn vị thế của bộ trưởng Công An.Từ giờ, cuộc chiến chống tham nhũng nhắm đến những con “cá lớn” theo cách gọi ở Việt Nam, một mặt là để chứng minh đảng Cộng Sản Việt Nam nêu gương và có những biện pháp, đôi khi khá là dân túy, mặt khác là nhằm trấn an người dân về vai trò của đảng, cũng như tham vọng trong việc bảo vệ tư tưởng và sự trong sạch trong đảng. Nhưng không phải ai cũng hoàn toàn bị lừa. Nạn tham nhũng tràn lan ở Việt Nam, từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất. Mọi thứ đều có thể mua được nên người dân Việt Nam biết hệ thống vận hành như thế. Vì thế, để trụ vững, đôi khi chế độ cần lấy vài trường hợp làm gương.RFI : Trả lời nhật báo Pháp Le Monde ngày 19/01, ông nói rằng đánh vào tầng lớp tinh hoa vẫn được coi là thực dụng và cởi mở với phương Tây cũng có thể được hiểu là “một hành động chính trị thể thiện thực tâm của Việt Nam với Bắc Kinh, rằng Việt Nam không đến mức nhạy cảm với tiếng gọi của Hoa Kỳ đến vậy”. Xin ông giải thích thêm về nhận định này ! Chủ trương đó có tác động đến những dự án hợp tác, đặc biệt là về kinh tế, năng lượng, mà Mỹ dự tính ở Việt Nam ? Benoît de Tréglodé : Phải xem xét vấn đề này trong toàn cảnh. Mối quan hệ bất cân xứng về kinh tế vẫn tồn tại giữa Việt Nam và Trung Quốc, cùng với việc Bắc Kinh ngày càng khai thác quan hệ thương mại song phương với Hà Nội vào các mục đích chiến lược, dần khiến Việt Nam phải gộp thêm vấn đề an ninh quốc gia vào việc quản lý mối quan hệ kinh tế với nước láng giềng. Việt Nam đang ở thế khó. Trung Quốc là đối tác thương mại quan trọng, là nguồn nhập khẩu hàng đầu của Việt Nam từ nhiều năm nay và cũng là một nhà đầu tư lớn. Việt Nam dần bị phụ thuộc một phần nguồn cung vào Trung Quốc.Về thực tiễn mà nói, do thực tế kinh tế, một chính phủ cũng không thể có mối quan hệ quá phức tạp với các đối tác kinh tế lớn này. Với Hoa Kỳ cũng tương tự. Mỹ là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam. Cho nên, phải nhắc lại một lần nữa là Hà Nội và đội ngũ lãnh đạo không thể đưa ra lựa chọn ý thức hệ liên quan đến những gì đang bị đe dọa, ở đây là tăng trưởng kinh tế của đất nước và ổn định xã hội. Có thể thấy là Việt Nam đang cùng lúc thử các đối tác thương mại quan trọng của họ bằng cách từ giờ thêm khía cạnh an ninh quốc gia nhiều hơn trước đây, nhưng thực sự vẫn không thể chọn bên này hay bên kia. Việc Mỹ-Trung gia tăng tranh chấp thương mại hoặc có mối quan hệ căng thẳng không có lợi nhiều cho Việt Nam.RFI : Một trong những đồn đoán, cũng được ông nêu với báo Le Monde, là có khả năng bộ trưởng Công An Tô Lâm sẽ trở thành chủ tịch nước Việt Nam. Nếu đúng như vậy thì sẽ có hai nhà lãnh đạo xuất thân từ ngành công an. Một chính phủ như vậy, song song với vấn nạn tham nhũng trên thượng tầng lãnh đạo, có làm lung lay niềm tin vào Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài ?Benoît de Tréglodé : Câu hỏi tiềm ẩn sau vấn đề này là còn phải chờ xem ông Nguyễn Phú Trọng phê duyệt kế hoạch về điểm này của ông Tô Lâm như thế nào. Đúng là đang có sự thay đổi. Hiện giờ, tổng bí thư đảng thấy ở bộ trưởng Công An một đồng minh có chung niềm tin là bảo vệ ý thức hệ của hệ thống.Tiếp theo, chuyện ảnh hưởng của bộ Công An gia tăng trong bộ máy Nhà nước Việt Nam là điều đáng chú ý mà chúng ta vẫn theo dõi và thấy có nhiều thay đổi trong những năm gần đây. Thủ tướng hiện nay cũng từng là cán bộ trong bộ Công An. Người thay thế thứ trưởng vừa bị mất chức ở bộ Ngoại Giao hồi đầu tháng 01/2023 dường như cũng là một người thân cận của ủy viên bộ Chính Trị, bộ trưởng Công An. Có thể thấy xu hướng này diễn ra bởi vì nó triển khai mong muốn thực sự của Bắc Kinh và Hà Nội : Làm cách nào đó để có một số lĩnh vực chung, có thể chia sẻ được. Những ưu tiên lớn trong trường hợp này là bảo vệ vai trò của đảng trong xã hội và duy trì trật tự xã hội.RFI : Như ông vừa nói, có thể thấy sức ảnh hưởng của bộ Công An trong chiến dịch bài trừ tham nhũng của đảng Cộng Sản Việt Nam, trong khi lãnh đạo đảng cũng duy trì đường lối hữu hảo với “anh cả” Trung Quốc. Hai yếu tố này tác động như nào đến giới đầu tư nước ngoài, nhất là phương Tây, trong khi Việt Nam không ngừng thu hút đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây ?Benoît de Tréglodé : Khi nghiên cứu về chế độ chính trị Việt Nam, các nhà phân tích thường cố tìm sự tồn tại của các yếu tố, như “thân phương Tây” hoặc “thân Trung Quốc”. Tôi thấy phân tích này không đúng trong trường hợp của Việt Nam. Nhưng đúng là trong những năm gần đây, chúng ta thấy có sự gia tăng ảnh hưởng của bộ Công An cũng như người của bộ này, đặc biệt người đứng đầu là tướng Tô Lâm có sức ảnh hưởng lớn.Sức ảnh hưởng này được hiểu theo hai cấp độ. Trước tiên là ở mức tham vọng của một cá nhân. Chúng ta nhớ là trong Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần trước, ông Tô Lâm khao khát vị trí của ông Nguyễn Phú Trọng. Ông mơ được làm tổng bí thư. Và tham vọng này vẫn còn đó. Người ta cũng thấy ông Tô Lâm có khả năng làm chủ tịch nước. Thường thì việc đó sẽ được quyết định khi hai thành viên mới của bộ Chính Trị được lựa chọn vào tháng 04 tới, sau đó việc bổ nhiệm phải được thông qua ở Quốc Hội vào tháng 05. Có thể nói, khía cạnh tham vọng cá nhân này rất quan trọng.Điểm thứ hai, có thể thấy rõ hiện nay, những hoạt động dồn dập của các nước phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ đối với Việt Nam, trong khuôn khổ chính sách Ấn Độ-Thái Bình Dương, có ý nghĩa vô cùng quan trọng để hiểu xem Trung Quốc phản ứng như thế nào với chuyện này. Dĩ nhiên là Bắc Kinh phản đối nhưng không thể làm quá. Và Việt Nam lợi dụng sự chống ảnh hưởng của phương Tây đối với Bắc Kinh để có thể có thêm khả năng hành động trước Trung Quốc. Đó là kiểu trò chơi “mèo vờn chuột”. Trong bối cảnh như vậy, dĩ nhiên Việt Nam phải đưa ra các cam kết cho Trung Quốc để chứng tỏ rằng Hà Nội chưa sẵn sàng đổi bên hoặc xích lại quá gần với những yêu cầu của phương Tây và của Mỹ. Đó mới là chính sách thực thụ. Sẽ không có thay đổi trong Hiến Pháp hay trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đó là trò chơi cân bằng giữa hai nước lớn. Và vị trí địa lý không thay đổi được (sát với Trung Quốc) không cho phép Việt Nam làm khác đi.RFI Tiếng Việt chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược (IRSEM), Trường Quân sự Pháp.
Chiến tranh Ukraina làm thay đổi cục diện thị trường năng lượng thế giới, đói kém đe dọa một phần nhân loại, lạm phát tăng cao. Kinh tế Nga hứng đòn trừng phạt của Âu Mỹ với những tác động tới nay vẫn là một ẩn số. Tại châu Á, vì Covid, Trung Quốc không còn là đầu tàu tăng trưởng của thế giới, nền công nghệ cao của nước này tiếp tục lãnh đòn của Washington. Bất chấp những cam kết giảm khí thải carbon, thế giới vẫn lệ thuộc nhiều vào năng lượng hóa thạch. Châu Âu điêu đứng vì mất 155 tỷ mét khối khí đốt của Nga một năm, tương đương với 40 % nhu cầu tiêu thụ của toàn khối. Đường ống Nord Stream 2 « chết yểu » khi vừa hoàn tất. Nord Stream 1 chỉ còn hoạt động cầm chừng. Hậu quả kèm theo là từ đầu năm đến nay, từ chủ tịch Ủy Ban Châu Âu đến chủ tịch Hội Đồng Châu Âu, từ tổng thống Pháp đến thủ tướng Ý, Đức liên tục viếng thăm các quốc gia sản xuất dầu hỏa và khí đốt như Qatar, Ả Rập Xê Út, Algérie hay Azerbaijan… Mỹ thắng lớn Na Uy đã nhanh chóng trở thành « nguồn cung cấp khí đốt số 1 » cho Lục Địa Già. Trong chưa đầy 10 tháng, một mình Oslo bảo đảm đến gần ¼ nhu cầu tiêu thụ của 27 nước trong Liên Hiệp Châu Âu. Algérie cũng được coi là một nhà sản xuất hưởng lợi nhiều dưới tác động địa chính trị do chiến tranh Ukraina gây nên. Nhờ có dầu khí, một số căng thẳng chính trị giữa Alger với Paris đã dễ dàng được giải tỏa. Azerbaijan chiếm thế thượng phong nhờ hệ thống đường ống dẫn khí đốt SGC mới được khánh thành cuối 2020, đưa khí đốt từ mỏ Shah Deniz trong vùng biển Caspi đến tận nam Âu, giải tỏa bớt áp lực về năng lượng cho Ý và Hy Lạp. Kim ngạch xuất khẩu năng lượng của Bakou sang Liên Hiệp Châu Âu tăng 31 % so với 2021. Đổi lại, Liên Âu kín tiếng trong xung đột vũ trang giữa Azerbaijan và Armenia ở vùng Thượng Karabakh. Nhưng bên thắng lớn là Hoa Kỳ, chủ yếu là với khí hóa lỏng LNG. Tính đến tháng 9/2022, xuất khẩu của Mỹ sang châu Âu tăng 60 % và gần ¾ sản xuất của Mỹ là để bán cho Liên Hiệp Châu Âu. Trả lời RFI Việt ngữ, Philippe Sébille Lopez, chuyên gia về năng lượng và địa chính trị, thuộc cơ quan tư vấn Géopolia, Pháp, nhìn nhận chiến tranh Ukraina là một cơ hội bằng vàng cho các nhà sản xuất ở Mỹ : Philippe Sébille Lopez : « Hoa Kỳ luôn có tiềm năng khai thác khí đốt rất lớn, mà chủ yếu là khí đá phiến. Tuy nhiên, để phát triển mảng công nghiệp này, các nhà sản xuất Mỹ cần được bảo đảm họ phải có một thị trường rộng lớn. Khủng hoảng Ukraina là một cơ hội. Châu Âu quay lưng lại với Nga và phải cần đến khí đốt của Mỹ, bỗng chốc trở thành một thị trường vô cùng to lớn và đang phát triển thêm nữa theo chiều hướng này. Mỹ đang nhòm ngó để thay thế vào chỗ trống của Nga, bởi từ khi chiến tranh Ukraina bùng nổ, Matxcơva không còn muốn bán khí đốt cho châu Âu, mà bản thân Bruxelles cũng không muốn để Matxcơva dùng dầu khí như một vũ khí để bắt chẹt Liên Âu ». RFI : Thế nhưng cả bên cung lẫn bên cầu đều đang gặp nhiều giới hạn. Philippe Sébille Lopez : « Khả năng sản xuất tại Hoa Kỳ tiếp tục tăng thêm. Vấn đề đặt ra là các nhà sản xuất tư nhân của Mỹ cần được bảo đảm là họ sẽ cung cấp khí đốt cho châu Âu trong một thời gian dài. Chẳng hạn đấy phải là những hợp đồng trên 15 năm, bởi vì khai thác khí hóa lỏng đòi hỏi nhiều đầu tư vào công nghệ mới. Trong khi đó, với chính sách chuyển đổi năng lượng, Liên Hiệp Châu Âu đề ra mục tiêu giảm bớt mức độ lệ thuộc vào năng lượng hóa thạch vào ngưỡng 2035. Điều đó có nghĩa là châu Âu ký hợp đồng với Mỹ trong giai đoạn từ 10 đến 12 năm mà thôi. Do vậy Liên Âu tiến thoái lưỡng nan : Bruxelles muốn từ bỏ một phần năng lượng hóa thạch để thay thế bằng các loại năng lượng tái tạo. Nhưng trước mắt Liên Âu lại chưa thể trông cậy vào khí đá phiến của Mỹ, bởi vì các nhà sản xuất ở bên kia Bắc Đại tây Dương muốn được bảo đảm rằng họ phải ký được những hợp đồng dài hạn với châu Âu. Nói cách khác, cả bên cung lẫn bên cầu đều lâm vào thế kẹt ». RFI : Nhưng trong mọi trường hợp, Liên Hiệp Châu Âu vẫn lệ thuộc vào các nguồn cung cấp năng lượng « bên ngoài », thay đổi duy nhất trong năm là chuyển từ quỹ đạo của Nga để ngả về phía các nhà cung cấp Mỹ. Philippe Sébille Lopez : « Liên Hiệp Châu Âu luôn và vẫn sẽ phải phụ thuộc vào các nguồn cung cấp nước ngoài về năng lượng hóa thạch, bởi trên châu lục này gần như không còn dầu khí, ngoại trừ ở vùng Biển Bắc. Ngay cả tại đây, thật ra thời kỳ vàng son đã qua, những năm tháng phồn thịnh nhất đã thuộc về quá khứ. Dầu và khí đốt ở Biển Bắc đang cạn dần. Đó chính là lý do khiến Liên Âu đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo và chuyển hướng về hydrogen. Nhưng đừng quên rằng, để có hydrogen, chúng ta cũng cần có điện vậy ! Năng lượng gió hay Mặt trời không phải là những giải pháp lý tưởng, vì đây không phải là những nguồn năng lượng mà mức sản xuất có thể điều chỉnh tùy theo nhu cầu tiêu thụ trên thị trường. Liên Âu càng lúc càng phải phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng, mặc dù có thể thay thế nguồn cung cấp của Nga bằng các tập đoàn của Mỹ. Vấn đề đối với Liên Hiệp Châu Âu vẫn nguyên vẹn: Châu lục này càng lúc càng cần nhiều phương tiện để cung cấp điện lực cho thị trường nội địa, nhưng kết quả thì lại không có gì là chắc chắn trong những điều kiện nghiên cứu hiện nay ». Nga trước những đợt trừng phạt liên tiếp của phương Tây Tính đến ngày 15/12/2022 sau gần 10 tháng chiến tranh Ukraina, Liên Hiệp Châu Âu ban hành tổng cộng 9 đợt trừng phạt Nga. Ngay từ khi Vladimir Putin đưa quân xâm chiếm nước láng giềng sát cạnh, Hoa Kỳ và Liên Âu đã ban hành nhiều biện pháp mạnh với mục đích duy nhất : cắt nguồn thu nhập của Matxcơva qua đó ngăn cản Nga tài trợ cỗ máy chiến tranh. Phương Tây đã khai trừ Nga ra khỏi hệ thống SWIFT, phong tỏa dự trữ ngoại tệ của Ngân Hàng Trung ương Nga ; cấm vận than đá, dầu hỏa của Nga, cấm xuất khẩu cho Nga công nghệ cao và trang thiết bị có thể phục vụ các mục tiêu quân sự … Hậu quả đối với kinh tế Nga từ tháng 2 đến giờ ra sao ? Thứ nhất, Nga vẫn có được một điểm tựa khá tốt là Trung Quốc và trong một chừng mực nào đó là Ấn Độ. Hai quốc gia châu Á này đã phần nào thay thế vào chỗ trống của châu Âu để mua dầu khí của Nga với giá rẻ và thậm chí là một phần trong số ấy đã được dành để bán lại cho châu Âu. Thứ hai, theo phân tích của Serguei Alexachenko, cựu phó thống đốc Ngân Hàng Trung Ương Nga, sau đợt trừng phạt đầu tiên hồi tháng 3/2022, lạm phát đã tăng gần 20 % nhưng rồi ba tháng sau đó đã rơi xuống còn 10 %. Mãi lực của dân Nga có giảm mạnh (-10 %), nhưng tiền vẫn đều đặn được chuyển vào công quỹ của nước Nga để điện Kremlin tùy nghi sử dụng. Theo nghiên cứu của trung tâm về năng lượng CREA, kể từ khi xâm lược Ukraina, nhờ gây nên một cơn sốt dầu khí trên thị trường quốc tế, Matxcơva đã thu về 250 tỷ đô la. Chỉ một mình Liên Hiệp Châu Âu đã rót cho Liên Bang Nga 125 tỷ. CREA kết luận : Các biện pháp trừng phạt Âu Mỹ ban hành không làm cạn kiệt nguồn thu nhập của nước Nga, ít ra là trong ngắn hạn. Kinh tế Trung Quốc bên bờ vực thẳm ? Với tỷ lệ chưa đến 3 % được dự báo, liệu Trung Quốc có còn là đầu máy tăng trưởng của thế giới nữa hay không ? Năm 2022 là một năm đầy biến động trên thị trường bất động sản : Evergrande, Shimao hay Sunak là 3 trong số 6 đại công ty bất động sản Trung Quốc bị khai trừ khỏi bảng nêm yết giá trên sàn chứng khoán Hồng Kông. Các tập đoàn tên tuổi trong ngành lần lượt tuyên bố vỡ nợ. Hàng trăm ngàn người làm cuộc cách mạng, ngừng đóng tiền cho các chủ nợ cho tới khi nào được trao nhà. Cuối tháng 11/2022, Bắc Kinh ra lệnh cho các ngân hàng bơm thêm hơn 160 tỷ đô la hỗ trợ ngành địa ốc. Tại một quốc gia mà 70 % tài sản của các hộ gia đình là căn nhà, hơn nữa ngành xây dựng và các chi nhánh liên quan (vật liệu xây dựng …) và giao dịch địa ốc, trang trí nội thất …. chiếm đến gần 30 % GDP, hiện tượng thị trường bất động sản « đổ giàn » như ở Hoa Kỳ hồi 2007-2008 sẽ là một tai họa. Không chỉ có thế. Sau gần đúng ba năm xuất hiện tại Vũ Hán, siêu vi SARS-Cov-2 vẫn chưa buông tha Trung Quốc. Một số nghiên cứu gần đây nhất dự phóng sẽ có từ 1 đến 1 triệu rưỡi người tử vong và khủng hoảng y tế sẽ kéo dài ít nhất là đến tháng 3-4/2023. Nhật báo tài chính Asia Nikkei hôm 07/12/2022 báo động nợ công của Trung Quốc hiện cao hơn gấp ba lần so với GDP của nền kinh tế thứ hai toàn cầu. Một phần lớn trong số đó là nợ của các chính quyền địa phương : Ba năm qua số này đã mất đi nguồn thu nhập lớn do các dự án xây dựng bị đóng băng, cùng lúc thì các chính quyền địa phương đã phải đài thọ các phí tổn về thuốc men và nhất là các chiến dịch xét nghiệm hầu như hàng ngày cho hàng chục triệu dân. Tính ra từ cuối 2019, Trung Quốc đã chi ra một số tiền tương đương với ngân sách quốc phòng của cả nước chỉ để thực hiện các đợt xét nghiệm Covid trên diện rộng. Chủ nợ của những nước nghèo Những khó khăn chồng chất vừa nêu không cấm cản Trung Quốc tiếp tục là chủ nợ của thế giới và nhất là các nước nghèo càng lúc càng mang nợ Bắc Kinh. Ngân Hàng Thế Giới báo động : trong chưa đầy 10 năm, nợ của các nước nghèo đã « tăng lên gần gấp ba lần ». Chủ nợ chính là Trung Quốc. Năm 2010, Bắc Kinh nắm giữ 18 % nợ của các nước nghèo. Tỷ lệ đó vọt lên tới 49 % vào năm 2021. Chỉ riêng trong năm 2022, các nước nghèo đã phải thanh toán 17 tỷ đô la cho Trung Quốc, với 66 % trong số đó là tiền lãi. Vẫn căng trên mặt trận thương mại với Mỹ Về đối ngoại, trong hai năm qua, quan hệ giữa Bắc Kinh với Washington không mấy được cải thiện. Mãi đến thượng đỉnh APEC đầu tháng 11/2022, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden mới trực tiếp bắt tay nhau lần đầu từ khi ông Biden bước vào Nhà Trắng. Tương tự như người tiền nhiệm Donald Trump, ông Biden vẫn duy trì các biện pháp bảo hộ nhắm vào Trung Quốc. Cuộc đọ sức về công nghệ cao giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới này có khuynh hướng gia tăng cường độ. Ngày 07/10/2022, Phòng Công Nghiệp và An Ninh (BIS), thuộc bộ Thương Mại Mỹ, đã công bố danh sách được cập nhật các biện pháp nhằm « kiểm soát các hoạt động xuất khẩu » có liên hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia và quyền lợi của Hoa Kỳ. Gần đây hơn, hôm 15/12/2022, bộ Thương Mại đang chuẩn bị đưa thêm hơn 30 công ty của Trung Quốc vào « sổ đen » để ngăn cản những con chim đầu đàn trong ngành công nghệ bán dẫn hay trí thông minh nhân tạo của Trung Quốc tiếp cận với công nghệ sử dụng thiết bị của Mỹ.
Việt Nam và Hàn Quốc nâng cấp quan hệ lên « Đối tác chiến lược toàn diện » ngày 05/12/2022 nhân chuyến công Seoul của chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc. Hàn Quốc trở thành nước đồng minh đầu tiên của Mỹ thiết lập mối quan hệ ở mức cao nhất với Việt Nam. Trước đó, Hà Nội chỉ duy trì quan hệ « Đối tác chiến lược toàn diện » với ba nước có truyền thống hợp tác là Nga, Trung Quốc và Ấn Độ. Hà Nội và Seoul có một điểm chung giữa là đều « tìm cách giữ thế cân bằng tế nhị giữa hai đại cường » Trung Quốc và Hoa Kỳ. Theo giới chuyên gia, việc chọn Hàn Quốc, thay vì Nhật Bản - một nước hỗ trợ lớn cho Việt Nam nhưng có đường lối cứng rắn với Bắc Kinh - được cho là để « tránh gây nghi ngờ vô ích từ phía Trung Quốc ». Việt Nam cũng được Hàn Quốc coi là một trong những đối tác quan trọng nhất trong « Chiến lược hướng Nam » của nước này, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư và thương mại. Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 09/12/2022, nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, cho rằng thắt chặt quan hệ với Hàn Quốc là một giải pháp giúp Việt Nam tự chủ hơn về quốc phòng, đa dạng nguồn cung vũ khí và hợp tác quân sự. RFI : Việt Nam và Hàn Quốc đã nâng quan hệ đối tác từ chiến lược lên thành quan hệ chiến lược toàn diện. Mối quan hệ này có ý nghĩa như nào với Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Nhìn ở dưới tất cả góc độ, việc nâng cấp quan hệ thể hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam là « đa phương hóa, đa dạng hóa ». Hiện nay, đối với Việt Nam, chỉ có ba nước ở tầm « Đối tác chiến lược toàn diện » là Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, giờ thêm Hàn Quốc là bốn và năm sau (2023) có thể là Úc. Nhóm đối tác chiến lược toàn diện là nhóm những quốc gia có mối quan hệ đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Hàn Quốc sẽ đặc biệt quan trọng ở mặt kinh tế, giao lưu văn hóa, thương mại. Một số nhà quan sát cho rằng khi đã nâng cấp được mối quan hệ Việt-Hàn lên đối tác chiến lược toàn diện, hy vọng trong tương lai ngắn, hai bên sẽ đẩy mạnh mảng quốc phòng và an ninh. Trước đây, yếu tố đó chỉ khu biệt ở trong một số mảng, ví dụ hàng hải. Sắp tới cũng hy vọng mảng đó được đẩy mạnh hơn và giúp cho Việt Nam có thể đa dạng hóa hơn hợp tác, đặc biệt trong an ninh quốc phòng. RFI : Thời gian gần đây, Hàn Quốc nổi lên là nhà xuất khẩu vũ khí lớn trên trường quốc tế, đặc biệt là hợp đồng vũ khí với Ba Lan. Liệu Hàn Quốc có thể trở thành một nguồn cung vũ khí mới cho Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam đang gặp một chút khó khăn khi nguồn cung chính là Nga đang lâm chiến ở Ukraina ? Nguyễn Thế Phương : Thực ra không phải là một chút khó khăn, mà là khá nhiều khó khăn trong vấn đề nhập khẩu một số loại vũ khí quan trọng. Vũ khí Nga chiếm khoảng 60-70% vũ khí Việt Nam hiện có, cho nên cuộc chiến của Nga ở Ukraina khiến cho quá trình nhập khẩu một số loại vũ khí của Nga, ví dụ máy bay, tầu chiến, bị ngừng trệ. Việt Nam đã lường trước được việc này bởi vì toàn bộ quá trình đa dạng hóa nguồn cung vũ khí đã xuất phát cách đây khoảng 5 năm, thậm chí là còn xa hơn. Việc nâng cấp mối quan hệ chiến lược toàn diện với Hàn Quốc mở ra một triển vọng rất lớn về ngắn hạn và trung hạn với việc Hàn Quốc có thể trở thành một trong những đối tác về quốc phòng và an ninh lớn của Việt Nam. Ở đây sẽ có nhiều mảng khác nhau. Thứ nhất về mặt vũ khí, Việt Nam sẽ có thêm lựa chọn cho việc nhập khẩu vũ khí. Một ví dụ điển hình ở ngay Đông Nam Á là Philippines. Hiện tại, Philippines đã mua một số loại vũ khí, khí tài lớn, ví dụ máy bay tấn công TA-50 của Hàn Quốc. Đối với việc hiện đại hóa hải quân Philippines, nước này cũng đã đặt đóng một số tầu chiến loại lớn ở Hàn Quốc. Đó là ví dụ cụ thể để Việt Nam có thể xem xét các loại vũ khí phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của Việt Nam. Thứ hai, không chỉ về buôn bán vũ khí, mà là một yếu tố quan trọng hơn rất nhiều, đó là có khả năng nâng cấp sức mạnh của công nghiệp quốc phòng Việt Nam lên một chút, ví dụ chuyển giao công nghệ hoặc cả hai bên có khả năng thành lập một công ty chung để sản xuất các loại vũ khí quốc phòng hoặc đóng tầu. Như chúng ta biết, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp đóng tầu rất lớn, đứng thứ 3 hay thứ 4 trên thế giới. Ví dụ công ty đóng tầu lớn Hyundai của Hàn Quốc cũng xuất hiện ở Việt Nam hay Samsung, ngoài điện thoại là sản phẩm mà chúng ta dễ dàng nhận biết, cũng là một trong những nhà thầu quốc phòng lớn của Hàn Quốc và họ tập trung phát triển những loại vũ khí công nghệ cao. Với lịch sử hiện diện ở Việt Nam như vậy, có thể hy vọng trong tương lai ngắn, hai bên có thể tìm cách nào đó kết hợp với nhau để phát triển năng lực công nghiệp quốc phòng của Việt Nam. Yếu tố đó cũng giúp Việt Nam hạn chế bớt việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn cung nước ngoài. Bởi vì về căn bản, khi có xung đột xảy ra, việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn cung nước ngoài sẽ khiến cho khả năng thành công trên chiến trường bị hạn chế. Điểm này có thể thấy rõ qua cuộc chiến Nga-Ukraina. Yếu tố thứ ba là những vấn đề mềm hơn một chút, liên quan tới an ninh hàng hải. Trước đây, Việt Nam và Hàn Quốc cũng có một số hợp tác về an ninh hàng hải, trong đó điểm rõ ràng nhất là Hàn Quốc chuyển giao hai tầu chiến đã qua sử dụng cho Việt Nam. Hy vọng rằng trong khoảng 1-2 năm sắp tới, họ cũng chuyển giao thêm một tầu chiến nữa cho Việt Nam. Ngoài ra, trong tương lai, khi mối quan hệ được nâng lên tầm chiến lược toàn diện, cũng hy vọng là hai bên có thể tìm thấy những điểm chung để từ đó tăng cường hợp tác, ví dụ có thể chia sẻ một số thông tin, như thông tin tình báo, hoặc có thể kết hợp huấn luyện chung, tuần tra chung hoặc những vấn đề có tầm mức quan trọng tương tự. Nhưng còn có một yếu tố cần phải nhấn mạnh, đó là mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đặt trong bối cảnh khu vực. Hiện nay, khi Mỹ tập trung vào khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương và họ mong muốn tăng cường năng lực của các đồng minh và đối tác của Mỹ, rõ ràng mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong an ninh biển sẽ đặt trong tư duy đó của cả khu vực. Trong một số lĩnh vực, đặc biệt là an ninh quốc phòng, nhiều người nói rằng Việt Nam và Mỹ, trong một số trường hợp cụ thể, khó có thể ngồi nói chuyện song phương và nâng cấp điều đó. Cho nên có thể có trường hợp đi vòng, thông qua một nước thứ ba - có thể là Ấn Độ, Úc (Úc năm sau có thể nâng lên đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam), Nhật Bản (vừa rồi Nhật Bản đã bỏ quy tắc xuất khẩu vũ khí của họ) và bây giờ là Hàn Quốc - Việt Nam có thể phần nào đó tăng cường mối quan hệ hợp tác với các đồng minh của Mỹ, với mạng lưới an ninh của Mỹ nói chung và với Mỹ nói riêng. Đó là một trong những phần mềm mà Việt Nam có thể hưởng lợi từ việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc. Một điểm nữa cũng cần lưu ý trong hợp tác kỹ thuật quân sự, mới đây (ngày 09/12), Mỹ cũng tuyên bố sẽ bán 12 máy bay huấn luyện cho Việt Nam. Có thể nói đây là hợp đồng mua sắm vũ khí lớn nhất giữa Việt Nam và Mỹ, từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ, nếu không tính phần Mỹ hỗ trợ cho Việt Nam một số tầu đã qua sử dụng cho cảnh sát biển. Đây sẽ là một tiền đề để Việt Nam và Hàn Quốc mở rộng hơn nữa hợp tác, bởi vì Hàn Quốc có kinh nghiệm trong việc tích hợp các loại vũ khí hệ châu Âu. Mối quan hệ an ninh quốc phòng với Hàn Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực vũ khí, sẽ được mở rộng hơn, nếu như đã có tiền lệ hợp tác an ninh và mua sắm khí tài giữa Việt Nam và Mỹ. Nói tóm lại, về ngắn hạn và trung hạn, tức là trong vòng 10 năm nữa, triển vọng hợp tác an ninh quốc phòng, đặc biệt là về mặt vũ khí, khí tài và chuyển giao công nghệ quốc phòng giữa Việt Nam và Hàn Quốc, sẽ rất có tiềm năng trong bối cảnh cả hai đều cần có nhau và trong bối cảnh Việt Nam đang cần đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, khí tài hiện nay. RFI : Như vừa đề cập là Việt Nam đang tìm cách nâng cao tự chủ quốc phòng. Ở Hà Nội diễn ra Triển lãm Quốc phòng Quốc tế 2022, lần đầu tiên Việt Nam tổ chức. Đây là cách để Việt Nam đa dạng hóa nguồn cung và khẳng định phần nào khả năng tự chủ quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : Thông điệp đó là đúng. Đối với nhiều người nước ngoài, họ sẽ thấy đó là vấn đề mang tính tự chủ nhưng nếu phân tích rõ ra, sẽ thấy có nhiều chiều hướng khác nhau về đối nội và đối ngoại. Về đối nội, rõ ràng là một triển lãm quốc phòng lớn như vậy mang thông điệp gửi đến người dân trong nước rằng quân đội Việt Nam hiện nay có đủ khả năng để bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia trong một giai đoạn bất ổn như hiện nay, được thể hiện qua vũ khí, khí tài và thông qua thông điệp trên báo chí. Về đối ngoại, có hai ý. Ý thứ nhất muốn nói : Việt Nam đang muốn đa dạng hóa và chúng tôi không muốn phụ thuộc quá nhiều vào Nga nữa. Và chúng tôi mở thị trường an ninh trong nước, thị trường vũ khí ra với tất cả những nhà thầu, đối tác quốc phòng nào có nhu cầu. Thông điệp thứ hai liên quan đến trình độ phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng nội địa Việt Nam sau khoảng 10 năm bắt đầu và khoảng 5 năm sau Đại hội Đảng lần thứ 12. Lúc đó, đảng Cộng Sản Việt Nam ra một nghị quyết về phát triển tổ hợp công nghiệp quốc phòng mang tính lưỡng dụng mà Viettel là cánh chim đầu đàn. Rõ ràng là trong vòng 5 năm trở lại đây, Viettel và các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Việt Nam cũng đã có khả năng sản xuất ra được một số loại vũ khí, khí tài, đặc biệt là những loại mang tính công nghệ cao, ví dụ các loại thiết bị không người lái, radar phát hiện máy bay. Triển lãm quốc phòng lần này là cách để thể hiện rằng công nghiệp quốc phòng Việt Nam có khả năng chế tạo được một số loại vũ khí, khí tài và có khả năng xuất khẩu những vũ khí, khí tài đó. Nói cách khác, đây là cơ hội để Việt Nam quảng bá sản phẩm cho một số khách hàng tiềm năng và cố gắng phát triển thị trường cho các tổ hợp quốc phòng trong tương lai. Ví dụ một số nước ở Đông Nam Á, vì gần đây có một số thông tin Philippines cũng quan tâm tới một số loại vũ khí của Việt Nam, hoặc một số nước ở châu Phi. Điều này cũng thể hiện rõ qua một tuyên bố của Viettel tại Triển lãm Quốc phòng lần này rằng họ mong muốn tới năm 2025 và sau đó, Viettel có thể xuất khẩu được các vũ khí « made in Vietnam ». Đó là những thông điệp không chỉ về đa dạng hóa mà còn về mặt bán vũ khí và cũng là thông điệp gửi tới một bộ phận trong nước rằng ngành công nghiệp quốc phòng và quân đội Việt Nam hiện nay có đủ khả năng để làm rất nhiều việc, không chỉ để bảo vệ tổ quốc mà còn xuất khẩu vũ khí nữa. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Úc.
