Podcasts about rfi cu

  • 18PODCASTS
  • 49EPISODES
  • 7mAVG DURATION
  • 1MONTHLY NEW EPISODE
  • Apr 11, 2025LATEST

POPULARITY

20172018201920202021202220232024


Best podcasts about rfi cu

Latest podcast episodes about rfi cu

Enfoque internacional
‘Prevenir el reclutamiento de jóvenes por las mafias es la prioridad', según ONG ecuatoriana

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Apr 11, 2025 12:53


Aplacar la guerra sangrienta de las bandas criminales será sin duda el reto principal del próximo jefe del estado ecuatoriano tras las elecciones presidenciales del 13 de abril. El país arrancó el año con una tasa de homicidios récord a pesar de la política de mano dura del presidente Daniel Noboa. Radiografía de la violencia con Billy Navarrete, director de la ONG Comisión Permanente por la Defensa de los Derechos Humanos, con sede en Guayaquil, epicentro del crimen organizado. Con cerca de un homicidio cada hora, Ecuador se ha convertido en el país más violento de Latinoamérica. El despliegue masivo de militares en las calles, decidido por el presidente Daniel Novoa durante sus 14 meses de mandato en el marco del decreto de estado de conflicto armado interno, no ha logrado de momento reducir la violencia entre las bandas criminales que se disputan los puntos de exportación de la cocaína. Es más, tras un ligero descenso de la tasa de homicidios en 2024 -paso de 46,2 a 39,1 por 100.000 habitantes-, la cifra volvió a dispararse durante los primeros meses de 2025. Las proyecciones actuales podrían llevar a una tasa de 53,1 homicidios por 100.000 habitantes, la más elevada de Latinoamérica.Entrevista con Billy Navarrete, director del Comité Permanente por la Defensa de los Derechos Humanos, una ONG con 42 años de existencia.RFI:  ¿Cuál fue la chispa que disparó los índices de violencia aquí en Guayaquil? Se ven ahora fenómenos de extorsiones generalizadas, asesinatos y masacres, como el que ocurrió en el barrio pobre Socio Vivienda 2 en marzo, con 22 muertos en un solo día.Billy Navarrete: Esta ciudad es la más poblada del Ecuador. Ha estado siendo habitada por migrantes internos que se han venido asentando en los exteriores de la ciudad. Hay muy amplios sectores de asentamientos humanos muy precarios donde básicamente se concentra la violencia. Aunque desde el 2019 eso ya no tiene límite, es decir, también en los barrios acomodados ocurren hechos de sicariato, ataques con explosivos y una serie de otros hechos que antes no ocurrían.La crisis comenzó con el sistema carcelario. Comenzamos a registrar este pico de violencia hacia el 2019. Varias bandas criminales sufren una fragmentación al interior de las cárceles y comienzan a enfrentarse entre ellas. Luego, esa violencia se desborda a las comunidades, a estas comunidades precarias que se han asentado alrededor de la ciudad.Ahí básicamente están dinamizadas estas violencias por el narcotráfico que tiene que ver con el traslado de mercancía que viene de Colombia, que intenta llegar a los buques que van hacia Europa a través de Guayaquil. La cocaína, que es la principal mercancía, sale a través de estas comunidades precarias que están a orillas del estero. Hay una afectación especial a estas comunidades que son afrodescendientes.RFI: ¿Cómo impacta en las poblaciones en Guayaquil esta agudización de la violencia? Billy Navarrete: Hay considerar dos momentos. Primero, el que se desarrolla desde el 2019 hasta diciembre del 2023. Y otro que inicia hacia el 9 de enero del 2024 cuando el gobierno de Daniel Noboa estableció que el Ecuador vive un conflicto armado interno y da atribución a las Fuerzas Armadas para salir sin acompañamiento de la policía. Eso genera una imagen de mano dura que especialmente tiene afectación en estas comunidades precarias. Una gran cantidad de personas a inicios del año pasado fueron detenidos en especial jóvenes y especialmente afrodescendientes. Durante los primeros meses me refiero a partir del 9 de enero, hasta tal vez mayo se reportaba un promedio de 1300 detenciones por mes.Pero ese volumen de detenciones no llega a judicializarse, es decir, que los agarran, los meten en el balde de la camioneta, los apalean y eventualmente los que sobreviven los dejan desnudos. Es un patrón de conducta, y los dejan en libertad bajo la extorsión. Los números de judicializados es bajito. Hay un efecto de rastrillo, por decirlo de alguna forma.En el peor de los casos que llegue a la prisión [el sospechoso] ingresa a la prisión y el estado se desentiende de él. Y luego de entrar a la prisión, la persona perteneciendo o no a una banda criminal tiene que adherirse a una forzosamente para que esa banda digamos, bajo extorsión, le garantice la vida, la integridad física y acceso a alimentos. Son las bandas las que a la larga administran las cárceles.RFI: En los barrios populares, la violencia alcanza un nivel tan alto que muchas familias se ven obligadas a mudarse. ¿Tenemos una idea de la magnitud de este fenómeno? [Lea aquí nuestro reportaje en Guayaquil]Billy Navarrete: . Son miles de familias, especialmente en la costa. Es un fenómeno que empezó en 2022RFI: ¿Qué le parece la contratación de la milicia privada estadounidense dirigida por Eric Prince, fundador de la empresa Blackwater, para tareas de asistencia militar y capacitación?Billy Navarrete: Parece que tiene un interés electoral porque es un gran show. Este mercenario es ampliamente cuestionado por la manera en cómo interviene otros países en conflicto en el Mundo. Ahora aparecen también para fortalecer esa imagen de mano dura.RFI: ¿Cuál sería entonces la prioridad del próximo presidente o presidenta? ¿Retomar el control de las cárceles, atender la crisis social en los barrios abandonados por el Estado?Billy Navarrete: Mira siendo francos, creería que al menos dos gobiernos consecutivos tienen que mantener una misma política como para comenzar a reducir realmente todo el daño que se ha sufrido. Y que creemos que este gobierno entrante no va a tener mucha diferencia en relación con cómo enfrentar eso. O sea, ambos están casi casi obligados a seguir con la mano dura, pese a lo que significa en materia de derechos humanos. Pensando, por ejemplo, en el caso de los cuatro chicos de Malvinas [asesinados tras su detención por militares en Guayaquil en diciembre de 2024], un caso que ha conmovido y que ha cuestionado tremendamente la política de seguridad en el EcuadorOjalá se considere y se acompañe esta mano dura con una política social. Trabajar al interior de esas comunidades para la prevención al reclutamiento forzoso de niños, niñas y adolescentes, eso debería ser una prioridad. Por otra parte, la mafia y la fuerza pública han dejado de tener la distancia mínima para, digamos, enfrentarse. Comparten prácticas como la desaparición forzada. La penetración de la mafia a la fuerza pública es directa, por eso digo que es importante un proceso de depuración porque no es necesaria una fuerza pública, no podemos obviarla, hay que recuperarla. 

TẠP CHÍ VIỆT NAM
EuroCham : Tinh giản hành chính nhưng cần nhanh, hiệu quả để Việt Nam tăng hấp lực

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Mar 24, 2025 9:29


Ngày 19/02/2025, Việt Nam tinh giản bộ máy Nhà nước, từ 18 bộ xuống còn 14 bộ và từ 4 cơ quan ngang bộ xuống 3. Tiếp theo là sáp nhập tỉnh thành, sẽ phải hoàn tất trước ngày 30/08 và đi vào hoạt động từ tháng 09. “Cuộc cách mạng” hành chính cho phép Việt Nam nâng vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu trong bối cảnh từ năm 2018, Việt Nam được coi là nước hưởng lợi chính từ việc dịch chuyển chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc. Việc tinh gọn bộ máy được Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu - EuroCham, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, đánh giá là tiền đề để Việt Nam thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó khẳng định vị thế là trung tâm đầu tư của Đông Nam Á. Hoạt động từ năm 1998, EuroCham hiện là một trong những hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với hơn 1.400 thành viên sử dụng hơn 150.000 lao động.Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 06/03/2025, phó chủ tịch Jean-Jacques Bouflet phụ trách Chính sách EuroCham đề cao quyết tâm của chính quyền Việt Nam nhưng ông cũng lưu ý cần phải khẩn trương và tiến hành một cách hiệu quả.RFI : Việt Nam tiến hành tinh giản bộ máy Nhà nước, được coi là "cuộc cách mạng lần thứ hai". Phòng Thương mại Châu Âu (EuroCham) và các thành viên đánh giá biện pháp cải cách này như thế nào ? EuroCham và các thành viên được thông tin như thế nào về những thay đổi mà quá trình này mang lại ?Phó chủ tịch EuroCham Jean-Jacques Bouflet : Các doanh nghiệp tiếp đón thông tin tương đối tích cực. Chúng tôi cũng tiến hành một cuộc điều tra, được gọi là “chỉ số tin tưởng” của các doanh nghiệp (BCI), và nhìn chung cam kết của chính phủ được coi là một bước theo hướng tốt. 43% trên tổng số các doanh nghiệp thuộc Liên Hiệp Châu Âu cho rằng về lâu dài thủ tục hành chính sẽ được đơn giản hóa, trong đó có việc thông qua các nền tảng kỹ thuật số và nhất là qua việc tinh giản bộ máy hành chính đang diễn ra. Tuy nhiên, 36% thành viên trong EuroCham vẫn bày tỏ quan ngại về những chậm trễ có thể xảy ra trong quá trình chuyển tiếp. Nhưng chúng ta cứ giữ lạc quan xem sao !Chúng tôi được thông tin như nào ư ? Chúng tôi có được ưu ái là có một buổi làm việc với thủ tướng Việt Nam ngày 02/03. Có hơn 50 người tham gia, trong đó có đại sứ Liên Hiệp Châu Âu, cũng như đại sứ nhiều nước thành viên. Chúng tôi đối thoại với thủ tướng Phạm Minh Chính cùng hai phó thủ tướng và rất nhiều bộ ngành liên quan. Ông Chính đã trình bày về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính để kích thích đầu tư vì đây là mục tiêu chính của cuộc cải cách. Sau buổi họp đó, EuroCham đã tổ chức nhiều sự kiện để thông tin đến các thành viên. Có thể thấy là cho đến nay đã có nhiều ý tưởng. Dĩ nhiên là sẽ còn phải chờ xem thực tế liệu những chủ trương đó có biến thành những cải cách cụ thể hay không. Nhưng dù sao cũng đã có ý tưởng.RFI : Sau khi cải cách được thông báo, cũng như sau cuộc họp với thủ tướng Việt Nam thì EuroCham trông đợi cụ thể điều gì ?Ông Jean-Jacques Bouflet : Điểm chính của cuộc cải cách là giảm đáng kể số lượng bộ. Nhiều bộ đã được hợp nhất, ví dụ bộ Nông Nghiệp và Môi Trường, điều này cho thấy một bước đi và mong muốn đi theo hướng quá độ và chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam, hoặc ví dụ bộ Kế Hoạch Đầu Tư được gộp vào bộ Tài Chính. Tôi nhớ không nhầm là từ 18 bộ xuống còn 14 bộ. Có thể thấy mong muốn tinh giản bộ máy Nhà nước và mặt khác chính phủ cũng tìm cách phi tập trung hóa, có nghĩa là một phần các thủ tục hành chính sẽ được áp dụng ở cấp địa phương, tại các tỉnh với khoảng 60 tỉnh ở Việt Nam, và điều này sẽ cho phép chúng tôi tiếp cận gần với các nhà ra quyết định hơn.Nói tóm lại, mục đích của đợt tinh giản bộ máy Nhà nước là giảm bớt thủ tục hành chính, khoảng 30% toàn bộ thủ tục, và thúc đẩy việc áp dụng để đẩy nhanh chính những thủ tục đó. 30% là con số ấn tượng nên chúng tôi đầy hy vọng. RFI : Cuộc cải cách này là một điều kiện tiên quyết để Việt Nam thu hút đầu từ nước ngoài. Nhìn từ các nhà đầu tư nước ngoài, ví dụ các thành viên của EuroCham, cần phải có những điều kiện nào khác để Việt Nam có thể khẳng định vị trí trung tâm đầu tư ở Đông Nam Á như tham vọng của chính phủ Việt Nam ?Ông Jean-Jacques Bouflet : Như tôi đề cập ở trên, điều mà EuroCham trông đợi, cũng là điều kiện chính đối với chúng tôi, để kích thích đầu tư của châu Âu vào Việt Nam, vẫn là giảm thủ tục hành chính, chấm dứt những phức tạp, chồng chéo và phân chia rải rác giữa các bộ ngành, cơ quan ở cấp trung ương cũng như địa phương. Nhiều khi cứ như lạc vào rừng rậm, thủ tục tích tụ, chồng chéo và phải vượt qua một số ngưỡng. Vì vậy cuộc cải cách này thực sự là cần thiết.Ngoài ra, như chúng ta đã biết, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu đã ký Hiệp định Tự do Thương mại và đang trong giai đoạn triển khai. Chúng tôi cũng mong giai đoạn này triển khai này giúp giải phóng thực sự điều kiện thâm nhập thị trường, cũng như hoạt động của các doanh nghiệp châu Âu được kết trái từ đầu tư vào Việt Nam. Về điểm này, tiếc là chúng tôi vẫn chưa nhận được sự phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư vì hiệp định này phải qua hai vòng phê chuẩn của Liên Hiệp Châu Âu và của các nước thành viên. Hiện giờ vẫn còn khoảng 10 nước thành viên chưa phê chuẩn.Còn về bản thân Hiệp định Tự do Thương mại, điều quan trọng là hiệp định phải được áp dụng triệt để và theo đúng tinh thần. Có nghĩa là cần phải tránh để việc giảm thuế quan bị vi phạm hoặc bị bù lại bằng cách tăng thuế ở trong nước đối với sản phẩm đó hoặc bằng các rào cản kỹ thuật cho trao đổi thương mại.RFI : Các thành viên EuroCham đầu tư vào những lĩnh vực nào ở Việt Nam hiện nay, cũng như xu hướng đầu tư trong tương lai ? Ông Jean-Jacques Bouflet : EuroCham đại diện cho toàn bộ các doanh nghiệp châu Âu, ở cấp độ Liên Hiệp Châu Âu, do đó, lĩnh vực hoạt động của chúng tôi rất rộng. Chỉ riêng nội bộ EuroCham đã có khoảng 20 ủy ban chuyên ngành, từ dược phẩm, nông nghiệp, đến rượu vang, rượu mạnh hoặc điện tử cho nên mảng hoạt động rất rộng, trong lĩnh vực nhập khẩu bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sang Việt Nam, cũng như sản xuất, chiếm một phần quan trọng bởi vì chúng tôi cũng có rất nhiều thành viên sản xuất ở Việt Nam, sau đó tái xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu hoặc sang các thị trường thứ ba.Liên quan đến việc sản xuất ở Việt Nam, lĩnh vực chủ đạo vẫn là đồ điện tử. Việt Nam đang giữ vị trí quan trọng về điểm này, dường như là điện tử giữ vị trí thứ nhất về xuất khẩu, vượt qua cả nông nghiệp. Cho dù châu Âu có thể ít mạnh hơn trong lĩnh vực này ở Việt Nam nhưng còn rất nhiều cơ hội đầu tư.Ngoài ra còn có cả quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tôn trọng môi trường hơn, vẫn được gọi là “Green Deal” và chúng tôi muốn thể hiện và khẳng định ở Việt Nam. Tôi phải nói là về điểm này, Việt Nam đã nắm được phần nào vị trí đầu tầu so với các nước đang phát triển khác trong vùng. Đó là những lĩnh vực mà chúng tôi đầu tư đặc biệt hơn. Chúng tôi có một ủy ban đặc trách “Green Growth” - tăng trưởng xanh - rất năng động. Chúng tôi đối thoại rất nhiều với chính quyền Việt Nam. Việt Nam đang hiện đại hóa lĩnh vực năng lượng bằng cách thúc đẩy các loại hình năng lượng tái tạo, cho dù chúng ta khởi động từ mức khá thấp, và tất cả các doanh nghiệp của chúng tôi tập trung, điều phối với nhau về những lĩnh vực đầy hứa hẹn như này. RFI : Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen dự kiến thăm Việt Nam. Ông có nghĩ là chuyến công du sẽ sớm diễn ra không ? Ông Jean-Jacques Bouflet : Chúng tôi hy vọng bà Ursula von der Leyen sớm đến thăm chúng tôi. Tôi nghĩ Việt Nam là một nhân tố quan trọng cho thương mại quốc tế và cho hợp tác đối tác giữa các nước phát triển như Liên Hiệp Châu Âu và những nền kinh tế mới đang trỗi dậy mạnh mẽ như Việt Nam. Tôi nghĩ là trong thời điểm phần nào xáo trộn như hiện nay, cần phải nhắc lại sự gắn bó vào hệ thống thương mại quốc tế dựa trên khuôn khổ luật pháp rõ ràng, dự đoán được và đa phương, các quy định của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) cũng như Hiệp định Tự do Thương mại như tôi đề cập ở trên. Điều này rất quan trọng ! Đúng là chuyến thăm của bà Ursula von der Leyen sẽ tượng trưng phần nào cho điểm trên. Ngoài ra, cũng đừng quên rằng Việt Nam là thị trường có 100 triệu dân, đó là đất nước có tiềm năng rất lớn và là một nhân tố chủ đạo cho việc phân bổ lao động quốc tế.Ngoài chuyến thăm của chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, chúng tôi cũng mong ủy viên thương mại châu Âu Maroš Šefčovič đến thăm để phát hành "Sách Trắng" mà chúng tôi vẫn soạn thảo hàng năm để trình bày những đề xuất với chính quyền Việt Nam nhằm cải thiện trao đổi và đầu tư giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam. Chúng tôi hy vọng năm nay ông Maroš Šefčovič đứng ra chủ trì buổi lễ này. Có thể thấy là mọi chuyện đang đi vào quy củ với Việt Nam theo chiều hướng năng động được hình thành từ Hiệp định Tự do Thương mại ký vào năm 2019 và phê chuẩn năm 2020 và vẫn đang tiếp tục cho kết quả dù chậm nhưng chắc. Dĩ nhiên cũng phải chú ý đến bối cảnh quốc tế khó khăn hiện nay nhưng tôi tin Liên Hiệp Châu Âu phải tái khẳng định gắn kết với khuôn khổ đa phương dựa trên quy định luật pháp rõ ràng và tin cậy. Bởi vì, đối với các doanh nghiệp châu Âu chúng tôi, ở rất xa châu Âu, điều quan trọng là phải có được khuôn khổ ổn định, rõ ràng, dự đoán được chứ không phải chịu ảnh hưởng từ những sự kiện, những “rối loạn” gây bất ổn. Khi người ta đầu tư, nhất là ở nước ngoài, đó là những khoản tiền khá lớn, cần nhiều năm mới khấu hao được đầu tư, vì thế có được niềm tin như vậy là điều rất quan trọng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch phụ trách Chính sách tại Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam EuroCham.