Việt Nam và Hàn Quốc nâng cấp quan hệ lên « Đối tác chiến lược toàn diện » ngày 05/12/2022 nhân chuyến công Seoul của chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc. Hàn Quốc trở thành nước đồng minh đầu tiên của Mỹ thiết lập mối quan hệ ở mức cao nhất với Việt Nam. Trước đó, Hà Nội chỉ duy trì quan hệ « Đối tác chiến lược toàn diện » với ba nước có truyền thống hợp tác là Nga, Trung Quốc và Ấn Độ. Hà Nội và Seoul có một điểm chung giữa là đều « tìm cách giữ thế cân bằng tế nhị giữa hai đại cường » Trung Quốc và Hoa Kỳ. Theo giới chuyên gia, việc chọn Hàn Quốc, thay vì Nhật Bản - một nước hỗ trợ lớn cho Việt Nam nhưng có đường lối cứng rắn với Bắc Kinh - được cho là để « tránh gây nghi ngờ vô ích từ phía Trung Quốc ». Việt Nam cũng được Hàn Quốc coi là một trong những đối tác quan trọng nhất trong « Chiến lược hướng Nam » của nước này, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, đầu tư và thương mại. Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 09/12/2022, nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, cho rằng thắt chặt quan hệ với Hàn Quốc là một giải pháp giúp Việt Nam tự chủ hơn về quốc phòng, đa dạng nguồn cung vũ khí và hợp tác quân sự. RFI : Việt Nam và Hàn Quốc đã nâng quan hệ đối tác từ chiến lược lên thành quan hệ chiến lược toàn diện. Mối quan hệ này có ý nghĩa như nào với Việt Nam ? Nguyễn Thế Phương : Nhìn ở dưới tất cả góc độ, việc nâng cấp quan hệ thể hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam là « đa phương hóa, đa dạng hóa ». Hiện nay, đối với Việt Nam, chỉ có ba nước ở tầm « Đối tác chiến lược toàn diện » là Nga, Ấn Độ và Trung Quốc, giờ thêm Hàn Quốc là bốn và năm sau (2023) có thể là Úc. Nhóm đối tác chiến lược toàn diện là nhóm những quốc gia có mối quan hệ đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam. Hàn Quốc sẽ đặc biệt quan trọng ở mặt kinh tế, giao lưu văn hóa, thương mại. Một số nhà quan sát cho rằng khi đã nâng cấp được mối quan hệ Việt-Hàn lên đối tác chiến lược toàn diện, hy vọng trong tương lai ngắn, hai bên sẽ đẩy mạnh mảng quốc phòng và an ninh. Trước đây, yếu tố đó chỉ khu biệt ở trong một số mảng, ví dụ hàng hải. Sắp tới cũng hy vọng mảng đó được đẩy mạnh hơn và giúp cho Việt Nam có thể đa dạng hóa hơn hợp tác, đặc biệt trong an ninh quốc phòng. RFI : Thời gian gần đây, Hàn Quốc nổi lên là nhà xuất khẩu vũ khí lớn trên trường quốc tế, đặc biệt là hợp đồng vũ khí với Ba Lan. Liệu Hàn Quốc có thể trở thành một nguồn cung vũ khí mới cho Việt Nam, trong bối cảnh Việt Nam đang gặp một chút khó khăn khi nguồn cung chính là Nga đang lâm chiến ở Ukraina ? Nguyễn Thế Phương : Thực ra không phải là một chút khó khăn, mà là khá nhiều khó khăn trong vấn đề nhập khẩu một số loại vũ khí quan trọng. Vũ khí Nga chiếm khoảng 60-70% vũ khí Việt Nam hiện có, cho nên cuộc chiến của Nga ở Ukraina khiến cho quá trình nhập khẩu một số loại vũ khí của Nga, ví dụ máy bay, tầu chiến, bị ngừng trệ. Việt Nam đã lường trước được việc này bởi vì toàn bộ quá trình đa dạng hóa nguồn cung vũ khí đã xuất phát cách đây khoảng 5 năm, thậm chí là còn xa hơn. Việc nâng cấp mối quan hệ chiến lược toàn diện với Hàn Quốc mở ra một triển vọng rất lớn về ngắn hạn và trung hạn với việc Hàn Quốc có thể trở thành một trong những đối tác về quốc phòng và an ninh lớn của Việt Nam. Ở đây sẽ có nhiều mảng khác nhau. Thứ nhất về mặt vũ khí, Việt Nam sẽ có thêm lựa chọn cho việc nhập khẩu vũ khí. Một ví dụ điển hình ở ngay Đông Nam Á là Philippines. Hiện tại, Philippines đã mua một số loại vũ khí, khí tài lớn, ví dụ máy bay tấn công TA-50 của Hàn Quốc. Đối với việc hiện đại hóa hải quân Philippines, nước này cũng đã đặt đóng một số tầu chiến loại lớn ở Hàn Quốc. Đó là ví dụ cụ thể để Việt Nam có thể xem xét các loại vũ khí phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của Việt Nam. Thứ hai, không chỉ về buôn bán vũ khí, mà là một yếu tố quan trọng hơn rất nhiều, đó là có khả năng nâng cấp sức mạnh của công nghiệp quốc phòng Việt Nam lên một chút, ví dụ chuyển giao công nghệ hoặc cả hai bên có khả năng thành lập một công ty chung để sản xuất các loại vũ khí quốc phòng hoặc đóng tầu. Như chúng ta biết, Hàn Quốc là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp đóng tầu rất lớn, đứng thứ 3 hay thứ 4 trên thế giới. Ví dụ công ty đóng tầu lớn Hyundai của Hàn Quốc cũng xuất hiện ở Việt Nam hay Samsung, ngoài điện thoại là sản phẩm mà chúng ta dễ dàng nhận biết, cũng là một trong những nhà thầu quốc phòng lớn của Hàn Quốc và họ tập trung phát triển những loại vũ khí công nghệ cao. Với lịch sử hiện diện ở Việt Nam như vậy, có thể hy vọng trong tương lai ngắn, hai bên có thể tìm cách nào đó kết hợp với nhau để phát triển năng lực công nghiệp quốc phòng của Việt Nam. Yếu tố đó cũng giúp Việt Nam hạn chế bớt việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn cung nước ngoài. Bởi vì về căn bản, khi có xung đột xảy ra, việc phụ thuộc quá lớn vào nguồn cung nước ngoài sẽ khiến cho khả năng thành công trên chiến trường bị hạn chế. Điểm này có thể thấy rõ qua cuộc chiến Nga-Ukraina. Yếu tố thứ ba là những vấn đề mềm hơn một chút, liên quan tới an ninh hàng hải. Trước đây, Việt Nam và Hàn Quốc cũng có một số hợp tác về an ninh hàng hải, trong đó điểm rõ ràng nhất là Hàn Quốc chuyển giao hai tầu chiến đã qua sử dụng cho Việt Nam. Hy vọng rằng trong khoảng 1-2 năm sắp tới, họ cũng chuyển giao thêm một tầu chiến nữa cho Việt Nam. Ngoài ra, trong tương lai, khi mối quan hệ được nâng lên tầm chiến lược toàn diện, cũng hy vọng là hai bên có thể tìm thấy những điểm chung để từ đó tăng cường hợp tác, ví dụ có thể chia sẻ một số thông tin, như thông tin tình báo, hoặc có thể kết hợp huấn luyện chung, tuần tra chung hoặc những vấn đề có tầm mức quan trọng tương tự. Nhưng còn có một yếu tố cần phải nhấn mạnh, đó là mối quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc đặt trong bối cảnh khu vực. Hiện nay, khi Mỹ tập trung vào khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương và họ mong muốn tăng cường năng lực của các đồng minh và đối tác của Mỹ, rõ ràng mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong an ninh biển sẽ đặt trong tư duy đó của cả khu vực. Trong một số lĩnh vực, đặc biệt là an ninh quốc phòng, nhiều người nói rằng Việt Nam và Mỹ, trong một số trường hợp cụ thể, khó có thể ngồi nói chuyện song phương và nâng cấp điều đó. Cho nên có thể có trường hợp đi vòng, thông qua một nước thứ ba - có thể là Ấn Độ, Úc (Úc năm sau có thể nâng lên đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam), Nhật Bản (vừa rồi Nhật Bản đã bỏ quy tắc xuất khẩu vũ khí của họ) và bây giờ là Hàn Quốc - Việt Nam có thể phần nào đó tăng cường mối quan hệ hợp tác với các đồng minh của Mỹ, với mạng lưới an ninh của Mỹ nói chung và với Mỹ nói riêng. Đó là một trong những phần mềm mà Việt Nam có thể hưởng lợi từ việc nâng cấp quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc. Một điểm nữa cũng cần lưu ý trong hợp tác kỹ thuật quân sự, mới đây (ngày 09/12), Mỹ cũng tuyên bố sẽ bán 12 máy bay huấn luyện cho Việt Nam. Có thể nói đây là hợp đồng mua sắm vũ khí lớn nhất giữa Việt Nam và Mỹ, từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ, nếu không tính phần Mỹ hỗ trợ cho Việt Nam một số tầu đã qua sử dụng cho cảnh sát biển. Đây sẽ là một tiền đề để Việt Nam và Hàn Quốc mở rộng hơn nữa hợp tác, bởi vì Hàn Quốc có kinh nghiệm trong việc tích hợp các loại vũ khí hệ châu Âu. Mối quan hệ an ninh quốc phòng với Hàn Quốc, đặc biệt trong lĩnh vực vũ khí, sẽ được mở rộng hơn, nếu như đã có tiền lệ hợp tác an ninh và mua sắm khí tài giữa Việt Nam và Mỹ. Nói tóm lại, về ngắn hạn và trung hạn, tức là trong vòng 10 năm nữa, triển vọng hợp tác an ninh quốc phòng, đặc biệt là về mặt vũ khí, khí tài và chuyển giao công nghệ quốc phòng giữa Việt Nam và Hàn Quốc, sẽ rất có tiềm năng trong bối cảnh cả hai đều cần có nhau và trong bối cảnh Việt Nam đang cần đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, khí tài hiện nay. RFI : Như vừa đề cập là Việt Nam đang tìm cách nâng cao tự chủ quốc phòng. Ở Hà Nội diễn ra Triển lãm Quốc phòng Quốc tế 2022, lần đầu tiên Việt Nam tổ chức. Đây là cách để Việt Nam đa dạng hóa nguồn cung và khẳng định phần nào khả năng tự chủ quốc phòng ? Nguyễn Thế Phương : Thông điệp đó là đúng. Đối với nhiều người nước ngoài, họ sẽ thấy đó là vấn đề mang tính tự chủ nhưng nếu phân tích rõ ra, sẽ thấy có nhiều chiều hướng khác nhau về đối nội và đối ngoại. Về đối nội, rõ ràng là một triển lãm quốc phòng lớn như vậy mang thông điệp gửi đến người dân trong nước rằng quân đội Việt Nam hiện nay có đủ khả năng để bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia trong một giai đoạn bất ổn như hiện nay, được thể hiện qua vũ khí, khí tài và thông qua thông điệp trên báo chí. Về đối ngoại, có hai ý. Ý thứ nhất muốn nói : Việt Nam đang muốn đa dạng hóa và chúng tôi không muốn phụ thuộc quá nhiều vào Nga nữa. Và chúng tôi mở thị trường an ninh trong nước, thị trường vũ khí ra với tất cả những nhà thầu, đối tác quốc phòng nào có nhu cầu. Thông điệp thứ hai liên quan đến trình độ phát triển của ngành công nghiệp quốc phòng nội địa Việt Nam sau khoảng 10 năm bắt đầu và khoảng 5 năm sau Đại hội Đảng lần thứ 12. Lúc đó, đảng Cộng Sản Việt Nam ra một nghị quyết về phát triển tổ hợp công nghiệp quốc phòng mang tính lưỡng dụng mà Viettel là cánh chim đầu đàn. Rõ ràng là trong vòng 5 năm trở lại đây, Viettel và các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Việt Nam cũng đã có khả năng sản xuất ra được một số loại vũ khí, khí tài, đặc biệt là những loại mang tính công nghệ cao, ví dụ các loại thiết bị không người lái, radar phát hiện máy bay. Triển lãm quốc phòng lần này là cách để thể hiện rằng công nghiệp quốc phòng Việt Nam có khả năng chế tạo được một số loại vũ khí, khí tài và có khả năng xuất khẩu những vũ khí, khí tài đó. Nói cách khác, đây là cơ hội để Việt Nam quảng bá sản phẩm cho một số khách hàng tiềm năng và cố gắng phát triển thị trường cho các tổ hợp quốc phòng trong tương lai. Ví dụ một số nước ở Đông Nam Á, vì gần đây có một số thông tin Philippines cũng quan tâm tới một số loại vũ khí của Việt Nam, hoặc một số nước ở châu Phi. Điều này cũng thể hiện rõ qua một tuyên bố của Viettel tại Triển lãm Quốc phòng lần này rằng họ mong muốn tới năm 2025 và sau đó, Viettel có thể xuất khẩu được các vũ khí « made in Vietnam ». Đó là những thông điệp không chỉ về đa dạng hóa mà còn về mặt bán vũ khí và cũng là thông điệp gửi tới một bộ phận trong nước rằng ngành công nghiệp quốc phòng và quân đội Việt Nam hiện nay có đủ khả năng để làm rất nhiều việc, không chỉ để bảo vệ tổ quốc mà còn xuất khẩu vũ khí nữa. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, Úc.
Sau hai năm tạm ngưng do đại dịch Covid-19, Festival Les Galettes du Monde ( Liên hoan bánh Galette thế giới ) đã diễn ra trong hai ngày 27 và 28/08/202 tại thị trấn Sainte-Anne-d'Auray, vùng Bretagne, miền tây nước Pháp, với Việt Nam là khách mời danh dự. Đã có khoảng 20.000 khách đến tham dự Festival Les Galettes du Monde, một liên hoan kết hợp âm nhạc, ẩm thực và hoạt động nhân đạo, ra đời từ năm 2008, nhờ công sức của hàng trăm tình nguyện viên ở địa phương. Tiền lời thu được từ Liên hoan sẽ được sử dụng cho các hoạt động nhân đạo của các hiệp hội tham gia. Tuy là một liên hoan cỡ nhỏ, nhưng Festival Les Galettes du Monde năm nay cũng quy tụ được một số tên tuổi lớn trong giới ca nhạc quốc tế, như ca sĩ nhạc reggae người Côte d'Ivoire Alpha Blondy, được xem như là hiện thân của dòng nhạc reggae, hay nam danh ca người Nigeria Keziah Jones, nổi tiếng với loại nhạc do anh chế ra, blufunk, phối hợp nhạc blues với nhạc funk. Bên cạnh đó, còn có một số nhóm nhạc trẻ đang lên của Pháp, như Silence Radio hay LEJ. Vì đây cũng là một liên hoan ẩm thực, nên tại Festival Les Galettes du Monde, công chúng cũng đã được thưởng thức các món ăn quốc hồn quốc túy của 26 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Như mỗi năm kể từ 2010, Festival Les Galettes du Monde chọn một quốc gia là khách mời danh dự. Năm nay, Việt Nam được chọn. Trả lời RFI, ông Daniel Guguin, trưởng ban tổ chức cho biết: “ Thật ra thì đã có sự trùng hợp. Chúng tôi bắt đầu làm như vậy từ năm 2010. Năm đó Haiti được chọn là khách mời danh dự, nhưng đó cũng là năm là nước này bị trận động đất kinh khủng! Đến năm 2019, Mêhicô được chọn là khách mời danh dự, chúng tôi đã cho xây một làng Mêhicô thật lớn. Vào năm đó, Việt Nam đã đăng ký làm khách mời danh dự, cho nên năm nay được chọn. Tôi chưa biết năm sau chúng tôi có sẽ tiếp tục chọn một quốc gia là khách mời danh dự hay không và nếu có, thì đó sẽ là nước nào. Đây cũng là cách để tuyên dương hoạt động của các hiệp hội đại diện cho quốc gia đó. Hiệp hội đại diện cho Việt Nam đã tham gia với chúng tôi ngay từ đầu. Trong số 12 quốc gia có mặt trong festival đầu tiên, tôi nhớ không chắc lắm, nhưng dường như đã có Việt Nam.” Vì là khách mời danh dự, cho nên năm nay Việt Nam được chiếm một khu rộng lớn gọi là Làng Việt Nam, nằm dưới những tàng cây bóng mát. Thay vì chỉ có một gian hàng như mọi năm, Làng Việt Nam có đến ba gian hàng. Nhưng tại Festival Les Galettes du Monde, chỉ có các hiệp hội tham gia, chứ không có đại điện chính thức của các nước. Về phía Việt Nam, đại diện là hiệp hội Mầm Trẻ, một hội do những người Việt ở thành phố Rennes, vùng Bretagne, lập ra. Theo lời phó chủ tịch hội Mầm Trẻ Nguyễn Văn Thọ, đặc trách gian hàng của Việt Nam, ngay từ tháng hai, đại diện của hội đã được mời dự họp để chuẩn bị cho festival, sau hai năm sự kiện này không thể được tổ chức do tình hình đại dịch Covid-19. Hội đã phải kêu gọi sự tham gia của khoảng 90 tình nguyện viên cả Pháp lẫn Việt, đủ mọi lứa tuổi, để bảo đảm các hoạt động của cả ba gian hàng Việt Nam, nhưng cũng không phải dễ mà tìm được những người biết làm bếp để nấu các món ăn Việt Nam cho khách đến festival, với giá các món ăn không được quá 5 euro. Thời gian và công sức bỏ ra cũng nhiều hơn mọi năm, vì năm nay Việt Nam có một khu rất lớn. Khi chúng tôi đến Làng Việt Nam đầu buổi chiều 27/08 trước khi Festival mở cửa đón khách, cô Vũ Thị Thảo, đến Pháp từ năm 2007, tham gia hội từ khoảng hơn 10 năm, đang cùng với nhiều hội viên khác tất bật chuẩn bị đón khách: “ Khu vực đang làm hôm nay, có nón, có xích lô, có những quang gánh, có áo dài. Festival Les Galettes du Monde là văn hóa ẩm thực, cho nên có nhiều món ăn giống như là bánh xèo, bánh cuốn, bánh chưng, bánh chưng, bánh rán, những món ăn đường phố, để cho những người Pháp biết đến cũng như những người Việt không biết về văn hóa Việt có thể tìm lại.” Do là Liên hoan bánh galette thế giới, nên dĩ nhiên là về mặt ẩm thực, Làng Việt Nam không thể thiếu món bánh xèo, một món ăn tương tự như món galette mặn của vùng Bretagne. Trong vố số thực khách lần đầu tiên thưởng thức món bánh xèo, galette vietnamienne, một phụ nữ phát biểu cảm tưởng của bà: “ Nó hoàn toàn khác với những bánh galette mà tôi đã ăn, nhất là vì món này được làm từ bột gạo. Thật là tuyệt được khám phá một loại galette mới, rất đầy đủ chất lượng, được làm rất đẹp, với những thành phần, gia vị mà chúng tôi chưa biết đến. Món này thật là ngon. Tôi đã biết những món khác của Việt Nam như chả giò, nhưng đây là lần đầu tiên tôi ăn món bánh xèo. Tôi cũng thấy khu Việt Nam năm nay rất tốt so với những năm trước, vì dầu sao Việt Nam là một nước có nhiều sức thu hút, có nhiều người yêu cầu và tôi thấy để khu Việt Nam ở vị trí này là rất tốt, cách biệt các khu khác và nằm dưới bóng mát. Tôi chưa biết Việt Nam, nhưng hôm nay coi như tôi có dịp khám phá Việt Nam và cảm thấy muốn đi Việt Nam một chuyến, tại sao không?” Gặp lại chúng tôi sáng Chủ nhật 28/08, phó hội trưởng Hội Mầm Trẻ rất phấn khởi vì kết quả thu được hôm trước: “ Làng Việt Nam năm nay rất là thành công, đông khách hơn dự đoán, chẳng hạn như tối qua từ 23 đến 24 giờ vẫn còn rất đông người. Đến 1, 2 giờ vẫn còn đông người đến ăn. Nhân lực của chúng tôi đã phải làm việc hết sức, phần đông là phải ngủ lại tại chỗ trong các lều trại kế bên. Ai cũng rất là mệt. Nhưng sáng nay cũng phải dậy sớm để chuẩn bị cho một ngày nữa. Mình có thêm nguồn tài chính thì mình sẽ có những hoạt động lớn hơn, như là Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán, và cũng sẽ trích ra một số để gởi về Nhà tình thương ở Việt Nam. Hai, ba năm qua đã không thể tổ chức festival được, năm nay, các anh chị, cô chú rất mệt, nhưng rất hăng hái để làm tiếp.” Trong ngày thứ bảy 27/08, gian hàng Việt Nam đúng là một trong hai nơi ( ngoài gian hàng lớn của vùng Bretagne ) mà khách xếp hàng đông nhất, bàn lúc nào cũng đầy người ngồi ăn, với rất nhiều người muốn khám phá món bánh xèo của Việt Nam. Sang đến ngày Chủ nhật 28/08, số khách đến ăn trưa cũng vẫn đông không kém hôm trước, khiến hai cô làm bếp phải đổ bánh xèo liên tục, không ngơi nghỉ. Một trong hai cô cho biết: “Tối qua làm cũng hơi mệt, nhưng bọn em quen rồi, vì bọn em đều là những người làm nhà hàng. Bọn em đổ từ sáng đến giờ, không kịp nghỉ luôn, chỉ có hai chị em đổ cùng một lúc, đến giờ là mấy trăm cái rồi!” Ngoài Hội Mầm Trẻ, một số nhóm nhạc dân tộc Việt Nam cũng từ Paris như Phượng Ca, Flavic cũng đã đến festival để giới thiệu đến công chúng những làn điệu dân ca Việt Nam. Trên sân khấu thứ hai của Festival Les Galettes du monde, chương trình buổi sáng 28/08 được dành cho các đoàn nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc dân tộc của mỗi nước. Sau những giai điệu sôi động của vùng Réunion, lãnh thổ hải ngoại của Pháp, là đến phần trình diễn các làn điệu dân tộc Việt Nam, rất được nhiều khách dự liên hoan cả Việt lẫn Pháp tán thưởng. Sau buổi diễn, giáo sư âm nhạc dân tộc Phương Oanh, người sáng lập Nhạc viện Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc, thổ lộ: “Đây là lần đầu tiên Phượng Ca được tham gia festival này. Mình cảm động là vì trong ba mươi mấy nước, có mặt Việt Nam, một vinh dự cho mình, cảm động vì không chỉ có người Việt Nam hưởng ứng, mà người Pháp cũng vỗ tay theo. Mình thấy là tiếng Việt của mình đã đi vào lòng của người Pháp ở đây và văn hóa của mình đã được người Pháp hưởng ứng. Tôi cảm động vì được tham gia chương trình này trong tính cách nhân bản và thấy là làm việc cho tha nhân rất quan trọng. Tôi rất ủng hộ mọi người.” Khách đến dự festival cũng đã thích thúc khám phá nhóm tốp ca không có người Việt Nam chuyên hát nhạc Việt Nam, đó FAVIC ( France Amérique Vietnam Inter Culture Contact ). Ông Đoàn Trần Thiều, người sáng lập nhóm FAVIC, chia sẽ với RFI: “ Những người đến với FAVIC, hát cho FAVIC là những người ít nhiều biết đến Việt Nam. Hôm nay lại là dịp để FAVIC đến vùng xa của nước Pháp. Chúng tôi cũng đã từng đi miền bắc, miền nam nước Pháp cũng như sang bên Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ và nếu không có Covid thì chúng tôi đã đi Mỹ năm 2021. Mục tiêu của chúng tôi vẫn là liên kết những người không cùng chủng tộc qua âm nhạc của một dân tộc nhỏ bé, nhưng kiên cường. Người ta nói âm nhạc là một ngôn ngữ không biên giới. Thì đấy là một cách để chúng ta phổ biến, truyền bá âm nhạc Việt Nam với người ngoại quốc.”
Sau hai năm tạm ngưng do đại dịch Covid-19, Festival Les Galettes du Monde ( Liên hoan bánh Galette thế giới ) đã diễn ra trong hai ngày 27 và 28/08/202 tại thị trấn Sainte-Anne-d'Auray, vùng Bretagne, miền tây nước Pháp, với Việt Nam là khách mời danh dự. Đã có khoảng 20.000 khách đến tham dự Festival Les Galettes du Monde, một liên hoan kết hợp âm nhạc, ẩm thực và hoạt động nhân đạo, ra đời từ năm 2008, nhờ công sức của hàng trăm tình nguyện viên ở địa phương. Tiền lời thu được từ Liên hoan sẽ được sử dụng cho các hoạt động nhân đạo của các hiệp hội tham gia. Tuy là một liên hoan cỡ nhỏ, nhưng Festival Les Galettes du Monde năm nay cũng quy tụ được một số tên tuổi lớn trong giới ca nhạc quốc tế, như ca sĩ nhạc reggae người Côte d'Ivoire Alpha Blondy, được xem như là hiện thân của dòng nhạc reggae, hay nam danh ca người Nigeria Keziah Jones, nổi tiếng với loại nhạc do anh chế ra, blufunk, phối hợp nhạc blues với nhạc funk. Bên cạnh đó, còn có một số nhóm nhạc trẻ đang lên của Pháp, như Silence Radio hay LEJ. Vì đây cũng là một liên hoan ẩm thực, nên tại Festival Les Galettes du Monde, công chúng cũng đã được thưởng thức các món ăn quốc hồn quốc túy của 26 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Như mỗi năm kể từ 2010, Festival Les Galettes du Monde chọn một quốc gia là khách mời danh dự. Năm nay, Việt Nam được chọn. Trả lời RFI, ông Daniel Guguin, trưởng ban tổ chức cho biết: “ Thật ra thì đã có sự trùng hợp. Chúng tôi bắt đầu làm như vậy từ năm 2010. Năm đó Haiti được chọn là khách mời danh dự, nhưng đó cũng là năm là nước này bị trận động đất kinh khủng! Đến năm 2019, Mêhicô được chọn là khách mời danh dự, chúng tôi đã cho xây một làng Mêhicô thật lớn. Vào năm đó, Việt Nam đã đăng ký làm khách mời danh dự, cho nên năm nay được chọn. Tôi chưa biết năm sau chúng tôi có sẽ tiếp tục chọn một quốc gia là khách mời danh dự hay không và nếu có, thì đó sẽ là nước nào. Đây cũng là cách để tuyên dương hoạt động của các hiệp hội đại diện cho quốc gia đó. Hiệp hội đại diện cho Việt Nam đã tham gia với chúng tôi ngay từ đầu. Trong số 12 quốc gia có mặt trong festival đầu tiên, tôi nhớ không chắc lắm, nhưng dường như đã có Việt Nam.” Vì là khách mời danh dự, cho nên năm nay Việt Nam được chiếm một khu rộng lớn gọi là Làng Việt Nam, nằm dưới những tàng cây bóng mát. Thay vì chỉ có một gian hàng như mọi năm, Làng Việt Nam có đến ba gian hàng. Nhưng tại Festival Les Galettes du Monde, chỉ có các hiệp hội tham gia, chứ không có đại điện chính thức của các nước. Về phía Việt Nam, đại diện là hiệp hội Mầm Trẻ, một hội do những người Việt ở thành phố Rennes, vùng Bretagne, lập ra. Theo lời phó chủ tịch hội Mầm Trẻ Nguyễn Văn Thọ, đặc trách gian hàng của Việt Nam, ngay từ tháng hai, đại diện của hội đã được mời dự họp để chuẩn bị cho festival, sau hai năm sự kiện này không thể được tổ chức do tình hình đại dịch Covid-19. Hội đã phải kêu gọi sự tham gia của khoảng 90 tình nguyện viên cả Pháp lẫn Việt, đủ mọi lứa tuổi, để bảo đảm các hoạt động của cả ba gian hàng Việt Nam, nhưng cũng không phải dễ mà tìm được những người biết làm bếp để nấu các món ăn Việt Nam cho khách đến festival, với giá các món ăn không được quá 5 euro. Thời gian và công sức bỏ ra cũng nhiều hơn mọi năm, vì năm nay Việt Nam có một khu rất lớn. Khi chúng tôi đến Làng Việt Nam đầu buổi chiều 27/08 trước khi Festival mở cửa đón khách, cô Vũ Thị Thảo, đến Pháp từ năm 2007, tham gia hội từ khoảng hơn 10 năm, đang cùng với nhiều hội viên khác tất bật chuẩn bị đón khách: “ Khu vực đang làm hôm nay, có nón, có xích lô, có những quang gánh, có áo dài. Festival Les Galettes du Monde là văn hóa ẩm thực, cho nên có nhiều món ăn giống như là bánh xèo, bánh cuốn, bánh chưng, bánh chưng, bánh rán, những món ăn đường phố, để cho những người Pháp biết đến cũng như những người Việt không biết về văn hóa Việt có thể tìm lại.” Do là Liên hoan bánh galette thế giới, nên dĩ nhiên là về mặt ẩm thực, Làng Việt Nam không thể thiếu món bánh xèo, một món ăn tương tự như món galette mặn của vùng Bretagne. Trong vố số thực khách lần đầu tiên thưởng thức món bánh xèo, galette vietnamienne, một phụ nữ phát biểu cảm tưởng của bà: “ Nó hoàn toàn khác với những bánh galette mà tôi đã ăn, nhất là vì món này được làm từ bột gạo. Thật là tuyệt được khám phá một loại galette mới, rất đầy đủ chất lượng, được làm rất đẹp, với những thành phần, gia vị mà chúng tôi chưa biết đến. Món này thật là ngon. Tôi đã biết những món khác của Việt Nam như chả giò, nhưng đây là lần đầu tiên tôi ăn món bánh xèo. Tôi cũng thấy khu Việt Nam năm nay rất tốt so với những năm trước, vì dầu sao Việt Nam là một nước có nhiều sức thu hút, có nhiều người yêu cầu và tôi thấy để khu Việt Nam ở vị trí này là rất tốt, cách biệt các khu khác và nằm dưới bóng mát. Tôi chưa biết Việt Nam, nhưng hôm nay coi như tôi có dịp khám phá Việt Nam và cảm thấy muốn đi Việt Nam một chuyến, tại sao không?” Gặp lại chúng tôi sáng Chủ nhật 28/08, phó hội trưởng Hội Mầm Trẻ rất phấn khởi vì kết quả thu được hôm trước: “ Làng Việt Nam năm nay rất là thành công, đông khách hơn dự đoán, chẳng hạn như tối qua từ 23 đến 24 giờ vẫn còn rất đông người. Đến 1, 2 giờ vẫn còn đông người đến ăn. Nhân lực của chúng tôi đã phải làm việc hết sức, phần đông là phải ngủ lại tại chỗ trong các lều trại kế bên. Ai cũng rất là mệt. Nhưng sáng nay cũng phải dậy sớm để chuẩn bị cho một ngày nữa. Mình có thêm nguồn tài chính thì mình sẽ có những hoạt động lớn hơn, như là Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán, và cũng sẽ trích ra một số để gởi về Nhà tình thương ở Việt Nam. Hai, ba năm qua đã không thể tổ chức festival được, năm nay, các anh chị, cô chú rất mệt, nhưng rất hăng hái để làm tiếp.” Trong ngày thứ bảy 27/08, gian hàng Việt Nam đúng là một trong hai nơi ( ngoài gian hàng lớn của vùng Bretagne ) mà khách xếp hàng đông nhất, bàn lúc nào cũng đầy người ngồi ăn, với rất nhiều người muốn khám phá món bánh xèo của Việt Nam. Sang đến ngày Chủ nhật 28/08, số khách đến ăn trưa cũng vẫn đông không kém hôm trước, khiến hai cô làm bếp phải đổ bánh xèo liên tục, không ngơi nghỉ. Một trong hai cô cho biết: “Tối qua làm cũng hơi mệt, nhưng bọn em quen rồi, vì bọn em đều là những người làm nhà hàng. Bọn em đổ từ sáng đến giờ, không kịp nghỉ luôn, chỉ có hai chị em đổ cùng một lúc, đến giờ là mấy trăm cái rồi!” Ngoài Hội Mầm Trẻ, một số nhóm nhạc dân tộc Việt Nam cũng từ Paris như Phượng Ca, Flavic cũng đã đến festival để giới thiệu đến công chúng những làn điệu dân ca Việt Nam. Trên sân khấu thứ hai của Festival Les Galettes du monde, chương trình buổi sáng 28/08 được dành cho các đoàn nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc dân tộc của mỗi nước. Sau những giai điệu sôi động của vùng Réunion, lãnh thổ hải ngoại của Pháp, là đến phần trình diễn các làn điệu dân tộc Việt Nam, rất được nhiều khách dự liên hoan cả Việt lẫn Pháp tán thưởng. Sau buổi diễn, giáo sư âm nhạc dân tộc Phương Oanh, người sáng lập Nhạc viện Phượng Ca Dân Ca Quốc Nhạc, thổ lộ: “Đây là lần đầu tiên Phượng Ca được tham gia festival này. Mình cảm động là vì trong ba mươi mấy nước, có mặt Việt Nam, một vinh dự cho mình, cảm động vì không chỉ có người Việt Nam hưởng ứng, mà người Pháp cũng vỗ tay theo. Mình thấy là tiếng Việt của mình đã đi vào lòng của người Pháp ở đây và văn hóa của mình đã được người Pháp hưởng ứng. Tôi cảm động vì được tham gia chương trình này trong tính cách nhân bản và thấy là làm việc cho tha nhân rất quan trọng. Tôi rất ủng hộ mọi người.” Khách đến dự festival cũng đã thích thúc khám phá nhóm tốp ca không có người Việt Nam chuyên hát nhạc Việt Nam, đó FAVIC ( France Amérique Vietnam Inter Culture Contact ). Ông Đoàn Trần Thiều, người sáng lập nhóm FAVIC, chia sẽ với RFI: “ Những người đến với FAVIC, hát cho FAVIC là những người ít nhiều biết đến Việt Nam. Hôm nay lại là dịp để FAVIC đến vùng xa của nước Pháp. Chúng tôi cũng đã từng đi miền bắc, miền nam nước Pháp cũng như sang bên Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ và nếu không có Covid thì chúng tôi đã đi Mỹ năm 2021. Mục tiêu của chúng tôi vẫn là liên kết những người không cùng chủng tộc qua âm nhạc của một dân tộc nhỏ bé, nhưng kiên cường. Người ta nói âm nhạc là một ngôn ngữ không biên giới. Thì đấy là một cách để chúng ta phổ biến, truyền bá âm nhạc Việt Nam với người ngoại quốc.”