Tạp chí Việt Nam
EuroCham : Tinh giản hành chính nhưng cần nhanh, hiệu quả để Việt Nam tăng hấp lực

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Mar 24, 2025 9:29


Ngày 19/02/2025, Việt Nam tinh giản bộ máy Nhà nước, từ 18 bộ xuống còn 14 bộ và từ 4 cơ quan ngang bộ xuống 3. Tiếp theo là sáp nhập tỉnh thành, sẽ phải hoàn tất trước ngày 30/08 và đi vào hoạt động từ tháng 09. “Cuộc cách mạng” hành chính cho phép Việt Nam nâng vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu trong bối cảnh từ năm 2018, Việt Nam được coi là nước hưởng lợi chính từ việc dịch chuyển chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc. Việc tinh gọn bộ máy được Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu - EuroCham, cũng như các nhà đầu tư nước ngoài, đánh giá là tiền đề để Việt Nam thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, qua đó khẳng định vị thế là trung tâm đầu tư của Đông Nam Á. Hoạt động từ năm 1998, EuroCham hiện là một trong những hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam với hơn 1.400 thành viên sử dụng hơn 150.000 lao động.Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 06/03/2025, phó chủ tịch Jean-Jacques Bouflet phụ trách Chính sách EuroCham đề cao quyết tâm của chính quyền Việt Nam nhưng ông cũng lưu ý cần phải khẩn trương và tiến hành một cách hiệu quả.RFI : Việt Nam tiến hành tinh giản bộ máy Nhà nước, được coi là "cuộc cách mạng lần thứ hai". Phòng Thương mại Châu Âu (EuroCham) và các thành viên đánh giá biện pháp cải cách này như thế nào ? EuroCham và các thành viên được thông tin như thế nào về những thay đổi mà quá trình này mang lại ?Phó chủ tịch EuroCham Jean-Jacques Bouflet : Các doanh nghiệp tiếp đón thông tin tương đối tích cực. Chúng tôi cũng tiến hành một cuộc điều tra, được gọi là “chỉ số tin tưởng” của các doanh nghiệp (BCI), và nhìn chung cam kết của chính phủ được coi là một bước theo hướng tốt. 43% trên tổng số các doanh nghiệp thuộc Liên Hiệp Châu Âu cho rằng về lâu dài thủ tục hành chính sẽ được đơn giản hóa, trong đó có việc thông qua các nền tảng kỹ thuật số và nhất là qua việc tinh giản bộ máy hành chính đang diễn ra. Tuy nhiên, 36% thành viên trong EuroCham vẫn bày tỏ quan ngại về những chậm trễ có thể xảy ra trong quá trình chuyển tiếp. Nhưng chúng ta cứ giữ lạc quan xem sao !Chúng tôi được thông tin như nào ư ? Chúng tôi có được ưu ái là có một buổi làm việc với thủ tướng Việt Nam ngày 02/03. Có hơn 50 người tham gia, trong đó có đại sứ Liên Hiệp Châu Âu, cũng như đại sứ nhiều nước thành viên. Chúng tôi đối thoại với thủ tướng Phạm Minh Chính cùng hai phó thủ tướng và rất nhiều bộ ngành liên quan. Ông Chính đã trình bày về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính để kích thích đầu tư vì đây là mục tiêu chính của cuộc cải cách. Sau buổi họp đó, EuroCham đã tổ chức nhiều sự kiện để thông tin đến các thành viên. Có thể thấy là cho đến nay đã có nhiều ý tưởng. Dĩ nhiên là sẽ còn phải chờ xem thực tế liệu những chủ trương đó có biến thành những cải cách cụ thể hay không. Nhưng dù sao cũng đã có ý tưởng.RFI : Sau khi cải cách được thông báo, cũng như sau cuộc họp với thủ tướng Việt Nam thì EuroCham trông đợi cụ thể điều gì ?Ông Jean-Jacques Bouflet : Điểm chính của cuộc cải cách là giảm đáng kể số lượng bộ. Nhiều bộ đã được hợp nhất, ví dụ bộ Nông Nghiệp và Môi Trường, điều này cho thấy một bước đi và mong muốn đi theo hướng quá độ và chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam, hoặc ví dụ bộ Kế Hoạch Đầu Tư được gộp vào bộ Tài Chính. Tôi nhớ không nhầm là từ 18 bộ xuống còn 14 bộ. Có thể thấy mong muốn tinh giản bộ máy Nhà nước và mặt khác chính phủ cũng tìm cách phi tập trung hóa, có nghĩa là một phần các thủ tục hành chính sẽ được áp dụng ở cấp địa phương, tại các tỉnh với khoảng 60 tỉnh ở Việt Nam, và điều này sẽ cho phép chúng tôi tiếp cận gần với các nhà ra quyết định hơn.Nói tóm lại, mục đích của đợt tinh giản bộ máy Nhà nước là giảm bớt thủ tục hành chính, khoảng 30% toàn bộ thủ tục, và thúc đẩy việc áp dụng để đẩy nhanh chính những thủ tục đó. 30% là con số ấn tượng nên chúng tôi đầy hy vọng. RFI : Cuộc cải cách này là một điều kiện tiên quyết để Việt Nam thu hút đầu từ nước ngoài. Nhìn từ các nhà đầu tư nước ngoài, ví dụ các thành viên của EuroCham, cần phải có những điều kiện nào khác để Việt Nam có thể khẳng định vị trí trung tâm đầu tư ở Đông Nam Á như tham vọng của chính phủ Việt Nam ?Ông Jean-Jacques Bouflet : Như tôi đề cập ở trên, điều mà EuroCham trông đợi, cũng là điều kiện chính đối với chúng tôi, để kích thích đầu tư của châu Âu vào Việt Nam, vẫn là giảm thủ tục hành chính, chấm dứt những phức tạp, chồng chéo và phân chia rải rác giữa các bộ ngành, cơ quan ở cấp trung ương cũng như địa phương. Nhiều khi cứ như lạc vào rừng rậm, thủ tục tích tụ, chồng chéo và phải vượt qua một số ngưỡng. Vì vậy cuộc cải cách này thực sự là cần thiết.Ngoài ra, như chúng ta đã biết, Việt Nam và Liên Hiệp Châu Âu đã ký Hiệp định Tự do Thương mại và đang trong giai đoạn triển khai. Chúng tôi cũng mong giai đoạn này triển khai này giúp giải phóng thực sự điều kiện thâm nhập thị trường, cũng như hoạt động của các doanh nghiệp châu Âu được kết trái từ đầu tư vào Việt Nam. Về điểm này, tiếc là chúng tôi vẫn chưa nhận được sự phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ Đầu tư vì hiệp định này phải qua hai vòng phê chuẩn của Liên Hiệp Châu Âu và của các nước thành viên. Hiện giờ vẫn còn khoảng 10 nước thành viên chưa phê chuẩn.Còn về bản thân Hiệp định Tự do Thương mại, điều quan trọng là hiệp định phải được áp dụng triệt để và theo đúng tinh thần. Có nghĩa là cần phải tránh để việc giảm thuế quan bị vi phạm hoặc bị bù lại bằng cách tăng thuế ở trong nước đối với sản phẩm đó hoặc bằng các rào cản kỹ thuật cho trao đổi thương mại.RFI : Các thành viên EuroCham đầu tư vào những lĩnh vực nào ở Việt Nam hiện nay, cũng như xu hướng đầu tư trong tương lai ? Ông Jean-Jacques Bouflet : EuroCham đại diện cho toàn bộ các doanh nghiệp châu Âu, ở cấp độ Liên Hiệp Châu Âu, do đó, lĩnh vực hoạt động của chúng tôi rất rộng. Chỉ riêng nội bộ EuroCham đã có khoảng 20 ủy ban chuyên ngành, từ dược phẩm, nông nghiệp, đến rượu vang, rượu mạnh hoặc điện tử cho nên mảng hoạt động rất rộng, trong lĩnh vực nhập khẩu bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu sang Việt Nam, cũng như sản xuất, chiếm một phần quan trọng bởi vì chúng tôi cũng có rất nhiều thành viên sản xuất ở Việt Nam, sau đó tái xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu hoặc sang các thị trường thứ ba.Liên quan đến việc sản xuất ở Việt Nam, lĩnh vực chủ đạo vẫn là đồ điện tử. Việt Nam đang giữ vị trí quan trọng về điểm này, dường như là điện tử giữ vị trí thứ nhất về xuất khẩu, vượt qua cả nông nghiệp. Cho dù châu Âu có thể ít mạnh hơn trong lĩnh vực này ở Việt Nam nhưng còn rất nhiều cơ hội đầu tư.Ngoài ra còn có cả quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tôn trọng môi trường hơn, vẫn được gọi là “Green Deal” và chúng tôi muốn thể hiện và khẳng định ở Việt Nam. Tôi phải nói là về điểm này, Việt Nam đã nắm được phần nào vị trí đầu tầu so với các nước đang phát triển khác trong vùng. Đó là những lĩnh vực mà chúng tôi đầu tư đặc biệt hơn. Chúng tôi có một ủy ban đặc trách “Green Growth” - tăng trưởng xanh - rất năng động. Chúng tôi đối thoại rất nhiều với chính quyền Việt Nam. Việt Nam đang hiện đại hóa lĩnh vực năng lượng bằng cách thúc đẩy các loại hình năng lượng tái tạo, cho dù chúng ta khởi động từ mức khá thấp, và tất cả các doanh nghiệp của chúng tôi tập trung, điều phối với nhau về những lĩnh vực đầy hứa hẹn như này. RFI : Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu Ursula von der Leyen dự kiến thăm Việt Nam. Ông có nghĩ là chuyến công du sẽ sớm diễn ra không ? Ông Jean-Jacques Bouflet : Chúng tôi hy vọng bà Ursula von der Leyen sớm đến thăm chúng tôi. Tôi nghĩ Việt Nam là một nhân tố quan trọng cho thương mại quốc tế và cho hợp tác đối tác giữa các nước phát triển như Liên Hiệp Châu Âu và những nền kinh tế mới đang trỗi dậy mạnh mẽ như Việt Nam. Tôi nghĩ là trong thời điểm phần nào xáo trộn như hiện nay, cần phải nhắc lại sự gắn bó vào hệ thống thương mại quốc tế dựa trên khuôn khổ luật pháp rõ ràng, dự đoán được và đa phương, các quy định của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) cũng như Hiệp định Tự do Thương mại như tôi đề cập ở trên. Điều này rất quan trọng ! Đúng là chuyến thăm của bà Ursula von der Leyen sẽ tượng trưng phần nào cho điểm trên. Ngoài ra, cũng đừng quên rằng Việt Nam là thị trường có 100 triệu dân, đó là đất nước có tiềm năng rất lớn và là một nhân tố chủ đạo cho việc phân bổ lao động quốc tế.Ngoài chuyến thăm của chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, chúng tôi cũng mong ủy viên thương mại châu Âu Maroš Šefčovič đến thăm để phát hành "Sách Trắng" mà chúng tôi vẫn soạn thảo hàng năm để trình bày những đề xuất với chính quyền Việt Nam nhằm cải thiện trao đổi và đầu tư giữa Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam. Chúng tôi hy vọng năm nay ông Maroš Šefčovič đứng ra chủ trì buổi lễ này. Có thể thấy là mọi chuyện đang đi vào quy củ với Việt Nam theo chiều hướng năng động được hình thành từ Hiệp định Tự do Thương mại ký vào năm 2019 và phê chuẩn năm 2020 và vẫn đang tiếp tục cho kết quả dù chậm nhưng chắc. Dĩ nhiên cũng phải chú ý đến bối cảnh quốc tế khó khăn hiện nay nhưng tôi tin Liên Hiệp Châu Âu phải tái khẳng định gắn kết với khuôn khổ đa phương dựa trên quy định luật pháp rõ ràng và tin cậy. Bởi vì, đối với các doanh nghiệp châu Âu chúng tôi, ở rất xa châu Âu, điều quan trọng là phải có được khuôn khổ ổn định, rõ ràng, dự đoán được chứ không phải chịu ảnh hưởng từ những sự kiện, những “rối loạn” gây bất ổn. Khi người ta đầu tư, nhất là ở nước ngoài, đó là những khoản tiền khá lớn, cần nhiều năm mới khấu hao được đầu tư, vì thế có được niềm tin như vậy là điều rất quan trọng.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn ông Jean-Jacques Bouflet, phó chủ tịch phụ trách Chính sách tại Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam EuroCham.

Noticias de América
‘La mayoría de las investigaciones por homicidio en México nunca llegan ante un juez', denuncia HRW

Noticias de América

Play Episode Listen Later Feb 20, 2025 2:37


En un informe publicado el 19 de febrero, Human Rights Watch concluye que hay graves falencias en la investigación de homicidios dolosos en México. La mayoría de los procesos no avanzan y a menudo se cierran o se archivan sin que lleguen a un juez. En el informe también aseguran que "la politización de la justicia y la militarización no ayudan a reducir la violencia criminal". Hablamos con Tyler Mattiace, investigador para México de HRW.  RFI: ¿Por qué ustedes aseguran en el informe que hay graves falencias en la investigación de homicidios en México? Tyler Mattiace: Este informe se enfocó específicamente en el tema de homicidios dolosos y encontramos que sólo el 17% de todos los homicidios, desde 2010 a 2022, fueron esclarecidos, con un sospechoso identificado. Y como la mitad de esos casos, o sea el 9%, llegaron a una sentencia. Así que realmente el problema grave aquí es por una falta de capacidades humanas y materiales, por coordinación ineficaz, por problemas con la protección de víctimas y la participación de víctimas y testigos en las investigaciones. La mayoría de las investigaciones por homicidio en México nunca llegan ante un juez. RFI: ¿Cuáles son los mayores retos que enfrenta la justicia mexicana? Tyler Mattiace: Uno de los retos mayores que enfrenta en casi todo el país es que la mayoría de las personas que podrían ser testigos en investigaciones tienen muchísimo miedo de compartir información porque podrían enfrentar represalias. Pero las fiscalías en el país no están cumpliendo con su obligación de protección efectiva a las víctimas y a los testigos. Y muchísimos casos, que nosotros documentamos en este informe, cayeron porque el testigo fue asesinado. RFI: ¿Qué recomendación hacen a la justicia mexicana a raíz de este informe? Tyler Mattiace: Concretamente, voy a mencionar algunos puntos. Uno es un esfuerzo a nivel nacional para fortalecer las capacidades en términos de capacitación y de recursos y materiales de todas las fiscalías, pero con un enfoque en las fiscalías en las partes del país con mayor tasa de violencia. Segundo, todas las fiscalías en el país deberían ser requeridas por ley de establecer planes de persecución penal estratégica que establecerían lineamientos para que los fiscales sepan cómo priorizar los casos porque tienen realmente altísimas cargas de trabajo y no les alcanza el tiempo. Y una recomendación importante es mejorar los mecanismos de supervisión y control en todas las fiscalías. Hay temas muy graves de abusos y corrupción que realmente impactan negativamente en las investigaciones. 

Noticias de América
‘La mayoría de las investigaciones por homicidio en México nunca llegan ante un juez', denuncia HRW

Noticias de América

Play Episode Listen Later Feb 20, 2025 2:37


En un informe publicado el 19 de febrero, Human Rights Watch concluye que hay graves falencias en la investigación de homicidios dolosos en México. La mayoría de los procesos no avanzan y a menudo se cierran o se archivan sin que lleguen a un juez. En el informe también aseguran que "la politización de la justicia y la militarización no ayudan a reducir la violencia criminal". Hablamos con Tyler Mattiace, investigador para México de HRW.  RFI: ¿Por qué ustedes aseguran en el informe que hay graves falencias en la investigación de homicidios en México? Tyler Mattiace: Este informe se enfocó específicamente en el tema de homicidios dolosos y encontramos que sólo el 17% de todos los homicidios, desde 2010 a 2022, fueron esclarecidos, con un sospechoso identificado. Y como la mitad de esos casos, o sea el 9%, llegaron a una sentencia. Así que realmente el problema grave aquí es por una falta de capacidades humanas y materiales, por coordinación ineficaz, por problemas con la protección de víctimas y la participación de víctimas y testigos en las investigaciones. La mayoría de las investigaciones por homicidio en México nunca llegan ante un juez. RFI: ¿Cuáles son los mayores retos que enfrenta la justicia mexicana? Tyler Mattiace: Uno de los retos mayores que enfrenta en casi todo el país es que la mayoría de las personas que podrían ser testigos en investigaciones tienen muchísimo miedo de compartir información porque podrían enfrentar represalias. Pero las fiscalías en el país no están cumpliendo con su obligación de protección efectiva a las víctimas y a los testigos. Y muchísimos casos, que nosotros documentamos en este informe, cayeron porque el testigo fue asesinado. RFI: ¿Qué recomendación hacen a la justicia mexicana a raíz de este informe? Tyler Mattiace: Concretamente, voy a mencionar algunos puntos. Uno es un esfuerzo a nivel nacional para fortalecer las capacidades en términos de capacitación y de recursos y materiales de todas las fiscalías, pero con un enfoque en las fiscalías en las partes del país con mayor tasa de violencia. Segundo, todas las fiscalías en el país deberían ser requeridas por ley de establecer planes de persecución penal estratégica que establecerían lineamientos para que los fiscales sepan cómo priorizar los casos porque tienen realmente altísimas cargas de trabajo y no les alcanza el tiempo. Y una recomendación importante es mejorar los mecanismos de supervisión y control en todas las fiscalías. Hay temas muy graves de abusos y corrupción que realmente impactan negativamente en las investigaciones. 

Noticias de América
¿Cuáles son las perspectivas para el turismo en Cuba tras la elección de Trump?

Noticias de América

Play Episode Listen Later Nov 26, 2024 2:26


Cuba perdió casi la mitad del turismo en los últimos años. En lo que va del 2024, el país recibió 1.718.636 personas, mientras que esa cifra superaba los 3.500.000 en el año 2019, antes de la pandemia del coronavirus, según publica un informe del Laboratorio de Ideas Siglo 21. Le hicimos tres preguntas al Profesor Arturo López Levy, experto en temas de América Latina y de política exterior norteamericana.   RFI: ¿Por qué se desplomó el número de turistas en Cuba? Arturo López Levy: La industria turística ha sido llamada desde el principio de los años 2000 la locomotora de la economía cubana. El secretario de Estado, Mike Pompeo, retornó a Cuba a la lista de países terroristas. En virtud de esto, los europeos no podían usar el sistema "Esta" para viajar a los Estados Unidos si habían visitado a Cuba, un país considerado como terrorista por el Departamento de Estado. En términos de la lucha contra la pandemia, Cuba terminó mucho antes que otros países, tenía una situación sanitaria mejor, pero con ese golpe el turismo europeo se resintió mucho. RFI: ¿Cuáles son las perspectivas para Cuba del nombramiento de Marco Rubio, de origen cubano, como secretario de Estado del Gobierno de Donald Trump? Arturo López Levy: Yo creo que las perspectivas son bastante negativas, porque Marco Rubio viene de ese sector de la política norteamericana que ha apostado tradicionalmente a la asfixia y ahogo total de la economía cubana, como forma de crear un vacío de poder y apostar a la recuperación del poder en Cuba de aquellos sectores que lo perdieron en 1959. RFI: ¿Qué medidas deberían implementarse para revertir esta situación del país? Arturo López Levy: Fidel Castro pudo hacer muchos más cambios después de la caída de la Unión Soviética. Raúl Castro empezó a hacer cambios sustanciales, pero con un excesivo gradualismo, y esa noción sigue dominando en la administración de Díaz Canel. Se ha llegado a un punto de deterioro tal en áreas como la seguridad energética y la seguridad alimentaria, con los cuales ante la falta de una oposición capaz de capitalizar eso, la sobrevivencia del país está en riesgo. 

Enfoque internacional
¿En qué consiste la condena de la CPI contra autoridades de Israel y de Hamas?

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Nov 22, 2024 2:25


La Corte Penal Internacional de La Haya emitió órdenes de detención contra el primer ministro israelí Benjamín Netanyahu, el exministro de Defensa israelí Yoav Gallant, y el líder del brazo armado de Hamás Mohamed Deif. Sobre el alcance de esta decisión, RFI entrevistó a Mariana Pena, abogada constitucionalista, experta en la CPI. La Corte Penal Internacional de La Haya emitió órdenes de detención contra el primer ministro israelí Benjamín Netanyahu, el ex-ministro de Defensa israelí Yoav Gallant, y el líder del brazo armado de Hamás Mohamed Deif, por crímenes de lesa humanidad y crímenes de guerra cometidos al menos desde el 8 de noviembre de 2023 hasta el 20 de mayo de 2024, informó la CPI.“La Corte Penal Internacional tenía una mirada ya de la situación en Palestina por crímenes tanto en la zona (de) Gaza como en la zona del West Bank, incluso con relación a la ocupación… Esos temas anteriores al 8 de octubre, no han sido objeto de esta investigación más reciente que lleva a las órdenes de arresto", afirmó la experta.RFI: ¿Qué crímenes está juzgando la Corte en el marco de esta decisión?Mariana Pena: La Corte Penal Internacional ya estaba mirando; ya estaba investigando la situación en territorio palestino cuando se desata el conflicto. Ahí la investigación se reorienta a los crímenes más actuales. Y es sobre eso que hoy emite la Corte Penal Internacional órdenes de arresto”, explico a RFI Mariana Pena, abogada constitucionalista, experta en la CPI. RFI: ¿Cuál es el siguiente paso en este proceso?Mariana Pena: La Corte Penal Internacional no puede en este momento iniciar un procedimiento sin el arresto de las personas que son objeto de estas órdenes... Estas órdenes de arresto se transmiten a todos los Estados que son parte de la Corte, más de 120, y dichos Estados pueden arrestar a estas personas cuando se presenten en su territorio. Una vez que sean arrestados, son transferidos a la Corte Penal Internacional y es a partir de ese momento que inician todos los pasos legales para llevar a la persona a juicio. Israel, como algunos otros Estados que no son parte de la Corte; por ejemplo, Estados Unidos no van a reconocer la existencia de estas órdenes de arresto y por supuesto, nos esperamos que no cooperen con la Corte. RFI: ¿La orden de la CPI tiene relación con la acusación ante la Corte de Justicia Internacional (CJI) interpuestas meses atrás por Sudáfrica, seguida de otros países, contra Israel por genocidio?Mariana Pena: No, sinceramente, ese es un procedimiento paralelo. Es muy importante lo que Sudáfrica está llevando a cabo ante otra Corte, también en La Haya, la Corte Internacional de Justicia (CIJ). Pero, la Corte Penal Internacional (CPI) a lo que apunta es a la responsabilidad penal de individuos y no a la responsabilidad del Estado por violaciones a las convenciones, que es lo que lleva adelante la CIJ. 

Enfoque internacional
La CFI del Banco Mundial anuncia la mayor inversión extranjera directa para Ucrania desde el inicio de la guerra