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, sự phủ sóng mạng internet, chính quyền Pháp trong những năm qua đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi công nghệ số, điện tử hóa thủ tục hành chính. Ngày càng nhiều thủ tục được chuyển sang thực hiện trực tuyến, thậm chí là bắt buộc, kéo theo đó là sự cắt giảm nhân sự tiếp đón người dân tại các cơ quan hành chính. Hiện nay, trực tuyến là kênh quan trọng hàng đầu để người dân tiếp cận các dịch vụ công, làm các thủ tục hành chính. Kế hoạch khởi động các thủ tục hành chính trực tuyến bắt đầu tại Pháp từ cách nay hơn 20 năm (hồi năm 1998), đến năm 2017, chính phủ phát động Chương trình Hành động công 2022, theo đó đến tháng 05/2022, 250 thủ tục hành chính thông dụng nhất chuyển thành thủ tục trực tuyến. Đối với một số người, thực hiện thủ tục trên mạng cho phép họ tiết kiệm thời gian đi lại, xếp hàng. Thế nhưng, đối với rất nhiều người, trong đó có nhiều người nước ngoài, thực hiện thủ tục trực tuyến nhiều khi biến thành « cơn ác mộng », đẩy họ vào cảnh bế tắc, nhiều khi phải từ bỏ quyền lợi chính đáng của họ chỉ vì không thể hoàn tất thủ tục trên mạng, cũng không thể tiếp cận, trình bày trực tiếp với các nhân viên hành chính để được giải thích, hướng dẫn cụ thể. Nhiều người có cảm giác bị Nhà nước « bỏ rơi ». Trên thực tế, chính phủ Pháp đã có giải pháp hỗ trợ, nhưng nghịch lý là trong khi vướng mắc lớn nhất của người sử dụng dịch vụ công là không thể liên lạc trực tiếp với người phụ trách hồ sơ của họ, thì nhiều giải pháp hỗ trợ vẫn là … trực tuyến, tạo thành một vòng luẩn quẩn. Sau 3 năm, vào tháng 02/2022, lần thứ 2 định chế Le Défenseur des droits ra báo cáo về các nguy cơ của việc điện tử hóa thủ tục hành chính đối với quyền của người dân được tiếp cận các dịch vụ công. Le Défenseur des droits là một cơ quan hiến định độc lập, được thành lập năm 2011. Hai nhiệm vụ chính của định chế chế này là bảo vệ những người mà quyền của họ không được tôn trọng, hỗ trợ để tất cả mọi người được bình đẳng tiếp cận các quyền mà họ được hưởng. 5 lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Le Défenseur des droits : hỗ trợ dịch vụ công (trợ cấp xã hội, nghỉ ốm, xin thẻ cư trú), bảo vệ quyền trẻ em, đấu tranh chống phân biệt đối xử, cổ vũ các lực lượng an ninh tôn trọng đạo đức nghề nghiệp và bảo vệ người tố cáo sai phạm. Ngày 05/07/2022, trong báo cáo tổng kết hoạt động năm 2021, Le Défenseur des droits cho biết đã nhận được 115.000 đơn khiếu nại, nhưng có tới 80% là từ người sử dụng dịch vụ công và các khúc mắc ít nhiều liên quan trực tiếp đến vấn đề điện tử hóa thủ tục hành chính. Liên quan đến người nước ngoài thì 2 vấn đề thường gặp là việc không thể trực tiếp đến cơ quan hành chính địa phương để gia hạn thẻ cư trú và làm thủ tục đoàn tụ gia đình, những thủ tục có thể khiến họ nếu không hoàn thành có thể không thể tiếp tục cư trú tại Pháp. « Đưa con người trở lại bộ máy » hành chính công chính là một kiến nghị của nhà bảo vệ quyền, Claire Hédon. Để hiểu hơn về điều này, RFI Tiếng Việt hôm 02/09/2022 phỏng vấn nhà bảo vệ quyền, Claire Hédon. RFI : Xin chào nhà bảo vệ quyền, Claire Hédon. Xin bà giải thích cho thính giả, độc giả của đài biết về những khó khăn mà người sử dụng phải đối mặt khi chính phủ Pháp thúc đẩy điện tử hóa thủ tục hành chính công ? Đâu là những tác động của quá trình điện tử hóa ? Claire Hédon :Điện tử hóa các thủ tục hành chính thực sự là một cơ hội, cho phép đơn giản hóa các thủ tục. Nhưng những gì chúng tôi quan sát được qua các đơn thư khiếu nại mà các nhà bảo vệ quyền như chúng tôi đã tiếp nhận thì trên thực tế, việc bắt buộc sử dụng công nghệ có thể góp phần làm nhiều người phải xa rời các quyền của họ. Ở Pháp, chúng ta có khoảng 13 triệu người gặp khó khăn với công nghệ kỹ thuật số. Họ là những người không có kết nối internet, không có máy tính, máy in, hay không biết cách sử dụng những phương tiện này. Trên thực tế, những chuyện đó liên quan đến một số thủ tục để được hưởng các trợ cấp xã hội : hỗ trợ nhà ở, trợ cấp RSA (Revenu de Solidarité Active - một dạng trợ cấp cho người thu nhập thấp), hay các quyền của người nước ngoài, chẳng hạn việc gia hạn thẻ cư trú, các thủ tục với quỹ bảo hiểm y tế để được hoàn trả chi phí khám chữa bệnh. Xin nhắc lại là tại Pháp, cứ 5 người thì có 1 người không có máy tính hoặc máy tính bảng ở nhà. Theo các nghiên cứu đã được thực hiện, ¼ số người trong độ tuổi 18-24 tuổi gặp khó khăn khi thực hiện các thủ tục trực tuyến. Thường thì mọi người hay nghĩ rằng những khó khăn như vậy chỉ liên quan đến người cao tuổi, nhưng thực tế không chỉ như vậy. Những khó khăn này liên quan đến cả người già, người khuyết tật, những người trong hoàn cảnh bấp bênh, người nước ngoài và cả các thanh niên vốn dĩ rất giỏi chơi điện thoại thông minh nhưng lại không giỏi làm các thủ tục trên mạng internet. Quả thực, hậu quả của việc điện tử hóa các thủ tục hành chính là người dân khó tiếp cận với các quyền của họ. Trên thực tế, họ được yêu cầu phải thích nghi với dịch vụ công trong khi đúng ra thì các dịch vụ công phải được điều chỉnh để thích ứng với người sử dụng. RFI : Như vậy là vô hình việc điện tử hóa thủ tục hành chính lại khiến người dân khó tiếp cận hơn với các quyền cơ bản và chính đáng mà họ được hưởng ? Claire Hédon : Vâng, đó là theo những khiếu nại mà chúng tôi đã tiếp nhận. Thực sự là người sử dụng các dịch vụ công cảm thấy họ không còn được tiếp cận với các quyền của mình và bị đẩy ra xa khỏi các dịch vụ công. Trên thực tế, vấn đề không phải phải là do điện tử hóa các thủ tục hành chính, mà là ở chỗ họ không thể trực tiếp đến tận nơi, không được gặp bộ phận tiếp nhận hoặc khi gặp sự cố, gặp khó khăn khi điền giấy tờ, hoặc do họ nhầm lẫn, sai sót hoặc do trục trặc kỹ thuật. Như vậy, họ không thể hoàn thiện hồ sơ đơn giản chỉ vì không còn bộ phận tiếp nhận hồ sơ hoặc bộ phận này không đủ người tiếp đón họ. Vì lẽ đó, có thể điện tử hóa một số thủ tục nhưng phải bảo đảm là nếu người sử dụng gặp khó khăn họ có thể đến gặp một nhân viên của các cơ quan Nhà nước có liên quan như cơ quan bảo hiểm y tế, Quỹ trợ cấp gia đình, cơ quan hành chính để gia hạn thẻ cư trú, phải bảo đảm họ có thể đến các cơ quan này để trình bày hoàn cảnh và gặp trực tiếp nhân viên ở đó để giúp họ giải quyết vướng mắc. Chúng tôi nhận thấy kèm theo điện tử hóa thủ tục hành chính là rất nhiều việc làm bị cắt giảm. Chính quyền nghĩ rằng cần tiết kiệm chi phí, và thế là không còn bộ phận tiếp đón nữa. Đó cũng chính là nhận xét và báo động của Tham Chính Viện. Trong một trong những quyết định gần đây, Tham Chính Viện cho rằng trong lúc không phải ai cũng có thể làm các thủ tục hành chính trực tuyến thì việc có giải pháp thay thế khác cho họ là hoàn toàn cần thiết. RFI : Dường như có sự đảo chiều về trách nhiệm giữa cơ quan hành chính với người sử dụng dịch vụ công ? Người sử dụng dịch vụ công phải tự thích nghi với thủ tục trực tuyến ? Claire Hédon : Trên thực tế, những gì chúng tôi ghi nhận trong các khiếu nại là một số người gặp khó khăn trong việc tiếp cận các quyền lợi vì họ được yêu cầu thích nghi với việc thực hiện các thủ tục hành chính trực tuyến, trong khi lẽ ra các dịch vụ công phải thích nghi với người sử dụng. Trách nhiệm bảo đảm quy trình làm thủ tục hành chính trực tuyến diễn ra tốt đẹp như vậy bị đẩy cho người sử dụng, có nghĩa là có sự chuyển đổi vai trò của người sử dụng dịch vụ công, thậm chí có sự thay đổi trong chính quá trình thiết lập dịch vụ : trên thực tế, người sử dụng phải tự trang bị, tự học hỏi để có thể thực hiện các thủ tục trực tuyến, đồng thời phải hiểu được ngôn ngữ hành chính để không nhầm lẫn, tránh nguy cơ lâm vào cảnh cuối cùng không thể hưởng quyền lợi mà lẽ ra họ được hưởng. Tôi nghĩ hoàn cảnh khó khăn, sự dễ bị tổn thương của nhiều người cộng với cảm giác bị đẩy ra xa khỏi các dịch vụ công, tạo ra căng thẳng xã hội. Tôi thấy cần nhắc lại là dịch vụ công phải có khả năng thích ứng với với người sử dụng. Mục đích của điện tử hóa thủ tục hành chính là hoàn toàn cần thiết để cải thiện dịch vụ công. Đó mới thực sự là mục đích lớn nhất của điện tử hóa thủ tục hành chính, đơn giản hóa các thủ tục, chứ không phải là để các cơ quan công quyền cắt giảm nhân sự. Tuy nhiên, đôi khi mọi người có cảm giác quá trình điện tử hóa các thủ tục hành chính được dẫn dắt để có thể cắt giảm nhân sự. RFI : Covid-19 là một trong những yếu tố thúc đẩy công cuộc điện tử hóa thủ tục hành chính tại Pháp ? Claire Hédon :Vâng, chắc chắn là như vậy. Các thủ tục bắt đầu dần dần được điện tử hóa từ cách đây nhiều năm. Khủng hoảng Covid-19 mà chúng ta trải qua và các giai đoạn mà chúng ta lo ngại có dịch đã đẩy nhanh quá trình điện tử hóa thủ tục hành chính. Là định chế bảo vệ các quyền lợi của người sử dụng, thông qua các khiếu nại mà chúng tôi nhận được, chúng tôi có cảm giác mọi chuyện đang diễn ra quá nhanh. Nói như vậy không có nghĩa là không nên điện tử hóa các thủ tục hành chính, bởi vì đối với rất nhiều người, dường như thực hiện các thủ tục trực tuyến trở nên đơn giản hơn. Thế nhưng, cũng không nên tiến quá nhanh, phải duy trì việc tiếp đón tại chỗ và hỗ trợ những người đến làm thủ tục khi họ gặp khó khăn, vướng mắc. RFI : Đâu là những đề xuất của bà để khắc phục tình hình hiện nay ? Theo dõi tình hình những năm qua, bà có ghi nhận sự cải tiến nào không ? Claire Hédon : Chúng tôi vẫn đang tiếp tục. Tôi không thể nói rằng chúng tôi đã thực sự thấy có nhiều cải thiện, nhưng mọi người đã nhận thức rõ hơn về những khó khăn liên quan đến điện tử hóa thủ tục hành chính, chẳng hạn, có những người không thể đặt được hẹn để đến tận nơi nộp hồ sơ. Trong các khuyến nghị mà chúng tôi đưa ra, đề xuất chính là duy trì một số phương thức tiếp cận dịch vụ công. Không thể có chuyện các thủ tục hành chính chỉ được thực hiện qua phương thức điện tử, trực tuyến. Việc duy trì cả hai phương thức (trực tiếp và trực tuyến) là hoàn toàn cần thiết. Tôi cũng nghĩ rằng quy trình điện tử hóa thủ tục cũng phải đơn giản hơn, mọi chuyện cần trở nên dễ hiểu hơn, điều này sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người. Ngoài ra, cũng cần có lực lượng nhân sự hỗ trợ cho người dân làm thủ tục, hướng dẫn họ về kỹ thuật số và trang bị cho người dân các loại máy móc thiết bị.
Cuộc tập trận vây Đài Loan trong vòng một tuần là cách Bắc Kinh thể hiện giận dữ đối với Washington, thị uy sức mạnh với Đài Bắc với lời đe dọa thống nhất, kể cả dùng đến vũ lực, nhưng cũng là thông điệp gửi đến các nước trong vùng Biển Đông và biển Hoa Đông về lập trường bảo vệ chủ quyền của Trung Quốc. Việt Nam hiểu rõ “sau chuyến thăm Đài Loan của bà Nancy Pelosi, chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ, tình hình quan hệ giữa hai nước Trung Quốc và Hoa Kỳ trở nên căng thẳng, nhiều lĩnh vực hợp tác có thể bị đóng băng trong thời gian dài”. Tuy nhiên, Hà Nội mong muốn Mỹ và Trung Quốc, “những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam”, “giải quyết bất đồng thông qua đối thoại” và cam kết “sẽ tiếp tục thúc đẩy quan hệ với hai nước”, theo phát biểu của người phát ngôn bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng, được trang Facebook Thông tin Chính phủ đăng ngày 13/08/2022. Về mặt quân sự, Việt Nam, cũng như nhiều nước trong vùng, theo dõi sát sao cuộc tập trận để có thể hiểu thêm về năng lực quân sự, quyết tâm của Trung Quốc, cũng như phản ứng của cộng đồng quốc tế. Trung Quốc đạt đến khả năng như thế nào về mặt quân sự thông qua cuộc tập trận vây Đài Loan ? Đâu là những điểm khác biệt giữa vấn đề Đài Loan và tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc với các nước trong vùng ? Kịch bản vây Đài Loan có lan sang khu vực hay không ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn ông Nguyễn Thế Phương, nghiên cứu sinh chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, trực thuộc trường Đại học New South Wales, Úc. ******** RFI : Qua cuộc tập trận của Trung Quốc bao vây Đài Loan, có thể thấy gì về thực lực quân sự của nước này ? Cụ thể, Trung Quốc đã huy động những loại vũ khí gì tham gia tập trận ? Nguyễn Thế Phương : Thứ nhất, Trung Quốc hiện nay khác với cách đây 30 năm. Cuộc khủng hoảng giữa hai bờ eo biển gần đây nhất là vào năm 1996-1997. Lúc đó, Trung Quốc không có đủ lực để có thể phản đối một cách gay gắt hơn trên thực địa đối với Đài Loan, Mỹ bởi vì khi đó, để răn đe Trung Quốc, Mỹ đã gửi hai nhóm tác chiến tầu sân bay để hỗ trợ Đài Loan. Trung Quốc lúc đó không làm gì được. Hiện nay, thông điệp gửi đến Mỹ và đặc biệt đến Đài Loan là “Chúng tôi, đại lục, hoàn toàn có khả năng thực hiện một cuộc tấn công vào Đài Loan nếu như chúng tôi muốn. Và chúng tôi thể hiện năng lực đó thông qua các cuộc tập trận”. Đó là thông điệp thứ nhất. Thứ hai là thể hiện sự không hài lòng, đặc biệt nhắm trực tiếp vào chuyến thăm Đài Loan của chủ tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi. Cuộc tập trận này, nếu nhìn trên thực địa, có thể thấy rằng các loại vũ khí, khí tài được Trung Quốc sử dụng không khác gì nhiều những loại vũ khí mà họ đã dùng từ 2-3 năm trở lại đây, vẫn những loại tên lửa, máy bay đó. Nhưng điểm khác biệt ở đây, so với khủng hoảng hai bờ eo biển, là mức độ và cường độ Trung Quốc tiến hành tập trận, có thể thấy rằng khốc liệt lớn hơn rất nhiều. Đối với một số nhà phân tích, họ coi đây là những bài thử đối với kịch bản mà Trung Quốc có thể tiến hành xâm lược Đài Loan nếu kịch bản này xảy ra. Một số vùng tập trận nằm án ngữ ngay trên những con đường hàng hải huyết mạch của Đài Loan, ví dụ ngay trên cảng Cơ Long ở phía bắc hoặc ngay dưới Cao Hùng ở phía nam vì đó là những khu vực cảng biển, sân bay, các căn cứ quân sự lớn của Đài Loan. Đặc biệt là có một khu vực tập trận ở phía đông Đài Loan nằm chồng lên vùng đặc quyền kinh tế của Nhật Bản. Khi nhìn 5 khu vực tập trận đó, người ta có cảm tưởng là Trung Quốc sẵn sàng cho một kịch bản sẽ bao vây Đài Loan. Nhiều nhà phân tích sợ rằng nếu Trung Quốc muốn đẩy yếu tố căng thẳng lên thì họ sẽ tiến hành kịch bản này. Nó cho thấy hai điều : Thứ nhất, Trung Quốc tự tin hơn, rằng với năng lực quân sự của mình, họ có thể tiến hành bao vây Đài Loan một cách nhanh chóng. Thứ hai là năng lực quân sự của Trung Quốc, qua quá trình 30 năm hiện đại hóa, dường như được Trung Quốc xem là đã tiệm cận với kịch bản mà Trung Quốc đưa ra, đặc biệt trong vấn đề liên quan tới hai bờ eo biển. RFI : Việt Nam có cảm thấy lo lắng về sức mạnh của cường quốc này không, trong khi Trung Quốc đã biến các đảo chiếm đóng ở Trường Sa thành tiền đồn quân sự ? Nguyễn Thế Phương : Hầu như tất cả các nhà quan sát khi theo dõi vấn đề Đài Loan, cũng như liên quan đến cuộc chiến Nga và Ukraina, lưu ý hai ý : Thứ nhất, đó sẽ là một cuộc đối đầu giữa một nước nhỏ và một nước lớn. Ở đây, nước nhỏ thường chọn chiến lược, dưới góc nhìn quân sự gọi là “chiến thuật”, chiến tranh bất đối xứng. Đối với kịch bản ở Đài Loan, điều mà các nhà chiến lược Việt Nam quan tâm : Thứ nhất đó là Trung Quốc sẽ sử dụng chiến thuật nào, mà ở đây chắc chắn sẽ là chiến tranh đổ bộ ; thứ hai, họ sẽ sử dụng các loại vũ khí nào ; thứ ba, rất quan trọng, đó là Đài Loan sẽ sử dụng chiến thuật nào để có thể đối phó với những gì mà Trung Quốc sẽ sử dụng trong một cuộc chiến tranh giả định trong tương lai như vậy. Quá trình Trung Quốc tập trận, phản ứng của Đài Loan cũng là những sự kiện rất thú vị trên thực địa mà các nhà quan sát theo dõi để rút ra được một số nhận xét về tình hình hai bờ eo biển. RFI : Trung Quốc vẫn tổ chức tập trận ở Hoàng Sa, đơn phương cấm tầu bè, cảnh báo máy bay không bay qua, liệu sau cuộc tập trận quy mô lớn ở eo biển Đài Loan, Trung Quốc có phát triển mô hình đó ra những khu vực khác ở Biển Đông không ? Nguyễn Thế Phương : Để nói về việc nó có ảnh hưởng đến Việt Nam hay không, thực ra là cũng có, nhưng ở mức độ nào. Bởi vì vấn đề Đài Loan và vấn đề Biển Đông, nói thực ra là hai vấn đề mặc dù có cùng bản chất liên quan đến yếu tố hàng hải nhưng mức độ sẽ khá là khác nhau. Thứ nhất, trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, Đài Loan nằm trong vòng tròn lợi ích cốt lõi mà Trung Quốc không thể nào nhượng bộ được, liên quan đến vùng lãnh thổ như Tân Cương, Tây Tạng, Đài Loan. Và vì không nhượng bộ được nên dẫn đến việc Trung Quốc có thể hoàn toàn đẩy mức độ căng thẳng lên rất cao. Điểm này khác với Biển Đông, bởi vì trên thực địa, Trung Quốc đã kiểm soát được Hoàng Sa năm 1972, một phần Trường Sa. Họ có thế đứng mạnh hơn hầu như tất cả những quốc gia khác có liên quan đến Biển Đông trên thực địa. Và để gửi thông điệp, họ hoàn toàn không cần thiết phải tổ chức một cuộc tập trận có quy mô lớn tương tự như Đài Loan. Họ chỉ cần gửi những thông điệp khác mà không cần tập trận. Điểm thứ hai, như đã nói là hầu như những hành động quân sự phải có một thông điệp chính trị bên cạnh. Để so sánh thì khá là khó vì sẽ phải đặt ra một câu hỏi : Nếu Trung Quốc tiến hành tập trận lớn như vậy, thì để làm gì ? Ở đâu ? Trung Quốc sử dụng những năng lực nào ? Trung Quốc muốn gì ở đó ? Sự kiện này phải đặt trong một bối cảnh : Hoặc Mỹ phải làm gì đó ở khu vực khiến Trung Quốc không hài lòng tới mức họ phải tiến hành một cuộc tập trận để đưa thông điệp ; hoặc là các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á phải làm gì đó khiến họ phải gửi thông điệp. Nhưng nhìn tình hình Biển Đông hiện nay với sự lép vế về “quyền lực tương đối” giữa các quốc gia Đông Nam Á với Trung Quốc thì mức độ phần trăm mà Trung Quốc có thể tiến hành một cuộc tập trận lớn như vậy là có, nhưng rất là ít. Và các cuộc tập trận như vậy, đứng dưới góc độ của Trung Quốc, thường sẽ là phản ứng lại hành vi của một quốc gia nào đó, hoặc một quốc gia nào đó ở Biển Đông khiến Trung Quốc cảm thấy lợi ích của họ bị đe dọa. Trên thực tế, trong vòng 2-3 năm trở lại đây, kể từ khi Trung Quốc tuyên bố “đường lưỡi bò” năm 2019 thì năm nào họ cũng tiến hành tập trận. Nhưng các cuộc tập trận này, họ đều thông báo trước, ở quy mô nhỏ, thường tập trung vào khu vực Hoàng Sa trở lên, tức là khu vực bắc Biển Đông. Còn khu vực tranh chấp phức tạp ở Trường Sa thì Trung Quốc rất ít tiến hành các cuộc tập trận quy mô lớn. RFI : Như ông nói, các cuộc tập trận đã được lên kế hoạch từ trước. Mỗi khi Trung Quốc tổ chức tập trận, Việt Nam luôn lên tiếng phản đối gay gắt, liệu trước một cuộc tập trận quy mô lớn như vậy, nếu diễn ra, Việt Nam dự trù ra sao ? Và qua trường hợp của Đài Loan, có thể giúp cho Việt Nam có một số kinh nghiệm gì không ? Nguyễn Thế Phương : Nếu như trong trường hợp một cuộc tập trận lớn như vậy xảy ra, rõ ràng là tình hình khu vực, đặc biệt là mối quan hệ giữa các quốc gia bên trong khu vực đó, phải trở nên hết sức căng thẳng. Đứng trước cách gửi thông điệp như vậy, rõ ràng là Việt Nam phải chuẩn bị rất kỹ tất cả những kịch bản có thể xảy ra, bởi vì không thể nào bỏ qua kịch bản là căng thẳng đó leo cao tới mức không cần thiết để một cuộc xung đột có thể xảy ra. Nhưng bản chất của vấn đề Đài Loan và vấn đề tranh chấp ở Biển Đông hơi khác một chút. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc nói chung, đứng dưới góc nhìn của giới lãnh đạo Việt Nam, là có thể điều hòa được, không tới mức gay gắt như quan hệ giữa Đài Loan và Trung Quốc hiện tại. Giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ có những kênh liên lạc riêng để có thể giảm thiểu căng thẳng này. Đứng dưới góc nhìn của một nhà phân tích, đây là ý kiến riêng, tỉ lệ Trung Quốc tiến hành một cuộc tập trận lớn như vậy ở Biển Đông là có, nhưng hiện tại không cao. Trung Quốc có những công cụ khác ít gây căng thẳng hơn nhưng vẫn có sức nặng khiến các quốc gia phải điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mong muốn của Trung Quốc. Còn nếu như có xảy ra thì vẫn có những cách để hạ nhiệt căng thẳng. Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để một quốc gia nhỏ răn đe. Và những cách đó, hiện tại Việt Nam đã làm : “cân bằng cứng” với việc hiện đại hóa hải quân, cảnh sát biển ; “cân bằng mềm” thông qua ASEAN, thông qua việc tăng cường quan hệ với các quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ. Việt Nam đã làm hết. Cái chính là tính hiệu quả tới đâu và mức độ hợp tác trong một số vấn đề liên quan đến an ninh hàng hải có phù hợp hay không. Đó lại là một chuyện khác. Nhưng rõ ràng Việt Nam đã làm tất cả những biện pháp đó. Nhìn chung là tương đối hiệu quả. Ở đây phải nói là tương đối, chứ chưa phải là hiệu quả một cách tối đa. RFI Tiếng Việt xin cảm ơn ông Nguyễn Thế Phương, trường Đại học New South Wales, Úc.
Lê Quang Đỉnh, được quốc tế biết đến với tên Đinh Q.Lê, là một nghệ sĩ sinh ở Việt Nam, theo học mỹ thuật tại Mỹ, nổi danh trong giới mỹ thuật đương đại thế giới với loại hình tranh đan từ những năm 1990. Suốt hơn 30 năm qua, các tác phẩm của anh, không chỉ có tranh đan mà còn có các video 3D, tác phẩm đan không gian 3 chiều … đã hiện diện ở nhiều bảo tàng, trung tâm mỹ thuật danh tiếng ở Mỹ, Úc, Nhật, Pháp … Còn ngay tại Việt Nam, nơi anh trở về sinh sống và lập nghiệp sau gần 20 năm ra phải xa quê hương do hoàn cảnh chiến tranh, nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh đã ghi dấu ấn với Sàn Art tại Thành phố Hồ Chí Minh, một không gian mỹ thuật đương đại có tiếng. Ngày 09/02/2022, nhân chuyến đi của nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh đến Paris tham gia khai mạc triển lãm cá nhân « Sợi đan ký ức », gặp gỡ báo chí và công chúng tại bảo tàng Quai Branly, một bảo tàng danh tiếng của Pháp về nền văn minh và nghệ thuật của châu Á, châu Phi, châu Mỹ và châu Đại Dương, RFI tiếng Việt đã có cuộc trao đổi với nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh. RFI : Xin chào nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh, khởi đầu, từ những năm 1990, anh được quốc tế biết đến với tranh đan, khi anh là sinh viên mỹ thuật tại Mỹ. Điều gì khiến anh đến với tranh đan ? Nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh : Lúc đó mình muốn nói lên câu chuyện của mình. Nhưng một người như mình, là người châu Á, người Việt Nam, câu chuyện của mình bị họ gạt sang một bên hết. Mình không phải nhóm chính bên Mỹ, thành ra họ không quan tâm. Bây giờ thì họ quan tâm nhiều hơn, nhưng khi đó, chẳng hạn trong những phim của Hollywood, cách mà họ dựng người Việt Nam trong phim thì người Việt Nam chỉ như cái bóng, chỉ như trong bóng tối, chỉ là vai lẻ bên ngoài thôi, cũng như có những phim không có người Việt Nam nói bằng tiếng Việt nữa. Đỉnh thấy là những câu chuyện của mình không ai nói. Mỗi ngày xem TV, mình chỉ thấy những câu chuyện của người khác, không thấy bóng dáng mình, không thấy những câu chuyện của những người như mình trong đó. Có thể là cần một câu chuyện khác kết nối vào đó thì tấm hình mới đầy đủ. Lúc đó Đỉnh nghĩ phải kết nối, phải đan những câu chuyện mới vào. Và thế là mình có ý tưởng cắt nhiều tấm hình ra rồi đan lại với nhau, để tạo thành một tấm hình hoàn hảo hơn, nói được nhiều câu chuyện đã bị gạt sang một bên. Hồi nhỏ, cô của Đỉnh có dạy Đỉnh đan lát, nên khi làm những cái này thấy rất dễ, mình thấy mình có sẵn năng khiếu đó rồi, chỉ cắt tấm hình ra rồi đan và mình có cảm giác mình đã làm rất nhiều rồi, chứ không phải mới lần đầu làm. Khi mình làm xong những tấm hình đó thì những curator bên Mỹ họ thấy là loại tác phẩm này lạ, ngộ, mới và cách suy nghĩ cũng mới. Họ bắt đầu triển lãm tác phẩm của mình. Về kỹ thuật, đại khái làm tranh đan rất là dễ, mình chỉ đan một lên một xuống hoặc theo công thức thôi, rất là dễ, chỉ cắt rồi đan lại với nhau thôi. Nhưng cách Đỉnh làm thì nó khác biệt hơn người ta. Đỉnh lựa chọn khúc nào mình muốn đan, khúc nào mình không muốn đan, cái hình nào mình muốn giấu ở lớp dưới, lớp nào mình muốn cho người ta xem ở trên, hay lớp nào mình muốn cho kết nối với nhau để tạo ra một tầm nhìn khác. RFI : Có thể nói xuyên suốt các tác phẩm của anh là những ký ức được đan cài với nhau và phần nhiều gợi nhắc đến chiến tranh … Nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh : Những gì Đỉnh làm thường nói lên những câu chuyện, những ký ức phức tạp, những chuyện có thể nói là đã xảy ra và có ảnh hưởng đến cuộc đời của Đỉnh, như chiến tranh Việt Nam và chiến tranh giữa Việt Nam và Miên Đỏ (Khmer Đỏ) hồi những năm 1970. Những câu chuyện mà Đỉnh dựng lên thường là những câu chuyện mà thế giới chưa từng nghe, và một phần nói về ký ức. Ký ức của mình cũng như những mảnh vỡ, làm sao mình kết lại được, trong khi những mảnh vỡ đó cũng bị « nhiễm » bởi những mảnh vỡ khác. Làm sao mà những mảnh vỡ mình gắn lại nó tạo thành một ký ức vững vàng hơn ? Mình phải đánh giá ký ức của mình, nó có thật không hay là nó đã bị « nhiễm » bởi những thứ khác, nó còn chính xác như câu chuyện đã xảy ra không ? Có những ký ức không còn như mình tưởng và ảnh hưởng đến những suy nghĩ của mình. RFI : Trong số những ký ức chiến tranh đó, có thể nhắc tới serie tranh đan From Vietnam to the Hollywood, video South China Sea Pishkun? Những ký ức anh muốn khơi gợi lên là gì ? Nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh : Serie From Vietnam to Hollywood (Từ Việt Nam tới Hollywood) là những hình về chiến tranh Việt Nam và về Việt Nam, làm từ những hình Đỉnh chụp từ những phim Hollywood về chiến tranh Việt Nam và những tấm hình nổi tiếng về chiến tranh việt Nam mà các nhà báo đã chụp và đăng trên báo thế giới, cũng như những tấm hình gia đình các các nhân chụp trong chiến tranh (…) Trong những tác phẩm đó, mình đan các ký ức Hollywood dựng lên, những ký ức của các nhà báo, cả những ký ức của những cá nhân, những người và gia đình sống trong chiến tranh Việt Nam. Mình đan lại với nhau để nói lên một ký ức lẫn lộn giữa giả và thật, giữa Hollywood và điều người ta gọi là second memory, ký ức đã qua những người khác, cũng như những ký ức của các nhiếp ảnh gia Việt Nam, rồi ký ức cá nhân của mình. Video South China Sea Pishkun thì dựa trên sự thật xảy ra là vào ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, ngày 30/04/1975, quân miền bắc tràn vào, rất nhiều trực thăng của Mỹ bay ra biển Đông, South China Sea, nhưng lúc đó nhiều quá, không đủ chỗ đậu trên tàu hạm của quân đội Mỹ, nên họ phải vứt bỏ những chiếc trực thăng đó. Trong chiến tranh việt Nam, quân đội Mỹ đem đến 5.000 trực thăng có gắn súng. Họ nghĩ rằng những vũ khí đó có thể giúp họ trong chiến tranh, nhưng rốt cuộc cuối chiến tranh họ cũng phải vứt chúng xuống biển như vứt rác, chúng bị biển lấp đi, biến mất, như bị tẩy hết dấu tích. Đại khái đó là những chuyện mình đã xem, đã thấy, nhưng mình không có suy nghĩ gì sâu sắc. Rồi mình đem đến những câu chuyện đó để suy nghĩ, để đánh giá nó ảnh hưởng sao trong xã hội này, ảnh hưởng sao đến những ký ức của mình … RFI : Anh đã sang Mỹ học tập, sự nghiệp nghệ thuật của anh khởi đầu từ Mỹ. Rồi sau đó anh lại quyết định về lập nghiệp tại Việt Nam. Điều gì đã thúc đẩy anh quyết định như vậy ? Nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh : Về quyết định về Việt Nam thì có nhiều chuyện lắm. Nhưng điểm chính là Đỉnh nghĩ mình chưa bao giờ ở đúng vị trí khi mình ở nước Mỹ cả. Nó có gì đó cứ sai sai, mình cứ tiếp tục cố gắng để hòa nhập. Đỉnh không thích những điều đó. Tại sao mình cứ phải cố gắng. Tại sao mình không bình thường được, mà cứ phải luôn luôn đấu tranh để hòa nhập ? Lâu lâu lại có vài người Mỹ trắng kỳ thị mình, nhắc mình không phải người ở đó. Mình không thích cuộc sống như thế. Mình thích một cuộc sống không cần suy nghĩ là mình là người da trắng, hay da đen hay da vàng. Với một phần nữa là cuộc sống ở Mỹ rất khác cuộc sống ở Việt Nam, nhà ai nấy ở, xã hội rất khác so với khi Đỉnh còn nhỏ. Ở thành phố Hà Tiên mà Đỉnh ở khi nhỏ mọi người biết nhau cả, nhà nào cũng có thể chạy ra chạy vào. Còn qua Mỹ nhà nào cũng đóng kín. Những thành phố nhỏ ở Mỹ rất là buồn, sáng sớm họ đi làm hết, ra ngoài đường thấy như thành phố ma. Đỉnh thấy cuộc sống đó không hợp với mình. Nhưng lúc đó, từ khi tới Mỹ cho đến khi học xong, thì Đỉnh nghĩ mình không có cách nào khác, phải chịu đựng, phải chấp nhận, phải cố gắng. Rồi khi về thăm Việt Năm vào năm 1993 thì mình thấy cuộc sống ở đó hợp hơn với mình. Chỉ có điều, nói thật là lúc đó khi mình ở Mỹ thì mình thấy mình Việt nhiều hơn Mỹ, nhưng khi về đến Việt Nam thì lại thấy mình nhiều chất Mỹ hơn là Việt. Nhưng Đỉnh phần nào cũng đã có suy nghĩ là mình sẽ cố gắng, phải tìm cách nào đó để về sống tại Việt Nam. Rồi thì từ năm 1993 đến năm 1997 thì Đỉnh cũng cứ đi đi về về, ở 3 tháng Việt Nam rồi lại ở 3 tháng tại Mỹ. Rồi từ từ mình mới bắt đầu hòa nhập được. Đến năm 1997 thì mình quyết định ở hẳn lại Việt Nam, không về sống tại Mỹ nữa. Nhưng công việc tại Mỹ cũng nhiều, triển lãm chỗ này chỗ kia tại Mỹ, mấy nơi khác thì cũng đi hoài. Có thể là một phần may mắn là được quốc tế biết đến nên Đỉnh cũng có thể triển lãm ở bất cứ nơi nào. RFI : Như vậy là anh sống ở Việt Nam nhưng vẫn phát triển được sự nghiệp ở quốc tế. Anh đã có nhiều tác phẩm được trưng bày ở các triển lãm quốc tế và anh đã có nhiều triển lãm cá nhân ở nhiều không gian mỹ thuật danh tiếng tại các nước như Mỹ, Nhật, Úc, Pháp … Vậy ở trong nước thì sao ? Anh đã từng tổ chức triển lãm ngay tại Việt Nam hay chưa ? Nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh : Hiện giờ, Đỉnh chưa triển lãm ở Việt Nam. Có thể nói Đỉnh không đồng ý với cách kiểm duyệt của Sở Văn Hóa ở Việt Nam. Mỗi lần triển lãm mình phải trình cho họ tác phẩm và họ tự chọn. Như người ta có nói, Đỉnh thấy là khi muốn kiếm cái xấu thì sẽ thấy cái xấu, còn nếu muốn tìm cái đẹp cái tốt thì sẽ thấy cái tốt cái đẹp ? Đỉnh thấy hình như sở Văn Hóa họ chỉ muốn kiếm cái xấu thôi, thành ra Đỉnh không thích cách họ kiểm duyệt. Vì thế Đỉnh chưa muốn triển lãm ở Việt Nam. Nhưng Đỉnh cũng rất mong muốn một ngày nào đó nếu cách họ kiểm duyệt thay đổi thì Đỉnh sẽ rất sẵn sàng làm triển lãm ở Việt Nam. RFI : Anh là chủ Sàn Art, một không gian nghệ thuật đương đại có tiếng tại TP.Hồ Chí Minh. Anh có thể giới thiệu cho thính giả, độc giải của RFI biết về không gian này ? Ý tưởng thành lập Sàn Art đến từ đâu ? Nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh : Sàn Art là một không gian phi lợi nhuận mà Đỉnh và một vài người bạn đã dựng nên hồi năm 2007 và đến nay thì đã được mười mấy năm rồi. Đó không phải là không gian nghệ thuật đương lại lớn nhất Việt Nam, nhưng có thể là nó cũng có một ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến mỹ thuật đương đại Việt Nam và một nhóm trong giới họa sĩ ở Việt Nam. Sàn Art là không gian mình dựng lên với vài người bạn để chia sẻ những gì mình biết về mỹ thuật đương đại cho nhiều họa sĩ trẻ và cũng tạo ra một không gian để các họa sĩ đương đại đến với nhau, tại vì hiện giờ thì, nói sự thật ra là cả bảo tàng mỹ thuật Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng đón nhận mỹ thuật đương đại, thành ra những họa sĩ đang làm mỹ thuật đương đại họ cần một không gian để thử nghiệm, trưng bày những gì họ làm, những gì họ suy nghĩ. Thế nên một không gian như thế là rất cần thiết. Sàn Art và nhiều không gian khác ở Hà Nội và Sài Gòn góp sức với nhau để tạo nên một cái nền để hỗ trợ những họa sĩ mới ra trường, để họ có nơi để đến học hỏi thêm và hiểu biết thêm về mỹ thuật đương đại. Tôi mong muốn là sau này sẽ có một không gian lớn hơn để tiếp tục làm những gì Việt Nam cần. RFI : Nhân nói về mỹ thuật đương đại Việt Nam, anh có nhận xét gì về sự phát triển hiện nay trong nước ? Nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh : Từ vài năm nay, mỹ thuật đương đại Việt Nam có sự thay đổi rất nhanh. Có một số người như Đỉnh trở về từ nước ngoài, ở lại Việt Nam, làm mỹ thuật đương đại rồi chia sẻ những gì mình biết về mỹ thuật đương đại. Có một số họa sĩ trẻ có điều kiện hoặc được học bổng đi học mỹ thuật đương đại ở nước ngoài, ở Mỹ hay châu Âu, rồi họ trở về Việt Nam lập nghiệp. Họ rất thành công, họ được nhiều bảo tàng hay chương trình trên thế giới mời đi triển lãm. Điều này là rất tốt. Đỉnh thấy rõ ràng là có sự thay đổi trong mỹ thuật Việt Nam, một bước đi tốt và vững chắc. RFI xin chân thành cảm ơn nghệ sĩ Lê Quang Đỉnh đã tham gia chương trình.