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Oct 10, 2024 13:03


La Corporación Financiera Internacional anuncia más de 400 millones de dólares como inversión extranjera directa para Ucrania para modernizar los servicios de telecomunicaciones. Se trata del mayor desembolso de este tipo desde el inicio del conflicto con Rusia. Pese a que dicha inversión podría estar en riesgo, esta sería una forma de apoyar a Ucrania y la Unión Europea y Francia se han portado garantes.  RFI entrevistó a Alfonso García vicepresidente para Europa, América Latina y el Caribe de la Corporación Financiera Internacional del grupo del Banco Mundial. Entrevista de Paola Ariza RFI:  ¿Cuál es la función principal de la Corporación Financiera Internacional? Esta es la parte del grupo Banco Mundial que invierte en el sector privado en países en desarrollo. El grupo Banco Mundial tiene dos grandes partes: Bird, el Banco de Reconstrucción, Inversión y Desarrollo que presta al sector público, a los gobiernos y el IFC la Corporación Financiera Internacional que presta a empresas del sector privado para potenciar el desarrollo de estos países. RFI: Hay un proyecto importante que ustedes están anunciando y es un programa de inversión para el servicio de telecomunicaciones en Ucrania. 435 millones de dólares en deuda a largo plazo. ¿En qué consiste? Esta es la inversión extranjera directa más grande que se ha hecho en Ucrania desde que la invasión de Rusia empezó. Por lo tanto, es una operación relevante desde ese punto de vista y lo que hace es permitir o facilitar la fusión de dos operadores de telecomunicaciones; una de las empresas que tiene banda ancha y la otra que es un operador de móviles. La fusión de estas dos va a permitir un mayor acceso y más eficiente a la economía digital. ¿Por qué es importante? Porque ahora mismo tienen estas dos empresas 10 millones de clientes de usuarios y proveen de internet a 4 millones de hogares en Ucrania y en medio de la invasión de Rusia y de la situación actual, la economía digital es absolutamente fundamental para la reconstrucción y el desarrollo de Ucrania. Es una operación de la cual nos sentimos muy orgullosos porque creemos que va a ayudar de forma significativa al país, a lidiar con la situación actual. RFI: ¿Por qué  es tan importante? Es decir, ¿porque ese sector de las telecomunicaciones y no por ejemplo, otros como la energía, la infraestructura, que también han sido muy dañados por la guerra? También estamos trabajando en esos otros sectores que son fundamentales, pero cuando uno piensa en el sector de telecomunicaciones, hay que tener en cuenta que tiene ramificaciones en muchos otros sectores, desde la persona que está en su casa y que quiere comprar algo por internet y que obviamente necesita tener acceso a internet para poder hacer eso hasta una PYME que o bien compra productos inputs para desarrollar su negocio o que vende a otros. También se necesita internet en la economía digital o hay ciudadanos y empresas que acceden a servicios financieros mediante canales digitales, mediante pago digital, o personas que puedan acceder a educación o a sanidad a través de internet a través de servicios que se proveen por canales digitales. El impacto que tiene es enorme.  Lo que se estima es que son prácticamente dos billones de dólares de pérdidas las que se han generado en el sector de telecomunicaciones desde que la invasión empezó. Es un sector que se ha visto muy dañado y un sector que cuando se desarrolla se potencia y se respalda, puede tener un impacto muy fuerte en el desarrollo económico y en el crecimiento económico, no por eso nos focalizamos en este ámbito como uno de los elementos que puede crear una mayor creación de empleo, un mayor dinamismo empresarial y una mayor normalización de la economía. RFI: En Ucrania hay una guerra que ha dañado como usted lo decía, la infraestructura en telecomunicaciones, también la energética con, por ejemplo, el 80% de las centrales terminales destruidas y ha afectado infraestructura física, pero la guerra no ha terminado. ¿Qué les garantiza que esta inversión no sufrirá daños? Es decir, que no se perderá. Nada nos garantiza que eso vaya a ocurrir, de hecho, es uno de los grandes riesgos y uno de los grandes aspectos por los cuales el IFC ha tenido la fortuna de contar con el apoyo del Gobierno francés y de la Comisión Europea con garantías que lo que nos permite es disminuir el riesgo que nosotros absorbemos y que los inversores absorben para invertir en este sector y por lo tanto facilitar que esto ocurra.  En el contexto actual de Ucrania, con la invasión de Rusia y con los bombardeos que se están produciendo de forma constante y continua, cualquier inversión a largo plazo en infraestructura, está ante la posibilidad de una potencial pérdida total de la inversión que se ha realizado, con lo cual es muy importante la inversión, pero al mismo tiempo es muy arriesgada. RFI: ¿Cuál es el interés de la Unión Europea y de países como Francia, por ejemplo, de portarse garantes en este tipo de inversiones que ya lo hemos dicho, es arriesgado?  La finalidad es precisamente potenciar o ayudar a que Ucrania tenga un mayor desarrollo económico y potenciar la actividad del sector privado, que al final es el principal proveedor de empleo. Entonces cuando los gobiernos occidentales o en ese caso la Comisión Europea o Francia, piensan ¿Cómo podemos ayudar a Ucrania? Hay diferentes formas en las que se puede ayudar a Ucrania. Una de ellas es mediante el respaldo al sector privado y dentro de ese respaldo al sector privado pensamos que telecomunicaciones será un buen sector para recibir las ayudas. Las garantías de la comisión y del Gobierno de Francia.  ¿Cómo funciona esto? Imagínense que invertimos en algo cuyo riesgo de pérdida total se estima en un 40 % esto lo que hace es que si usted me presta a mí, pero cree que yo tengo un 40% de probabilidad de que no le voy a devolver el dinero, me va a cobrar una tasa de interés elevadísima, porque dice,  como no sé si me va a devolver el dinero, le voy a cobrar una tasa muy alta y eso hace que sea inviable la inversión porque el receptor del préstamo no tiene capacidad de absorber una tasa de interés excesivamente elevada. Con la garantía, lo que haces es disminuir la pérdida esperada. Y, por lo tanto, consigues disminuir la tasa de interés hasta un nivel en que el préstamo sale rentable y puede absorberlo. Así, el sector privado puede invertir. Y, gracias a la inversión, genera empleo, genera consumo, genera actividad. RFI: ¿Realizar esto también tendría un impacto en la ciberseguridad ? Teniendo en cuenta que empresas de telecomunicaciones ucranianas han sufrido ciberataques, como se conoció, por ejemplo, a principio de año con el gigante Kyvstar  Systems. En este caso, hablamos también de empresas de telecomunicaciones.  Es un sector que puede verse afectado por esta tipología como cualquier otro. Yo creo que es un elemento absolutamente clave hoy en día en cualquier ámbito que tenga que ver con la tecnología. Pensemos en actividad financiera, actividad bancaria, modos de pago, el manejo de los datos en cualquier ámbito digital.  Yo creo que la posibilidad de un ciberataque existe en muchos ámbitos, pero por eso hay formas también de proteger y el IFC, la corporación financiera internacional realiza las debidas diligencias para estar seguros de que las empresas están bien protegidas ante la probabilidad o la posibilidad de que eso ocurra.  RFI: ¿Que sigue después, es decir, se hace la inversión, se mejora la red esperando que perdure ¿cuál es el paso a seguir tanto para el proyecto como para las empresas implicadas? ¿Cómo funciona esto? Ellas siguen sus operaciones y siguen sus inversiones y profundizando la digitalización de la economía, el llevar los servicios de telecomunicaciones y digitales a los hogares y a las empresas.  Cuando el préstamo vence, ellos nos devuelven el préstamo que les hemos concedido y realizamos al mismo tiempo otra serie de inversiones.  El Banco Mundial estima que son 500 billones de dólares, las necesidades de inversión que tiene Ucrania para la reconstrucción, cuando hablamos de 500 billones de dólares, lo que estamos hablando hoy es una pequeña gotita en algo que es gigante. Vamos a tener que realizar enormes inversiones en Ucrania, la reconstrucción va a costar mucho dinero y es muy importante involucrar al sector privado porque con dinero público no va a ser posible, no existe capacidad para financiar todas esas inversiones que son necesarias en el país. Por lo tanto, operaciones como estas, donde se señala la confianza en que el sector privado puede funcionar en que el sector privado puede invertir, son necesarias garantías para iniciar ese tipo de inversiones.  RFI: ¿Y, ¿cuáles son esas otras necesidades principales de las de las que usted habla? El sector energético es fundamental y es uno de los sectores que más perdidas está teniendo o ha tenido en Ucrania. Sin energía es difícil pensar en actividad productiva. También logística y transporte, se han destruido enormes elementos de transporte y de logística del país, desde carreteras, puentes, puertos, aeropuertos, etcétera.  y yo diría que un tercer ámbito clave es la vivienda. La pérdida de vivienda y la destrucción de vivienda ha sido salvaje en Ucrania y hay que tener en cuenta que hay 6 millones de ucranianos que han abandonado el país, son emigrantes que se espera que Ucrania pueda volver a atraerlos y eso va a generar una demanda de vivienda muy significativa. 

Vida en el Planeta
Descubren un tesoro de biodiversidad en las costas de Chile y Perú

Vida en el Planeta

Play Episode Listen Later Mar 11, 2024 13:43


Científicos de varios países exploran actualmente las aguas profundas del Pacífico, una región poco visitada y mal conocida. RFI habló con el jefe científico de esta expedición del Schmidt Ocean Institute que permitió identificar cerca de 100 especies marinas nuevas. Entre la comunidad científica circula la idea de que conocemos mejor la superficie de la luna que el fondo de los océanos de nuestro planeta tierra. Actualmente, menos del 1% de los fondos marinos fueron debidamente cartografiado. Y fue precisamente para mejorar el conocimiento del océano que una expedición marina zarpó del puerto de Valparaíso en febrero, financiada por el instituto filantrópico Schmidt Ocean, con destino a los montes submarinos de las costas chilenas y peruanas.Hasta finales de abril, a bordo del barco Falkor, un equipo de científicos internacionales explorará los montes submarinos de las dorsales de Nazca y Salas y Gómez. El biólogo de la Universidad Católica del Norte en Coquimbo, Chile, Javier Sellanes dirigió una primera expedición y antes de embarcarse para la segunda parte de esta exploración en marzo-abril, habló con RFI sobre la extraordinaria biodiversidad que descubrió su equipo gracias a un robot submarino.RFI: ¿Cuáles son los objetivos de esta misión?Javier Sellanes: Estos montes submarinos aquí de los dorsales de Nazca y de Salas y Gómez son remotos y muy poco explorados. Y lo que sabemos es más bien para la parte superficial, para las cimas de los montes. La idea de este en crucero era explorar un poco la parte más profunda, las laderas de los montes submarinos. RFI: ¿Hablamos de qué profundidad aproximadamente? Javier Sellanes: El objetivo era de los 2000 m hasta los 1000 m de profundidad. En algunos casos llegamos incluso a la cima de los montes que están entre los 500 y 20 metros de profundidad.RFI: Javier Sellanes, háblenos de los equipos científicos que utilizaron para explorar el océano profundo. Desde el navío Falkor, operaron un robot submarino llamado SuBastian.Javier Sellanes: El Falkor es la plataforma. Y su robot submarino el SuBastian, es un vehículo con capacidad para ir a 4500 m de profundidad y está con diversas cámaras que filman en muy buena resolución y que tiene capacidad de tomar muestras. Tiene dos brazos robóticos de última generación que permiten tomar muestras, muestras de agua, puede ir registrando datos oceanográficos en tiempo real, o sea que es una plataforma de investigación fantástica de última tecnología. Además, el barco bueno cuenta también con capacidades para mapeo del fondo submarino, muy avanzadas también para datos oceanográficos.Otro de los equipos que utilizamos en este crucero es un Lander, un módulo autónomo que puede estar cargado con distintos paquetes de investigación con distintos sensores, en este caso con trampas para capturar anfípodos que son unos crustáceos, por muy característicos de estas profundidades. Se deja un tiempo en el fondo, en este caso para que capturara a estas especies de crustáceos y transcurrido este tiempo el barco, por decirlo de alguna manera, lo llama entonces el equipo de este vuelve a la superficie.  RFI: Tras esta primera expedición, han indicado haber descubierto 100 especies marinas nuevas. ¿De qué se trata?Javier Sellanes: Nosotros teníamos registradas 400 especies para esta zona y ahora agregamos 200 más. Una de las características que tiene esta zona es el nivel de endemismo. Casi la mitad o más de la mitad de las especies que viven en esta zona son exclusivas de esta zona. No hay en ninguna otra parte del mundo. Entonces tú cuando recolectas especies en esta zona hay, altísimas chances de que sean especies nuevas para la ciencia. Tenemos por ejemplo un grupo emblemático de esponjas de mar, por ejemplo. En esta zona para la zona había solo registradas dos formalmente dos especies de esponjas y nosotros logramos recolectar al menos 40 especies distintas.Y así también con otras especies de corales, por ejemplo, probablemente tenemos. también 40 o 50 especies distintas de corales y a eso le podemos sumar crustáceos, moluscos y otros grupos que hemos visto.Así que incluso 100 especies es un número un poco conservativo, es decir, y es en base solo a lo que nosotros logramos recolectar. RFI: ¿Cómo explicar que algunas especies puedan vivir? Sobrevivir a 2000 m de profundidad con poca luz y una fuerte presión del agua. Javier Sellanes: ¡Quizás las especies que vienen a 2000 m de profundidad se preguntarán lo mismo de nosotros! ¿Cómo pueden vivir en la superficie con toda salud y sin esa presión? Son adaptaciones que tienen justamente para vivir a esa a esa profundidad. Quizás la presión para ellos no es un problema porque sea una siempre han vivido en esa en esa presión.Uno de los factores limitantes obviamente es el alimento. Viene principalmente del fitoplancton, que son estas algas microscópicas que están en la superficie y después eso se transfiere hacia la profundidad. Entonces, claro, si el alimento a esa profundidad es limitante, entonces las especies tienen distintas adaptaciones para, por ejemplo, alimentarse una vez cada tanto tiempo y después tener un metabolismo muy lento que le permita almacenar esa energía hasta el próximo evento en el que van a poder alimentarse.Quizás esa es una de las adaptaciones principales para vivir a esa profundidad: manejar el tema este de la energía, conservarla. Por eso muchas especies de esta zona son especies con movimientos lentos, que ahorran conservan su energía.   RFI: ¿Por qué es importante a nivel científico, seguir explorando las profundidades marinas? Javier Sellanes: Para conocer lo que tenemos en estos hábitats tan maravillosos, tan fantásticos, conocer esta diversidad única y de esta forma poder implementar mejores medidas de protección a futuroUna de las características que tiene esta zona es el nivel de endemismo de la fauna. Más de la mitad la fauna que está ahí, solo está en esta parte del mundo. Si se pierde ahí se pierde para el Mundo, se pierde para la humanidad. Y entonces son además hábitats muy frágiles. Son zonas remotas que están muy poco alteradas por acción antropogénica (acción del hombre), entonces son muy sensibles a cambio.  Uno de los problemas en estos montes submarinos es que como atraen fauna también, atraen recursos pesqueros. Entonces las pesquerías de ciertas especies en muchos montes submarinos son muy importantes. En estos montes todavía no hay no hay acción pesquera demasiado evidente, pero cuando empieza a ver esta acción pesquera por la fragilidad que tienen estos montes submarinos, se ven alterados muy rápidamenteEntonces la importancia de esto es primero conocer lo que tenemos, darle la relevancia que tiene a estos hábitats la importancia que tiene en el contexto de la biodiversidad. Y también en base a esto, tratar de generar a futuro mejores medidas de protección de la que ya tienen algunos. Ya en esta expedición fuimos a montes que algunos no tienen ninguna medida de protección u otros que están en parques marinos y otros que están en áreas protegidas, pero que inclusotambién se puede hacer pesca. RFI: ¿Cuánto nos falta por conocer en las profundidades de los océanos? Javier Sellanes: Siempre se está refiriendo a que conocemos más la superficie de luna que el fondo de los océanos.Es una fracción muy baja lo que está mapeado del fondo marino. Por eso es que una de las noticias también de esta expedición es que se logró cartografiar completamente un monte submarino y otros 3 también. Cuatro montes submarinos en total.  No sé si el 10 o el 15% del fondo marino está cartografiado apropiadamente. Eso no nos permite conocer muy bien los hábitats que hay en estos fondos marinos. De la fauna que vive en estos fondos, es lo mismo. En 35 días de exploración uno puede encontrar decenas de especies nuevas para la ciencia. Y eso una lo podría extrapolar, quizás a la vastedad del océano. Mucho todavía lo que nos falta por conocer del océano, del fondo, de su topografía, de los animales que viven en estas profundidades. RFI: ¿Cuál es la ruta de la segunda expedición?Javier Sellanes: En el crucero anterior nosotros exploramos montes submarinos de las dorsales de Nazca y la de Juan Fernández. El próximo crucero zarpó el 24 de febrero hacia los montes submarinos de las dorsales de Salas y Gómez. Comienza, por decirlo así, en Isla de Pascua, en Rapa Nui y se extiende a partir de ahí hacia el continente.Y recordar siempre también que todas las inmersiones del robot se transmiten en vivo. Todo el Mundo puede acceder en tiempo real a lo que está viendo el robot en el canal Youtube Smith Ocean Institute. 

Noticias de América
¿Abinader pone rumbo a su reelección como presidente de República Dominicana?

Noticias de América

Play Episode Listen Later Feb 20, 2024 2:40


El partido del presidente dominicano, Luis Abinader, fue el ganador de las elecciones municipales de este fin de semana, un triunfo que, según expertos, abre el camino a su reelección en las presidenciales de mayo. Luis Abinader pone rumbo a su reelección como presidente de República Dominicana tras la victoria aplastante de su Partido Revolucionario Moderno en las elecciones locales realizadas el pasado fin de semana. Aun con los datos provisionales, el PRM, habría obtenido la victoria en 30 de las 32 provincias dominicanas. Un triunfo que lo consolida como el primer partido político del país a tan sólo tres meses de que se celebren las elecciones generales y presidenciales.Análisis del politólogo internacionalista dominicano, Luis González.RFI: ¿Cuáles serían las claves de la victoria apabullante del PRM en las elecciones locales del país? Politólogo Luis González: El gobierno del presidente Luis Abinader y él, como persona, está bien medido todavía, independientemente del desgaste de cuatro años. Llegó al poder en momentos difíciles para el planeta con la pandemia y aún así él ha mantenido a flote el país. La economía está entre 4.ª y 5.ª de mayor crecimiento en América Latina y el Caribe. Somos la potencia turística del Caribe, superando 10.3 millones de turistas. Inversión extranjera, alianza público privada. Creo que esa ha sido la razón. Y segundo, que la oposición, desafortunadamente, aunque plantearon que iban a una unidad, no hubo tal unidad y es todo lo contrario. Yo creo que está más dividida que nunca. Precisamente es significativo que los opositores PLD, la Fuerza del Pueblo y el Partido de la Revolución Dominicana, el PRD, hayan constituido la alianza de rescate llamada RD. ¿Esta es la única vía, la única opción de derrocar a Betancur en las elecciones generales?Es que precisamente le decía ellos han planteado eso, pero eso es semántico. Realmente no hay tal unidad. Creo que el presidente Luis Abinader va a ganar en la primera vuelta, aún se unan, aún estén consolidados. Se puede hacer la lectura de que el dominio político del Partido Revolucionario Moderno obedece también al cansancio que pudo ejercer en la ciudadanía esos años seguidos en los que gobernó el Partido de Liberación Dominicano, hoy el mayor partido de la oposición. Sí, totalmente de acuerdo. Venían de 16 años consecutivos (2004- 2020). Es más difícil para ellos conectar. ¿Cómo pueden decir que van a resolver los problemas nacionales y tuvieron 20 años, 16 consecutivos y no los resolvieron? Es complicado para ellos. Mientras tienen a un partido que se está consolidando. Leer también'República Domicana no puede pacificar sola a Haití', dice analista Iván GatónEl presidente en funciones, Luis Abinader y el exmandatario Leonel Fernández, serán los dos grandes candidatos en la pugna por la presidencia dominicana el domingo 19 de mayo, sin que ningún candidato supere el 50% de los sufragios. La segunda vuelta estaría prevista para el 30 de junio. 

Noticias de América
¿Abinader pone rumbo a su reelección como presidente de República Dominicana?

Noticias de América

Play Episode Listen Later Feb 20, 2024 2:40


El partido del presidente dominicano, Luis Abinader, fue el ganador de las elecciones municipales de este fin de semana, un triunfo que, según expertos, abre el camino a su reelección en las presidenciales de mayo. Luis Abinader pone rumbo a su reelección como presidente de República Dominicana tras la victoria aplastante de su Partido Revolucionario Moderno en las elecciones locales realizadas el pasado fin de semana. Aun con los datos provisionales, el PRM, habría obtenido la victoria en 30 de las 32 provincias dominicanas. Un triunfo que lo consolida como el primer partido político del país a tan sólo tres meses de que se celebren las elecciones generales y presidenciales.Análisis del politólogo internacionalista dominicano, Luis González.RFI: ¿Cuáles serían las claves de la victoria apabullante del PRM en las elecciones locales del país? Politólogo Luis González: El gobierno del presidente Luis Abinader y él, como persona, está bien medido todavía, independientemente del desgaste de cuatro años. Llegó al poder en momentos difíciles para el planeta con la pandemia y aún así él ha mantenido a flote el país. La economía está entre 4.ª y 5.ª de mayor crecimiento en América Latina y el Caribe. Somos la potencia turística del Caribe, superando 10.3 millones de turistas. Inversión extranjera, alianza público privada. Creo que esa ha sido la razón. Y segundo, que la oposición, desafortunadamente, aunque plantearon que iban a una unidad, no hubo tal unidad y es todo lo contrario. Yo creo que está más dividida que nunca. Precisamente es significativo que los opositores PLD, la Fuerza del Pueblo y el Partido de la Revolución Dominicana, el PRD, hayan constituido la alianza de rescate llamada RD. ¿Esta es la única vía, la única opción de derrocar a Betancur en las elecciones generales?Es que precisamente le decía ellos han planteado eso, pero eso es semántico. Realmente no hay tal unidad. Creo que el presidente Luis Abinader va a ganar en la primera vuelta, aún se unan, aún estén consolidados. Se puede hacer la lectura de que el dominio político del Partido Revolucionario Moderno obedece también al cansancio que pudo ejercer en la ciudadanía esos años seguidos en los que gobernó el Partido de Liberación Dominicano, hoy el mayor partido de la oposición. Sí, totalmente de acuerdo. Venían de 16 años consecutivos (2004- 2020). Es más difícil para ellos conectar. ¿Cómo pueden decir que van a resolver los problemas nacionales y tuvieron 20 años, 16 consecutivos y no los resolvieron? Es complicado para ellos. Mientras tienen a un partido que se está consolidando. Leer también'República Domicana no puede pacificar sola a Haití', dice analista Iván GatónEl presidente en funciones, Luis Abinader y el exmandatario Leonel Fernández, serán los dos grandes candidatos en la pugna por la presidencia dominicana el domingo 19 de mayo, sin que ningún candidato supere el 50% de los sufragios. La segunda vuelta estaría prevista para el 30 de junio. 

Noticias de América
‘Palestina no es Hamás': entrevista con Álvaro Leyva, canciller de Colombia

Noticias de América

Play Episode Listen Later Nov 11, 2023 4:30


Gustavo Petro ha evitado condenar el ataque del grupo islamista del 7 de octubre, pero sí ha acusado al primer ministro israelí Bejamin Netanyahu de crímenes de guerra, y además apoya la iniciativa de Argelia para llevar al dirigente israelí a la Corte Penal Internacional (CPI). El canciller colombiano Álvaro Leyva estuvo presente en el “Foro de París sobre la Paz” y durante su paso por la capital francesa habló con RFI sobre la postura del gobierno colombiano en el conflicto palestino-israelí. El mandatario argelino, Abdelmadjid Tebboune, publicó un mensaje dirigido a los defensores de los derechos humanos pidiéndoles que llevaran a Israel ante la CPI por los “crímenes que está cometiendo contra los palestinos en Gaza”. Tebboune considera que sólo así se podría acabar con una “impune ocupación israelí” realizada durante décadas.El pasado 9 de noviembre, Petro publicó en su red social X que "Colombia va a coadyuvar" la propuesta argelina.RFI: ¿Qué significa la iniciativa de ‘coadyuvar' la denuncia de Argelia interpuesta ante la Corte Penal Internacional por crímenes de guerra contra Benjamin Netanyahu?Álvaro Leyva: Esto significa que tendría más interés para que haya una visión de justicia más amplia. El presidente dijo “coadyuvar a Argelia” pero en realidad se coadyuva la ‘filosofía' [de la propuesta] pues Argelia no forma parte de la Corte Penal Internacional.RFI: Tampoco Israel.Álvaro Leyva: Efectivamente, tampoco Israel, pero eso no quiere decir que no haya que buscar una solución. Veamos el caso de Rusia, en el cual también se está actuando a través de la CPI: son llamados de atención y yo creo que son propicios.RFI: ¿Por qué Gustavo Petro no ha condenado el ataque de Hamás contra civiles, en el cual murieron 1 400 personas, además de los secuestros?Álvaro Leyva: Es una manera de ver las cosas. Él lo que condena es la integridad y la intensidad del conflicto. Y para dirimir el conflicto, él se basa en una decisión que no es de hoy ni de hace cinco ni diez años. Se trata de la decisión de 1947, y que no se ha querido aplicar: reconocer dos naciones con fronteras claras, dos países, dos Estados, y que se tienen que respetar el uno al otro. En su origen milenario, se trata de una sola comunidad que surge en Mesopotamia.  Y si hablamos de Hamás, pues se le puede atacar hoy, pero mañana aparecerán diez.RFI:  El mandatario colombiano se ha abstenido de condenar el pogromo del 7 de octubre, no obstante ha hecho una equivalencia acusatoria entre la Franja de Gaza y los campos de concentración de Auschwitz que para muchos es chocante.Álvaro Leyva: Lo dejo a su juicio de valor…RFI: ¿Usted no tiene uno?Álvaro Leyva: ¿Es chocante? Claro que todo es chocante. ¡Qué más chocante que ver caer a los niños de un lado y otro como si nada hubiera ocurrido!RFI: ¿Se puede construir la paz con Hamás, que gobierna la Franja de Gaza después de haber ganado las elecciones y en cuya carta fundacional tiene la eliminación de Israel y de los judíos?Álvaro Leyva: Palestina no es Hamás. No se le puede atribuir a los niños palestinos esta barbaridad. Esto no se puede hacer porque se perdería toda autoridad moral.RFI: ¿Cuál sería entonces el interlocutor palestino para hablar sobre los procesos de paz?  Álvaro Leyva: Para encontrar un interlocutor, primeramente, ambas partes deben detener las hostilidades. Un alto al fuego. Después, convocar a una conferencia mundial en la que tienen que participar todos. No sólo los amigos de un sólo lado. Yo me he tomado la libertad de hablar con varias personas. Me han llamado de Arabia Saudita para decirme que la posición de Gustavo Petro ayuda. El mandatario colombiano no es un “sabelotodo”, pero es una posición que, por fortuna, hoy comienza a darle la razón.

Noticias de América
‘Palestina no es Hamás': entrevista con Álvaro Leyva, canciller de Colombia

Noticias de América

Play Episode Listen Later Nov 11, 2023 4:30


Gustavo Petro ha evitado condenar el ataque del grupo islamista del 7 de octubre, pero sí ha acusado al primer ministro israelí Bejamin Netanyahu de crímenes de guerra, y además apoya la iniciativa de Argelia para llevar al dirigente israelí a la Corte Penal Internacional (CPI). El canciller colombiano Álvaro Leyva estuvo presente en el “Foro de París sobre la Paz” y durante su paso por la capital francesa habló con RFI sobre la postura del gobierno colombiano en el conflicto palestino-israelí. El mandatario argelino, Abdelmadjid Tebboune, publicó un mensaje dirigido a los defensores de los derechos humanos pidiéndoles que llevaran a Israel ante la CPI por los “crímenes que está cometiendo contra los palestinos en Gaza”. Tebboune considera que sólo así se podría acabar con una “impune ocupación israelí” realizada durante décadas.El pasado 9 de noviembre, Petro publicó en su red social X que "Colombia va a coadyuvar" la propuesta argelina.RFI: ¿Qué significa la iniciativa de ‘coadyuvar' la denuncia de Argelia interpuesta ante la Corte Penal Internacional por crímenes de guerra contra Benjamin Netanyahu?Álvaro Leyva: Esto significa que tendría más interés para que haya una visión de justicia más amplia. El presidente dijo “coadyuvar a Argelia” pero en realidad se coadyuva la ‘filosofía' [de la propuesta] pues Argelia no forma parte de la Corte Penal Internacional.RFI: Tampoco Israel.Álvaro Leyva: Efectivamente, tampoco Israel, pero eso no quiere decir que no haya que buscar una solución. Veamos el caso de Rusia, en el cual también se está actuando a través de la CPI: son llamados de atención y yo creo que son propicios.RFI: ¿Por qué Gustavo Petro no ha condenado el ataque de Hamás contra civiles, en el cual murieron 1 400 personas, además de los secuestros?Álvaro Leyva: Es una manera de ver las cosas. Él lo que condena es la integridad y la intensidad del conflicto. Y para dirimir el conflicto, él se basa en una decisión que no es de hoy ni de hace cinco ni diez años. Se trata de la decisión de 1947, y que no se ha querido aplicar: reconocer dos naciones con fronteras claras, dos países, dos Estados, y que se tienen que respetar el uno al otro. En su origen milenario, se trata de una sola comunidad que surge en Mesopotamia.  Y si hablamos de Hamás, pues se le puede atacar hoy, pero mañana aparecerán diez.RFI:  El mandatario colombiano se ha abstenido de condenar el pogromo del 7 de octubre, no obstante ha hecho una equivalencia acusatoria entre la Franja de Gaza y los campos de concentración de Auschwitz que para muchos es chocante.Álvaro Leyva: Lo dejo a su juicio de valor…RFI: ¿Usted no tiene uno?Álvaro Leyva: ¿Es chocante? Claro que todo es chocante. ¡Qué más chocante que ver caer a los niños de un lado y otro como si nada hubiera ocurrido!RFI: ¿Se puede construir la paz con Hamás, que gobierna la Franja de Gaza después de haber ganado las elecciones y en cuya carta fundacional tiene la eliminación de Israel y de los judíos?Álvaro Leyva: Palestina no es Hamás. No se le puede atribuir a los niños palestinos esta barbaridad. Esto no se puede hacer porque se perdería toda autoridad moral.RFI: ¿Cuál sería entonces el interlocutor palestino para hablar sobre los procesos de paz?  Álvaro Leyva: Para encontrar un interlocutor, primeramente, ambas partes deben detener las hostilidades. Un alto al fuego. Después, convocar a una conferencia mundial en la que tienen que participar todos. No sólo los amigos de un sólo lado. Yo me he tomado la libertad de hablar con varias personas. Me han llamado de Arabia Saudita para decirme que la posición de Gustavo Petro ayuda. El mandatario colombiano no es un “sabelotodo”, pero es una posición que, por fortuna, hoy comienza a darle la razón.