Không chỉ chia sẻ những giá trị nhân bản nền tảng và sự thịnh vượng chung, Úc và Nhật Bản còn chia sẻ những bất an trước chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Ngày 06/01/2022 vừa qua, lãnh đạo hai quốc gia đã ký một thỏa thuận quốc phòng mang tính bước ngoặt, cho phép quân đội đôi bên tự do tiếp cận lãnh thổ của nhau khi tập trận và tham gia các hoạt động khác (RAA). Nhân sự kiện này, mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn giữa RFI Tiếng Việt và Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang về sự hợp tác song phương giữa Canberra và Tokyo qua các vấn đề nổi trội hiện nay. ********** RFI: Từ khi thiết lập quan hệ thương mại (1957) đến nay, mối bang giao Nhật và Úc được cho là mối quan hệ kiểu mẫu và đóng vai trò là “mỏ neo” của sự thịnh vượng và cởi mở trong khu vực Châu Á. Xin ông cho biết những điểm mấu chốt trong sự hợp tác kinh tế giữa đôi bên? Luật sư – Nhà báo Lưu Tường Quang: Từng là đối thủ trong thế chiến, Úc và Nhật Bản đã trở thành đối tác chiến lược đặc biệt và phát triển cao độ nhất tại Châu Á - Thái Bình Dương. Quan hệ này không chỉ giới hạn giữa hai quốc gia tự do, dân chủ, pháp trị mà còn trải rộng qua sự hợp tác đa phương, đặc biệt đối với khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Quan hệ giữa hai nước đã có từ cuối thế kỷ thứ 19 và được tái lập vào năm 1952, sau Thế Chiến Thứ Hai. Vào năm 1957, ông Robert Menzies là thủ tướng Úc đầu tiên công du Nhật Bản và sau đó là chuyến thăm viếng Canberra của thủ tướng Kishi Nobusuke cùng năm đã đánh dấu mốc lịch sử giao thương giữa hai nước với Thỏa hiệp Thương mại 1957 (The 1957 Commerce Agreement). Về phương diện hợp tác kinh tế và thương mại, hai nước đã nâng cấp mối quan hệ với Hiệp ước Nara năm 1976 (The Basic Treaty of Friendship and Cooperation). Và gần đây nhất, năm 2015, Thỏa hiệp Đối tác Kinh tế Nhật - Úc (Japan - Australia Economic Partnership Agreement - JAEPA) mà cốt lõi là một Hiệp định Tự do Thương mại. Theo dữ liệu chính thức của bộ Ngoại Giao và Thương Mại Úc, Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ ba, đứng sau Trung Quốc và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nếu tính riêng lĩnh vực xuất khẩu hàng hóa, Nhật Bản là thị trường lớn thứ hai của Úc. Trong năm 2020, giao thương hai chiều giữa hai nước trị giá 66,3 tỉ Úc kim. Trong đó, Úc xuất siêu 46,4 tỉ Úc kim, chiếm 10.6% tổng trị giá hàng hoá và dịch vụ bán ra nhiều nước trên thế giới. Tokyo và Canberra đều coi khu vực Đông Nam Á là quan trọng hàng đầu, không những đa phương với Tổ chức ASEAN mà còn song phương với một số thành viên, chẳng hạn như Việt Nam (viện trợ phát triển ODA, chương trình Hạ Lưu Sông Mekong, viện trợ vắc-xin COVID-19, v.v…). Nhật Bản và Úc là thành viên cốt cán của Tổ hợp Kinh tế CPTPP (tức là TPP-11) có hiệu lực từ ngày 30/12/2018 và RCEP, gồm 10 nước Asean, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc Châu và New Zealand, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2022. Ngoài ra, Nhật Bản và Úc còn là thành viên của Diễn đàn Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) và Nhóm 20 Quốc gia kinh tế hàng đầu thế giới (G20). RFI: Như vậy, trong nhiều thập kỷ, Canberra và Tokyo coi kinh tế là nền tảng chủ yếu trong mối quan hệ song phương. Tuy nhiên, những năm gần đây (đặc biệt từ năm 2000), chúng ta thấy, sự hợp tác quốc phòng và an ninh giữa Úc và Nhật phát triển một cách nhảy vọt. Cụ thể, đã có những thỏa hiệp quan trọng nào giữa đôi bên? Luật sư – Nhà báo Lưu Tường Quang: Ngày 12/02/2022 tại Melbourne, khi ngoại trưởng Nhật Bản Yoshimasa Hayashi bước chân vào phòng Hội nghị cấp ngoại trưởng của nhóm Tứ Cường (The Quad), điều này thể hiện hai động thái ý nghĩa. Đó là chỉ ra cơ hội thắt chặt bang giao song phương giữa Úc và Nhật và cũng là bối cảnh đa phương mà Nhật và Úc đang phát triển với Ấn Độ và Hoa Kỳ. Trong thời đại dịch COVID-19, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken và Ngoại trưởng Ấn Độ Subrahmanyam Jaishankar cũng đã tham dự mặt-đối-mặt tại Úc để thảo luận một chương trình nghị sự quan trọng, bao gồm cả vấn đề thay đổi khí hậu, chính sách bắt nạt và đe dọa của Trung Quốc và kế hoạch phòng chống đại dịch. Do những thay đổi lớn về mặt địa lý chính trị trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương, The Quad càng ngày càng trở nên quan trọng. Đặc biệt, nếu The Quad được mở rộng để trở thành The Quad Plus (có thể bao gồm một vài nước khác như Hàn Quốc, New Zealand và Việt Nam tại Châu Á, Israel tại Trung Đông và Brazil tại Nam Mỹ). Chuyến công du của Ngoại trưởng Blinken tại Melbourne, kế tiếp là Fiji, và trở lại Hawaii là nhằm bày tỏ cam kết của Mỹ trong vùng, đặc biệt là Nam Thái Bình Dương. Một khu vực chiến lược mà Bắc Kinh đang bành trướng ảnh hưởng và cũng là nơi Nhật Bản và Úc Châu, cũng như New Zealand đang có kế hoạch đối trọng. Theo Bắc Kinh, The Quad có tham vọng trở thành một NATO Châu Á. Một cáo buộc mà The Quad đã hoàn toàn phủ nhận. Từ khi được phục hoạt năm 2017, The Quad đã có một Hội nghị Thượng đỉnh trực tuyến vào tháng 03/2021; Hội nghị Thượng đỉnh mặt-đối-mặt giữa 4 lãnh tụ tại Tòa Bạch Ốc vào tháng 09/2021; và dự trù sẽ có Hội nghị Thượng đỉnh mặt-đối-mặt tại Tokyo vào tháng 5/2022. Úc và Nhật Bản không có một hiệp ước hợp tác quốc phòng như tầm vóc của Hiệp ước ANZUS giữa Canberra và Washington (1951) hoặc giữa Mỹ và Nhật (1960). Tuy vậy, hai quốc gia chia sẻ mẫu số chung chính sách an ninh quốc phòng đặt trên cơ sở hợp tác với Hoa Kỳ. Quan hệ chiến lược giữa Úc và Mỹ cũng như giữa Úc và Nhật được nâng cấp cao nhất, cụ thể là Hội nghị Thường niên về Chiến lược Ngoại Giao và Quốc Phòng, thường được gọi là hội nghị 2+2. Quan hệ song phương mỗi ngày một được cải thiện, đặc biệt sau khi cựu Thủ tướng Shinzo Abe vượt qua được khó khăn của Điều 9 Hiến pháp Hòa Bình của Nhật Bản. Cụ thể, năm 2014, Điều 9 được diễn giải lại để cho phép lực lượng phòng vệ Nhật Bản tham dự sinh hoạt quân sự với nước ngoài trên căn bản phòng thủ tập thể (collective self-defence). Bắt đầu thương thuyết từ 2014, Thủ tướng Fumio Kishida và Thủ tướng Scott Morrison đã ký một thỏa hiệp lịch sử vào đầu tháng 01/2022. Theo đó, Úc và Nhật cho phép quân đội có thể có mặt trên lãnh thổ của nhau để tập huấn và cứu trợ thiên tai. Đây là lần đầu tiên kể từ năm 1960 với Mỹ, Nhật Bản ký Hiệp định Reciprocal Access Agreement (RAA) với một nước khác. RFI: Sự hợp tác này có tầm ảnh hưởng thế nào đến khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương? Luật sư – Nhà báo Lưu Tường Quang: Là một cường quốc kinh tế thứ ba thế giới và dù chưa phải là một cường quốc quân sự vì sự ràng buộc của Hiến Pháp Chủ hòa, nhưng Nhật Bản cũng đã tham gia tuần tra Biển Hoa Đông và Biển Đông, cũng như tham dự nhiều cuộc tập trận chung với các nước thân hữu. Trong khi, Úc là cường quốc kinh tế và quân sự bậc trung, nhưng cũng có chương trình thường xuyên tuần tra và không lưu trên Biển Đông. Một khi cả hai quốc gia hợp tác chặt chẽ thì sức mạnh chung lớn hơn là sức mạnh cộng lại từ hai nước riêng rẽ (the sum is bigger that its two parts). Với sự trỗi dậy kinh tế và quân sự, và nhất là với chính sách bá quyền của Bắc Kinh đang làm thay đổi cục diện địa lý chính trị. Nhật Bản và Úc hợp tác vì quyền lợi quốc gia riêng và nền hòa bình thịnh vượng chung. Bước ngoặt lớn nhất từ phía Úc là đã ký Thỏa hiệp Tam Cường Mỹ - Anh - Úc (AUKUS), tháng 09/2021 và nhận sự ủng hộ từ Nhật Bản. Hầu như thường xuyên, trên căn bản, Úc và Nhật tham dự các cuộc tập trận khá quy mô, chẳng hạn, Malabar và Talisman Sabre. Malabar là cuộc tập trận giữa hải quân Ấn - Mỹ - Nhật tại Ấn Độ Dương và mở rộng thêm cho hải quân Úc. Gần đây nhất, tháng 08/2021, tập trận Malabar gồm 4 đơn vị hải quân Ấn - Mỹ - Nhật - Úc tại vùng biển Guam và Thái Bình Dương. Talisman Sabre là tập trận hải lục - không quân giữa Mỹ và Úc, và từ năm 2019 có sự tham gia của Nhật. Ngoài ra, không quân của riêng Nhật - Úc cũng có những cuộc tập trận chung. Tất cả các cuộc tập trận đều nhằm nâng cao khả năng hành quân chung khi phải đối diện với một địch thủ chung. RFI: Không ít nhận định cho rằng, Canberra và Tokyo càng xích lại gần nhau hơn bởi chính sách “Chiến binh sói” (Wolf Warrior) của Bắc Kinh và những lo ngại của họ về mức độ cam kết an ninh của Washington đối với các vấn đề khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, trong ván bài chơi với Bắc Kinh, Tokyo “thông minh” hơn Canberra. Ông nghĩ sao về nhận định này? Luật sư – Nhà báo Lưu Tường Quang: Nhìn chung, ngoài lý do hiển nhiên khi cả hai đều là quốc gia tự do, dân chủ, pháp trị và chia sẻ nhiều giá trị nhân bản, có hai yếu tố đưa đẩy Úc và Nhật Bản tiến gần lại với nhau hơn. Đó là mối đe dọa từ Trung Quốc và sự che chở bảo vệ của Mỹ (tuy không cùng mức độ), chiếu theo Hiệp ước ANZUS giữa Úc và Mỹ (1951) và giữa Nhật và Mỹ (1960) không đáp ứng với mong đợi của Canberra va Tokyo. Tuy vậy, Úc có vẻ tin tưởng nhiều vào khả năng của Mỹ hơn là Nhật Bản đối với Mỹ. Đó có thể là lý do Úc nghiêng hẳn về phía Hoa Kỳ với Hiệp định Tam Cường AUKUS. Trung Quốc có thể bắt kịp Hoa kỳ về tầm vóc kinh tế trong nay mai, và có thể thu ngắn sự cách biệt quân sự với Mỹ. Nhưng, Mỹ vẫn còn là siêu cường quân sự số một thế giới trong nhiều năm nữa. Vấn đề, Hoa kỳ có đủ ý chí chính trị để bảo vệ Nhật và Úc, nếu một hoặc cả hai bị Bắc Kinh tấn công. Hoặc như tình hình thế giới hiện nay cho thấy, nước Mỹ có khả năng đáp ứng hai cuộc chiến cùng một lúc: Một tại Châu Âu và một tại Châu Á hay không. Sự đe dọa xâm lăng Ukraina từ Tổng thống Nga Putin trong sự im lặng của ông Tập Cận Bình được coi Bắc Kinh mặc nhiên ủng hộ Matxcơva. Điều này thể hiện một thế trận mới mà Bắc Kinh có thể khai thác trong vấn đề Đài Loan. Đối với Trung Quốc, Úc là nạn nhân của chính sách vũ khí hóa thương mại để đạt mục đích ngoại giao chính trị. Canberra và Bắc Kinh không có tranh chấp lãnh thổ. Trong khi, Nhật Bản và Trung Quốc tranh chấp lãnh thổ Senkaku (Điếu Ngư) tại Biển Hoa Đông. Thêm vào đó, ngoài đe dọa từ Bắc Kinh, Tokyo còn phải đối diện với một đe dọa trực tiếp khác từ Bắc Triều Tiên với vũ khí nguyên tử. Do đó, Tokyo cần sự trợ giúp ngoại giao của Bắc Kinh trong vấn đề an toàn tại vùng Bắc Á. Trung Quốc với chính sách gọi là "chiến lang" có thể đẩy Úc và Nhật gần lại với nhau, nhưng phản ứng từ Canberra và Tokyo đối với Bắc Kinh có thể không hoàn toàn thuần nhất, vì lý do khác biệt trong việc theo đuổi quyền lợi quốc gia. Bởi vậy, theo tôi, chúng ta khó có thể kết luận ai “thông minh” hơn ai. RFI: Trong một “thế giới phẳng” khi mà sự hợp tác đa phương được coi trọng, cục diện địa chính trị luôn thay đổi, cùng những vấn đề mang hơi thở đương đại, mối quan hệ Canberra - Tokyo chắc hẳn cũng phải đối mặt với những thách thức. Theo ông, đó là những gì? Luật sư – Nhà báo Lưu Tường Quang: Trung Quốc theo đuổi chiến lược “tằm ăn dâu” tại Biển Đông và Nam Thái Bình Dương. Không ai nghĩ rằng, một cuộc xung đột vũ trang có thể xảy ra tại Nam Thái Bình Dương. Vấn đề là làm thế nào Mỹ - Nhật - Úc và New Zealand có thể chặn đứng được ảnh hưởng chính trị, ngoại giao và kinh tế của Bắc Kinh đối với 18 đảo quốc nhỏ. Tại Biển Đông, Úc, Nhật và các quốc gia phương Tây ủng hộ lập trường của Mỹ và quyền tự do lưu thông hàng hải và hàng không. Trong khi, Bắc Kinh có thể đe dọa quân sự đối với các quốc gia tranh chấp như Philippines và Việt Nam. Bắc Kinh cũng vi phạm luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS) và bất chấp Phán quyết của Tòa Trọng tài PCA (12/07/2016). Tuy nhiên, một cuộc xung đột vũ trang, nếu xảy ra tại Biển Đông, theo tôi có thể vì lý do “tai nạn” và tình trạng tương tự tại Biển Hoa Đông. Tuy nhiên, có hai điểm nóng có thể xảy ra xung đột vũ trang. Thứ nhất, Bắc Triều Tiên tấn công Nhật Bản hoặc Nam Hàn. Thứ hai, nếu ông Tập Cận Bình theo chân ông Putin và thống nhất Đài Loan bằng vũ lực, tương tự như Liên bang Nga đã chiếm đóng Crimee và đang đe dọa xâm lăng Ukraina. Không phải chỉ có Bắc Kinh mà Tokyo và Canberra cũng theo dõi phản ứng từ Washington. Nếu tổng thống Joe Biden chấp nhận một sự đã rồi (fait accompli) do ông Putin gây ra, thì đây có thể là một cám dỗ lớn cho Tập Cận Bình đối với Đài Loan. Với những kịch bản này, Úc và Nhật sẽ làm gì? Bộ trưởng Quốc phòng Úc Peter Dutton đã nói, Úc khó có thể đứng bên ngoài trong khi Tokyo chưa có phát biểu rõ rệt như vậy. RFI Tiếng Việt cảm ơn Luật sư – Nhà báo Lưu Tường Quang.
Nhiều nhà máy, xưởng sản xuất tại các khu công nghiệp ở miền nam Việt Nam đang đối mặt với một nghịch lý : được mở cửa sản xuất trở lại nhưng lại thiếu nhân lực. Nếu không có biện pháp phòng chống dịch nhất quán, thông suốt từ trung ương đến địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất trở lại, “sức hấp dẫn” của Việt Nam có nguy cơ bị ảnh hưởng trong bối cảnh Việt Nam cố gắng trở thành “điểm đến” của nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây. Ba tháng chống dịch nghiêm ngặt của Việt Nam đã khiến hầu hết hoạt động sản xuất bị đình trệ, đơn hàng không được đáp ứng, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã phải chuyển một phần sản xuất sang nước thứ ba. Theo khuyến nghị của giới doanh nghiệp, đầu tư nước ngoài, cũng như của các doanh nghiệp trong nước, chính phủ Việt Nam đã chuyển từ chính sách “Zero Covid” sang “sống chung” với virus corona. Tuy nhiên, sau ba tuần mở cửa sản xuất, nhiều nhà máy vẫn phải hoạt động cầm chừng : Gần 18% trên khoảng 22.000 doanh nghiệp, được Tổng cục Thống kê khảo sát, cho biết thiếu lao động, riêng ở vùng Đông Nam Bộ là 30,6% và chủ yếu trong các ngành sản xuất da giầy, may mặc, thiết bị điện và điện tử, máy tính. Trang VnExpress ngày 23/10 nêu lên lý do chính là do “khó đưa lao động trở lại”, “các địa phương vẫn chưa thống nhất việc đi lại, công nhân chưa tiêm đủ liều vac-xin”. Hai bất cập này đã được ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) và bà Delphine Rousselet, giám đốc điều hành EuroCham, nhấn mạnh trong buổi trả lời phỏng vấn với RFI Tiếng Việt ngày 06/10. Hai nhà lãnh đạo này nhận thấy những dấu hiệu tích cực về thay đổi chiến lược chống dịch từ chính phủ Việt Nam kể từ giữa tháng 09, khi giới doanh nghiệp nước ngoài gửi đề xuất chiến lược “Phòng ngừa và kiểm soát đại dịch ở từng khu vực” và đặc biệt là kể từ cuộc họp với thủ tướng chính phủ. ***** RFI : Thưa bà Delphine Rousselet, bà là giám đốc điều hành của EuroCham. Sau cuộc họp với đại diện của các doanh nghiệp nước ngoài vào giữa tháng 09/2021, chính phủ Việt Nam đã thay đổi cách chống dịch, từ “Zero Covid” sang “sống chung” với virus corona. EuroCham, cùng với Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ (AmCham), Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc (KoCham) và Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN (USABC), đóng vai trò như thế nào trong quyết định này ? Delphine Rousselet : Có, tôi nghĩ dĩ nhiên là tất cả chúng tôi đóng một vai trò quan trọng bởi vì EuroCham đại diện cho hơn 1.000 công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, còn các đồng nghiệp khác như AmCham và KoCham, cũng đại diện cho rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam, kể cả những công ty không sản xuất. Điều này có nghĩa là liên quan đến rất nhiều việc làm ở Việt Nam. Tiếng nói của chúng tôi cũng đã được lắng nghe. Chúng tôi thường cùng nhau phối hợp hành động để tiếng nói có trọng lượng hơn vì thực ra các doanh nghiệp châu Âu phải đối mặt với những khó khăn như các doanh nghiệp Mỹ, Hàn Quốc, Anh hay Canada. Ngoài phản ánh những khó khăn lên chính phủ Việt Nam, chúng tôi còn mang những kinh nghiệm chống dịch ở nhiều nước để đóng góp cho phía Việt Nam, ví dụ cách đây 4 tháng, tình hình là như thế này, giờ là thế này. Biện pháp hữu hiệu trên khắp thế giới có lẽ là tiêm chủng chứ không phải “3 tại chỗ”. Biện pháp “ăn-ngủ-làm việc tại chỗ” này không thể áp dụng được lâu dài, mà chỉ có thể duy trì được vài tuần vì quá khó khăn. Vì thế chúng tôi đã hành động ở nhiều cấp độ khác nhau. Trước tiên là thông qua tiếng nói của đông đảo doanh nghiệp thành viên các phòng thương mại. Tiếp theo là gửi đến chính phủ các chiến lược chống dịch của mỗi nước, trong đó có các nước châu Âu, mà có thể áp dụng được ở Việt Nam. Một hành động khác mà chúng tôi tiến hành, đó là đồng loạt phản ánh lên các chính phủ châu Âu nhằm có thể cung cấp tối đa vac-xin cho Việt Nam. Vì thế đã có rất nhiều đợt viện trợ vac-xin cho Việt Nam nhờ một phần vào những thông tin mà chúng tôi chuyển từ Việt Nam đến Liên Hiệp Châu Âu. RFI : Đợt dịch thứ tư tại Việt Nam gây hậu quả như thế nào cho các doanh nghiệp châu Âu ? D. Rousselet : Chúng tôi đã công bố trên trang web EuroCham, cũng như trên nhiều bài báo, số liệu thăm dò các thành viên, theo đó hơn 20% doanh nghiệp đã phải dịch chuyển sản xuất khỏi Việt Nam. Vì thế phải khẩn trương hành động vì sự dịch chuyển này mới bắt đầu nhưng có thể sẽ trầm trọng hơn trong tương lai. Nhưng từ vài ngày nay, tình hình đã thay đổi, nhân viên đã có thể đến văn phòng, biện pháp phong tỏa đã được dỡ, các rào chắn đã được tháo, đi lại dễ dàng hơn. Và nhiều tỉnh miền nam đã cho chúng tôi biết là công nhân có thể di chuyển liên tỉnh để đến nhà máy, trong khi vài tuần trước đây là điều không tưởng. Tóm lại, tất cả chúng tôi đều tin tưởng. Chúng tôi thấy tình hình đang đi đúng hướng, dù còn cần nhiều ngày, hoặc vài tuần trước khi ổn định hẳn vì chính quyền một số tỉnh vẫn lưỡng lự để các nhà máy mở cửa trở lại. Nhiều biện pháp hạn chế vẫn được áp dụng nên hiện giờ nhiều nhà máy vẫn chưa hoạt động được hết công suất. Nhưng chúng tôi hy vọng là tình hình sẽ sớm được giải quyết. RFI : Thời gian gần đây, truyền thông tại Việt Nam liên tục có những bài viết, như để trấn an công luận, là doanh nghiệp nước ngoài không rời Việt Nam. Bà nhận thấy thế nào ? D. Rousselet : Dĩ nhiên đó là một rủi ro rất lớn cho chính phủ, cho nền kinh tế vì nếu các doanh nghiệp nước ngoài rút khỏi Việt Nam, việc này đồng nghĩa với chuyện mất rất nhiều việc làm. Tôi không nghĩ hiện giờ có rất nhiều nhà đầu tư lớn rời Việt Nam, tôi chưa nghe thấy tin này. Ngược lại, chắc chắn là có nhiều nguồn đầu tư đã bị thu hẹp hoặc bị chựng lại. Vấn đề đặt ra hiện nay là liệu những nguồn đầu tư đang để treo hay tạm ngừng liệu có được triển khai ở Việt Nam hay sẽ bị chuyển sang một nước khác. Hiện giờ tôi chưa có câu trả lời. Hiệp định EVFTA và một năm Covid Hiệp định Thương mại Tự do Liên Hiệp Châu Âu - Việt Nam (EVFTA) chính thức có hiệu lực từ ngày 01/08/2020. EVFTA đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, thương mại của Việt Nam. Hoạt động đầu tư, xuất nhập khẩu giữa hai bên cũng được tạo điều kiện thuận lợi nhờ EVFTA. Tuy nhiên, EVFTA có hiệu lực vào lúc châu Âu bị khủng hoảng dịch tễ và giờ là Việt Nam. RFI : Thưa ông Jean-Jacques Bouflet, ông là phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam, xin ông cho biết tình hình dịch bệnh hiện nay có gây chậm trễ cho các dự án đầu tư từ cả hai phía Việt Nam và châu Âu không ? Jean-Jacques Bouflet : Trước tiên, đầu tư, theo định nghĩa là dài hạn. Nhiều thành viên EuroCham là những công ty nước ngoài, như Đức, Pháp, Ý cũng đã chuẩn bị để hoạt động ở Việt Nam. Vì thế họ biết Việt Nam, hiểu rằng những biện pháp chống dịch này chỉ là tạm thời, dù rất khắt khe, và mọi chỉ số đều tốt cho năm 2022. Năm 2021 có khả năng khó khăn. Đối với năm 2022, tình hình được cho là khả quan và chắc sẽ không làm hỏng đầu tư, dù lượng đầu tư vào Việt Nam bị giảm. Có thể thấy rõ là vốn đầu tư trực tiếp đã giảm 15% so với năm 2019, có nghĩa là năm trước Covid và dù đã được dần dần vực dậy trong năm 2021 so với năm 2020. Có một chút tiềm năng cho tăng trưởng nhưng các chỉ số hiện chỉ dự báo từ 2 đến 3 điểm trong khi trước đó là 6 điểm. Chị nhắc đến hiệp định thương mại có hiệu lực từ tháng 08/2020 nhưng hiệp định bảo hộ đầu tư lại chưa có hiệu lực vì còn phải chờ hai lần phê chuẩn, từ phía Liên Hiệp Châu Âu và từ phía mỗi nước thành viên. Quá trình này còn chưa hoàn thành, các nước thành viên còn chưa phê chuẩn. Vì thế thỏa thuận bảo hộ đầu tư vẫn chưa có hiệu lực và chưa mang lại những hiệu quả tích cực như chúng tôi mong muốn. RFI : Nhìn chung, các doanh nghiệp châu Âu có hài lòng về những cải thiện, những cải cách được Việt Nam tiến hành từ khi hiệp định EVFTA có hiệu lực không ? Tương lai đầu tư của các doanh nghiệp châu Âu như thế nào ? J. J. Bouflet : Loạt biện pháp cải cách được tiến hành từ nhiều năm qua và được tăng cường theo hướng đơn giản hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại, hoạt động của doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là châu Âu. Tôi phải nói là việc thủ tướng Việt Nam đã trao đổi với EuroCham suốt 4 tiếng để lắng nghe chúng tôi, cố hiểu những vấn đề của chúng tôi chứng minh rõ rằng chính quyền Việt Nam muốn thực sự khẩn trương. Nhưng ngoài những tuyên bố, chúng tôi hy vọng những phát biểu đó sẽ được thực hiện dù tình hình Covid hiện nay và những biện pháp nghiêm ngặt được ban hành. Chúng tôi hiểu nguyện vọng của chính phủ về mặt y tế nhưng những biện pháp đó tác động rất nặng nề cho nền kinh tế. Dù sao cũng cần thấy rằng ý muốn cởi mở của chính phủ là sự khích lệ cho đầu tư nước ngoài nói chung, tạo điều kiện cho hoạt động bền vững. Chúng tôi rất vui. Đó là một lý do để EuroCham hợp tác tích cực với chính quyền Việt Nam. Tất cả mọi người đều trông đợi là đầu tư và hoạt động khởi sắc mạnh ngay từ năm 2022, dĩ nhiên trừ phi tình hình dịch bất ngờ xấu đi. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) và bà Delphine Rousselet, giám đốc điều hành EuroCham.
Vai trò trung tâm của ASEAN, chủ nhân của vùng chiến lược địa chính trị Đông Nam Á, là chủ đề thu hút sự quan tâm của giới phân tích trong thời gian qua, đặc biệt khi ASEAN đứng trước một Trung Quốc bạo quyền và các quốc gia dân chủ trở lại mạnh mẽ trong cuộc đối đầu với Trung Quốc; cùng các vấn đề như đại dịch COVID-19, khủng hoảng chính trị Miến Điện, hay biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh đó, ASEAN có thật sự tồn tại dưới một thể thống nhất; giữ vững được vai trò trung tâm? Những cơ hội cũng như thách thức nào cho ASEAN trước sự cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc? Xin mời quý vị nghe nhận định của Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang trong cuộc trả lời phỏng vấn đài RFI Tiếng Việt*. RFI: Thưa ông, nói về Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), có lẽ chúng ta bắt đầu từ tôn chỉ hoạt động của nó. Thực tế, các quốc gia thành viên có thống nhất thực hiện đúng như những gì đã đề ra nhằm khẳng định vai trò trung tâm và lợi ích của khối này trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Đọc qua hầu hết những phát biểu của các Chủ tịch luân phiên ASEAN (Chairman's Statement) trong nhiều năm qua, chúng ta thường thấy một chi tiết quen thuộc, đó là vai trò trung tâm của ASEAN (ASEAN centrality). Với tư cách Chủ tịch ASEAN năm 2020, ông Nguyễn Xuân Phúc đã nói: “Chúng tôi - tức là những trưởng nhiệm hành pháp của 10 nước hội viên, xác nhận lại sự quan trọng của việc duy trì vị thế trung tâm của ASEAN, tính nhất quán trong nỗ lực xây dựng cộng đồng, tiếp cận với các đối tác nước ngoài và cấu trúc khu vực” (“We reaffirmed the importance of maintaining ASEAN centrality and unity in our community-building efforts, engagement with external partners and the regional architecture”). Cũng như những chủ tịch tiền nhiệm và kế nhiệm, thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc không hề định nghĩa vai trò trung tâm của ASEAN là gì. Nhìn qua những phát biểu, chúng ta có thể hình dung bối cảnh mà vai trò trung tâm được coi là thiết yếu, đó là tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN (thành phần cốt lõi trong sinh hoạt nội bộ ASEAN), giao tiếp với các đối tác nước ngoài, và tổ chức khu vực. Thành công lớn nhất của ASEAN là đã biến một tổ chức nguyên thủy chống cộng (1967) thành một tổ chức mở rộng phát triển kinh tế và có một thế đứng nhất định về chính trị, ngoại giao khu vực. Hiện nay, ASEAN là một thị trường gồm 650 triệu dân với tổng sản lượng nội địa chung là 2.8 tỷ Mỹ kim. ASEAN tự đặt cho mình hai nguyên tắc sinh hoạt, đó là quyết định trên căn bản đồng thuận và không can thiệp vào chính trị nội bộ của nhau. Cả hai nguyên tắc này có thể thích hợp với hai thập niên trước đây. Tuy nhiên, hiện nay, chính nó có thể đẩy ASEAN vào tình trạng bị động, thậm chí bất lực và gây chia rẽ nội bộ mà một đại cường khu vực dễ dàng khai thác. Thí dụ điển hình: Vì nguyên tắc không can thiệp nội bộ (và phần nào vì lý do quyền lợi đầu tư như Singapore và Việt Nam), mà ASEAN bất động đối với hai cuộc khủng hoảng tại Miến Điện dưới thời hai chính quyền quân phiệt. Một thí dụ khác: Vào năm 2012, khi Cam Bốt làm Chủ tịch, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN đã không thể phổ biến Thông cáo chung, vì thủ tướng Hun Sen không đồng ý với đoạn nói về tranh chấp Biển Đông mà giới quan sát coi là không làm vừa lòng Bắc Kinh. RFI: Có thể nói, Đông Nam Á là sàn đầu tư đem lại lợi nhuận tương đối an toàn cho sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Bắc Kinh, nhưng khu vực này cũng là sân chơi lý tưởng mà các nước dân chủ sử dụng để đối kháng Trung Quốc. Đó cũng là một trong những nguyên nhân chính yếu thành lập Bộ tứ An ninh (The Quad). Diễn đàn đối thoại này chủ trương hành động dựa trên sự tự do và mở rộng của “Khung Chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương” (2007) và Tuyên bố chung ("The Spirit of the Quad", 03/2021). Vậy, hai sách lược này có gì khác nhau và tác động thế nào lên khu vực Đông Nam Á? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Khởi thủy của The Quad là sáng kiến của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe khi ông đọc diễn văn tại New Delhi năm 2007 về giao thoa giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Từ đó, nảy sinh ra khái niệm một tập hợp thân hữu giữa 4 quốc gia dân chủ: Ấn, Mỹ, Nhật, Úc, mà tổng thống Mỹ George W Bush đã từng gợi ý. Theo đó, bất cứ sự hợp tác nào giữa các quốc gia dân chủ trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương đều bị Trung Quốc phản đối. Bắc Kinh xem đây là một nỗ lực bao vây Trung Quốc theo tư duy của một cuộc chiến tranh lạnh mới. The Quad phiên bản 1-0 này chết yểu sau khi tại Úc có sự thay đổi chính trị. Thủ tướng Đảng Lao Động Kevin Rudd tuyên bố Úc sẽ không tiếp tục tham dự “The Quad” trong năm 2008. Lý do là vì Bắc Kinh đã tạo áp lực lên thủ tướng mới của nước Úc, mặc dầu ông Kevin Rudd đã phủ nhận việc này. Với sự rút lui của Úc, The Quad đã phải ngưng hoạt động cho đến năm 2017, khi tổng thống Philippines Rodrigo Duterte tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS) tại Manila. Với sự có mặt đầy đủ lãnh đạo của 4 nước, The Quad phiên bản 2-0 được chính thức ra đời. Về mặt tổng thể, chủ đích của “The Quad 1.0” (2007) và “The Quad 2.0” (2021) hầu như tương đồng. “Khung chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương” là chỉ vùng không gian địa lý và “The Spirit of the Quad” là nói về nội dung, về tinh thần hợp tác để duy trì vùng địa lý này được tự do, rộng mở và hòa bình. Điểm khác biết rõ rệt nhất trong khoảng cách 10 năm này là Trung Quốc. Dưới thời chủ tịch Hồ Cẩm Đào (2003 – 2013) có rất nhiều khác biệt so với Trung Quốc dưới thời Tổng Bí Thư - Chủ tịch Tập Cận Bình. Dưới thời Ông Hồ Cẩm Đào, Trung Quốc chưa đủ mạnh về quân sự và kinh tế, chưa xác quyết chủ quyền đường Lưỡi Bò 9 đoạn, và chưa quân sự hoá quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và, có lẽ quan trọng hơn cả về mặt chiến lược toàn cầu là chưa có Sáng kiến “Vành đai và Con đường” (BRI, 2013). Nhóm Tứ Cường Kim Cương cũng đã có một bước tiến cụ thể gọi là The Quad Plus (The Quad +) khi Việt Nam, New Zealand và Nam Hàn được mời tham dự thảo luận kế hoạch phòng chống đại dịch COVID-19 vào tháng 3/2021. Trong số các nước khu vực Đông Nam Á, có lẽ Việt Nam gặp nhiều khó khăn để đáp ứng, vì Việt Nam đã công bố theo đuổi chính sách Bốn Không (trước kia gọi là Ba Không). Theo ý tôi, đây là chính sách mà Việt Nam không thể tự do lựa chọn, vì áp lực từ phía Bắc Kinh. Cũng vì lý do đó, Việt Nam chưa dám đồng ý nâng cấp bang giao với Mỹ từ mức “Đối tác Toàn diện” lên mức “Đối tác Chiến lược”. Trong khi đó, mối bang giao giữa Hà Nội và Bắc Kinh đã ở mức “Đối tác Chiến lược Toàn diện” từ nhiều năm qua. Trong bối cảnh mới của thập niên thứ 3, thế kỷ 21, khu vực Đông Nam Á, nếu không phải là tổ chức ASEAN, vì ASEAN chia rẽ và không có tầm nhìn chiến lược chung, còn có vai trò quan trọng hơn đối với The Quad. Chúng ta có thể nhìn thấy phần nào sự phân biệt giữa khu vực địa lý Đông Nam Á và tổ chức ASEAN, căn cứ vào những sinh hoạt ngoại giao dồn dập từ Washington và New Delhi trong thời gian gần đây. RFI: Nhìn chung, Ấn Độ - Thái Bình Dương là khu vực lý tưởng cho sự đối đầu giữa các quốc gia dân chủ và Trung Quốc nhằm tranh quyền ảnh hưởng lên các quốc gia sở tại. Các quốc gia thành viên của khối ASEAN được hưởng lợi gì từ sự cạnh tranh giữa hai thái cực địa chính trị này? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Trong ngắn hạn, cuộc thương chiến giữa Washington và Bắc Kinh, đặc biệt là dưới thời tổng thống Donald Trump, có thể tạo cơ hội thuận lợi cho các nước ASEAN. Thuận lợi chính thức và không vi phạm quy luật của Tổ chức Thương Mại Quốc Tế (WTO), đó là sự di chuyển cơ sở công nghệ, nguồn đầu tư từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á, vì nhân công rẻ hơn và để tránh sự trừng phạt kinh tế của Mỹ. Đồng thời, cũng có các cơ hội thuận lợi không chính thức, thậm chí mang tính bất hợp pháp, đó là khi hàng hoá sản xuất tại Hoa lục được sửa đổi nhãn hiệu và gán nhãn mác xuất xứ tại các nước trung chuyển. Chính phủ Mỹ đã từng phát hiện những trường hợp này và đã có biện pháp chế tài thích hợp. Tuy vậy, đây không phải là lợi nhuận lâu dài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, nền kinh tế thế giới tùy thuộc vào sự phát triển thương mại của nhiều nước, đặc biệt là của Mỹ và Trung Quốc. Nếu vì cuộc thương chiến giữa Washington và Bắc Kinh nói riêng, hay vì cuộc tranh chấp lãnh đạo giữa Mỹ và Hoa Lục, mà sinh hoạt kinh tế tại hai cường bị trì trệ, toàn cầu sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực. Tình trạng tốt nhất là nếu cuộc tranh chấp có thể được giải quyết mà không có chiến tranh và trật tự thế giới pháp quyền tồn tại. Có như vậy, các quốc gia Đông Nam Á mới giữ được tình trạng khá tốt đẹp hiện nay, như được thể hiện qua các dữ liệu thống kê. Trong năm 2019, trị giá thương mại hai chiều giữa ASEAN và Hoa Kỳ là 206.3 tỷ Mỹ kim. Trong số này, Mỹ bán cho ASEAN 86.1 tỷ Mỹ kim và nhập siêu từ ASEAN là 120.2 tỷ Mỹ kim. ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 10 của Mỹ. Đối với Trung Quốc, khi ASEAN có quan hệ Hiệp định Thương mại Tự do FTA, trong năm 2020, trị giá giao thương hai chiều là 731.9 tỷ Mỹ kim. Hai bên trở thành đối tác thương mại lớn nhất của nhau, nhưng Bắc Kinh thường là bên nhập siêu. Riêng đối với Việt Nam, giao thương hai chiều với Trung Quốc trong năm 2020 là 100 tỷ Mỹ Kim, mà Việt Nam là nước nhập siêu (mua 65.6 tỷ Mỹ kim từ Trung Quốc). Ngược lại, Việt Nam lợi nhuận nhiều hơn trong giao thương với Mỹ, có trị giá hai chiều là 90 tỷ Mỹ kim, khi Mỹ là nước nhập siêu với 79.6 tỷ Mỹ kim. RFI: Khi đề cập ASEAN, vấn đề biển Đông được coi là một mặt trận gay cấn và lôi kéo nhiều sự quan tâm nhất, khi mà Trung Quốc bất chấp luật pháp quốc tế, trật tự chung của an ninh hàng hải, ngang nhiên xâm lấn, tăng cường các hoạt động quân sự tại đây. Cuộc đối đầu của các khối nước mà dẫn đầu là Mỹ và Trung Quốc diễn ra ngày càng mạnh mẽ và quyết đoán trên vùng biển Đông. Vậy ASEAN thể hiện phản ứng thế nào trước sự xung đột leo thang của các cường quốc bên ngoài khu vực? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Trên lập trường cơ bản, Bắc Kinh chủ trương giải quyết tranh chấp song phương và không chấp nhận sự can thiệp của bất cứ quốc gia nào ngoài khu vực, cụ thể là Hoa Kỳ. Trong khi đó, quan điểm của Washington là Mỹ có thể làm bất cứ điều gì tại Biển Đông mà luật quốc tế cho phép, kể cả quyền tự do lưu thông hàng hải và hàng không. Nước Anh, nước Pháp (cũng như nước Đức và Ấn Độ) gần đây cũng đã quyết định đưa nhóm tàu chiến hàng không mẫu hạm HMS Queen Elizabeth và Charles de Gaulle đến Biển Đông mà Bắc Kinh đã lên tiếng phản đối. Ngược lại, nhìn chung, ASEAN với tư cách là một tổ chức, đã không có phản ứng chính thức. Nếu chúng ta có thể rút ngắn tiến trình lịch sử rất dài về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, thì mốc điểm đương đại quan trọng có thể là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS, 1982), mà tất cả các quốc gia có tranh chấp tại Biển Đông đều là thành viên kết ước (ngoại trừ Đài Loan). Phán quyết cụ thể dựa vào UNCLOS là quyết định của Tòa Trọng tài Quốc tế (Permanent Court of Arbitration, PCA) ngày 12/07/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc (The Philippines vs The People's Republic of China). PCA đã bác bỏ lập luận của Bắc Kinh về quyền lịch sử (historic rights) và xác quyết chủ quyền của Bắc Kinh về Đường Lưỡi Bò 9 đoạn là không có cơ sở pháp lý. Tuy phán quyết này là sau cùng, có tính cách cưỡng hành, nhưng Bắc Kinh đã từ chối chấp nhận. Và phán quyết PCA được ủng hộ mạnh mẽ nhất không phải bởi ASEAN, mà từ 4 thành viên của nhóm Tứ Cường Kim Cương. Một diễn tiến khác mà tổ chức ASEAN đã góp phần đáng kể, ít nhất về mặt tiến trình, là cuộc thương thuyết kéo dài nhiều năm với Bắc Kinh về bộ Quy tắc Ứng xử (Code of Conduct, COC) để thay thế cho bản Tuyên bố Ứng xử (Declaration of Conduct, DOC, 2002). Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị loan báo triệu tập phiên họp vào tháng 7/2021, nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy tiến triển gì. Trong bối cảnh địa lý chính trị, Ấn Độ - Thái Bình Dương và trong tình trạng căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, 10 nước ASEAN có vẻ không công khai ngả về đại cường nào. Nhưng thực tế, nhất là trong vấn đề Biển Đông, ASEAN là một tổ chức bị chia rẽ. Cam Bốt và Lào ủng hộ lập trường của Bắc Kinh, trong khi Thái Lan và Miến Điện ít nhiều cũng có thiện cảm hơn với Trung Quốc. Cả 4 nước này đều không có tranh chấp tại Biển Đông. Do đó, họ không quan tâm đến tiến trình thương thuyết bộ Quy tắc Ứng xử (Code of Conduct – COC) mà Bắc Kinh đang nắm thế chủ động. Vấn đề cốt lõi nhất là từ quan điểm của Việt Nam, COC phải có tính ràng buộc và áp dụng cho tranh chấp quần đảo Hoàng Sa mà Bắc Kinh đã chiếm đóng bất hợp pháp bằng vũ lực hồi tháng 01/1974 sau một cuộc hải chiến với Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên, theo ý tôi, thà không có một COC, hơn là có một COC mà Việt Nam bị mất vĩnh viễn Hoàng Sa và Trường Sa. Tôi không tin một tổ chức ASEAN chia rẽ như hiện nay có thể đạt được một COC thuận lợi cho đất nước Việt Nam. RFI: Theo giới phân tích, trước sự bành trướng bất chấp luật lệ của Trung Quốc và sự trở lại mạnh mẽ của Bộ tứ Kim cương (QUAD), đã xuất hiện làn sóng hoài nghi về tính trung tâm của ASEAN trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Liệu rằng, một ASEAN còn thể hiện những yếu kém tương đối, thiếu sự đồng nhất và nhất quán giữa các quốc gia thành viên có bảo vệ được cột mốc thành trì trung tâm; trong khi phải chống chọi trước những thách thức lớn như đương đầu ứng phó đại dịch COVID-19 và những hệ lụy của nó, tàn dư của cuộc khủng hoảng chính trị ở Miến Điện, trật tự an ninh hàng hải qua vùng biển Đông, hay vấn đề biến đổi khí hậu? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Như là một kết luận tạm thời, tôi tin rằng Tổ chức ASEAN sẽ tồn tại khi chứng tỏ khả năng tự diễn tiến để thích nghi với những thay đổi lớn từ năm 1967 đến nay. Tuy nhiên, đề xướng và phát huy vai trò ‘trung tâm' có thể là một tham vọng quá lớn, nhất là trong bối cảnh trỗi dậy không hòa bình của Trung Quốc. Có thể là một nghịch lý, dù thiếu vắng tính nhất quán, nhưng ASEAN chưa bị sẻ làm đôi. Từ một tổ chức chống cộng với 5 thành viên ban đầu, 10 thành viên ngày nay rất thực tế. Họ hợp tác với nhau trong phạm vi có thể được, tuy vậy lúc nào cũng sẵn sàng đi theo hướng quyền lợi riêng. Cụ thể, trường hợp Cam Bốt hợp tác quân sự với Bắc Kinh (mặc dù Thủ tướng Hun Sen luôn phủ nhận) tại các quân cảng vùng Sihanoukville ở bờ biển phía Nam; hay nước Lào nhỏ bé xây dựng hàng chục đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong; và ASEAN đã không giải quyết được hai cuộc khủng hoảng tại Miến Điện. Ngoài ra, trong vấn đề biến đổi khí hậu hay sách lược đối phó với đại dịch COVID-19, ASEAN cũng có cơ cấu nghiên cứu, phối hợp kế hoạch, nhưng trong thực tế, các nước tự lo cho quyền lợi của chính mình. Những ai lạc quan có thể nghĩ rằng ASEAN vào một lúc nào đó có thể trở thành một Liên Âu thu nhỏ tại Đông Nam Á. Viễn tượng này còn rất xa vời, không những bởi sự khác biệt giữa 10 thành viên về lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, nền kinh tế cạnh tranh thay vì bổ túc cho nhau; mà còn vì áp lực từ cường quốc bên ngoài. Trong thực tế, ASEAN có thể không còn là một tổ chức thuần nhất. RFI Tiếng Việt cảm ơn Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang. ********** * Ghi chú: Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang có mối quan tâm đặc biệt đến các vấn đề chính trị, ngoại giao tại Úc và các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Ông là cựu Trưởng nhiệm SBS Radio (Head of SBS Radio), một Cơ quan Truyền thông Văn hóa Đa nguyên của Úc Châu.
Ngày 30/04/2021, ông Joe Biden đã đánh dấu 100 ngày đầu của nhiệm kỳ tổng thống Hoa Kỳ bằng một bài phát biểu đọc trước Quốc Hội lưỡng viện vào hôm trước, 29/04. Phần lớn bài phát biểu này nói về những kế hoạch cải tổ và đầu tư mà ông muốn thực hiện để nâng cao tiềm lực của nước Mỹ, với tham vọng giành chiến thắng trong cuộc tranh đua với Trung Quốc. Về chính sách đối ngoại, tổng thống Biden đã tỏ một thái độ cứng rắn đối với Trung Quốc ( cũng như đối với Nga), tuy không hoàn toàn khép lại cánh cửa đối thoại với cường quốc số hai thế giới. Thật ra thì chính sách về châu Á của chính quyền Biden hiện vẫn trong giai đoạn được cụ thể hóa, nhưng tổng thống Dân Chủ đã thể hiện sự khác biệt căn bản với người tiền nhiệm Donald Trump, đó là ông sẽ liên kết chặt chẽ với các đồng minh và đối tác trong khu vực để cùng nhau đối đầu với Bắc Kinh. Theo chiều hướng này, Việt Nam vẫn được xem là một đối tác quan trọng của Hoa Kỳ trong chiến lược về một vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Trong phần tạp chí hôm nay, mời quý vị nghe ý kiến của luật sư Nguyễn Hoàng Dũng tại Orange County, California, nguyên là ủy viên Ủy ban Cố vấn của Tổng thống George W. Bush về các vấn đề liên quan đến người Mỹ gốc Á và cư dân các đảo thuộc Thái Bình Dương, trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ qua điện thoại ngày 05/05/2021. RFI: Thưa luật sư Nguyễn Hoàng Dũng, kể từ khi ông Biden lên làm tổng thống Hoa Kỳ, chính sách châu Á của ông đã bắt đầu được định hình rõ ràng chưa, hay là trước mắt ông vẫn đi theo đường lối của người tiền nhiệm Donald Trump? LS Nguyễn Hoàng Dũng: Khi ông Biden đã nhậm chức được 100 ngày thì chính sách về châu Á của ông đã hơi được định hình, nhưng vẫn chưa rõ ràng. Nó cũng có phần rõ và phần chưa rõ. Chiến lược của ông Biden khác với tổng thống Trump ở chổ là ông sẽ kết hợp nhiều với các đồng minh của Hoa Kỳ, cụ thể là ở châu Á thì liên kết với những nước lớn là Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc, kế tiếp là với khối ASEAN, mà trong đó có Việt Nam, để cùng đối phó với hai nước, mình không gọi là kẻ thù, mà là hai lực lượng thù địch và xấu đối với Mỹ, đó là Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Chính sách của ông Biden khác ở chổ là kết hợp lại chặt chẽ với các đồng minh, chứ không tự đơn độc như ông Trump trong việc đối phó với Trung Quốc hay Bắc Triều Tiên trong những năm ông còn tại chức. Tuy nhiên, có những điều vẫn chưa rõ ràng, cụ thể là con đường đó sẽ đi như thế nào. Chỉ có gần đây, cách nay một vài tuần, chiến lược đối phó với Bắc Triều Tiên mới được cụ thể hóa một chút. Nhưng tổng thống Biden vẫn áp dụng các chính sách mà tổng thống Trump đã đặt ra, chẳng hạn như đặt Trung Quốc vào tình huống khó khăn hơn, hoặc vẫn có những đòi hỏi đối với Nhật Bản và Hàn Quốc, nhưng sẽ không khó khăn như ông Trump. RFI: Riêng đối với Việt Nam, trước đây chính quyền tổng thống Trump đã thắt chặt thêm quan hệ với Hà Nội, để lôi kéo Việt Nam về phía Hoa Kỳ trong cuộc đối đầu với Trung Quốc, nhất là tại vùng Biển Đông. Theo ông, tổng thống Biden có sẽ tiếp tục chính sách này hay không? LS Nguyễn Hoàng Dũng: Chắc chắn là có. Việt Nam là một yếu tố quan trọng trong chính sách của nhiều đời tổng thống Mỹ. Từ sau khi ông Clinton bình thường hóa quan hệ với Hà Nội vào năm 1995, cho tới đời tổng thống George W. Bush, tổng thống Obama, tổng thống Trump, Việt Nam lúc nào cũng là một yếu tố quan trọng trong chiến lược của họ, nhất là trong cuộc đối đầu với Trung Quốc ở châu Á -Thái Bình Dương. Mối quan hệ này càng lúc càng chặt chẽ và càng tốt đẹp hơn, chứ không thể xấu đi được, nhất là tổng thống Biden và những người cộng tác với ông, từ bộ trưởng Ngoại Giao đến bộ trưởng Quốc Phòng, cho đến những chỉ huy các lực lượng Ấn Độ - Thái Bình Dương đều có những phát biểu cho rằng Việt Nam là một yếu tố quan trọng, và nhiều khi họ so sánh vị trí của Việt Nam với Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc trong việc đối phó với Trung Quốc. RFI: Nhưng trong lịch sử Hoa Kỳ, một chính phủ Dân Chủ thường có chính sách đặt nặng với đề nhân quyền hơn đối với các nước đối tác. Theo ông thì chính quyền Biden có sẽ đặt nặng vấn đề nhân quyền hơn so với thời Donald Trump, trong quan hệ với Việt Nam? LS Nguyễn Hoàng Dũng: Chắc chắn là tổng thống Biden, một người thuộc đảng Dân Chủ, sẽ đặt vấn đề nhân quyền với Việt Nam nhiều hơn là thời Donald Trump. Tuy nhiên, đặt vấn đề là một chuyện, đó là về lý thuyết, còn thực tế sẽ có những biện pháp chế tài gì hay không. Tổng thống Donald Trump xuất thân là một nhà kinh doanh, thành ra đôi khi ông không đặt vấn đề nhân quyền. Thật ra thì tổng thống Trump đã nhấn mạnh vấn đề tự do tôn giáo rất nhiều, bởi vì ông được hậu thuẫn của các nhà hoạt động tôn giáo, nên lúc nào cũng nêu vấn đề đó lên hàng đầu. Nhưng thường thì ông Trump đặt vấn đề thương mại nặng hơn các vấn đề khác, nhất là vấn đề nhân quyền. Với tổng thống Biden thì chắc chắn là ngược lại, sẽ có những vấn đề nhân quyền được đặt ra, nhưng có lẽ quan trọng hơn vẫn là sự hợp tác với Việt Nam. Thành ra có thể vấn đề nhân quyền sẽ không ảnh hưởng nhiều đến quan hệ giữa hai nước. Đặt vấn đề là một chuyện, nhưng giải quyết vấn đề như thế nào thì sẽ cũng không có gì nặng nề, nghiêm trọng, bởi vì dù gì đi nữa Việt Nam vẫn là một yếu tố quan trọng trong chính sách của Mỹ đối với các nước châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là đối với Trung Quốc. RFI: Riêng về quan hệ kinh tế, gần đây chính phủ của tổng thống Biden đã không còn xếp vào danh sách các quốc gia "thao túng tiền tệ". Như vậy, phải chăng là ông Biden sẽ có một chính sách thương mại và kinh tế mềm dẽo hơn chứ không quá cứng nhắc như tổng thống Trump, trước đây vẫn đòi các nước khác, trong đó có Việt Nam, phải giảm thâm thủng mậu dịch của Hoa Kỳ? LS Nguyễn Hoàng Dũng: Chúng tôi nghĩ là chính quyền Biden sẽ tiếp tục nêu ra vấn đề về thâm thủng mậu dịch. Tuy nhiên, dù mậu dịch có bị thâm thủng, không nhất thiết các nước đối tác là sai luật. Có thể có những yếu tố cho thấy Việt Nam không thao túng tiền tệ, nhưng sẽ có những biện pháp để thay đổi vấn đề đó. Hai bên vẫn có thể thương thuyết để giảm sự thâm thủng mậu dịch, nhưng không có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ kết tội và sẽ có những biện pháp chế tài đối với các nước gây thâm thủng. Cụ thể là gần đây, bà bộ trưởng Tài Chính của Mỹ đã làm việc với bộ trưởng bộ Công Thương Việt Nam để có những biện pháp làm giảm sự thâm thủng đó. Nói tóm lại, tổng thống Biden sẽ tiếp tục đặt ra vấn đề thâm thủng mậu dịch của Mỹ, nhưng chắc sẽ không có biện pháp chế tài, nếu bên đối phương, mà trong trường hợp này là Việt Nam, có những động tác tích cực để giảm đi thâm thủng đó.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long đang tiếp tục bị sụt lún, mà nguyên nhân chủ yếu là nạn khai thác nước ngầm quá mức, tiêu biểu là trường hợp của thành phố Cần Thơ, nơi mà tình trạng đường phố ngập nước ngày càng nặng nề. Sau nhiều thập niên xây dựng và phát triển, thành phố (TP) Cần Thơ đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực, góp phần- nếu không nói là đóng vai trò nòng cốt - trong sản xuất nông nghiệp để Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu gạo nhất nhì trên thế giới. Cũng trong khoảng thời gian này, Cần Thơ đã thực hiện được vai trò trung tâm vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) về thương mại, sản xuất - chế biến, dịch vụ, giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ. TP Cần Thơ đã tổ chức hội thảo, nghiên cứu kế hoạch xây dựng để trở thành một đô thị hạt nhân của ĐBSCL, với một trung tâm khoa học-công nghệ về nông nghiệp của quốc gia và khu vực. Tuy nhiên, Cần Thơ là một đô thị của ĐBSCL, một trong 3 châu thổ trên thế giới bị tác động trầm trọng nhất của biến đổi khí hậu (BĐKH). Như vậy, thử hỏi có thể nào xây dựng Cần Thơ trở thành đô thị hạt nhân của ĐBSCL với những hình ảnh của hơn phân nửa diện tích thành phố bị ngập nước? Đó chính là mối ưu tư rất lớn của tiến sĩ Huỳnh Long Vân, nhóm nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long Úc châu, trong bài trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ từ Sydney ngày 27/04/2021. RFI: Thưa tiến sĩ Huỳnh Long Vân, trước hết xin ông cho biết là tình trạng sụt lún của thành phố Cần Thơ nói riêng và của vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung là do những nguyên nhân gì? TS Huỳnh Long Vân: Thành phố ( TP ) Cần Thơ bị ngập nước do hai nguyên nhân: Sụt lún gây ra bởi khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát. Nền đất bị sụt lún, tương tác với thủy triều, nước lũ sông Mêkông, và hệ thống đê bao khép kín ở các vùng nông thôn phụ cận khiến TP Cần Thơ bị ngập úng. Công trình thoát nước vốn đã kém chất lượng, lại xuống cấp, thiếu hoành chỉnh, được dùng để tháo rút nước thải lẫn nước mưa. Bên cạnh đó phát triển đô thị thiếu kiểm soát, cho phép xây nhà ở những vùng đất ngập nước, đô thị bị bê tông hoá làm giảm đi mức độ thấm rút nước mưa, do đó khi mực nước sông dâng lên bởi triều cường kết hợp với mưa lớn, thì đường phố bị ngập. RFI: Như vậy, thưa ông, tình trạng sụt lún của đồng bằng sông Cửu Long đã bắt đầu từ khi nào? TS Huỳnh Long Vân: Hơn 10 năm trước đây, người dân ĐBSCL sử dụng nguồn nước mặt (nước sông) và nước mưa là chính cho mọi sinh hoạt, nước ngầm chỉ dùng trong mùa khô. Nhưng hiện nay nước mặt ở ĐBSCL đang bị ô nhiễm trầm trọng, nên mỗi ngày khoảng 2 triệu mét khối (m3) nước ngầm, hay nhiều hơn, được bơm hút để dùng trong sinh hoạt, trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi, gây ra những hậu quả trầm trọng: sạt lở bờ biển, bờ sông và nhiều nơi ngập sâu với tần suất và cường độ ngày càng tăng. Những kết quả nghiên cứu và khảo sát của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường (TN&MT) cho thấy, trong khi mực nước biển dâng cao do BĐKH chỉ khoảng 3mm/năm, thì mức độ sụt lún của toàn vùng ĐBSCL gây ra bởi khai thác nước ngầm là 10-13mm/năm và tốc độ sụt lún riêng của TP Cần Thơ trong khoảng thời gian 2005-2017 là 43,5mm/năm. Huyện Cờ Đỏ, hai khu công nghiệp Trà Nóc và Thốt Nốt là những địa điểm bơm hút nước ngầm nhiều nhất ở TP Cần Thơ. RFI: Tình trạng sụt lún này gây ra những tác động gì đến vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhất là đến đời sống của người dân Cần Thơ? TS Huỳnh Long Vân: Ngoài việc gây ra ngập nước, sụt lún còn ảnh hưởng đến các công trình xây cất, nhà ở của người dân và rất dễ được nhận ra, như nứt tường, cơ sở nghiêng ngả, đường phố phải tráng thêm nhiều lớp nhựa để nâng cao, khiến cho nhà cửa dọc theo hai bên đường thấp hơn mặt lộ và bị ngập nước lúc triều cường đạt đỉnh. Theo những tính toán của Ngân Hàng Thế Giới, tình trạng ngập nước theo mùa của phân nửa TP Cần Thơ trong nhiều ngày, gây thiệt hại khoảng 11% (650 đôla/gia đình/năm) mức thu nhập trung bình của mỗi hộ gia đình. Nếu các hoạt động khai thác nước ngầm tiếp tục theo kịch bản kinh doanh như hiện nay, thì đến năm 2100, phần lớn TP Cần Thơ có thể mất toàn bộ độ cao so với mặt biển. RFI: Các chính quyền địa phương cho đến nay đã thi hành những biện pháp nào để kiểm soát khai thác nước ngầm và hạn chế sụt lún như vậy? TS Huỳnh Long Vân: Trước những hậu quả nghiêm trọng của khai thác nước ngậm thiếu kiểm soát, chính phủ đã ban hành Nghị định 167/2018/ND-CP quy định việc khai thác nước dưới đất ở các vùng chứa nước ngọt thuộc lãnh thổ của nước CHXHCNVN. Ý thức rõ tầm quan trọng của việc thực hiện nghiêm túc Nghị định 167, Sở Tài Nguyên & Môi Trường (TN&MT) TP Cần Thơ đang thực hiện các kế hoạch kiểm soát và khoanh vùng để hạn chế khai thác nước ngầm. Cụ thể, họ quy định khai thác nước ngầm từ 10m3-3.000m3/ngày phải được Ủy Ban Nhân Dân (UBND) thành phố cấp phép, trên 3.000m3/ngày, như ở khu công nghiệp Trà Nóc và Thốt Nốt, cần được Bộ TN&MT cấp phép (Phải chăng đây là một động thái nhằm chối bỏ một phần trách nhiệm của TP Cần Thơ trong việc kiểm soát và hạn chế khai thác nước ngầm?). Đồng thời, họ đề nghị UBND thành phố thu tiền cấp phép khai thác nước ngầm. Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn TP Cần Thơ chọn 4 nơi làm thí điểm chuyển đổi từ khai thác nước ngầm sang nước mặt và bố trí các trạm quan trắc theo dõi diễn biến nguồn nước ngầm. Ngoài ra, TP Cần Thơ còn tăng cường hợp tác quốc tế, như tham gia dự án “Quản trị sụt lún đất và quản lý nước ngầm tại khu vực ÐBSCL”, do nhóm nghiên cứu của Ðại Sứ Quán Hà Lan tài trợ và hợp tác với Ðại Học Cần Thơ thực hiện. Dự án bắt đầu từ tháng 1/2020 kéo dài 15 tháng và chọn Cần Thơ và Kiên Giang, Bến Tre và Sóc Trăng là 4 địa điểm nghiên cứu điển hình của dự án. Dựa trên các kinh nghiệm và bài học rút ra từ 4 địa phương này, nhóm nghiên cứu sẽ xây dựng các giải pháp quản lý và lộ trình cho quản lý khai thác nước ngầm và sụt lún đất ở ÐBSCL và riêng cho TP Cần Thơ. RFI: Nhưng theo ông, những giải pháp mà thành phố này đang thi hành liệu có thể mang lại hiệu quả mong muốn? Liệu chúng ta có thể cấm tuyệt đối việc khai thác nước ngầm ở Cần Thơ để ngăn chận tình trạng sụt lún? TS Huỳnh Long Vân: Trong khi ĐBSCL chưa có được hệ thống cung cấp đầy đủ nhu cầu nước sạch, thì việc ngăn cấm tuyệt đối khai thác nước ngầm là điều không khả thi. Qua những kinh nghiệm và nhận định của các chuyên gia nghiên cứu về những tác động tiêu cực của khai thác nước ngầm như P. Minderhoud, G. Erkens, L. Erban, thì giảm khai thác nước ngầm ở ĐBSCL 50% so với hiện nay cũng không chận đứng được, mà chỉ làm giảm mức độ sụt lún. Vì thế, chúng ta không nên quá lạc quan về những giải pháp mà TP Cần Thơ đang áp dụng và vội tin rằng sẽ quản trị được sụt lún và Cần Thơ sẽ không còn bị ngập nước. Ngoài ra, cũng không nên quá trông đợi vào dự án nghiên cứu của nhóm Hà Lan như một chiếc đũa thần, mà phải đề ra một giải pháp căn cơ để ứng phó với những thách thức gây ra bởi khai thác nước ngầm thiếu kiểm soát. RFI : Theo ông thì trong khi chờ đợi có một hệ thống cung cấp đủ nước sạch toàn vùng ĐBSCL, chính quyền của thành phố Cần Thơ nói riêng và toàn vùng ĐBSCL phải thi hành ngay những giải pháp nào để tình trạng sụt lún không tiếp diễn? TS Huỳnh Long Vân: Ngoài việc kiểm soát và hạn chế khai thác nước ngầm, giới hữu trách ở Cần Thơ và ĐBSCL trước hết cần giải thích để thay đổi nhận thức của người sử dụng nước ngầm, theo hướng nước ngầm là “tài nguyên chiến lược”, nên không thể sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất hằng ngày, mà cần phải tồn trữ để sử dụng trong những trường hợp hạn hán như năm 2016, hay hạn hán trong tương lai ở ĐBSCL gây ra bởi BĐKH Ngoài ra, cần cung cấp cho người sử dụng nước ngầm những thông tin về những tác hại khác gây ra bởi khai thác nước ngầm quá mức, ngoài sụt lún nền đất: Bơm hút quá mức nước ngầm khiến cho nguốn nước ngầm bị nhiễm mặn, nền đất bị mặn lây, ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ nước, chất dinh dưỡng và năng suất của cây trồng và gián tiếp ảnh hưởng đến thu nhập của người dân Thói quen bơm hút nước, hết ở tầng nông (tầng trấm tích Holocene) rồi xuống đến tầng sâu (tầng trầm tích Pleistocene) về lâu về dài sẽ làm nguồn nước ngầm bị nhiễm Arsenic rò rỉ từ tầng nông. Nước ngầm nhiễm Arsenic có hại cho sức khỏe con người và vật nuôi. Trong giai đoạn chuyển tiếp, trước khi xây dựng được môt hệ thống cung cấp đầy đủ nước sạch cho toàn vùng ĐBSCL, các chính quyền địa phương cần phải tiết kiệm nguồn nước, ví dụ như bằng cách xây dựng phương án dự trữ nước mưa (triển khai từ những kinh nghiệm của Bến Tre đào các ao mương trữ nước ngọt để dùng trong mùa khô). Cần tiết kiệm nước trong tưới trồng (trồng rau cải, hoa màu trong nhà kính nơi độ ẩm được kiểm soát và duy trì; ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt v.v…) Cần nghiên cứu kỹ thuật bổ cập nhân tạo nước ngầm, như trước đây ở Hoa Kỳ từng có 6 dự án: (Water Factory 21, Orange County, California; Montebello Forebay, California; Phoenix, Arizona; El Paso, Texas; Long Island, New York; Orlando, Florida). Đặc biệt là dự án Dan của Do Thái, đã được sử dụng trong suốt 20 năm qua và không gây ô nhiễm nguồn nước ngầm Cũng cần nghiên cứu những kỹ thuật tái tạo nguồn nước đã được dùng qua để sau đó dùng tưới trồng cây kiểng, sân cỏ, trong công nghệ giặt ủi, vệ sinh hay trong những dịch vụ công nghệ không liên quan đến sức khỏe của con người (như CRC Technologies của Hoa Kỳ, những kỹ thuật hiện được dùng ở Australia và Nambia v.v…) Chấm dứt hẳn tình trạng sụt lún ở Cần Thơ và ĐBSCL chỉ có thể đạt được khi ĐBSCL có được hệ thống cung cấp đầy đủ nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất. Vì thế giới hữu trách trung ương và địa phương cần phối hợp tiến hành càng sớm càng tốt kế hoạch cấp nước sạch cho toàn vùng ĐBSCL. Kế hoạch này cần được xây dựng dựa vào nguồn nước mặt lấy từ sông Tiền và sông Hậu và chỉ cho phép sử dụng nước ngầm tại những vùng xa không có nguồn nước mặt. Đặc biệt, ở vùng ven biển nên ứng dụng công nghệ Nano và RO để xây dựng những nhà máy biến chế nước mặn thành nước ngọt. Nếu vì lý do nào đó mà kế hoạch cung cấp nước sạch không thể thực hiện được, và để TP Cần Thơ và các đô thị khác ở ĐBSCL khỏi bị ngập nước theo mùa, thì có lẽ cần phải nghĩ đến giải pháp từ bỏ hẳn trồng lúa vụ 3, tháo gỡ các đê bao ở vùng nông thôn và ngược lại xây dựng các bờ kè, con đê, để bao bọc khép kín các khu dân cư đông đúc. Kiểm soát-hạn chế khai thác nước ngầm, tiết kiệm lượng nước sử dụng và xây dựng hệ thống cung cấp nước sạch đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng là những việc làm và kế hoạch cần được triển khai khẩn trương và đồng bộ trong tiến trình thoạt tiên làm giảm dần sụt lún trước khi hoàn toàn chận đứng. Là người dân sinh ra và lớn lên ở Cần Thơ, cá nhân tôi thành tâm mong mõi TP Cần Thơ được phát triển bền vững, sớm trở thành một đô thị văn minh, nơi đây một số sinh hoạt và dịch vụ thiết yếu cho đời sống con người không còn bị gián đoạn, giao thông không tắc nghẽn và người dân không phải bì bõm trong biển nước để lo cho miếng cơm manh áo trong những ngày mà phân nữa diện tích của thành phố bị ngập nước.