Noticias de América
'La seguridad en la Amazonía es un pilar que debemos reactivar': director de la OTCA

Noticias de América

Play Episode Listen Later Aug 8, 2023 9:19


Se abre la cumbre de países de la Amazonía, con la intención de que los presidentes de la región puedan exponer sus preocupaciones y alternativas en su empeño por salvar el pulmón de la tierra. La cita se presenta como un llamado de urgencia para frenar las altas tasas de deforestación en la Amazonía, así como el extractivismo y la agresión contra sus culturas e identidades. Carlos Lazary es el director ejecutivo de la Organización del Tratado de Cooperación Amazónica. La Organización del Tratado de Cooperación Amazónica es un organismo intergubernamental construido por ocho países miembros Bolivia, Brasil, Colombia, Ecuador, Guyana, Perú, Surinam y Venezuela. Es el único bloque socio ambiental de países dedicado a la Amazonía. La última reunión de presidentes de los países miembros se realizó en el 2009 en la ciudad de Manaos, Brasil. Anteriormente se habían reunido en 1989 y en 1992.RFI: ¿Cuáles son los objetivos principales de esta cumbre 2023?Carlos Lazary: Es fortalecer la cooperación amazónica y la institución que los países han creado para lidiar con este tema, la Organización del Tratado de Cooperación Amazónica, que ahora cumple 21 años. Este año, el tratado ya tiene 45 años y el objetivo es generar todo un avance en materia de monitoreo de la Amazonía y de incorporación de otros actores en ese proceso de construcción de la cooperación.Incluye entes subnacionales, los gobiernos estatales, las alcaldías, la participación de la población de la región amazónica, que son más de 40 millones de personas, los pueblos indígenas, los ribereños u otras comunidades locales.Hay otros objetivos como retomar las redes de diálogo y cooperación entre las universidades y los centros de investigación. La Cumbre va a reforzar también la producción en la región de la mejor información disponible y garantizar que ésta sea la base para las políticas públicas en la región.Los problemas son comunes y las soluciones deben ser de todos, en conjunto. Por ejemplo, el tema del mercurio, los temas de la salud en la región, la disminución de la biodiversidad, el tema de recursos hídricos, el monitoreo de la calidad del agua, el flujo de los ríos.Todo esto formará parte de la declaración y creo que eso va a ser reforzado en los discursos de los presidentes ahora en Belém, después en Nueva York, en la Asamblea General de la ONU, y más tarde en la COP28 de Dubái.Leer tambiénCumbre en Brasil busca hoja de ruta para salvar la AmazoníaRFI: ¿No será lo más difícil poner de acuerdo a todos los países miembros en un frente común?Carlos Lazary: Hay muchos denominadores comunes. Lo que hemos logrado hasta ahora aprobar por unanimidad son los programas de bosques, el programa de biodiversidad, el memorando de manejo integral de fuego. Incluso un gran proyecto que acabamos de aprobar y que inicia a fines de este año: el mapeo de los acuíferos en toda la región amazónica, lo que va al acceso a agua potable, agua fresca de calidad. Los países han apoyado todo un trabajo con el Banco Interamericano de Desarrollo para enfrentar los problemas de saneamiento básico de ciertos sólidos y también la cuestión del plástico.RFI: En la reunión previa, la Secretaría de la OTCA anunciaba que falta una mayor presencia del Estado para enfrentar los crímenes que se han incrustado en la Amazonía, como los ilícitos ambientales.Carlos Lazary:  Era una parte importante de la Organización de Naciones Sudamericanas, la Unasur, que infelizmente considero es un revés diplomático de los países. Dejaron que se desactivara esa organización y creo que el gobierno Lula hace muy bien de tratar de impulsar su reactivación.Tenía avances en temas de confianza, de infraestructura y logística y de seguridad pública, apuntando específicamente a los temas de los ilícitos en toda la región, incluyendo la Amazonía. Esos eran los tres pilares grandes de la Unasur. Pero como la Unasur todavía no está reactivada, estamos listos para trabajar en la cuestión de ilícitos, apenas tengamos el apoyo de los países. Mi opinión es que debemos empezar por un trabajo muy fuerte en materia de inteligencia.RFI: ¿Con qué se irá satisfecho después de estos dos días de cumbre?Carlos Lazary: Para nosotros es muy importante que se camine hacia la construcción de una voz amazónica, que los países puedan coincidir y llevar este compromiso a todos los foros. Mostrar que los países están efectivamente comprometidos en trabajar en conjunto. Al mismo tiempo tiene la capacidad y la voluntad de lidiar con ese gran desafío que es el desarrollo sostenible de la Amazonía. Estamos atentos a los discursos de los presidentes: que el compromiso sea con la mejor información científica disponible como base para la construcción de las políticas públicas.

Enfoque internacional
Rusia en África, una presencia multifacética

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Jul 28, 2023 2:21


Si bien Wagner es hoy la parte más visible de la presencia rusa en África, sus raíces remontan a la Guerra Fría y a las luchas de descolonización frente a las potencias europeas. Hoy el campo occidental intenta alinearla con su postura frente a Rusia, pero el pasado reciente no le facilita la tarea. Entrevistamos a Mira Milosevic, investigadora principal del Instituto Elcano para Rusia, Eurasia y los Balcanes.   RFI : En un reciente trabajo, usted destaca que para abordar la actual presencia rusa en África es imprescindible recordar el pasado: la Unión Soviética y la Guerra Fría.Mira Milosevic: En mí artículo, lo abordo como un retorno de Rusia a África, en el sentido de que Rusia estuvo muy presente en África durante la Guerra Fría y la Unión Soviética. Ha participado activamente en apoyo a la lucha contra el colonialismo en diferentes países africanos. Por eso lo llamo el retorno. Aunque Rusia, aparte de estas redes establecidas durante la Guerra Fría, también está usando la diplomacia empresarial en el sector de los recursos naturales, las campañas de desinformación, y también, muy activamente, al grupo paramilitar Wagner. Un grupo que vela por los intereses económicos y geopolíticos de Rusia en África.  RFI : ¿Hasta qué punto esa participación en la descolonización ha facilitado la presencia rusa en África en la actualidad? Mira Milosevic: La ha facilitado porque durante la Guerra Fría y esas luchas anticoloniales, se crearon sólidos lazos diplomáticos. Empezando por las Naciones Unidas, donde el instrumento diplomático de Rusia ejerce su influencia en el orden internacional, en este caso, particularmente en África. Rusia nunca ha sido allí un país colonialista, por lo tanto, no tiene el lastre de ese pasado como lo pueden tener por ejemplo Francia o Bélgica, y eso le facilita las cosas. Aparte de ese apoyo ideológico, aunque la ideología comunista ya no sea tan atractiva para los países africanos, el apoyo más importante ha sido la venta de armas, de sistemas de armamento, sobre todo en el norte de África, pero también en otros países como Zimbabue o Mozambique durante la Guerra Fría. Es decir, sólidos vínculos diplomáticos además del ámbito de la seguridad y la defensa. Vínculos que Rusia ha intentado aprovechar y que ahora está aprovechando. Sin olvidar la dimensión económica. Rusia no tiene tanto dinero como lo tiene China, pero lo que está haciendo Rusia y lo que ha hecho, es perdonar la enorme deuda de los países africanos y ellos están muy agradecidos. Una deuda contraída en el periodo de la Unión Soviética. Ya cuando formó parte del G8, incluso antes de su ruptura de cooperación con Occidente, Rusia empezó a perdonar la deuda -hablamos de unos 20 mil millones de de dólares. En la primera cumbre entre Rusia y África, Vladimir Putin anunció que Rusia iba a perdonar toda la deuda de todos los países africanos y esto también le facilita las cosas.  RFI : ¿Cuáles serían actualmente los objetivos de Rusia? Tal vez uno de los más importantes es el acceso a recursos naturales, ¿no?  Mira Milosevic: Rusia busca tener influencia en la región y ampliar su presencia geoestratégica para competir con Occidente, pero los recursos naturales, sobre todo la explotación minera (oro, diamantes, uranio, litio, materiales raros), que están en África, es uno de los mayores intereses de Rusia. Además, desde la guerra en Ucrania, las empresas que se dedican a la explotación de minas de oro, por ejemplo en Sudán, son el mayor instrumento de Rusia para evitar las sanciones, porque las sanciones están vinculadas al dólar. Si Rusia paga directamente en oro, de esta manera puede burlar las sanciones. Rusia es un país que tiene una enorme experiencia en las industrias de explotación minera, con instrumentos no muy modernos, pero que son accesibles para un mercado africano. Quiero decir que es una relación beneficiosa. No se trata de una explotación de los países africanos, sino de un intercambio donde Rusia intenta trasladar su conocimiento en esta materia.   RFI: Países como Francia tienen dificultades a posicionarse en este contexto como en el caso de Mali, donde los lazos coloniales son un obstáculo.Mira Milosevic: Se vio en Mali y también en Burkina Faso, pero sobre todo en Mali, donde el Gobierno había invitado a Francia para que le ayude a proteger a sus instituciones y sobre todo, en la lucha contra el islamismo radical y los grupos terroristas. Pero luego le ha pedido que se vaya. La situación en el Sahel es muy complicada y Mali es un paradigma de ello. Pero allí hay errores que no son sólo de Francia. El error más grave -desde mi punto de vista- ha sido intervenir en Libia y esto fue una decisión de las Naciones Unidas y de la OTAN, no sólo de Francia. Y esa operación, francamente, ha fracasado. El armamento y el caos que se produjo en Libia, se ha ido trasladando hacia Mali. Francia no tiene buena fama por ser un país que ha sido colonialista en África, como también Bélgica. El debate sobre el colonialismo, supongo que es incómodo y desagradable para los países que fueron colonialistas. Es un debate muy complicado. Es un tema muy complejo y muy difícil de evocar.  El ejemplo de Francia en Mali es un ejemplo de un país que hasta ahora ha estado muy presente, hasta que Mali le dijo que se vaya. Pero este fracaso no se debe sólo a una mala política de Francia, sino a una desafortunada política de Occidente en África. RFI: Fracaso de una política occidental que tal vez ha dejado un vacío... Mira Milosevic: La geopolítica es como la física, donde hay un vacío, algo o alguien lo llena. Como con el fracaso occidental o de Francia en el caso de Mali. El gobierno de Mali llamó e invitó al grupo Wagner a ocupar este sitio, y por lo visto -según el Gobierno de Mali- Wagner ha sido más eficaz y eficiente que las tropas francesas. Se ve que los países que tienen un gobierno sólido, como por ejemplo Etiopía, tienen buenas relaciones con Rusia. Las relaciones no salen de un marco legal, son unas relaciones bilaterales normales. Sin embargo, gobiernos que tienen problemas con Occidente, que sufren sanciones o que son gobiernos con Estados fallidos y con una presencia del islamismo radical grande, por pura desesperación al final acuden a Rusia y al grupo Wagner para solucionar sus problemas. Me refiero a los países del Sahel, también a Sudán.Los paramilitares de Wagner son un grupo que está especializado en proteger a gobiernos corruptos de sátrapas y también a luchar contra el islamismo radical. Y hay que decir que vienen por invitación. No es algo que Rusia impone a estos países, sino que ellos la invitan. Primero porque Occidente no les hace caso. Segundo, porque pueden tener muchas sanciones por parte de Occidente. Y tercero, y quizás es lo más importante, porque tienen una inestabilidad interna que no saben cómo afrontar, producida por el terrorismo y por los grupos del islamismo radical.Wagner forma parte de una diplomacia paramilitar y no sabemos hasta dónde llegan los acuerdos entre los gobiernos locales africanos, el gobierno ruso y los paramilitares de Wagner. Seguramente hay allí algo que se nos escapa porque no son transparentes. 

Transformando la mente
Rusia en África, una presencia multifacética

Transformando la mente

Play Episode Listen Later Jul 28, 2023 2:22


Si bien Wagner es hoy la parte más visible de la presencia rusa en África, sus raíces remontan a la Guerra Fría y a las luchas de descolonización frente a las potencias europeas. Hoy el campo occidental intenta alinearla con su postura frente a Rusia, pero el pasado reciente no le facilita la tarea. Entrevistamos a Mira Milosevic, investigadora principal del Instituto Elcano para Rusia, Eurasia y los Balcanes.   RFI : En un reciente trabajo, usted destaca que para abordar la actual presencia rusa en África es imprescindible recordar el pasado: la Unión Soviética y la Guerra Fría.Mira Milosevic: En mí artículo, lo abordo como un retorno de Rusia a África, en el sentido de que Rusia estuvo muy presente en África durante la Guerra Fría y la Unión Soviética. Ha participado activamente en apoyo a la lucha contra el colonialismo en diferentes países africanos. Por eso lo llamo el retorno. Aunque Rusia, aparte de estas redes establecidas durante la Guerra Fría, también está usando la diplomacia empresarial en el sector de los recursos naturales, las campañas de desinformación, y también, muy activamente, al grupo paramilitar Wagner. Un grupo que vela por los intereses económicos y geopolíticos de Rusia en África.  RFI : ¿Hasta qué punto esa participación en la descolonización ha facilitado la presencia rusa en África en la actualidad? Mira Milosevic: La ha facilitado porque durante la Guerra Fría y esas luchas anticoloniales, se crearon sólidos lazos diplomáticos. Empezando por las Naciones Unidas, donde el instrumento diplomático de Rusia ejerce su influencia en el orden internacional, en este caso, particularmente en África. Rusia nunca ha sido allí un país colonialista, por lo tanto, no tiene el lastre de ese pasado como lo pueden tener por ejemplo Francia o Bélgica, y eso le facilita las cosas. Aparte de ese apoyo ideológico, aunque la ideología comunista ya no sea tan atractiva para los países africanos, el apoyo más importante ha sido la venta de armas, de sistemas de armamento, sobre todo en el norte de África, pero también en otros países como Zimbabue o Mozambique durante la Guerra Fría. Es decir, sólidos vínculos diplomáticos además del ámbito de la seguridad y la defensa. Vínculos que Rusia ha intentado aprovechar y que ahora está aprovechando. Sin olvidar la dimensión económica. Rusia no tiene tanto dinero como lo tiene China, pero lo que está haciendo Rusia y lo que ha hecho, es perdonar la enorme deuda de los países africanos y ellos están muy agradecidos. Una deuda contraída en el periodo de la Unión Soviética. Ya cuando formó parte del G8, incluso antes de su ruptura de cooperación con Occidente, Rusia empezó a perdonar la deuda -hablamos de unos 20 mil millones de de dólares. En la primera cumbre entre Rusia y África, Vladimir Putin anunció que Rusia iba a perdonar toda la deuda de todos los países africanos y esto también le facilita las cosas.  RFI : ¿Cuáles serían actualmente los objetivos de Rusia? Tal vez uno de los más importantes es el acceso a recursos naturales, ¿no?  Mira Milosevic: Rusia busca tener influencia en la región y ampliar su presencia geoestratégica para competir con Occidente, pero los recursos naturales, sobre todo la explotación minera (oro, diamantes, uranio, litio, materiales raros), que están en África, es uno de los mayores intereses de Rusia. Además, desde la guerra en Ucrania, las empresas que se dedican a la explotación de minas de oro, por ejemplo en Sudán, son el mayor instrumento de Rusia para evitar las sanciones, porque las sanciones están vinculadas al dólar. Si Rusia paga directamente en oro, de esta manera puede burlar las sanciones. Rusia es un país que tiene una enorme experiencia en las industrias de explotación minera, con instrumentos no muy modernos, pero que son accesibles para un mercado africano. Quiero decir que es una relación beneficiosa. No se trata de una explotación de los países africanos, sino de un intercambio donde Rusia intenta trasladar su conocimiento en esta materia.   RFI: Países como Francia tienen dificultades a posicionarse en este contexto como en el caso de Mali, donde los lazos coloniales son un obstáculo.Mira Milosevic: Se vio en Mali y también en Burkina Faso, pero sobre todo en Mali, donde el Gobierno había invitado a Francia para que le ayude a proteger a sus instituciones y sobre todo, en la lucha contra el islamismo radical y los grupos terroristas. Pero luego le ha pedido que se vaya. La situación en el Sahel es muy complicada y Mali es un paradigma de ello. Pero allí hay errores que no son sólo de Francia. El error más grave -desde mi punto de vista- ha sido intervenir en Libia y esto fue una decisión de las Naciones Unidas y de la OTAN, no sólo de Francia. Y esa operación, francamente, ha fracasado. El armamento y el caos que se produjo en Libia, se ha ido trasladando hacia Mali. Francia no tiene buena fama por ser un país que ha sido colonialista en África, como también Bélgica. El debate sobre el colonialismo, supongo que es incómodo y desagradable para los países que fueron colonialistas. Es un debate muy complicado. Es un tema muy complejo y muy difícil de evocar.  El ejemplo de Francia en Mali es un ejemplo de un país que hasta ahora ha estado muy presente, hasta que Mali le dijo que se vaya. Pero este fracaso no se debe sólo a una mala política de Francia, sino a una desafortunada política de Occidente en África. RFI: Fracaso de una política occidental que tal vez ha dejado un vacío... Mira Milosevic: La geopolítica es como la física, donde hay un vacío, algo o alguien lo llena. Como con el fracaso occidental o de Francia en el caso de Mali. El gobierno de Mali llamó e invitó al grupo Wagner a ocupar este sitio, y por lo visto -según el Gobierno de Mali- Wagner ha sido más eficaz y eficiente que las tropas francesas. Se ve que los países que tienen un gobierno sólido, como por ejemplo Etiopía, tienen buenas relaciones con Rusia. Las relaciones no salen de un marco legal, son unas relaciones bilaterales normales. Sin embargo, gobiernos que tienen problemas con Occidente, que sufren sanciones o que son gobiernos con Estados fallidos y con una presencia del islamismo radical grande, por pura desesperación al final acuden a Rusia y al grupo Wagner para solucionar sus problemas. Me refiero a los países del Sahel, también a Sudán.Los paramilitares de Wagner son un grupo que está especializado en proteger a gobiernos corruptos de sátrapas y también a luchar contra el islamismo radical. Y hay que decir que vienen por invitación. No es algo que Rusia impone a estos países, sino que ellos la invitan. Primero porque Occidente no les hace caso. Segundo, porque pueden tener muchas sanciones por parte de Occidente. Y tercero, y quizás es lo más importante, porque tienen una inestabilidad interna que no saben cómo afrontar, producida por el terrorismo y por los grupos del islamismo radical.Wagner forma parte de una diplomacia paramilitar y no sabemos hasta dónde llegan los acuerdos entre los gobiernos locales africanos, el gobierno ruso y los paramilitares de Wagner. Seguramente hay allí algo que se nos escapa porque no son transparentes. This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/3279343/advertisement