Hơn 200 tầu vỏ sắt Trung Quốc “kết bè tránh gió bão” trong suốt một tháng (từ khoảng 07/03 đến khoảng giữa tháng 04/2021) ở Đá Ba Đầu (Whitsun Reef), trong lãnh hải đảo Sinh Tồn Đông, thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông. Hà Nội yêu cầu Trung Quốc chấm dứt vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Manila lên án “sự hiện diện bầy đàn và hăm dọa” của lực lượng “dân quân biển” Trung Quốc với khẳng định Đá Ba Đầu nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (ZEE) của Philippines. Washington liên tục tuyên bố ủng hộ Manila, khẳng định sẽ áp dụng hiệp ước phòng thủ chung trong trường hợp Philippines bị tấn công vũ trang ở Biển Đông. Từ ngày 04/04/2021, đội tầu sân bay Theodore Roosevelt CSG và đội tầu đổ bộ Makin Island ARG đã có mặt ở Biển Đông để “luyện tập năng lực chiến thuật và thể hiện các nỗ lực tận tụy không ngừng cho an ninh và thịnh vượng ở Ấn Độ-Thái Bình Dương”. Theo trang USNI News ngày 08/04, vào thời điểm này, 44 tầu dân quân biển Trung Quốc vẫn neo đậu gần Đá Ba Đầu. Cùng lúc với đội tầu Trung Quốc vẫn “trú gió bão” ở Đá Ba Đầu, ngoại trưởng Vương Nghị tiếp riêng lẻ bốn đồng nhiệm Singapore, Indonesia, Malaysia và Philippines ở tỉnh Phúc Kiến từ ngày 31/03 đến 02/04. Theo trang Global Times ngày 05/04, các cuộc họp này truyền đi “một thông điệp rõ ràng (của Bắc Kinh), đặc biệt là khi các thế lực nước ngoài, dưới sự chỉ hy của Hoa Kỳ, đang cố đào sâu hố ngăn cách giữa ASEAN với Trung Quốc bằng cách cổ vũ cho chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương và liên minh Bộ Tứ - QUAD để chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc”. Ngoài Mỹ, nhiều cường quốc khác như Nhật Bản, Anh, Úc và Canada cũng phản đối đội tầu dân quân biển của Trung Quốc neo đậu ở Đá Ba Đầu, cũng như những yêu sách của Bắc Kinh ở Biển Đông. Nhờ sự ủng hộ này, Việt Nam và Philippines nói riêng, hai nước nhận có chủ quyền ở Đá Ba Đầu, và những nước trong vùng nói chung có tranh chấp với Trung Quốc, có lẽ sẽ bớt “đơn lẻ” đối đầu với Bắc Kinh, theo nhận định của nhà nghiên cứu Antoine Bondaz, chuyên gia về Đông Á tại Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược Pháp (Fondation pour la Recherche stratégique, FRS), khi trả lời RFI Tiếng Việt ngày 07/04/2021. ***** RFI : Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị lần lượt tiếp bốn đồng nhiệm Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines từ ngày 31/03 đến ngày 02/04 ở tỉnh Phúc Kiến (Fujian). Các cuộc họp song phương đó diễn ra trong bối cảnh nào ? Tại sao lại là bốn nước này ? Antoine Bondaz : Trước hết cần nhấn mạnh đến một điểm vô cùng quan trọng, đó là hoạt động năng nổ thực sự của Trung Quốc đối với các nước Đông Nam Á. Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) là một đối tác không thể thiếu của Bắc Kinh. Thứ nhất, năm 2020, ASEAN trở thành đối thương mại hàng đầu của Trung Quốc, với hơn 730 tỉ đô la trao đổi thương mại, vượt qua cả Liên Hiệp Châu Âu. Còn Trung Quốc luôn là đối tác thương mại hàng đầu của ASEAN. Thứ hai, năm 2021 đánh dấu 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và ASEAN. Vì thế, hai bên có mối quan hệ đối tác thương mại và chính trị rất quan trọng. Cuối cùng, về mặt ngoại giao, khi cạnh tranh giữa Bắc Kinh và Washington không ngừng gia tăng, thì tầm quan trọng của khu vực Đông Nam Á cũng không ngừng tăng theo. Trong bối cảnh đó, ngành ngoại giao Trung Quốc trở nên vô cùng năng động ở Đông Nam Á từ cuối năm 2020 và đầu năm 2021. Vào tháng 11/2020, ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị công du Cam Bốt, Malaysia, Lào, Thái Lan và Singapore. Sau đó, vào tháng 01/2021, ông Vương Nghị đến Miến Điện, Indonesia, Brunei và Philippines, có nghĩa là bao trùm hết các quốc gia thành viên ASEAN, trừ Việt Nam. Nhưng trước đó, ông Vương Nghị đã gặp đồng nhiệm Việt Nam vào tháng 08/2020. Chúng ta có thể thấy Trung Quốc tìm cách gây ảnh hưởng khắp Đông Nam Á, tương tác với toàn bộ các nước đối tác. Và việc ông Vương Nghị tiếp ngoại trưởng bốn nước ASEAN ở miền nam Trung Quốc vào đầu tháng 03/2021 cũng nhằm nhấn mạnh đến tầm quan trọng của ASEAN trên phương diện kinh tế, chính trị và ngoại giao. RFI : Như ông nói Việt Nam không nằm trong hai vòng công du Đông Nam Á của ông Vương Nghị vào cuối năm 2020 và đầu năm 2021, tiếp theo là vòng làm việc tại tỉnh Phúc Kiến, thì vẫn có cảm tưởng như Việt Nam bị “cô lập” ? Antoine Bondaz : Tôi nghĩ có lẽ có nhiều giả thuyết. Có thể là phía ngành ngoại giao Trung Quốc cho rằng đã có cuộc gặp vào tháng 08/2020, cách đây chưa đầy 1 năm, như vậy Việt Nam được đặt ngang hàng với tất cả các nước ASEAN khác. Tiếp theo, trên phương diện mang tính chính trị hơn và cần phải nhấn mạnh đây chỉ là một giả thuyết, có thể chính sách của Trung Quốc là “cô lập” Việt Nam đủ để Việt Nam có thể nhượng bộ, kể cả về mặt chính trị qua việc bớt công khai chỉ trích, ví dụ như chính sách của Bắc Kinh về Biển Đông. Chúng ta biết rõ là căng thẳng giữa Trung Quốc với Việt Nam và với Phillipines rất lớn và không ngừng gia tăng, thêm vào đó là Hà Nội tỏ ra quyết liệt hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình trong những năm gần đây. Việt Nam hiện cũng được phần nào đó hưởng lợi từ cuộc khủng hoảng kinh tế và dịch tễ khi ngày càng trở thành một đối tác khu vực không thể thiếu với các nhà đầu tư nước ngoài, ví dụ trường hợp của Nhật Bản, Hàn Quốc. Mục tiêu của Trung Quốc có thể là tránh để Việt Nam gia tăng hợp tác với các nước khác. RFI : Cùng lúc với các cuộc gặp giữa ngoại trưởng Vương Nghị và bốn đồng nhiệm Đông Nam Á, thì hơn 200 tầu cá Trung Quốc vẫn neo đậu ở Đá Ba Đầu ở quần đảo Trường Sa. Phải giải thích như nào về hành động hung hăng trên thực địa và đường lối ngoại giao của Bắc Kinh ? Antoine Bondaz : Đường lối của Bắc Kinh khá nhất quán và không đổi trong những năm gần đây. Có nghĩa là Bắc Kinh có những yêu sách tối đa, bao trùm gần hết Biển Đông trong đường 9 đoạn, chứ không chỉ ở một số đảo nhỏ. Thứ hai, ngay từ đầu Trung Quốc theo đuổi chiến lược thay đổi nguyên trạng trong khu vực bằng cách từng bước thông qua những chính sách mới nhằm thay đổi nguyên trạng, như bồi đắp đảo nhân tạo và quân sự hóa các đảo mà nước này chiếm đóng ở Biển Đông. Thứ ba là Bắc Kinh thường xuyên sử dụng những nhân tố mới, được gọi là lực lượng “dân quân biển” trực thuộc Quân Ủy Trung Ương, nhưng lại không phải là Hải Quân hay Hải Cảnh. Biện pháp này giúp Trung Quốc có được sự linh hoạt nhất định trong cách tiếp cận chính trị và trên hết là để quản lý được mức độ leo thang. Đây chính là mục đích của Trung Quốc. Sử dụng lực lượng dân quân biển, đó là buộc các nước khác hoặc không làm gì hết, hoặc phải bước vào leo thang căng thẳng. Qua đó, Trung Quốc có thể cân nhắc hoặc tìm cách để biến Việt Nam hoặc Philippines thành các bên điều lực lượng cảnh sát biển hay Hải Quân đến trước và như vậy phải chịu trách nhiệm về leo thang chính trị, thậm chí là leo thang quân sự. Một lần nữa, đừng quên rằng mục tiêu của Trung Quốc là thay đổi nguyên trạng bằng cách thực hiện các chiến dịch có thể được mô tả là “chiến tranh hỗn hợp”. Có nghĩa là tiến hành các chiến dịch làm thay đổi nguyên trạng nhưng lại không bao giờ phạm đến ngưỡng có thể gây ra xung đột. Đối với các nước trong vùng, rất khó có thể đơn phương đối đầu, dù là Việt Nam hay Philippines. Chiến lược được Manila áp dụng gần đây là “quốc tế hóa” tình hình, truyền đạt rộng rãi nhất có thể bằng cách xác định những gì đang xảy ra, tố cáo những gì Trung Quốc đang làm và mời Hoa Kỳ, cũng như những nước khác, lên tiếng về tình hình trong khu vực. Chính điều này giải thích cho những phát biểu vô cùng khắc nghiệt từ phía đại sứ Trung Quốc ở Philippines cũng như từ ngành ngoại giao Trung Quốc. Bắc Kinh chỉ trích gay gắt Manila và cho rằng Philippines không có tính chính đáng để lên án hành động của Trung Quốc. Bắc Kinh tìm cách áp đặt ý đồ của họ lên các nước trong vùng, nhất là Philippines, quốc gia có ít phương tiện để một mình đương đầu với Trung Quốc. RFI : ASEAN luôn kêu gọi các bên không gây căng thẳng trong khu vực và sẽ không chọn bên. Nhưng trước sức ép ngày càng quá đáng của Bắc Kinh ở Biển Đông, phải chăng sự hiện diện của Mỹ lại giúp giữ thế cân bằng ? Antoine Bondaz : Điều rõ ràng hiện nay là thiếu sự cân bằng đáng kể trong quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam và giữa Trung Quốc với Philippines chừng nào Hà Nội và Manila còn chưa thể một mình đương đầu với Bắc Kinh. Do đó, một mặt, cần phải tăng cường khả năng phòng thủ riêng, như chúng ta thấy Việt Nam hiện đại hóa quân đội, trong đó có lực lượng hải quân. Nhưng với nhịp độ hiện đại hóa đó, cũng không có khả năng chống lại được sức mạnh của quân đội Trung Quốc và cũng sẽ không thể đối mặt trong tương lai. Vì thế mục tiêu là dựa vào và cố gắng có được sự ủng hộ của quốc tế, như về mặt an ninh. Chúng ta thấy là nhiều nước trong vùng, như Indonesia đang xích lại gần với Nhật Bản để hiện đại hóa quân đội, Việt Nam cũng làm tương tự với nhiều nước khác. Và nhất là về thực tế chính trị và ngoại giao, Việt Nam hay Philippines không tìm cách liên kết với Hoa Kỳ, thì hai nước này nên tìm cách có được sự ủng hộ của Washington và trong tương lai là của Liên Hiệp Châu Âu để bớt bị cô lập và có thể đối mặt với sức ép của Trung Quốc. Nhưng cần nhắc lại rằng chênh lệch giữa hai bên là rất lớn. Yếu tố mới có thể có lợi cho những nước này chính là nỗ lực phối hợp chưa từng có được chính quyền Joe Biden triển khai, kể cả ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. Chúng ta thấy trong những tuần qua có cuộc họp thượng đỉnh của Bộ Tứ - QUAD (gồm Mỹ, Úc, Nhật Bản, Ấn Độ), tiếp theo là chuyến công du Nhật Bản và Hàn Quốc của ngoại trưởng Mỹ Anthony Blinken. Đây mới chỉ là lần thứ ba, kể từ năm 1945, chuyến công du nước ngoài đầu tiên của một ngoại trưởng Mỹ là tại châu Á, trước đó là ngoại trưởng David Dean Rusk vào năm 1961 và ngoại trưởng Hillary Clinton vào năm 2009. Chúng ta cũng thấy là các nước Bộ Tứ đã nhất trí sản xuất hơn 1 tỉ liều vac-xin ngừa Covid-19 từ nay đến cuối năm 2022 cho các nước Đông Nam Á, và rộng hơn là cho vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương. Điều này cho thấy Hoa Kỳ nỗ lực rất nhiều trong việc điều phối và việc này có thể có lợi cho Việt Nam, Phillipines dù rằng cả Hà Nội lẫn Manila sẽ không tham gia Bộ Tứ. RFI : Như vậy là tình hình tại Biển Đông và Đông Nam Á sẽ tiếp tục nóng trong thời gian tới ? Antoine Bondaz : Theo tôi, điều quan trọng là phải hiểu rằng Đông Nam Á là một khu vực ngày càng mang tính chiến lược. Khi căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc còn tiếp tục tăng, thì vùng Đông Nam Á vẫn có tầm quan trọng ngày càng lớn. Như đã nói ở trên, ASEAN là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, điều này ít người biết đến. Ngoài ra, Đông Nam Á còn nằm ở vị trí trung tâm trong khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương nơi tập hợp các thách thức an ninh truyền thống hoặc phi truyền thống, trong khi nhiều quốc gia lại đang phát triển chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương, trong đó có nhiều nước châu Âu. Khu vực Đông Nam Á cũng như các nước thành viên ASEAN nhận thấy tầm quan trọng của họ được các nước châu Âu tái khẳng định. Vì thế đây là một cơ hội chưa từng có đối với các nước như Indonesia, Việt Nam để xích lại gần với các quốc gia châu Âu. Đúng là Việt Nam hay Indonesia đã xích lại gần với một số nước trong vùng, như Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc hoặc với Đài Loan mà mỗi đối tác này có ít nhất một chính sách dành cho Đông Nam Á trong những năm gần đây. Tuy nhiên, Liên Hiệp Châu Âu sẽ làm nhiều hơn và như vậy ASEAN, cũng như các nước thành viên, sẽ có vai trò còn quan trọng hơn trước đây. Từ đó, ASEAN không những có thể tranh thủ được sự cạnh tranh Mỹ-Trung mà còn được hưởng lợi từ mối quan tâm ngày càng lớn của các nước châu Âu đối với khu vực này. Một lần nữa, tôi nghĩ rằng Indonesia và Việt Nam chẳng hạn, sẽ được hưởng lợi rất nhiều. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Antoine Bondaz, chuyên gia về Đông Á tại Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược Pháp (Fondation pour la Recherche stratégique, FRS).
Hơn 200 doanh nghiệp Việt Nam đang đầu tư, kinh doanh tại Miến Điện, trong đó có những tập đoàn lớn như Viettel, Vietnam Airlines, Hoàng Anh Gia Lai, ngân hàng BIDV... với tổng đầu tư đạt hơn 2,2 tỉ đô la theo số liệu năm 2019. Miến Điện là một thị trường mới, đầy tiềm năng, nên các nhà đầu tư cần phải « bền chí » để gặt hái thành quả trong tương lai, theo phát biểu của phó thủ tướng Vương Đình Huệ trong chuyến công du tháng 06/2019. Sự kiện quân đội Miến Điện đảo chính ngày 01/02/2021 khiến Việt Nam cũng như thế giới bất ngờ, vì ngày 04/01, nhân ngày Lễ Độc Lập của Miến Điện, chủ tịch nước kiêm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vẫn gửi lời chúc mừng lần lượt đến tổng thống Win Myint và cố vấn Nhà nước Aung San Suu Kyi. Như nhiều nước khác đầu tư vào Miến Điện, Việt Nam sẽ phản đối việc dùng bạo lực để giải quyết khủng hoảng chính trị, vì cần phải bảo vệ hoạt động kinh tế, cũng như những dự án đầu tư tại nước này. Trên đây là nhận định của nhà nghiên cứu Claire Trần, giám đốc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đương đại (Irasec) tại Bangkok, Thái Lan, khi trả lời RFI Tiếng Việt ngày 27/02/2021. ***** RFI : Việt Nam là một trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Miến Điện. Các doanh nghiệp Việt Nam có mối quan hệ như nào với tập đoàn quân sự và chính phủ dân sự Miến Điện ? Claire Trần : Tôi muốn đặt mối quan hệ của các doanh nghiệp Việt Nam với tập đoàn quân sự và chính phủ dân sự trong khuôn khổ mối quan hệ song phương. Từ nhiều năm nay, Việt Nam được coi là một mô hình cải cách, phát triển và hội nhập quốc tế cho Miến Điện. Hà Nội đã thúc đẩy mối quan hệ với Naypyidaw, nhất là từ chuyến thăm Miến Điện của ông Nguyễn Phú Trọng vào tháng 08/2017. Vào thời điểm đó, một thỏa thuận Đối tác hợp tác toàn diện đã được ký kết. Mục tiêu là gia tăng trao đổi thương mại và đầu tư của Việt Nam vào Miến Điện. Hai năm sau, vào tháng 04/2019, bà Aung San Suu Kyi đã có chuyến công du chính thức đầu tiên đến Việt Nam. Bà đã gặp chủ tịch Hội Hữu nghị Việt Nam-Miến Điện và đại diện các doanh nghiệp hoạt động ở Miến Điện. Tôi nêu một ví dụ cho thấy mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam và tập đoàn quân sự, đó là trường hợp tổng công ty viễn thông Viettel, một nhà đầu tư lớn vào Miến Điện, kiểm soát 49% cổ phần của Mytel. Đây là một công ty liên doanh giữa quân đội Miến Điện và quân đội Việt Nam. Mytel là nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động được thành lập gần đây nhất, vào năm 2017 và hiện có 10 triệu thuê bao tại quốc gia có 54 triệu dân này. Dường như cuộc gọi đầu tiên kết nối mạng Mytel là cuộc gọi giữa thống tướng Aung Min Hlaing, tổng tư lệnh quân đội Miến Điện, với bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Ngô Xuân Lịch. Điều này cho thấy tầm quan trọng của mối quan hệ giữa quân đội hai nước. Ngoài ra, Viettel được cho là cung cấp cho quân đội Miến Điện nhiều nguồn tài chính ngoài ngân sách, nên họ bị tố cáo tham nhũng. Trước đây, đã từng có nhiều chiến dịch tẩy chay Mytel. Nhà cung cấp viễn thông này còn bị cáo buộc là chuyển thông tin và dữ liệu cá nhân của khách hàng cho quân đội Miến Điện. Tóm lại, mối quan hệ diễn ra tốt đẹp, thậm chí còn là rất tốt, đối với một số công ty. Có thể nói là Việt Nam tỏ ra thận trọng về cuộc đảo chính ở Miến Điện, nhưng sẽ thử mọi cách trong nội bộ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để không cô lập tập đoàn quân sự, cũng như để có thể tiếp tục hoạt động kinh doanh và tránh để Miến Điện ngả thêm vào vòng tay của Trung Quốc. RFI : Các doanh nghiệp Việt Nam chiếm thị phần như thế nào tại Miến Điện ? Claire Trần : Trao đổi thương mại giữa Miến Điện và Việt Nam đạt 943 triệu đô la vào năm 2019, so với tổng đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam là 2,2 tỉ đô la năm 2020. Phía Việt Nam tự nhận là nhà đầu tư lớn thứ 7 vào Miến Điện, nhưng theo nhiều nguồn khác ở Miến Điện thì Việt Nam là nhà đầu tư thứ 10, ngang hàng với Ấn Độ. Trong số các nhà đầu tư thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á vào Miến Điện, có Singapore, Thái Lan, Malaysia, Brunei và Việt Nam. Có thể thấy Miến Điện là một nước nhận được rất nhiều đầu tư từ các nước ASEAN. Ngoài ra, tôi cũng muốn nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của Miến Điện đối với Việt Nam, đặc biệt là trong dự án Hành lang Kinh tế Đông Tây, sẽ góp phần thúc đẩy trao đổi giữa hai nước. Mục tiêu của dự án này là xây dựng một trục đường quan trọng, dài 1.700 km nối Việt Nam với Miến Điện đi qua Lào và Thái Lan để tiếp cận thị trường Ấn Độ. Hành lang được dự kiến xuất phát từ Đà Nẵng đến Mawlamyine (bang Môn), và sẽ được kéo dài thêm đến Rangun. Con đường thương mại này còn nhắm đến mục đích giúp khu vực giảm bớt phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, gia tăng trao đổi thương mại giữa các nước ASEAN. Hành lang kinh tế này được ca ngợi tại Hội chợ Quốc tế Thương mại, Du lịch và Đầu tư Hành lang Kinh tế Đông Tây (Hội chợ EWEC), được tổ chức ở Đà Nẵng vào tháng 11/2020, vì Đà Nẵng muốn trở thành một trung tâm quan trọng trên quy mô quốc tế, cũng như trong khối ASEAN và vùng Thái Bình Dương. RFI : Nếu phương Tây trừng phạt tập đoàn quân sự, điều này sẽ tác động như thế nào đến các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các doanh nghiệp nước ngoài nói chung hoạt động ở Miến Điện ? Claire Trần : Dĩ nhiên là các doanh nghiệp nước ngoài bị tác động trực tiếp vì cú đảo chính và do tình hình sẽ rất khó khăn trong năm nay (2021) sau khi vừa trải qua một năm lao đao với cuộc khủng hoảng virus corona. Vì thế các nhà đầu tư sẽ phải hết sức chú ý và có nguy cơ mất niềm tin. Giả sử căng thẳng nổ ra, những doanh nghiệp đó có lẽ sẽ rời Miến Điện sang nơi khác. Ngoài ra, cơ quan xếp hạng tín dụng Fitch đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những rủi ro này. Cơ quan này đã giảm tăng trưởng của Miến Điện xuống còn 2% cho năm tài khoá 2020-2021 và 2021-2022, so với mức thẩm định trước đó là 5,6% và 6%. Các dự án cơ sở hạ tầng và đầu tư trực tiếp của nước ngoài có nguy cơ bị trễ hoặc bị hủy, nếu các biện pháp trừng phạt được áp dụng. Tôi cũng muốn nói thêm đến tầm quan trọng của nền kinh tế kỹ thuật số trong sự bùng nổ kinh tế của Miến Điện. Các biện pháp trấn áp bằng cách cắt internet và điện thoại di động đe dọa đến nền kinh tế kỹ thuật số. Sẽ không thể làm việc được hoặc sẽ làm việc không hiệu quả với việc hạn chế hoặc ngăn chặn truy cập internet. Do đó, tổng công ty Viettel sẽ bị tác động trực tiếp vì biện pháp này. Về những biện pháp trừng phạt nói chung, chính quyền của tổng thống Mỹ Joe Biden đã ban hành những biện pháp trừng phạt đầu tiên, nhưng mới chỉ hạn chế ở giới tướng lĩnh. Thực ra chính quyền Biden hiểu rõ nguy cơ tập đoàn quân sự Miến Điện ngả về phía Bắc Kinh nếu áp dụng trừng phạt trong khi nền kinh tế của quốc gia Đông Nam Á này đã phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Năm 2019, trao đổi thương mại với Trung Quốc chiếm đến 30% tổng trao đổi của Miến Điện. Do đó, có lẽ các biện pháp trừng phạt của một số nước phương Tây và của Nhật Bản hiện chỉ hạn chế ở giới quân sự và đề xuất một giải pháp thay thế để hạn chế hậu quả nền kinh tế Miến Điện chuyển hướng sang Trung Quốc. RFI : Như nhiều nước châu Á khác, Việt Nam, thông qua phát biểu của đại sứ Lê Thị Tuyết Mai tại Liên Hiệp Quốc ngày 15/02, đã bày tỏ mong muốn Miến Điện sẽ sớm ổn định tình hình. Vậy đâu là triển vọng cho Miến Điện ? ASEAN đóng vai trò như thế nào trong cuộc khủng hoảng này ? Claire Trần : Tôi nghĩ là hiện giờ Việt Nam tỏ ra thận trọng nếu nhìn vào mối quan hệ chặt chẽ giữa quân đội Việt Nam và quân đội Miến Điện. Nhưng chắc chắn là Hà Nội phản đối căng thẳng và ủng hộ đối thoại. Việt Nam sẽ làm hết khả năng có thể trong khối ASEAN để có thể đi theo hướng này. Chúng ta nên nhớ là ngay sau cú đảo chính, ASEAN đã thể hiện là sẽ không bảo vệ phe quân đội Miến Điện một cách rõ ràng. ASEAN muốn hành động trong vai trò trung gian hòa giải, để xử lý nhanh chóng cuộc khủng hoảng này, trước khi các cuộc đối đầu giữa người biểu tình và lực lượng an ninh trở nên xấu đi. Như tôi nói ở trên là ASEAN không muốn cô lập tập đoàn quân sự để tránh phe quân đội ngả vào tay Trung Quốc. Hai ngoại trưởng Indonesia Retno Marsudi và Thái Lan Don Pramudwinai đã gặp nhau ở Bangkok vào thứ Tư 24/02 và ngoài dự kiến, người phát ngôn cơ quan ngoại giao của tập đoàn quân sự Miến Điện, ông Wunna Maung Lwin, cũng đã đến thảo luận về diễn biến tình hình ở Miến Điện. Một cuộc họp đặc biệt của ngoại trưởng các nước ASEAN được dự trù vào tuần đầu tiên của tháng Ba, do Jakarta khởi xướng, để phác một lộ trình trở lại tình hình trước đây. Tuy nhiên, phía người biểu tình Miến Điện không chấp nhận lời hứa của tập đoàn quân sự là tổ chức bầu cử lại. Họ yêu cầu tái lập chính phủ hợp pháp của bà Aung San Suu Kyi. ASEAN không muốn xảy ra bạo lực, mà giải quyết vấn đề một cách ôn hòa thông qua đối thoại và hợp tác. Thậm chí, ASEAN sẵn sàng điều tra về những cáo buộc gian lận bầu cử trong đợt tuyển cử tháng 11/2020. Có nghĩa là ASEAN hợp tác với tập đoàn quân sự về vấn đề này. Tóm lại, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á phản đối các biện pháp trừng phạt, vì người dân Miến Điện sẽ bị tác động đầu tiên. Dường như theo báo Nhật Bản Nikkei, nếu tập đoàn quân sự Miến Điện vẫn khăng khăng, ASEAN có thể sẽ buộc Miến Điện tạm rời Hiệp hội. Hiến chương ASEAN không cho phép loại một thành viên, nhưng đó là một khả năng được nêu lên. Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp cuối cùng và sẽ là một sự kiện chưa từng có trong lịch sử của ASEAN. Nhưng tôi nghĩ rằng tập đoàn quân sự Miến Điện và ASEAN cần nhanh chóng hành động để đạt được một thỏa hiệp và đàm phán để tránh trừng phạt của quốc tế vì biện pháp này có nguy cơ hủy hoại những thành tựu kinh tế của Miến Điện trong những năm vừa qua. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Claire Trần, giám đốc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đương đại (Irasec), tại Bangkok, Thái Lan.
Luật Hải cảnh mới của Trung Quốc cho phép lực lượng Cảnh sát biển của nước này bắn vào tầu thuyền nước ngoài trong trường hợp tranh chấp, xua đuổi thậm chí là bắt giữ tầu nước ngoài trong vùng biển mà Bắc Kinh tự nhận chủ quyền, như tại biển Hoa Đông và Biển Đông. Đây là hai vùng biển có vị trí chiến lược và giầu nguồn tài nguyên mà Trung Quốc cần để duy trì phát triển kinh tế. Với Luật Hải cảnh có hiệu lực từ ngày 01/02/2021, từ một lực lượng có nhiệm vụ trị an, tìm kiếm cứu nạn, lực lượng Cảnh sát biển giờ trở thành một công cụ hăm dọa của quân đội Trung Quốc, ép các nước láng giềng tuân thủ quy tắc do họ đặt ra nếu không muốn lĩnh hậu quả. Nói một cách khác, Trung Quốc dùng vũ lực để khẳng định là “ông chủ duy nhất” ở các vùng biển có tranh chấp. “Hiện trạng mới” này sẽ được ngấm ngầm duy trì với Luật Hải cảnh mới, được một nhà nghiên cứu Philippines ví như "quả bom nổ chậm". Đây là “một mối nguy hiểm cho các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc”, theo nhận định của nhà nghiên cứu Pháp Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (ENS de Lyon), khi trả lời RFI Tiếng Việt. ***** RFI : Luật Hải cảnh Trung Quốc cho phép Cảnh sát biển Trung Quốc sử dụng vũ lực để bảo vệ chủ quyền. Tại sao luật này được thông qua và có những điểm gì gây lo lắng ? Laurent Gédéon : Luật này khá mới, được thông qua ngày 22/01/2021 và có hiệu lực từ ngày 01/02/2021. Về mặt chính thức, Bắc Kinh nói rằng Luật Hải cảnh nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh và các quyền hàng hải của Trung Quốc. Theo quan điểm của bộ Ngoại Giao Trung Quốc, luật hoàn toàn phù hợp với các công ước và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, nếu nhìn vào những gì được nêu trong 84 điều, được chia thành 11 chương, và cho dù luật cố định nghĩa chính xác bộ khung pháp lý can thiệp của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc, thì vấn đề đặt ra là luật này vẫn không nêu rõ đâu là những vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Thực vậy, người ta có thể thấy không gian này được nhắc trong điều 3. Điều này ghi : Luật được áp dụng đối với các hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển và ở phía trong và trên vùng biển nằm trong quyền tài phán của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Nhưng khu vực này lại không được nêu cụ thể. Điều cần chú ý, đó là qua luật này, Trung Quốc gia tăng áp lực pháp lý, mà trên thực tế đã được đẩy mạnh với việc thông qua một số luật, trong đó có “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp” năm 1992. Mục đích của những luật này là củng cố tính hợp pháp trên thực địa những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, kể cả ở Biển Đông, bởi vì luật cũng đề cập rõ đến các đảo và đá ngầm. Đây là điều cần lưu ý ! Cụ thể , điều 12 ghi rằng Cảnh sát biển có thể tiến hành tuần tra để bảo vệ các đảo và đá ngầm và quản lý biên giới trên biển. Vẫn điều 12 quy định rằng lực lượng Cảnh sát biển có thể đưa ra những biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh cho các đảo và đá ngầm, cũng như các đảo nhân tạo và các công trình cơ sở hạ tầng. Điều đáng chú ý ở đây là các đảo nhân tạo nằm ở Biển Đông và không nằm trong vùng biển của Trung Quốc. Vì thế, có thể thấy là luật này nhắm đến mục đích tăng tính pháp lý cho sự hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông, làm dày thêm kho tài liệu pháp lý của Trung Quốc về khu vực này và có khả năng dẫn đến thay đổi quyền tài phán liên quan đến Biển Đông được quy định theo luật pháp quốc tế. Chúng ta có thể nghĩ đây là đích ngắm trong trung hạn ẩn sau kế hoạch này. RFI : Lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc được thành lập trên cơ sở tái cơ cấu Tổng cục Hải dương Quốc gia năm 2013, đến năm 2018 được chuyển từ Tổng cục Hải dương sang Cảnh sát vũ trang Nhân dân và hiện được trang bị vũ khí. Đây có phải là một mối nguy hiểm trong vùng không ? Laurent Gédéon : Cảnh sát biển Trung Quốc, từng là một nhánh của Tổng cục Hải dương Quốc gia vào năm 2013, hiện nằm dưới sự quản lý của Quân ủy Trung ương do ông Tập Cận Bình làm chủ tịch. Quy chế của lực lượng này rất mập mờ bởi vì trên thực tế, đây là một lực lượng bán quân sự hơn là một cơ cấu cảnh sát. Nhưng lực lượng này lại không được coi là một phần của Hải Quân Trung Quốc. Và điều này cho phép lực lượng hải cảnh tiến hành những chiến dịch mà nếu do các tầu chiến đảm nhiệm thì có nguy cơ dẫn đến các cuộc đối đầu vũ trang. Vì vậy việc sử dụng lực lượng này mang mục đích chính trị. Trung Quốc để quy chế mập mờ, nước đôi của lực lượng Cảnh sát biển vì điều đó cho phép Bắc Kinh giữ được thế mạnh trên thực địa mà vẫn tránh được các mâu thuẫn. Từ những yếu tố trên, tôi cho rằng Cảnh sát biển Trung Quốc là một mối nguy hiểm tiềm tàng cho các nước láng giềng vì nó cho phép Trung Quốc chiếm ưu thế trên thực địa mà vẫn có thể tránh được đối đầu trực diện với các nước trong vùng. RFI : Như ông nói, quy chế của Hải cảnh Trung Quốc là mập mờ, nước đôi. Lực lượng này còn có khả năng nào khác nhờ luật mới này ? Laurent Gédéon : Trên nguyên tắc, Hải cảnh Trung Quốc có nhiệm vụ áp dụng luật của Nhà nước trong các vùng biển thuộc quyền tài phán của họ. Nhưng phải chú ý rằng với luật mới này, Hải cảnh Trung Quốc có thêm chức năng địa-chính trị mới nhờ vào quyền hạn được trao cho lực lượng này về mặt pháp lý, trong đó có việc được phép can thiệp chống tầu thuyền nước ngoài và sử dụng vũ lực nếu cần thiết. Cần phải nhắc lại rằng đạo luật này được thông qua trong bối cảnh chung mà chúng ta thấy là ngày càng có nhiều sự cố giữa hải quân Trung Quốc và hải quân nước ngoài, trong đó có cả Hoa Kỳ, cũng như trong bối cảnh rộng hơn, đó là căng thẳng Mỹ-Trung thêm gia tăng mà đỉnh điểm hiện nay là vấn đề Đài Loan. Những điều khoản liên quan đến tầu thuyền nước ngoài gồm có điều 7, 20 và 21, quy định rằng Cảnh sát biển Trung Quốc có quyền tiến hành các biện pháp cảnh cáo, kiểm tra để bắt giữ tầu quân sự nước ngoài. Họ có quyền bắt các tầu nước ngoài rời khỏi những khu vực hoặc vùng biển có tranh chấp. Họ cũng có quyền sử dụng vũ lực. Việc này được nêu trong các điều 22, 47 và 48. Theo ba điều này, Hải cảnh Trung Quốc được phép sử dụng vũ khí cầm tay, vũ khí được phóng từ tầu và hoặc từ trên không. Việc sử dụng vũ khí được trang bị trên tầu, hoặc phóng từ trên không cho thấy khả năng sử dụng vũ khí hạng nặng hơn, có tính chất hủy diệt hơn. Qua đó có thể thấy là nhiều loại vũ khí không được trang bị cho Hải cảnh Trung Quốc nhưng lực lượng này lại có thể dùng đến để đối phó hiệu quả hơn với tầu thuyền nước ngoài, trong đó có lực lượng hải quân Mỹ. RFI : Cụ thể hiện tại lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc được trang bị như thế nào ? Laurent Gédéon : Cảnh sát biển Trung Quốc là lực lượng Hải cảnh lớn nhất thế giới và có nhiều tầu nhất, từ 400 đến 500 tầu. Hải cảnh Trung Quốc cũng có những con tầu mạnh nhất thế giới trong đội tầu kiểu này. Ví dụ, vào năm 2017 hai con tầu lớn nhất của Hải cảnh thế giới đã được bổ sung vào lực lượng này. Đó là những con tầu có lượng giãn nước tới 12.000 tấn và có tốc độ rất cao. Người ta cũng nhận thấy là đội tầu Hải cảnh Trung Quốc còn có nhiều tầu thực ra được chuyển từ Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc sang. Có nghĩa là đó là những con tầu chiến được tái bổ sung vào lực lượng Hải cảnh với chức năng được mở rộng, như chúng ta đề cập ở trên, và một số điểm trong phần nhiệm vụ của lực lượng này thực ra phải thuộc về hải quân. Do đó, chúng ta có thể thấy là chức năng của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc vừa mơ hồ, vừa nhập nhằng, đặc biệt theo những chi tiết trên, thì đó là một đội tầu mang tính quân sự nhiều hơn. RFI : Việt Nam và ngư dân Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trong vùng, bị lực lượng bán quân sự này đe dọa như thế nào ? Laurent Gédéon : Một trong những khó khăn cho Việt Nam là ở chỗ thiếu sự rõ ràng trong hành động của Trung Quốc và tính mập mờ trong cách diễn giải về không gian có thể có liên quan đến việc áp dụng Luật Hải cảnh mới này. Vấn đề ở chỗ, tình huống không rõ ràng thì sẽ tăng nguy cơ tính toán sai lầm và như vậy sẽ tăng nguy cơ xảy ra sự cố. Ngoài ra còn có một vấn đề khác liên quan đến nội dung trong điều 3 về việc áp dụng luật này ở trong và bên trên vùng biển. Điều này ngụ ý rằng khi làm nhiệm vụ, Hải cảnh Trung Quốc chú ý đến cả không phận phía trên vùng biển. Đây là điểm gây lo ngại về khả năng Bắc Kinh gấp rút thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông. Như vậy, Hải cảnh Trung Quốc có thêm nhiệm vụ áp dụng luật trong khu vực này. Việt Nam cũng có lý do để lo lắng về nội dung được ghi trong điều 12, theo đó Cảnh sát biển Trung Quốc giám sát, kiểm tra các hoạt động bất kể đó là hoạt động nuôi, khai thác hải sản hay đánh bắt. Dĩ nhiên, đây là điểm gây lo ngại vì chúng ta biết rằng một phần sự cố giữa Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến hoạt động của các tầu cá. Việt Nam hiện phải đối phó với sức ép từ Trung Quốc. Hà Nội có thể phản ứng qua đường ngoại giao bởi vì nhiều nước khác đã lên tiếng phản đối Luật Hải cảnh của Trung Quốc, như Nhật Bản, Philippines, Malaysia. Việt Nam có thể thử theo lập trường của những nước này và cùng đưa ra một lập trường chính thức chung, có thể gây được chú ý trên thế giới và mang tính răn đe đối với Trung Quốc. Nhưng song song đó, Việt Nam cũng có thể hợp tác với Trung Quốc bằng cách đề xuất tổ chức các cuộc diễn tập chung giữa lực lượng Hải cảnh hai nước theo hướng quản lý và dàn xếp các sự cố hoặc các trường hợp bất ngờ. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (ENS de Lyon), Pháp.
Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên Hiệp Châu Âu EVFTA đã chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/08 và như vậy hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu kể từ nay sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi hoặc thuế suất 0%, nếu đáp ứng các tiêu chuẩn của châu Âu. Để giúp Việt Nam thực hiện tốt hiệp định này, các luật sư Pháp và châu Âu trong Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu Việt Nam ( Association pour la Coopération Juridique Europe Vietnam – ACJEV ) đang tham gia tư vấn cho các trường đại học và các luật gia ở Việt Nam. Các sáng lập viên của Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu Việt Nam là những chuyên gia kỳ cựu về luật châu Âu và luật quốc tế, và hội thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo ở Pháp, châu Âu và Việt Nam về các vấn đề luật pháp trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tạp chí hôm nay, chúng tôi xin mời quý vị nghe bài phỏng vấn luật sư Mỹ Hạnh Ngô Folliot, chủ tịch Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu Việt Nam: RFI: Xin chào luật sư Mỹ Hạnh Ngô Folliot, trước hết luật sư có thể giới thiệu sơ qua về hoạt động của Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu Việt Nam? LS Mỹ Hạnh Ngô Folliot: Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu Việt Nam từ nhiều năm nay đã làm việc với Việt Nam bằng cách tổ chức các hội thảo với các trường đại học Việt Nam, vì tôi nghĩ là phải có giáo dục căn bản cho công dân, thì họ mới hiểu và có thể áp dụng diệp định này một cách hiệu quả. Chúng tôi về Việt Nam từ nhiều năm nay, ít nhất là từ năm 2013, năm nào cũng tổ chức hội thảo từ Hà Nội đến Quy Nhơn, Huế, với các trường đại học Huế, Sài Gòn, Huế, Quy Nhơn, tổ chức các chương trình đào tạo. Các cơ quan chính phủ cũng đã quan tâm đến nội dung các cuộc hội thảo này. Hiệp định EVFTA có rất nhiều tham vọng, trong đó có việc bảo vệ môi trường, thành ra từ nhiều năm nay chúng tôi đã làm việc với Việt Nam để giúp Việt Nam đạt được những tiêu chuẩn của châu Âu. RFI: Trong khuôn khổ hiệp định EVFTA thì hàng xuất khẩu của Việt Nam phải đáp ứng rất nhiều tiêu chuẩn gắt gao của châu Âu. Hội Hợp tác Pháp lý Châu Âu Việt Nam đã có những chương trình tư vấn gì để bảo đảm cho chất lượng của hàng hóa Việt Nam sang châu Âu? LS Mỹ Hạnh Ngô Folliot: Châu Âu là một mô hình về chất lượng cao. Các sản phẩm của Việt Nam nếu muốn nhập vào châu Âu thì phải đạt được các tiêu chuẩn của sản phẩm châu Âu, tức là nguồn gốc xuất xứ của các sản phẩm đó phải được xác định đúng, thành phần của các sản phẩm cũng vậy. Những người làm các sản phẩm ấy phải được hưởng đầy đủ các điều kiện làm việc đàng hoàng, không được cưỡng bức lao động, không được để trẻ em dưới 16 tuổi làm việc. Ngoài ra các sản phẩm ấy phải tôn trọng môi trường. Ví dụ điển hình là nước mắm Phú Quốc. Nếu nước mắm xuất sang châu Âu mà viết là nước mắm Phú Quốc, thì phải theo một tiêu chuẩn rõ ràng. Không thể nói là nước mắm Phú Quốc, nếu nước mắm đó không được làm ở Phú Quốc và không được làm theo tiêu chuẩn của Phú Quốc. Một ví dụ nữa là chocolat. Nếu chỉ làm với 10% cacao thì không thể được gọi là chocolat, mà chỉ được gọi là bonbon au chocolat (kẹo chocolat). RFI: Như luật sư có nói ở trên, trong việc sản xuất các sản phẩm không được có chuyện cưỡng bức lao động, không được bắt trẻ em làm việc. Như vậy làm sao phía châu Âu có thể kiểm tra, giám sát được những điều kiện đó? LS Mỹ Hạnh Ngô Folliot: Việt Nam đã cải thiện rất nhiều, cho nên Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện thể chế. Với hiệp định này, Việt Nam phải có luật về quyền của người lao động như bên châu Âu. Ở Pháp, luật về quyền của người lao động rất là quan trọng, rất là khắt khe. Mình không có quyền bắt một người làm quá một số giờ trong một tuần, phải được hưởng mức lương tối thiểu (SMIC), phải có một số ngày nghỉ hè rõ ràng, và phải được quyền về hưu. Khi các trường đại học và các giảng viên, luật sư ở Việt Nam nhờ đến chúng tôi để tư vấn, chúng tôi so sánh luật của Việt Nam với luật với luật ở Pháp hay ở Đức, và chúng tôi bổ sung những gì còn thiếu. Việt Nam có vài năm để thích ứng với hiệp định đó. Tất cả những chủ đề là do Việt Nam yêu cầu và chúng tôi tổ chức hội thảo để đáp ứng các yêu cầu đó. RFI: Gần đây nhất Hội đã tổ chức hội thảo về các chủ đề gì? LS Mỹ Hạnh Ngô Folliot: Chúng tôi đã tổ chức hội thảo về môi trường ở Hà Nội. Lúc ấy đại sứ Bertrand Lortholary có đến tham dự. Mỗi lần chúng tôi tổ chức ở Việt Nam đều thông qua đại sứ quán và bộ Ngoại Giao Pháp, cho nên đại sứ Pháp tại Việt Nam luôn luôn được mời đến và phát biểu, và hoàn toàn ủng hộ các chương trình hội thảo của chúng tôi. Tất cả đều là quan trọng hết, chẳng hạn như luật về người tiêu dùng, luật bảo vệ người lao động, luật bảo vệ các giao dịch, vì tất cả đều dính líu với nhau. Vấn đề môi trường rất là quan trọng, vì Việt Nam đã ký hiệp định khí hậu Paris, thành ra Việt Nam rất quan tâm, nhất là vì Việt Nam có bờ biển dài, cho nên đây là một trong mười quốc gia bị tác động rất nhiều về biến đổi khí hậu. RFI: Năm nay do có dịch Covid-19 nên các trao đổi của Hội với phía Việt Nam cũng tạm ngưng, nhưng nếu tình hình diễn tiến tốt, năm sau Hội có những dự án nào khác để tiếp tục mở rộng hoạt động ở Việt Nam? LS Mỹ Hạnh Ngô Folliot: Chắc chắn hội thảo đầu tiên khi chúng tôi về được Việt Nam sẽ là về hiệp định thương mại này, vì từ đây đến đó, thứ nhất là Việt Nam đã có một số kinh nghiệm về việc áp dụng hiệp định và sẽ cần chúng tôi tư vấn. Thứ hai là Việt Nam có 10 năm để thích ứng với hiệp định thương mại tự do với châu Âu, thành thử trong mấy năm tới, tất cả các vấn đề đều liên quan đến hiệp định này. Trong khi chờ về Việt Nam, tôi cũng có dự án tổ chức ở Paris một hội thảo về hiệp định này tại trụ sở hội Société de Législation Comparée (vì tôi là chủ tịch ủy ban Việt Nam của hội này), về vấn đề an toàn thực phẩm, vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường. Tôi nghĩ là trên thế giới ai cũng thích Việt Nam, thích sản phẩm Việt Nam, nhưng chắc chắn là có những sản phẩm chưa đạt mức của châu Âu. Châu Âu có danh tiếng về chất lượng. Chẳng hạn như khi tôi về Hà Nội năm ngoái, tôi thấy trong một tiệm có ghi EU Quality. Nếu Việt Nam đạt được chất lượng của châu Âu, thì sẽ dễ sản xuất hơn, sản xuất nhiều hơn và thu hút nhiều hơn đầu tư nước ngoài, như vậy thì Việt Nam sẽ không chỉ lệ thuộc vào khối ASEAN. RFI: Ngoài tư vấn về EVFTA, Hội của luật sư có những hoạt động gì về đào tạo? LS Mỹ Hạnh Ngô Folliot: Tháng nào chúng tôi cũng có các khóa đào tạo cho sinh viên, luật sư và đào tạo cả giảng viên nữa, vì chúng tôi nghĩ là nền giáo dục bắt đầu từ căn bản và nếu mọi người đều được giáo dục như nhau, thì chắc chắn là mọi người đều ý thức được là cần tăng chất lượng, cần có sự tin tưởng cao hơn của công dân ở Việt Nam. RFI: Việc đào tạo có gặp trở ngại vì dịch Covid-19? LS Mỹ Hạnh Ngô Folliot: Không, thay vì về Việt Nam và gặp mặt mọi người, chúng tôi cũng đã làm vài visioconférence với một số đại học. Nhưng chắc chắn là nếu gặp nhau thì sẽ dễ dàng hơn, và dễ phát triển các mối quan hệ hơn là qua vissioconférence.
Hiệp định thương mại tự do Liên Hiệp Châu Âu – Việt Nam EVFTA, chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/08/2020, đang mở ra cho gạo Việt Nam một thị trường xuất khẩu mới, cụ thể là LHCA dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm. Như vậy là sắp tới đây, gạo Việt Nam sẽ xuất hiện ngày càng nhiều trong các siêu thị ở châu Âu. Nhưng để có thể xuất khẩu sang châu Âu và từ đó đi sang các thị trường khác, gạo Việt Nam phải đáp ứng những tiêu chuẩn gắt gao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, nhất là nông dân trồng lúa ở Việt Nam phải dần dần từ bỏ việc sử dụng các loại phân hóa học để chuyển sang sử dụng phân hữu cơ, phân vi sinh, để cho gạo Việt Nam “sạch” hơn. Trong phần tạp chí hôm nay, RFI trao đổi về vấn đề này với giáo sư Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Đại học Nam Cần Thơ. RFI: Kính thưa giáo sư Võ Tòng Xuân. Thưa ông, nhờ hiệp định EVFTA mà gạo của Việt Nam sẽ xuất khẩu nhiều hơn sang châu Âu, nhưng phía Liên Hiệp Châu Âu EU đặt ra những tiêu chuẩn gì cụ thể cho gạo nhập từ Việt Nam? GS Võ Tòng Xuân: Việt Nam sẽ có một ưu đãi rất lớn của phía EU, tức là sẽ xuất khẩu nông sản sang châu Âu với thuế suất 0%, nhưng không phải vì thế mà chúng ta không có sự chuẩn bị cho kỹ càng. Họ biết là nông dân Việt Nam vốn thích năng suất cao, nên phải dùng rất nhiều hóa chất trong phân bón, cũng như thuốc bảo vệ thực vật. Cũng vì thế mà nông sản Việt Nam không thể nào đạt được yêu cầu của EU. Họ rất gắt gao về mặt các hóa chất độc hại hoặc là các hóa chất không được phía EU chấp thuận. Đồng thời, phía EU cũng đòi hỏi là mọi sản phẩm từ Việt Nam phải có chứng chỉ xuất xứ từ Việt Nam, không thể nào có một sản phẩm xuất xứ không rõ ràng. Vì lý do đó mà tôi đã làm việc với rất nhiều hợp tác xã và các doanh nghiệp có ý muốn tham gia xuất khẩu nông sản sang châu Âu. Tôi đã khuyến cáo bà con nông dân là chúng ta không thể nào sản xuất với năng suất quá cao như trước đây bằng cách bón phân hóa học. RFI: Thưa giáo sư, như vậy cụ thể thì việc sử dụng quá nhiều phân hóa học có tác hại như thế nào đối với cây lúa và đất trồng lúa? GS Võ Tòng Xuân: Nhất là khi bà con sử dụng phân urê thôi, một cách không cân đối với các loại dưỡng chất khác trong đất, thì sẽ làm cho đất càng ngày càng chay đi. Chỉ có urê mà thôi thì các chất khác ban đầu lấy ra từ trong đất nhưng từ từ sẽ không còn để mà lấy ra nữa, từ đó đất sẽ rất là nghèo nàn, về các dưỡng chất cho cây trồng, về các vi sinh vật giúp cho rễ cây có thể chống cự được các loại vi sinh vật phá hoại rễ, đồng thời đất cũng không còn những vi sinh vật có ích mà rễ hút lên thân cây để cây có thể chống cự các sâu, bệnh. Nông dân mình bây giờ đã hiểu điều đó, nhưng do họ không biết doanh nghiệp nào sẽ xuất khẩu sang bên châu Âu, nên vẫn sản xuất theo kiểu của họ, tức là sản xuất cho năng suất cao, bằng cách bón phân hóa học. RFI: Như ông có nói ở trên thì cho tới nay nông dân Việt Nam ưa dùng phân hóa học để lúa có được năng suất cao, bây giờ muốn họ chuyển sang dùng phân hữu cơ, phân vi sinh, thì chắc là năng suất sẽ thấp hơn. Nhưng phải làm sao để bảo đảm cho họ là gạo “sạch” đó sẽ có nơi tiêu thụ ở châu Âu và họ sẽ có lợi khi từ bỏ phân hóa học? GS Võ Tòng Xuân: Muốn làm được như thế thì phải có doanh nghiệp đứng ra hợp tác, ký hợp đồng với bà con nông dân, để bao tiêu các sản phẩm của bà con nông dân, để họ có thể, thứ nhất là có được xuất xứ, nơi trồng ra nguyên liệu để làm sản phẩm xuất sang châu Âu. Ở đồng bằng sông Cửu Long cũng có nhiều nhà xuất khẩu như công ty Trung An ở Thốt Nốt hoặc công ty Cỏ May ở Cao Lãnh, Đồng Tháp, đã đi trước, hợp đồng với bà con nông dân, xuống tận vùng mà họ hợp đồng để phổ biến về quy trình sản xuất gạo sạch, có chất lượng và an toàn. Vì vậy mà từ ngày 1/8, công ty Trung An đã xuất khẩu và đạt được tiêu chuẩn khắt khe mà EU đòi hỏi. Tôi thấy rõ ràng là bà con nông dân bây giờ biết thị trường châu Âu là rất khó khăn và họ phải sản xuất như thế nào mà không có sử dụng các hoá chất mà bên người mua không muốn. Hiện nay, phân hữu cơ và phân vi sinh đang được phổ biến ở Việt Nam. Những nông dân đi đầu, những hợp tác xã đi đầu, cùng với doanh nghiệp của họ, đã làm ra những hạt gạo rất là sạch, ngon, thơm. Tôi rất mừng là vừa qua công ty Trung An đã xuất khẩu được gạo rất là tốt. Tôi nghĩ là sắp tới đây các doanh nghiệp khác cũng sẽ bắt chước làm như Trung An. Nói cách khác, nông dân hiện nay đã thức tỉnh. Nhờ xuất khẩu sang châu Âu, được thị trường rất khó tính này chấp nhận, thì việc mở thị trường sang những nước khác cũng sẽ dễ dàng hơn nhiều. Đây là một lợi thế mà Việt Nam hiện nay đang cố gắng thực hiện. Chính phủ Việt Nam, cụ thể là bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, đã đưa ra hướng đi mà tất cả nông dân đồng bằng sông Cửu Long cần phải theo : bớt lượng hóa chất đưa vào đồng ruộng của mình, đặc biệt là phân urê, tăng cường sử dụng các phân hữu cơ và phân vi sinh. Những nông dân đi đầu trong việc sử dụng các chế phẩm mới, thích hợp với thời đại ngày nay, cũng thấy rõ ràng là giảm lượng phân hóa học, thậm chí tới 70%, thì vẫn có một năng suất tương đối là có thể chấp nhận được, mà giá thành sản xuất lại thấp hơn, vì khi mà vùng rễ của cây lúa nhận đủ các vi sinh vật trong hợp chất vi sinh và phân hữu cơ, thì cây lúa sẽ mạnh hơn, hấp thụ lên thân cây lúa những loại vi sinh vật giúp cho cây lúa được miễn nhiễm với các loại sâu bệnh. Tôi chắc chắn là chỉ trong vòng một năm nữa thì hầu hết nông dân sẽ phải chuyển sang phương pháp sử dụng phân bón vi sinh, phân bón hữu cơ. Như vậy là nhờ có hiệp ước với EU mà nông dân và doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới tư duy, sửa lại cung cách sản xuất, theo một quy trình an toàn và chất lượng. RFI: Thưa giáo sư, như vậy hiệp định EVFTA là cánh cửa mở ra cho gạo Việt Nam sang châu Âu, nhưng cũng sẽ giúp gạo Việt Nam, một khi được nâng cao chất lượng, đi sang các thị trường khác? GS Võ Tòng Xuân: Thị trường châu Âu tuy là khó khăn như thế, nhưng dự kiến chỉ nhập 80.000 tấn gạo/năm mà thôi. Trong khi đó, các hệ thống siêu thị của Mỹ có thể tiêu thụ đến 550.000 tấn gạo thơm/năm. Hiện nay, giống gạo Việt Nam được quốc tế vinh danh là giống gạo ngon nhất, nhờ nó vừa thơm, vừa ngon, khi được trồng trong điều kiện vi sinh và hữu cơ, không sử dụng nhiều hóa chất, thì chất lượng rất là ngon, khác xa gạo sử dụng hóa chất. Tôi rất tin tưởng là sau khi đạt được chỉ tiêu với châu Âu, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ mở mạnh sang Mỹ cũng như sang Trung Đông và châu Phi, để làm cho ngành sản xuất và chế biến gạo của Việt Nam có thể tham gia cung cấp cho các nước trên thế giới gạo vừa ngon, vừa có giá thành thấp hơn gạo của Thái Lan. Chúng ta làm được như thế là vì gạo ngon của Việt Nam khác với gạo ngon của Thái Lan ở chỗ Thái Lan chỉ trồng một vụ/năm, còn Việt Nam nếu cần có thể trồng 3 vụ/năm. Nhưng chúng tôi cũng khuyến cáo các doanh nghiệp và nông dân là chỉ nên trồng hai vụ, còn một vụ đất bỏ không thì chúng ta nuôi cá hoặc là nuôi tôm.
Như bao ngành nghề khác, du lịch Việt Nam bị tác động mạnh vì dịch virus corona (Covid-19). Hy vọng hết dịch bỗng bị dội gáo nước lạnh với nhiều trường hợp nhiễm mới trong cộng đồng từ ngày 06/03/2020 cùng với số người được yêu cầu cách ly trải trên nhiều tỉnh. Ngành du lịch có nguy cơ bị tác động trực tiếp từ ba yếu tố chính : khủng hoảng thiên tai, sự bất ổn chính trị hay đại dịch y tế toàn cầu. Nếu ngành du lịch bị tác động, hàng loạt lĩnh vực liên quan khác cũng bị thiệt hại theo, như hàng không, nhà hàng, khách sạn, dịch vụ địa phương…, do du lịch là một lĩnh vực kinh tế tổng hợp của nhiều ngành, theo nhận định với trang Forbes Việt Nam (10/02/2020) của ông Nguyễn Quốc Kỳ, tổng giám đốc công ty lữ hành Vietravel. Cụ thể, ngành du lịch hiện bị tác động như thế nào ? Đâu là hướng tái cơ cấu sau dịch Covid-19 ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Toản, giám đốc công ty lữ hành Images Travel, chuyên về « Điểm đến Đông Dương và Việt Nam », tại thành phố Hồ Chí Minh. ***** RFI : Từ khi xuất hiện virus corona tại Việt Nam, đã có nhiều trường hợp tours bị hủy chưa ? Nguyễn Ngọc Toản : Trong nước, đương nhiên là hủy vì Nhà nước siết chặt các hoạt động dành cho khách Việt Nam, tức là những hoạt động vui chơi lễ hội. Có nghĩa là du lịch, đi thăm quan thì được, nhưng mà vui chơi, lễ hội, tụ tập đông người thì không được. Trong khi đó, du lịch trong nước, thường là du lịch đi theo kiểu công ty, vui chơi, tổ chức vui chơi hội họp nhiều hơn là đi du lịch vì người Việt biết Việt Nam rồi. Vì các hoạt động chính bị hủy hết luôn, nên các công ty làm thị trường khách nội địa, coi như là không hoạt động luôn. Từ tháng Hai, sau Tết, là ngưng luôn. Về khách nước ngoài, tùy theo thị trường. Ngay sau Tết, thị trường đầu tiên là khách Trung Quốc coi như là « đứt » vì Nhà nước siết chặt các biện pháp đối với khách Trung Quốc, chỉ mở cửa biên giới cho hàng hóa, chứ không nhận du khách, bắt đầu là từ tỉnh Hồ Bắc, sau đó là toàn bộ Trung Quốc. Nếu mà nhận, thì chỉ theo kiểu nhận rồi cho vào cách ly 14 ngày. Đối với khách du lịch thì không ai chấp nhận cách ly 14 ngày nên đương nhiên là hủy toàn bộ. Đầu tiên Trung Quốc, tiếp theo thì tùy vào diễn biến của virus corona đến đâu thì Nhà nước cấm đến đó và thị trường cứ theo như thế. Sau đó là tới Nhật Bản, tự nhiên người ta sợ, người ta không dám đi, tại vì lúc đó Việt Nam có nhiều ca nên người Nhật Bản sợ không vào. Bây giờ đến Hàn Quốc và Iran, thì ngược lại, nghĩa là Việt Nam không nhận nữa. Cho nên các thị trường cứ nối đuôi nhau như vậy đó ! RFI : Công ty Images Travel chuyên về « Điểm đến Đông Dương và Việt Nam ». Vậy công ty gặp những khó khăn gì trong giai đoạn này ? Nguyễn Ngọc Toản : Tháng Hai, tức là tháng ngay sau Tết, thì bình thường. Công ty chỉ bị hủy một chút thôi, dưới 5%. Tháng Ba thì hủy khoảng hơn 10%, chắc khoảng tầm 15-20%, khó tính chính xác vì người ta hủy, rồi người ta chuyển đi tháng khác chẳng hạn, hoặc là người ta chưa đặt, thì không đặt nữa, nên cũng không biết là có tính vào hay không, nhưng cứ tính là giảm. Tháng Tư thì căng hơn. Từ tháng Ba, sau khi Việt Nam thực hiện cách ly (xã Sơn Lôi), bên Pháp người ta sợ, người ta cứ tưởng mình giống như Vũ Hán, nên người ta không dám đặt tháng Tư. Hoặc là nếu họ đặt tháng Tư, thì họ cũng hủy luôn, chắc hủy tầm 30%. RFI : Đối với những tours vẫn được duy trì, công ty Images Travel, cũng như các công ty lữ hành khác, có phải thay đổi lịch trình điểm thăm quan không ? Và có gặp khó khăn trong vấn đề này không ? Công ty đưa ra những biện pháp phòng ngừa như nào đối với khách ? Nguyễn Ngọc Toản : Hoàn toàn không, vì nói chung, trong nước là an toàn. Các nguy cơ bị cách ly hết, ví dụ như xã Sơn Lôi từng bị cách ly. Theo báo chí và thông tin, khi người ta đọc, cứ tưởng là rất nguy hiểm nhưng thực ra, khi cách ly thì an toàn hơn nhiều, các mối nguy không ra ngoài xã hội. Mọi người đi du lịch, không gặp khó khăn gì hết, mà thậm chí còn tốt hơn trước nữa, thăm quan thích hơn vì khách thấy thoải mái hơn, không có khách Trung Quốc. Tháng này (tháng Ba) không có khách Hàn Quốc luôn, còn tuyệt vời hơn, đi chơi như được lại về ngày xưa yên bình. Khách Pháp rất thích như thế ! RFI : Liệu đợt dịch Covid-19 này có là cơ hội để du lịch Việt Nam cơ cấu và đa dạng hóa đối tượng du khách và mở rộng hơn sang các nước khác, thay vì phần đông là du khách Trung Quốc như hiện nay ? Nguyễn Ngọc Toản : Cái này là Nhà nước cũng mong muốn dữ lắm. Các doanh nghiệp cũng muốn dữ lắm. Hôm đi họp ở Sở Du Lịch (thành phố Hồ Chí Minh), các doanh nghiệp thích lắm. Nhưng vấn đề không phải là mình thích thì mình làm được. Ví dụ mình muốn làm khách châu Âu nhưng mà khả năng trong nước, như trong ngành khách sạn, họ không được đào tạo để đón khách Âu. Hoặc là các đường bay hiện nay cũng không có nhiều. Muốn làm khách Âu cũng khó, không phải muốn là làm được. Lúc bắt đầu dịch, mình không nhận được khách Úc. Ngay lập tức, trong nước đã bắt đầu nghĩ đến và tiến hành ngay các phương án lâu dài để thay đổi cơ cấu nguồn khách. Sở Du Lịch đã đề nghị các doanh nghiệp tập trung lo về thay đổi cơ cấu nguồn khách. Nhưng tạm thời chưa nói đến việc làm như thế nào. RFI : Như vừa rồi ông nói, trong tháng Hai, Ba và Tư, số lượng khách hủy tour khá nhiều, vậy sau mùa dịch tầm tháng Năm, tháng Sáu chẳng hạn, và từ giờ đến cuối năm, liệu có thể bù lại một phần nào đó thất thu do thời gian dịch này không ? Nguyễn Ngọc Toản : Đặc thù của dòng khách Âu-Mỹ là mùa hè họ không đi Việt Nam nhiều tại vì bên châu Âu, trời đẹp, họ không cần đi Việt Nam. Cho nên, mùa du lịch đầu năm, tháng Năm cũng đã bị hủy nhiều, nhưng điều đó không quan trọng lắm với doanh nghiệp làm thị trường Âu-Mỹ, vì nếu không có dịch, cũng có rất ít khách. Vấn đề của doanh nghiệp đón khác châu Âu là từ tháng Tám trở đi mới là vấn đề lớn. Có nghĩa là nếu trong vòng hai tháng, bên châu Âu không giải quyết được dịch, để tháng Sáu mà mua tour cuối năm, thì có khi không kịp, vì người Pháp, người Đức hay mua tour rất sớm, có khi mua trước cả 7-8 tháng. Nếu đến tháng Bẩy, châu Âu mới giập được dịch thì tháng Bẩy họ sẽ mua tour cho tháng Một, hoặc là tháng Hai, tháng Ba năm 2021, chứ còn 2020 thì sẽ quá muộn. Ít có khách nào mua tour tầm ba tháng trước. Người châu Âu là như vậy ! Bây giờ, các thị trường khách châu Á là mất trắng. Từ tháng Ba đến cuối năm, các doanh nghiệp có nguy cơ mất 100%. Về phần thị trường khách châu Âu, mất 30% là chắc chắn rồi, còn mất 50% hay 70% thì tùy vào diễn biến sắp tới vào tháng Ba này, vào khả năng giập dịch như thế nào. RFI : Vậy các công ty lữ hành có sáng kiến gì để giúp Nhà nước khôi phục ngành du lịch không ? Nguyễn Ngọc Toản : Về câu hỏi các doanh nghiệp, trong những ngày căng thẳng nhất của châu Âu, có sáng kiến hay ý tưởng gì để phục hồi thị trường, để góp ý với Nhà nước, thì thực ra bây giờ, doanh nghiệp bây giờ không cần thiết phải nói về phát triển nữa. Tức là bây giờ, doanh nghiệp tập trung ủng hộ Nhà nước để giải quyết xong dịch bệnh trong nước để hình ảnh đất nước Việt Nam trở về như trước, nghĩa là hoàn toàn không có dịch bệnh. Đó mới là cách lâu dài nhất, chứ không còn cách nào khác, không còn biện pháp nào gọi là « kích cầu » hay « khuyến mãi ». Bây giờ chỉ còn mỗi tập trung vào ủng hộ mọi chính sách của Nhà nước để giải quyết xong dịch bệnh. ***** Du lịch Việt Nam mất 5 tỷ đô la nếu dịch kéo dài sang quý II Tại Việt Nam, tổng thu từ khách du lịch trong năm 2019 đạt 726 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm 2018, theo trang VnEconomy (30/12/2019). Việt Nam đón ba nguồn khách chính : khách Trung Quốc, khách quốc tế đến châu Á cũng như Đông Nam Á và khách du lịch nội địa. Năm 2019, trong tổng số 18 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam (tăng 16,2% so với năm 2018), đã có hơn 5,8 triệu khách Trung Quốc, chiếm 32%. Do dịch Covid-19, « Nha Trang - Khánh Hòa dự kiến chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do tỷ trọng khách Trung Quốc lớn nhất, chiếm 70% tổng số khách quốc tế năm 2019 », theo nhận định của ông Mauro Gasparotti, giám đốc Savills Hotels châu Á-Thái Bình Dương với Forbes Việt Nam. Tình hình dịch bùng phát tại Trung Quốc, hiện đang lan ra trên khắp thế giới, khiến ngành du lịch Việt Nam khó có thể thực hiện được hy vọng hồi phục trong nửa cuối năm 2020, cũng như mục tiêu phấn đấu đón khoảng 20,5 triệu lượt khách quốc tế trong năm 2020. Theo ước tính của bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, nếu dịch Covid-19 kết thúc trong quý I, ngành lịch có thể sẽ bị thiệt hại khoảng 2,3 tỷ đô la, nhưng nếu dịch kéo dài đến hết quý II, thiệt hại sẽ là 5 tỷ đô la.