Música Cristiana
Rusia en África, una presencia multifacética

Música Cristiana

Play Episode Listen Later Jul 28, 2023 2:22


Si bien Wagner es hoy la parte más visible de la presencia rusa en África, sus raíces remontan a la Guerra Fría y a las luchas de descolonización frente a las potencias europeas. Hoy el campo occidental intenta alinearla con su postura frente a Rusia, pero el pasado reciente no le facilita la tarea. Entrevistamos a Mira Milosevic, investigadora principal del Instituto Elcano para Rusia, Eurasia y los Balcanes.   RFI : En un reciente trabajo, usted destaca que para abordar la actual presencia rusa en África es imprescindible recordar el pasado: la Unión Soviética y la Guerra Fría.Mira Milosevic: En mí artículo, lo abordo como un retorno de Rusia a África, en el sentido de que Rusia estuvo muy presente en África durante la Guerra Fría y la Unión Soviética. Ha participado activamente en apoyo a la lucha contra el colonialismo en diferentes países africanos. Por eso lo llamo el retorno. Aunque Rusia, aparte de estas redes establecidas durante la Guerra Fría, también está usando la diplomacia empresarial en el sector de los recursos naturales, las campañas de desinformación, y también, muy activamente, al grupo paramilitar Wagner. Un grupo que vela por los intereses económicos y geopolíticos de Rusia en África.  RFI : ¿Hasta qué punto esa participación en la descolonización ha facilitado la presencia rusa en África en la actualidad? Mira Milosevic: La ha facilitado porque durante la Guerra Fría y esas luchas anticoloniales, se crearon sólidos lazos diplomáticos. Empezando por las Naciones Unidas, donde el instrumento diplomático de Rusia ejerce su influencia en el orden internacional, en este caso, particularmente en África. Rusia nunca ha sido allí un país colonialista, por lo tanto, no tiene el lastre de ese pasado como lo pueden tener por ejemplo Francia o Bélgica, y eso le facilita las cosas. Aparte de ese apoyo ideológico, aunque la ideología comunista ya no sea tan atractiva para los países africanos, el apoyo más importante ha sido la venta de armas, de sistemas de armamento, sobre todo en el norte de África, pero también en otros países como Zimbabue o Mozambique durante la Guerra Fría. Es decir, sólidos vínculos diplomáticos además del ámbito de la seguridad y la defensa. Vínculos que Rusia ha intentado aprovechar y que ahora está aprovechando. Sin olvidar la dimensión económica. Rusia no tiene tanto dinero como lo tiene China, pero lo que está haciendo Rusia y lo que ha hecho, es perdonar la enorme deuda de los países africanos y ellos están muy agradecidos. Una deuda contraída en el periodo de la Unión Soviética. Ya cuando formó parte del G8, incluso antes de su ruptura de cooperación con Occidente, Rusia empezó a perdonar la deuda -hablamos de unos 20 mil millones de de dólares. En la primera cumbre entre Rusia y África, Vladimir Putin anunció que Rusia iba a perdonar toda la deuda de todos los países africanos y esto también le facilita las cosas.  RFI : ¿Cuáles serían actualmente los objetivos de Rusia? Tal vez uno de los más importantes es el acceso a recursos naturales, ¿no?  Mira Milosevic: Rusia busca tener influencia en la región y ampliar su presencia geoestratégica para competir con Occidente, pero los recursos naturales, sobre todo la explotación minera (oro, diamantes, uranio, litio, materiales raros), que están en África, es uno de los mayores intereses de Rusia. Además, desde la guerra en Ucrania, las empresas que se dedican a la explotación de minas de oro, por ejemplo en Sudán, son el mayor instrumento de Rusia para evitar las sanciones, porque las sanciones están vinculadas al dólar. Si Rusia paga directamente en oro, de esta manera puede burlar las sanciones. Rusia es un país que tiene una enorme experiencia en las industrias de explotación minera, con instrumentos no muy modernos, pero que son accesibles para un mercado africano. Quiero decir que es una relación beneficiosa. No se trata de una explotación de los países africanos, sino de un intercambio donde Rusia intenta trasladar su conocimiento en esta materia.   RFI: Países como Francia tienen dificultades a posicionarse en este contexto como en el caso de Mali, donde los lazos coloniales son un obstáculo.Mira Milosevic: Se vio en Mali y también en Burkina Faso, pero sobre todo en Mali, donde el Gobierno había invitado a Francia para que le ayude a proteger a sus instituciones y sobre todo, en la lucha contra el islamismo radical y los grupos terroristas. Pero luego le ha pedido que se vaya. La situación en el Sahel es muy complicada y Mali es un paradigma de ello. Pero allí hay errores que no son sólo de Francia. El error más grave -desde mi punto de vista- ha sido intervenir en Libia y esto fue una decisión de las Naciones Unidas y de la OTAN, no sólo de Francia. Y esa operación, francamente, ha fracasado. El armamento y el caos que se produjo en Libia, se ha ido trasladando hacia Mali. Francia no tiene buena fama por ser un país que ha sido colonialista en África, como también Bélgica. El debate sobre el colonialismo, supongo que es incómodo y desagradable para los países que fueron colonialistas. Es un debate muy complicado. Es un tema muy complejo y muy difícil de evocar.  El ejemplo de Francia en Mali es un ejemplo de un país que hasta ahora ha estado muy presente, hasta que Mali le dijo que se vaya. Pero este fracaso no se debe sólo a una mala política de Francia, sino a una desafortunada política de Occidente en África. RFI: Fracaso de una política occidental que tal vez ha dejado un vacío... Mira Milosevic: La geopolítica es como la física, donde hay un vacío, algo o alguien lo llena. Como con el fracaso occidental o de Francia en el caso de Mali. El gobierno de Mali llamó e invitó al grupo Wagner a ocupar este sitio, y por lo visto -según el Gobierno de Mali- Wagner ha sido más eficaz y eficiente que las tropas francesas. Se ve que los países que tienen un gobierno sólido, como por ejemplo Etiopía, tienen buenas relaciones con Rusia. Las relaciones no salen de un marco legal, son unas relaciones bilaterales normales. Sin embargo, gobiernos que tienen problemas con Occidente, que sufren sanciones o que son gobiernos con Estados fallidos y con una presencia del islamismo radical grande, por pura desesperación al final acuden a Rusia y al grupo Wagner para solucionar sus problemas. Me refiero a los países del Sahel, también a Sudán.Los paramilitares de Wagner son un grupo que está especializado en proteger a gobiernos corruptos de sátrapas y también a luchar contra el islamismo radical. Y hay que decir que vienen por invitación. No es algo que Rusia impone a estos países, sino que ellos la invitan. Primero porque Occidente no les hace caso. Segundo, porque pueden tener muchas sanciones por parte de Occidente. Y tercero, y quizás es lo más importante, porque tienen una inestabilidad interna que no saben cómo afrontar, producida por el terrorismo y por los grupos del islamismo radical.Wagner forma parte de una diplomacia paramilitar y no sabemos hasta dónde llegan los acuerdos entre los gobiernos locales africanos, el gobierno ruso y los paramilitares de Wagner. Seguramente hay allí algo que se nos escapa porque no son transparentes. 

Tu Historia Preferida
Rusia en África, una presencia multifacética

Tu Historia Preferida

Play Episode Listen Later Jul 28, 2023 2:22


Si bien Wagner es hoy la parte más visible de la presencia rusa en África, sus raíces remontan a la Guerra Fría y a las luchas de descolonización frente a las potencias europeas. Hoy el campo occidental intenta alinearla con su postura frente a Rusia, pero el pasado reciente no le facilita la tarea. Entrevistamos a Mira Milosevic, investigadora principal del Instituto Elcano para Rusia, Eurasia y los Balcanes.   RFI : En un reciente trabajo, usted destaca que para abordar la actual presencia rusa en África es imprescindible recordar el pasado: la Unión Soviética y la Guerra Fría.Mira Milosevic: En mí artículo, lo abordo como un retorno de Rusia a África, en el sentido de que Rusia estuvo muy presente en África durante la Guerra Fría y la Unión Soviética. Ha participado activamente en apoyo a la lucha contra el colonialismo en diferentes países africanos. Por eso lo llamo el retorno. Aunque Rusia, aparte de estas redes establecidas durante la Guerra Fría, también está usando la diplomacia empresarial en el sector de los recursos naturales, las campañas de desinformación, y también, muy activamente, al grupo paramilitar Wagner. Un grupo que vela por los intereses económicos y geopolíticos de Rusia en África.  RFI : ¿Hasta qué punto esa participación en la descolonización ha facilitado la presencia rusa en África en la actualidad? Mira Milosevic: La ha facilitado porque durante la Guerra Fría y esas luchas anticoloniales, se crearon sólidos lazos diplomáticos. Empezando por las Naciones Unidas, donde el instrumento diplomático de Rusia ejerce su influencia en el orden internacional, en este caso, particularmente en África. Rusia nunca ha sido allí un país colonialista, por lo tanto, no tiene el lastre de ese pasado como lo pueden tener por ejemplo Francia o Bélgica, y eso le facilita las cosas. Aparte de ese apoyo ideológico, aunque la ideología comunista ya no sea tan atractiva para los países africanos, el apoyo más importante ha sido la venta de armas, de sistemas de armamento, sobre todo en el norte de África, pero también en otros países como Zimbabue o Mozambique durante la Guerra Fría. Es decir, sólidos vínculos diplomáticos además del ámbito de la seguridad y la defensa. Vínculos que Rusia ha intentado aprovechar y que ahora está aprovechando. Sin olvidar la dimensión económica. Rusia no tiene tanto dinero como lo tiene China, pero lo que está haciendo Rusia y lo que ha hecho, es perdonar la enorme deuda de los países africanos y ellos están muy agradecidos. Una deuda contraída en el periodo de la Unión Soviética. Ya cuando formó parte del G8, incluso antes de su ruptura de cooperación con Occidente, Rusia empezó a perdonar la deuda -hablamos de unos 20 mil millones de de dólares. En la primera cumbre entre Rusia y África, Vladimir Putin anunció que Rusia iba a perdonar toda la deuda de todos los países africanos y esto también le facilita las cosas.  RFI : ¿Cuáles serían actualmente los objetivos de Rusia? Tal vez uno de los más importantes es el acceso a recursos naturales, ¿no?  Mira Milosevic: Rusia busca tener influencia en la región y ampliar su presencia geoestratégica para competir con Occidente, pero los recursos naturales, sobre todo la explotación minera (oro, diamantes, uranio, litio, materiales raros), que están en África, es uno de los mayores intereses de Rusia. Además, desde la guerra en Ucrania, las empresas que se dedican a la explotación de minas de oro, por ejemplo en Sudán, son el mayor instrumento de Rusia para evitar las sanciones, porque las sanciones están vinculadas al dólar. Si Rusia paga directamente en oro, de esta manera puede burlar las sanciones. Rusia es un país que tiene una enorme experiencia en las industrias de explotación minera, con instrumentos no muy modernos, pero que son accesibles para un mercado africano. Quiero decir que es una relación beneficiosa. No se trata de una explotación de los países africanos, sino de un intercambio donde Rusia intenta trasladar su conocimiento en esta materia.   RFI: Países como Francia tienen dificultades a posicionarse en este contexto como en el caso de Mali, donde los lazos coloniales son un obstáculo.Mira Milosevic: Se vio en Mali y también en Burkina Faso, pero sobre todo en Mali, donde el Gobierno había invitado a Francia para que le ayude a proteger a sus instituciones y sobre todo, en la lucha contra el islamismo radical y los grupos terroristas. Pero luego le ha pedido que se vaya. La situación en el Sahel es muy complicada y Mali es un paradigma de ello. Pero allí hay errores que no son sólo de Francia. El error más grave -desde mi punto de vista- ha sido intervenir en Libia y esto fue una decisión de las Naciones Unidas y de la OTAN, no sólo de Francia. Y esa operación, francamente, ha fracasado. El armamento y el caos que se produjo en Libia, se ha ido trasladando hacia Mali. Francia no tiene buena fama por ser un país que ha sido colonialista en África, como también Bélgica. El debate sobre el colonialismo, supongo que es incómodo y desagradable para los países que fueron colonialistas. Es un debate muy complicado. Es un tema muy complejo y muy difícil de evocar.  El ejemplo de Francia en Mali es un ejemplo de un país que hasta ahora ha estado muy presente, hasta que Mali le dijo que se vaya. Pero este fracaso no se debe sólo a una mala política de Francia, sino a una desafortunada política de Occidente en África. RFI: Fracaso de una política occidental que tal vez ha dejado un vacío... Mira Milosevic: La geopolítica es como la física, donde hay un vacío, algo o alguien lo llena. Como con el fracaso occidental o de Francia en el caso de Mali. El gobierno de Mali llamó e invitó al grupo Wagner a ocupar este sitio, y por lo visto -según el Gobierno de Mali- Wagner ha sido más eficaz y eficiente que las tropas francesas. Se ve que los países que tienen un gobierno sólido, como por ejemplo Etiopía, tienen buenas relaciones con Rusia. Las relaciones no salen de un marco legal, son unas relaciones bilaterales normales. Sin embargo, gobiernos que tienen problemas con Occidente, que sufren sanciones o que son gobiernos con Estados fallidos y con una presencia del islamismo radical grande, por pura desesperación al final acuden a Rusia y al grupo Wagner para solucionar sus problemas. Me refiero a los países del Sahel, también a Sudán.Los paramilitares de Wagner son un grupo que está especializado en proteger a gobiernos corruptos de sátrapas y también a luchar contra el islamismo radical. Y hay que decir que vienen por invitación. No es algo que Rusia impone a estos países, sino que ellos la invitan. Primero porque Occidente no les hace caso. Segundo, porque pueden tener muchas sanciones por parte de Occidente. Y tercero, y quizás es lo más importante, porque tienen una inestabilidad interna que no saben cómo afrontar, producida por el terrorismo y por los grupos del islamismo radical.Wagner forma parte de una diplomacia paramilitar y no sabemos hasta dónde llegan los acuerdos entre los gobiernos locales africanos, el gobierno ruso y los paramilitares de Wagner. Seguramente hay allí algo que se nos escapa porque no son transparentes. This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/4231678/advertisement