Được xem là một trong những thành phố năng động nhất, có sức thu hút cao nhất tại vùng phụ cận Paris, Massy với 50.000 dân là nơi 80 sắc dân dễ dàng chung sống. Từng sống và làm việc tại Việt Nam, thị trưởng thành phố, Nicolas Samsoen giải thích rằng tạo đối thoại giữa các tôn giáo, đẩy mạnh các sinh hoạt trong các lĩnh vực thể thao và văn hóa là chìa khóa giúp chính sách hội nhập dễ thành công. Bốn mươi bảy triệu cử tri Pháp được kêu gọi bầu lại lãnh đạo cấp thành phố. Cuộc bỏ phiếu gồm 2 vòng được tổ chức vào các ngày 15 và 22/3/2020. Trên toàn quốc có 34.979 "communes", bao gồm từ những thành thành phố lớn như Paris, Marseille, Lille... đến các thị trấn nhỏ chừng vài chục ngàn dân hay thâậm chí là những thôn xã có chưa tới 1.000 dân cư. Theo thống kê của bộ Nội Vụ Pháp, trong cuộc bầu cử lần này, có tổng cộng 20.765 danh sách ra tranh cử, với hơn 900.000 ứng cử viên và trong số này sẽ có khoảng 500.000 được bầu vào các hội đồng thành phố, xã hay thôn. Tạp chí của RFI hôm nay đưa thính giả đến Massy, ngoại ô phía nam Paris. Với 50.000 dân cư, bao gồm 80 quốc tịch khác nhau, Massy là một thành phố có cuộc sống êm ả với những sinh hoạt về văn hóa, thể thao phong phú. Đó là điều khiến thị trưởng Nicolas Samsoen rất tự hào về thành phố được mệnh danh là lá phổi kinh tế của tỉnh Essonne, nằm trong khu vực Ile de France bao gồm Paris và các vùng phụ cận. Massy có nhiều lợi thế : Thứ nhất là về hạ tầng cơ sở. Hai nhà ga xe lửa nối liền thành phố này với trung tâm thủ đô Paris, một nhà ga dành cho các tuyến tàu cao tốc đi về các thành phố lớn như Lyon, Rennes hay Nantes. Người dân ở Massy cũng rất hài lòng về hệ thống chuyên chở công cộng với khá nhiều tuyến xe buýt phục vụ các thành phố ở ngoại ô Paris. Trong tương lai không xa Massy sẽ trực tiếp nối vào Paris với hệ thống tàu điện Tramway và metro. Nhờ hệ thống giao thông đa dạng này Massy đã thu hút được nhiều hãng lớn của Pháp và không dưới 2.600 doanh nghiệp tư nhân, đem lại công việc cho 31.000 người. Lợi thế nhứ nhì của thành phố là 160 hecta – tương đương với 17 % diện tích của thành phố, được dành cho không gian cây xanh. Massy có nhiều ao, hồ, công viên cây xanh, và những khu vực dành riêng cho người đi bộ... Về văn hóa, Massy đã có nhà hát Opéra và sắp tới đây một chi nhánh của trung tâm văn hóa Pompidou Paris sẽ được khánh thành tại Massy. Trả lời RFI tiếng Việt, thị trưởng Massy, Nicolas Samsoen trước hết nhắc lại về vai trò của người đứng đầu thành phố, về những khó khăn ông gặp phải trong công việc quản lý Massy thường ngày : Nicolas Samsoen : Vai trò của một ông thị trưởng là bảo đảm trong cuộc sống hàng ngày mọi việc diễn ra suôn sẻ cho dân thành phố hay thị xã mình quản lý. Công tác của chúng tôi là lo từ việc bảo đảm đường phố phải sạch sẽ, rồi cùng với nhà nước, bảo đảm an ninh tại những nơi công cộng. Thành phố có trách nhiệm bảo trì tất cả những con đường, những trục lộ. Chúng tôi cũng phải lo luôn cả các trường học, phải có những sân vận động, trung tâm văn hóa, thư viện, những địa điểm để các hiệp hội tập hợp và sinh hoạt… Mỗi thành phố đều độc lập với nhau và có ngân sách riêng, có chính sách chi tiêu riêng. Ngoài ra, thị trưởng là người có tiếng nói trên những dự án lớn nhằm phát triển thành phố hay xã họ điều hành. Sau cùng ở chức vụ này, ông hay bà thị trưởng là chiếc cầu nối giữa nhà nước với người dân. Họ đại diện cho dân cư trong thị xã đó khi cần có tiếng nói trên những hồ sơ liên quan trực tiếp đến dân cư trong vùng, đồng thời họ phải bảo vệ quyền lợi cho những người này. Khó khăn mà thường ở cương vị thị trưởng chúng tôi phải vượt qua, đó là mỗi quyết định của mình đều phải có hiệu quả. Đó là khó khăn chung của tất cả những ai làm công tác phục vụ cộng đồng. Bên cạnh đó đương nhiên là chúng tôi phải cẩn thận trong việc chi tiêu, bởi vì ở đây là tiền của dân đóng thuế. Điểm thứ ba đòi hỏi ở người đại diện cho thành phố là họ vừa phải biết lắng nghe ý kiến của những người khác, vừa phải biết lấy quyết định khi cần. Chỉ nghe thôi mà không làm gì hết thì thành phố không thể vận hành được. Trái lại, độc quyền quyết đoán mà không nghe những tiếng nói đối lập thì không thể có hiệu quả trong việc quản lý một thành phố. RFI : Thưa ông, trong bối cảnh dịch Covid-19 đang hoành hành, thành phố có thể làm được những gì ? Hội đồng thành phố Massy có những biện pháp cụ thể nào nhằm ngăn ngừa dịch bệnh lây lan ? Nicolas Samsoen : Đây chính là một điểm tiêu biểu cho thấy phải có một sự phối hợp, không thể mạnh ai nấy làm. Để chống dịch một cách có hiệu quả, không thể nào 36.000 thành phố lớn và nhỏ trên toàn quốc đưa ra 36.000 giải pháp khác nhau. Chúng ta cần thi hành nghiêm chỉnh những chỉ thị của chính phủ, truyền tải thông tin đến từng nhà. Có nghĩa là không cho phép các cuộc tập hợp quá 1.000 người, khuyên dân chúng thường xuyên rửa tay, tránh những nơi đông người… Thực ra tại Massy, những sự kiện quy tụ hơn 1000 người rất hiếm, ngoại trừ các trận bóng bầu dục Rugby. Để đối phó với virus corona, thành phố Massy thi hành đúng những quy định của chính phủ ban hành, và chỉ dừng lại ở đó. RFI: Như trong phần giới thiệu mà chúng tôi vừa đề cập đến, Massy là thành phố đông người nhập cư, có đến 80 quốc tịch khác nhau chung sống. Vậy làm thế nào để thành phố tạo được một bầu không khí và không gian sống hài hoà giữa rất nhiều sắc tộc, văn hóa khác nhau ? Nicolas Samsoen : Chưa bao giờ đây là việc dễ làm. Tôi từng sống hai năm tại Việt Nam và hiểu thế nào là tâm trạng của một người luôn cảm thấy xa lạ với nơi mình đang cư ngụ. Cho nên khi trở thành thị trưởng, tôi cố gắng vượt lên trên những khó khăn. Đúng là tại Massy có nhiều khác biệt về nguồn gốc văn hóa. Có những người ngoại quốc họ chỉ đến đây sống một thời gian rồi lại trở về nguyên quán, ngược lại một số khác thì họ định cư lâu dài ở Massy. Nhưng tôi tin vào đối thoại, vào việc mình tìm cách để mọi người cùng chung sống với nhau một cách hài hoà. Thành phố của chúng tôi bằng mọi giá tránh lập ra những khu giành cho người giàu, hay những khu cho người nghèo ở. Thế rồi trong thời gian ở Việt Nam, tôi đã học được một bài học quý giá. Hồi đó có một cuộc nghiên cứu ở quy mô quốc tế cho thấy là người Việt Nam lạc quan bậc nhất trên thế giới. Ngược lại người Pháp lại rất bi quan. Tôi nghĩ rằng sự lạc quan đó cho phép chúng ta làm được nhiều việc lắm và đó là một phương tiện rất tốt để chúng ta cùng chung sống với nhau. Trong tiểu thuyết Le Prophète – Nhà Tiên Tri của tác giả Khalil Gibran có câu : tình yêu không phải là khi hai kẻ bốn mắt nhìn nhau. Yêu có nghĩa là ta cùng nhìn về một hướng. Giữa các sắc tộc rất khác nhau cũng vậy thôi. Bất luận màu da và văn hóa, chúng ta cùng chia sẻ những dự án chung, cùng đồng hành để xây dựng một tương lai thì tất nhiên mọi việc sẽ dễ dàng hơn RFI : Ông có thể nêu một vài thí dụ cụ thể về cách chung sống hài hòa đó ở Massy ? Nicolas Samsoen : Có ba thí dụ cụ thể : thứ nhất là các sinh hoạt của nhiều hiệp hội từ thể thao đến văn hóa. Đó là những điểm hội ngộ để giao lưu, đối thoại. Thứ hai là thành phố khuyến khích dân cư ở các khu phố làm quen với nhau, nói chuyện với nhau, tổ chức ăn uống với nhau…, qua đó kết nối những liên hệ gần gũi với nhau hơn. Điểm thứ ba là thành phố tuy rằng tuân thủ đúng quy định của một nhà nước thế tục nhưng điều đó không cấm cản chúng tôi khuyến khích các tôn giáo đối thoại với nhau. Ở đây tôi muốn nhấn mạnh rằng các hiệp hội đóng một vai trò hết sức quan trọng. Đó có thể là một câu lạc bộ thể thao, một hội hoạt động về văn hóa, hội của những người muốn tìm hiểu về lịch sử của thành phố Massy hay những hội của người ngoại quốc họ làm một công tác có liên hệ với quê quán của họ … Tất cả những hiệp hội này khiến đời sống văn hóa và cộng đồng trở nên phong phú rất nhiều. RFI : Chủ Nhật này, diễn ra cuộc bầu cử địa phương ở vòng 1. Cử tri Pháp được kêu gọi bầu lại thị trưởng, xã trưởng và thậm chí đối với nhiều nơi là trưởng làng ... Sau nhiều lần giả thuyết dời lại ngày bầu cử do dịch Covid-19 đang hoành hành, cuối cùng, tránh để gián đoạn đời sống chính trị ở Pháp, tổng thống Macron đã quyết định duy trì cuộc bỏ phiếu ngày 15 tháng Ba. Một số cuộc thăm dò cho thấy có khả năng, tỷ lệ cử tri không đi bầu sẽ cao do lo ngại lây nhiễm virus corona. Thưa ông, để trấn an cử tri và bảo đảm vệ sinh cho tất cả những người đến phòng phiếu thi hành bổn phận công dân, thành phố Massy đã có những bước chuẩn bị nào ? Nicolas Samsoen : Chúng tôi áp dụng các chỉ thị của chính phủ : Đó là chuẩn bị sẵn dung dịch rửa tay khử trùng tại các phòng phiếu, yêu cầu cử tri tôn trọng khoảng cách 1 mét khi xếp hàng để tránh truyền vi trùng cho nhau. Thành phố yêu cầu cử tri tự mang theo bút để ký tên ở phòng phiếu, chúng tôi sẽ thường xuyên khử trùng thùng phiếu. Không bắt tay khi chào hỏi nhau… Tôi nghĩ rằng vào thời điểm này chúng ta cần có thái độ nghiêm chỉnh, đề phòng rủi ro lây lan dịch, nhưng cũng cần tránh rơi vào tình trạng hoảng hốt. Ngoài thách thức bất ngờ do virus corona gây nên, bầu cử cấp địa phương tại Pháp lần này diễn ra trong bối cảnh công luận kém tin tưởng hơn vào chính giới. Tuy nhiên, theo kết quả thăm dò của viện OpionWay được công bố hôm 09/03/2020, trong số tất cả những chính trị gia do dân bầu lên, ông hay bà thị trưởng chiếm được nhiều cảm tình của người dân hơn cả, bởi họ là chiếc gạch nối giữa nền cộng hòa và những người dân bình thường, bởi họ gần gũi với dân. 68 % những người được hỏi quan niệm thị trưởng là người hiểu hoàn cảnh của dân hơn ai hết và có tới 65 % hài lòng về nhiệm kỳ sắp hết của người đứng đầu thành phố. 79 % trả lời viện thăm dò OpinionWay đánh giá cao chất lượng cuộc sống nơi họ cư ngụ.
Đầu năm 2016, một thảm hoạ môi trường quy mô lớn xảy ra tại bốn tỉnh miền trung Việt Nam, hoá chất thải ra từ nhà máy luyện thép Formosa khiến hàng trăm tấn cá chết, cả một vùng bờ biển dài hơn 200 km bị nhiễm độc, hàng trăm nghìn cư dân mất nguồn sinh kế. Theo các nhà quan sát, chính quyền Việt Nam hết sức lúng túng trong việc khắc phục thảm hoạ. Vụ Formosa khiến nhiều người nghĩ đến một thảm họa tràn dầu quy mô lớn tại vùng Vịnh Mêhicô (Hoa Kỳ) cách nay 6 năm. Kinh nghiệm điều tra, đánh giá tác động môi trường trong vụ BP để lại những bài học nào cho Việt Nam ? Tạp chí Khoa học của RFI phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Yến (Đức). Thảm hoạ lớn hàng đầu trong ngành dầu mỏ thế giới - đe doạ nghiêm trọng các hệ sinh thái - đã buộc công ty BP Anh Quốc phải đền bù hàng chục tỉ đô la (chú thích 1). Hai thảm hoạ môi trường BP-Vịnh Mêhicô và Formosa-miền Trung Việt Nam chắc chắn có rất nhiều khác biệt về quy mô và và tính chất, nhưng điều đáng chú ý là, ngay từ đầu, BP đã chấp nhận chi ra nhiều tỷ đô la cho việc nghiên cứu đánh giá thiệt hại môi trường và sức khỏe dân cư, đi liền với các dự án phục hồi, làm cơ sở cho việc đền bù. Bởi thảm họa môi trường trên biển tác động rất phức tạp đến các hệ sinh thái và mức độ thiệt hại sẽ không được đánh giá đúng, công việc sẽ trở nên phức tạp bội phần, nếu việc này không được làm sớm và làm đúng cách. Đây là điều mà tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Yến coi là một bài học xương máu đối với việc khắc phục thảm họa nhiễm độc biển do Formosa gây ra tại miền trung Việt Nam (phỏng vấn thực hiện ngày 19/09/2016). Đánh giá khẩn trương, toàn diện thiệt hại RFI : BP đã làm gì trong việc điều tra tác động của thảm họa để khắc phục. Xin chị cho biết một số điểm chính. TS. Nguyễn Thị Hải Yến : Khi thảm họa xảy ra, ngoài việc cứu hộ ngay, BP ngay lập tức công bố hai khoản ngân sách rất lớn cho những « nghiên cứu đánh giá thiệt hại » và những « nghiên cứu sâu, lâu dài ». Dành cho ngân sách đầu tiên, BP chi tổng cộng là 8,7 tỉ, vừa cho đánh giá, vừa cho các chương trình phục hồi sinh thái. Cụ thể về hoạt động này, ngay sau khi thảm họa xảy ra, chính quyền liên bang và các tiểu bang vùng thảm họa đã họp bàn và thành lập một Hội Đồng Ủy Thác Đánh Giá Thiệt Hại Tài Nguyên/ Natural Resource Damage Assessment Trustees Council (chú thích 2). Mục đích là để đưa ra một bức tranh đầy đủ về thiệt hại sinh thái, từ đó có kế hoạch phục hồi khả thi. Hội Đồng Ủy Thác này phân chia thành 14 nhóm kỹ thuật, phủ hết các dạng sinh thái và các loài sinh vật quan trọng (chú thích 3). Hơn 240 dự án đã thực hiện và nhiều nghiên cứu vẫn đang tiếp tục. Ở giai đoạn đầu, gọi là « tiền đánh giá và phục hồi sớm », người ta đã đưa ra ngay 57 dự án phục hồi sớm ở 5 tiểu bang. Và dựa vào kết quả đánh giá thiệt hại tổng thể và lâu dài (với năm tiêu chí – chú thích 4), Hội Đồng Ủy Thác gần đây đã quyết định là cần phải phục hồi ở 38 địa điểm, với 13 kiểu phục hồi sinh thái khác nhau (chú thích 5), với trọng tâm là phục hồi các hệ sinh thái ven biển. Tiền chi cho các dự án phục hồi các hệ sinh thái này chiếm phần chủ yếu : 4,1 tỉ (chiếm khoảng 50% ngân sách). Việc khẩn trương đánh giá thiệt hại sinh thái, và giai đoạn đầu tập trung vào các vấn đề có tính nhạy cảm về thời gian, như Hội Đồng Ủy Thác thực hiện ở Vịnh Mêhicô, đã giảm thiểu việc mất dấu tích do ảnh hưởng điều kiện tự nhiên. Bài học của việc này là việc chậm trễ đánh giá thiệt hại ở thảm họa Formosa Vũng Áng sẽ rất nguy hiểm khi dấu vết chất độc trên bề mặt đáy biển đã bị sóng, dòng hải lưu xóa mờ, hoặc bị bùn cát lấp phủ trong khi đó chất độc vẫn bị chôn vùi trong bùn cát/trầm tích không quan sát được. Dẫn đến những chỗ này sẽ bị bỏ sót khi khảo sát. Và cũng sẽ bị bỏ qua trong kế hoạch khắc phục hậu quả. Việc khẩn trương đánh giá thiệt hại, như Hoa Kỳ thực hiện, cũng giúp ngay lập tức phát hiện ra những khu vực hoặc các loài sinh vật cần phải được cứu nạn khẩn cấp và triển khai phục hồi sớm tránh tình trạng bị kéo dài phơi nhiễm dẫn đến diệt vong. Đọc thêm : Cá biển chết ở Việt Nam: Hệ lụy có thể kéo dài 50 năm Bên cạnh chương trình nói trên, BP còn dành một ngân sách khác cho nghiên cứu, để « cài răng lược », để khiến cho thông tin khoa học xác thực hơn. Bởi vì ảnh hưởng môi trường ở biển rất phức tạp, các diễn tiến như từ dòng hải lưu phân tán, ảnh hưởng đến các hệ sinh thái, rồi đến lượt các chất dầu tự hủy hoặc do sinh vật phân hủy, hoặc biến đổi khi tác động với các chất khác… Vì vậy, phải có các nghiên cứu chuyên sâu hơn, để khẳng định (hay điều chỉnh) các ước tính thiệt hại ban đầu. Nghiên cứu độc lập, chuyên sâu RFI : Xin chị cho biết rõ hơn về ngân sách thứ hai, tức ngân sách điều tra tác động lâu dài. TS. Nguyễn Thị Hải Yến : Một tháng sau khi xảy ra thảm họa, ngày 24/05/2010, BP đã cam kết chi một khoản 500 triệu USD cho 10 năm công việc nghiên cứu đánh giá tác động ảnh hưởng và tái phục hồi sinh thái và môi trường. Một tổ chức có tên Sáng Kiến Nghiên Cứu Vịnh Mêhicô (Gulf of Mexico Research Initative/GoMRI) đã được thành lập. Đây là một chương trình tổ chức độc lập với BP và chính phủ Hoa Kỳ (vì BP và chính phủ Hoa Kỳ là đối tác của hợp đồng thương mại khai thác dầu ở Vịnh Mêhicô). Tiến sỹ Rita Colwell, người đã có kinh nghiệm làm lãnh đạo của Quỹ Khoa Học Quốc Gia (National Science Foundation), một tổ chức xã hội dân sự, được chọn làm giám đốc của chương trình này. Chương trình nghiên cứu độc lập này GoMRI được đặt trong Viện nghiên cứu Vịnh và đới bờ của liên bang. Đã có 3.941 nhà nghiên cứu đến từ 286 Viện/Trường của 20 quốc gia đồng hành và đóng góp. Họ chia thành các nghiên cứu 1-2 năm, 2-4 năm, 3-5 năm, 6-8 năm… ứng với các diễn biến của thảm họa (ví dụ như đầu tiên là phải nghiên cứu các dòng chảy, hướng phát tán của dầu, sau đó là các nghiên cứu về độc tố…). Với 500 triệu đô la, chương trình này đã có sản phẩm là 784 bài báo được đăng trên các tạp chí khoa học. Ở đây cũng chia thành 5 lĩnh vực : 1) Các nghiên cứu về động lực học và khí tượng hải dương để đánh giá sự di chuyển và phát tán của dầu vào môi trường (cả trên mặt nước, trong cột nước và trầm tích). 2) Các nghiên cứu về sự biến đổi hóa học cũng như quá trình tự phân hủy sinh học của dầu và hóa chất cũng như sự tương tác của chúng lên các hệ sinh thái.3) Các nghiên cứu về ảnh hưởng môi trường của dầu lên các hệ sinh thái ven bờ, đáy, và các tầng nước.4) Các nghiên cứu phát triển công nghệ để nâng cấp các phương pháp ứng phó với thảm họa.5) Các nghiên cứu về ảnh hưởng của thảm họa tràn dầu lên sức khỏe động vật và con người. Đọc thêm : Nhiễm độc biển Việt Nam : Im lặng ‘‘khó hiểu’’ của ngành y Sáng Kiến Nghiên Cứu Vịnh Mêhicô có những chương trình nghiên cứu tương tự như hoạt động của Hội Đồng Ủy Thác, nhưng chuyên sâu. Hai chương trình này phụ trợ cho nhau. Bên Hội Đồng Ủy Thác là đánh giá trên diện rộng và đi thực tế nhiều, còn bên Sáng Kiến Nghiên Cứu Vùng Vịnh Mêhicô thì mang tính chuyên sâu và làm trong phòng thí nghiệm nhiều hơn. Sáng Kiến Nghiên Cứu Vùng Vịnh Mêhicô bổ sung những thiếu hụt cho chương trình đánh giá thiệt hại tài nguyên của Hội Đồng Ủy Thác. Việc các chương trình nghiên cứu sâu song hành từng bước với chương trình đánh giá thiệt hại và phục hồi tái tạo sẽ giúp tối đa hóa hiệu quả phục hồi hệ sinh thái và tài nguyên dựa trên cả khoa học và thực tế. Tôi thấy rằng chính phủ Việt Nam và giới trí thức Việt Nam cần kêu gọi để có một chương trình nghiên cứu độc lập như thế để có thể mời được các trí thức thế giới tham gia. Tôi thấy rất tiếc, vì ở Việt Nam có mời một số chuyên gia nước ngoài tham gia, nhưng thay vì mời họ tham gia vào đoàn của nhà nước, nên để họ làm độc lập, thì họ sẽ có thể đánh giá khách quan hơn, và cung cấp các đối chứng, như thế sẽ thuyết phục được người dân nhiều hơn. Thông tin đầy đủ, minh bạch RFI : Khó khăn chính trong các điều tra về tác động thảm họa ? TS. Nguyễn Thị Hải Yến : Có một điều rất quan trọng khiến Hoa Kỳ và BP thành công là họ có được thông tin. Khi thảm họa tràn dầu xảy ra thì ngay lập tức Trung tâm ứng phó quốc gia và các đại diện địa phương/focus point của các cơ quan có chức năng liên quan biển. Họ có trách niệm thu nhập tất cả thông tin từ mọi nguồn báo về (vùng nào thấy xuất hiện dầu, vùng nào có sinh vật chết… Bất cứ thông tin nào gây nghi ngờ đều được trung tâm này tiếp nhận). Từ đó họ có được một cơ sở dữ liệu đầy đủ về thảm họa, để có thể ứng phó, ứng cứu, và tiếp theo là đánh giá thiệt hại và nghiên cứu lâu dài, và sau cùng là phục hồi. Ở Việt Nam, không có trung tâm ứng cứu quốc gia, và mạng lưới địa phương. Chính vì thế, thảm họa xảy ra từ đầu tháng 4, mà đến cuối tháng 4 mới bắt đầu rầm rộ, truyền thông mới biết, người dân mới biết (chú thích 6). Điều quan trọng nữa là, ở Việt Nam hầu hết tất cả những thông tin về thảm họa của người dân (thường chỉ được phản ánh qua facebook hoặc blog) (chú thích 7) đều không được chính quyền các cấp ghi nhận. Đấy là sự lãng phí vô cùng, sự thiếu thông minh của chính quyền, khi không tận dụng các thông tin, đóng góp của cả xã hội. Điều này dẫn đến tình trạng hiểu biết về thảm họa là rất thiếu hụt. Việc bỏ qua các thông tin phản ánh của người dân thì vừa không tận dụng nguồn lực rộng lớn không phải trả công từ người dân, nguồn nhân lực có thể quan sát môi trường theo từng giờ ở mọi nơi với thông tin sâu sát và đầy kinh nghiệm. Chính vì thế, với 100 nhà khoa học tham gia đánh giá xác định nguyên nhân thảm họa, thông tin đưa ra vẫn luôn thiếu hụt so với những quan sát của người dân (Ví dụ rất nhiều thông tin của người dân trên facebook và blog cho biết, chim chết nhiều, nhiều nơ rừng ngập mặn chết. Trong khi đó chính quyền công bố chỉ có san hô bị ảnh hưởng). Vì thế càng đẩy chính quyền vào tình thế bị đánh giá là không có đủ trình độ, không minh bạch và cố tình bao che cho Formosa (xem bài : "Nhiễm độc miền Trung Việt Nam : Chưa rõ vùng biển nào hải sản an toàn"). Rất nguy hiểm là những kế hoạch khắc phục cũng sẽ thiếu hụt, không hiệu quả hoặc thậm chí là chệch hướng. Ví dụ như việc tranh cãi, có nên hút rửa đáy biển hay không ? Người thì bảo nên, người bảo không, người bảo hút cả chiều dài 200 km dọc bờ biển. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ là người ta sử dụng các máy rò, xem chỗ nào có dầu tồn lắng nhiều, thì người ta mới tẩy rửa. Trong khi thảm họa do Formosa, chính vì thiếu hụt thông tin nên không thực hiện được phục hồi, tẩy rửa, hoặc kế hoạch phục hồi bị lệch hướng. Điểm đáng nói là, trong vụ tràn dầu BP, ngay lập tức người ta công bố là thảm họa quốc gia, và người ta sẵn sàng đối mặt với các thực tế của thảm họa, trong khi ở Việt Nam, cá chết hàng trăm tấn, san hô chết 50%, nhưng vẫn cứ nói là « sự cố môi trường ». Chính vì đánh giá lệch lạc về tính chất thảm họa, thành ra không có chương trình nghiên cứu. Cho đến bây giờ không nghe thấy một chương trình nghiên cứu đánh giá thiệt hại hay phục hồi. RFI : Nhìn chung vụ tràn dầu BP còn để lại thêm bài học nào khác về vai trò của Nhà nước ? TS. Nguyễn Thị Hải Yến : Để tránh cho người dân phơi nhiễm chất độc, ngay lập tức Hoa Kỳ đã đóng cửa các bãi biển (chú thích 8). Trong khi đó, ở Việt Nam, các quan chức nhảy xuống tắm biển. Rất là ngược đời. Rất là đau khi thấy người dân tay trần đi thu gom cá chết. Ở trong cá chết, có thể có rất nhiều chất độc khác lây nhiễm qua đường da. Chính quyền đã không có thông tin, truyền thông nào để cảnh báo cho người dân, một là không tắm biển, hai là phải có các phương tiện bảo hộ (chú thích 9). Tìm hiểu quá trình khắc phục hậu quả dầu tràn ở vịnh Mêhicô, tôi thấy chính quyền Hoa Kỳ và BP rất chú trọng đến việc phục hồi các hệ sinh thái. Theo tôi, Việt Nam cũng cần ưu tiên ngay lập tức việc nghiên cứu đánh giá thiệt hại và xây dựng các dự án phục hồi các hệ sinh thái như san hô, cỏ biển, rừng ngập mặn. Đó là ba hệ sinh thái quan trọng, mà chúng tôi là những nhà khoa học về lĩnh vực này chúng tôi rất sốt ruột (chú thích 10). RFI xin cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Thị Hải Yến đã dành thời gian cho tạp chí. *** Phải minh bạch độc chất FORMOSA thải ra biển *** Ngày 20/09/2016 - hơn 5 tháng kể từ vụ cá chết hàng loạt tại miền Trung Việt Nam - bộ Y Tế cùng bộ Tài Nguyên Môi Trường và bộ Nông Nghiệp lần đầu tiên xác nhận hải sản « ở tầng đáy » trong phạm vi 20 hải lý dọc bờ biển không « an toàn ». Tiếp theo việc công ty thép Formosa (hồi cuối tháng 6/2016) nhận lỗi xả thải độc chất tại Vũng Áng (Hà Tĩnh), thông báo nói trên một lần nữa khẳng định thực chất và quy mô của tình trạng nhiễm độc ven biển bốn tỉnh miền Trung Việt Nam đang dần dần sáng tỏ, bất chấp các nỗ lực che giấu (*). Bài học từ thảm họa dầu tràn (Hoa Kỳ) cho thấy việc đánh giá khẩn trương, toàn diện và đầy đủ các tác động môi trường hậu thảm họa là vô cùng quan trọng, để giảm thiểu các thiệt hại với con người và môi trường. Chính quyền Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm của Mỹ trong việc thành lập một cơ chế nghiên cứu độc lập, nhằm thu hút rộng rãi các đóng góp quốc tế, bên cạnh các hoạt động của nhóm các nhà khoa học nhà nước. Tuy nhiên, nghiên cứu sẽ chỉ thực chất và hiệu quả khi làm sáng tỏ được các chất độc mà Formosa đã thải xuống biển. Theo nhiều chuyên gia, nếu những thông tin này - cũng như thông tin cụ thể về quá trình di chuyển của các độc chất trong nước biển - bị chính quyền tiếp tục che đậy, thì việc điều tra về tác động của chúng đến môi trường sinh thái và sức khỏe con người không thể cho ra được kết quả chính xác. Việc khắc phục do vậy sẽ muôn vàn khó khăn, nếu không nói là bất khả thi. Trong một thảm họa như vụ Formosa, hy vọng các hệ sinh thái bị nhiễm độc nặng tự hồi phục - mà không có các nghiên cứu đánh giá tác động và dự án phục hồi - chỉ là ảo tưởng. Cho rằng sức khỏe người dân tự điều chỉnh, mà không cần các biện pháp phòng tránh, chẩn đoán, điều trị kịp thời chính là cách các lãnh đạo chính quyền thoái thác trách nhiệm, để mặc người dân trong lo sợ, đau khổ, tuyệt vọng. Tình hình càng để chậm, càng khó cứu vãn. ---(*) Có người cho rằng vụ cá chết vừa qua có thể trong cái rủi lại có cái may đầy nghịch lý. Đó là nếu không có vụ cá chết hàng loạt, hóa chất độc hại từ (các) nhà máy cứ tiếp tục xả ra biển với liều lượng vừa đủ để hải sản nhiễm độc, nhưng không chết ngay, từ đó con người ăn phải mà mắc nhiều bệnh nan y, chết dần, chết mòn. Bên cạnh đó là tình trạng yên ổn giả tạo, khi các hệ sinh thái tầng đáy bị hủy diệt dần dần, nhưng tầng mặt vẫn tỏ ra bình yên vô sự. Đó có thể chính là tình trạng đáy biển bốn tỉnh miền Trung mà bộ Y Tế vừa công nhận ngày 20/09.