Noticias de César Vidal y más
Rusia en África, una presencia multifacética

Noticias de César Vidal y más

Play Episode Listen Later Jul 28, 2023 2:22


Si bien Wagner es hoy la parte más visible de la presencia rusa en África, sus raíces remontan a la Guerra Fría y a las luchas de descolonización frente a las potencias europeas. Hoy el campo occidental intenta alinearla con su postura frente a Rusia, pero el pasado reciente no le facilita la tarea. Entrevistamos a Mira Milosevic, investigadora principal del Instituto Elcano para Rusia, Eurasia y los Balcanes.   RFI : En un reciente trabajo, usted destaca que para abordar la actual presencia rusa en África es imprescindible recordar el pasado: la Unión Soviética y la Guerra Fría.Mira Milosevic: En mí artículo, lo abordo como un retorno de Rusia a África, en el sentido de que Rusia estuvo muy presente en África durante la Guerra Fría y la Unión Soviética. Ha participado activamente en apoyo a la lucha contra el colonialismo en diferentes países africanos. Por eso lo llamo el retorno. Aunque Rusia, aparte de estas redes establecidas durante la Guerra Fría, también está usando la diplomacia empresarial en el sector de los recursos naturales, las campañas de desinformación, y también, muy activamente, al grupo paramilitar Wagner. Un grupo que vela por los intereses económicos y geopolíticos de Rusia en África.  RFI : ¿Hasta qué punto esa participación en la descolonización ha facilitado la presencia rusa en África en la actualidad? Mira Milosevic: La ha facilitado porque durante la Guerra Fría y esas luchas anticoloniales, se crearon sólidos lazos diplomáticos. Empezando por las Naciones Unidas, donde el instrumento diplomático de Rusia ejerce su influencia en el orden internacional, en este caso, particularmente en África. Rusia nunca ha sido allí un país colonialista, por lo tanto, no tiene el lastre de ese pasado como lo pueden tener por ejemplo Francia o Bélgica, y eso le facilita las cosas. Aparte de ese apoyo ideológico, aunque la ideología comunista ya no sea tan atractiva para los países africanos, el apoyo más importante ha sido la venta de armas, de sistemas de armamento, sobre todo en el norte de África, pero también en otros países como Zimbabue o Mozambique durante la Guerra Fría. Es decir, sólidos vínculos diplomáticos además del ámbito de la seguridad y la defensa. Vínculos que Rusia ha intentado aprovechar y que ahora está aprovechando. Sin olvidar la dimensión económica. Rusia no tiene tanto dinero como lo tiene China, pero lo que está haciendo Rusia y lo que ha hecho, es perdonar la enorme deuda de los países africanos y ellos están muy agradecidos. Una deuda contraída en el periodo de la Unión Soviética. Ya cuando formó parte del G8, incluso antes de su ruptura de cooperación con Occidente, Rusia empezó a perdonar la deuda -hablamos de unos 20 mil millones de de dólares. En la primera cumbre entre Rusia y África, Vladimir Putin anunció que Rusia iba a perdonar toda la deuda de todos los países africanos y esto también le facilita las cosas.  RFI : ¿Cuáles serían actualmente los objetivos de Rusia? Tal vez uno de los más importantes es el acceso a recursos naturales, ¿no?  Mira Milosevic: Rusia busca tener influencia en la región y ampliar su presencia geoestratégica para competir con Occidente, pero los recursos naturales, sobre todo la explotación minera (oro, diamantes, uranio, litio, materiales raros), que están en África, es uno de los mayores intereses de Rusia. Además, desde la guerra en Ucrania, las empresas que se dedican a la explotación de minas de oro, por ejemplo en Sudán, son el mayor instrumento de Rusia para evitar las sanciones, porque las sanciones están vinculadas al dólar. Si Rusia paga directamente en oro, de esta manera puede burlar las sanciones. Rusia es un país que tiene una enorme experiencia en las industrias de explotación minera, con instrumentos no muy modernos, pero que son accesibles para un mercado africano. Quiero decir que es una relación beneficiosa. No se trata de una explotación de los países africanos, sino de un intercambio donde Rusia intenta trasladar su conocimiento en esta materia.   RFI: Países como Francia tienen dificultades a posicionarse en este contexto como en el caso de Mali, donde los lazos coloniales son un obstáculo.Mira Milosevic: Se vio en Mali y también en Burkina Faso, pero sobre todo en Mali, donde el Gobierno había invitado a Francia para que le ayude a proteger a sus instituciones y sobre todo, en la lucha contra el islamismo radical y los grupos terroristas. Pero luego le ha pedido que se vaya. La situación en el Sahel es muy complicada y Mali es un paradigma de ello. Pero allí hay errores que no son sólo de Francia. El error más grave -desde mi punto de vista- ha sido intervenir en Libia y esto fue una decisión de las Naciones Unidas y de la OTAN, no sólo de Francia. Y esa operación, francamente, ha fracasado. El armamento y el caos que se produjo en Libia, se ha ido trasladando hacia Mali. Francia no tiene buena fama por ser un país que ha sido colonialista en África, como también Bélgica. El debate sobre el colonialismo, supongo que es incómodo y desagradable para los países que fueron colonialistas. Es un debate muy complicado. Es un tema muy complejo y muy difícil de evocar.  El ejemplo de Francia en Mali es un ejemplo de un país que hasta ahora ha estado muy presente, hasta que Mali le dijo que se vaya. Pero este fracaso no se debe sólo a una mala política de Francia, sino a una desafortunada política de Occidente en África. RFI: Fracaso de una política occidental que tal vez ha dejado un vacío... Mira Milosevic: La geopolítica es como la física, donde hay un vacío, algo o alguien lo llena. Como con el fracaso occidental o de Francia en el caso de Mali. El gobierno de Mali llamó e invitó al grupo Wagner a ocupar este sitio, y por lo visto -según el Gobierno de Mali- Wagner ha sido más eficaz y eficiente que las tropas francesas. Se ve que los países que tienen un gobierno sólido, como por ejemplo Etiopía, tienen buenas relaciones con Rusia. Las relaciones no salen de un marco legal, son unas relaciones bilaterales normales. Sin embargo, gobiernos que tienen problemas con Occidente, que sufren sanciones o que son gobiernos con Estados fallidos y con una presencia del islamismo radical grande, por pura desesperación al final acuden a Rusia y al grupo Wagner para solucionar sus problemas. Me refiero a los países del Sahel, también a Sudán.Los paramilitares de Wagner son un grupo que está especializado en proteger a gobiernos corruptos de sátrapas y también a luchar contra el islamismo radical. Y hay que decir que vienen por invitación. No es algo que Rusia impone a estos países, sino que ellos la invitan. Primero porque Occidente no les hace caso. Segundo, porque pueden tener muchas sanciones por parte de Occidente. Y tercero, y quizás es lo más importante, porque tienen una inestabilidad interna que no saben cómo afrontar, producida por el terrorismo y por los grupos del islamismo radical.Wagner forma parte de una diplomacia paramilitar y no sabemos hasta dónde llegan los acuerdos entre los gobiernos locales africanos, el gobierno ruso y los paramilitares de Wagner. Seguramente hay allí algo que se nos escapa porque no son transparentes. This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/4262462/advertisement

Música Cristiana (Gratis)
La crisis crónica de los refugiados palestinos dejó de ser prioritaria, dice UNRWA

Música Cristiana (Gratis)

Play Episode Listen Later Jun 20, 2023 5:32


Peligran los programas vitales en Medio Oriente de la Agencia de la ONU para los refugiados palestinos, la población más antigua bajo ese estatus. La UNRWA opera con un déficit de fondos de $ 75 millones de dólares debido a la insuficiencia crónica de fondos durante la última década y las duras medidas de austeridad.  En el Día Mundial del Refugiado, Radio Francia Internacional habló con Raquel MARTI, directora ejecutiva de UNRWA España, sobre la crisis fianciera de esta entidad de la ONU encargada de los programas para 5,9 millones de personas que contituyen una población refugiada tan antigua como el mismo conflicto que la originó.RFI: ¿Cuáles son las razones de esta crisis de financiación por la que atraviesa la UNRWA?Hay que entender que UNRWA es una agencia que nació con un mandato de tres años en el supuesto de que la crisis de los refugiados de Palestina se iba a solucionar en tres años. Sin embargo, han pasado 75 años desde que se produjo el éxodo de la población refugiada de Palestina y en estos 75 años no se ha encontrado o no se ha buscado ninguna solución definitiva para esta población. Esto ha terminado en que, en lugar de ser una agencia temporal, UNRWA es una agencia que tiene un estatus crónico, puesto que crónica es la situación de los refugiados de Palestina.Y cuando las crisis son crónicas, la comunidad internacional acaba cansándose de destinar cada año financiación para solventarlas. Y, por otro lado, cada vez hay más crisis humanitarias, ya sean naturales o las creadas por los seres humanos. También es cierto que los países que donan a UNRWA, que son todos contribuciones voluntarias, también atraviesan crisis económicas. RFI Háblenos de estos programas y sobre el número de palestinos refugiados que cobijan  Estamos hablando de 5,9 millones de refugiados de Palestina. Y la UNRWA tiene en su mandato la obligación de, en primer lugar, proveerles de educación básica. Y en ese sentido, contamos con más de 140 escuelas con medio millón de niños y niñas matriculadas. Tenemos centros de formación profesional con una media de 8000 alumnos.Nuestro segundo pilar es la salud de los refugiados de Palestina. Y en ese sentido tenemos clínicas que atienden a una media de 2 millones de refugiados anuales. Tenemos programas de microcréditos para los refugiados, sobre todo para que las mujeres más vulnerables puedan crear sus pequeñas empresas y mejorar su economía. Además, la parte de emergencias y de ayuda humanitaria. Estamos en uno de los contextos más convulsos del mundo. Tenemos que afrontar situaciones de guerra como la que hay en Siria, o un país como Líbano en el que la economía ha colapsado y que está pasando por una de las mayores dificultades socioeconómicas de las últimas décadas. Y allí también se encuentra población refugiada de Palestina. Hemos pasado además por un terremoto este año y hemos tenido que atender a más de 50.000 refugiados de Palestina que se encontraban en las localidades epicentro del terremoto. Y después tenemos población refugiada de Palestina viviendo bajo ocupación en lo que es el territorio palestino ocupado y además bajo bloqueo en Gaza. Hay 1.200.000 personas. Y esta situación de bloqueo, que cumple 16 años, ha llevado al colapso absoluto de la Franja de Gaza.  Esa situación sumada a las ofensivas militares israelíes, ha convertido a Gaza en un lugar absolutamente inhabitable. De hecho, un RA tiene que distribuir alimentos a este millón 200.000 personas que de otra manera no podrían sobrevivir. RFI Hace unos años, durante la administración de Donald Trump en Estados Unidos, hubo un cambio en la política de financiación para los palestinos y la UNRWA se vio afectada Totalmente. Durante su mandato, Trump decidió cancelar toda la financiación que destinaba a UNRWA. En ese momento era nuestro mayor donante. Dedicaba más de 360 millones de dólares a financiar los programas de UNRWA y, de repente, cortó toda esta financiación. Eso fue una catástrofe para la agencia, pues era 1/3 de nuestro presupuesto lo que financiaba Estados Unidos y realmente estuvimos al borde de tener que cerrar la agencia. Afortunadamente, la retirada de fondos de Donald Trump fue un impulso para el resto de nuestros donantes e hizo que la mayor parte de ellos salieran a nuestro rescate. Hicieron un esfuerzo enorme por incrementar sus contribuciones y ese año, finalmente, cerramos con un déficit cero por primera vez en muchos años. Evidentemente, esto ocurre una vez. Es muy difícil que luego se repita. En los años sucesivos en los que Trump siguió sin destinar financiación, nos vimos mucho más afectados y empezamos a tener arrojar un déficit financiero. Con la nueva administración norteamericana, con Biden, afortunadamente se restituyó la ayuda a UNRWA y ya casi está llegando a los mismos niveles de financiación que teníamos antes de que Trump nos recortara la financiación.     This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/3279340/advertisement

Enfoque internacional
La crisis crónica de los refugiados palestinos dejó de ser prioritaria, dice UNRWA

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Jun 20, 2023 5:31


Peligran los programas vitales en Medio Oriente de la Agencia de la ONU para los refugiados palestinos, la población más antigua bajo ese estatus. La UNRWA opera con un déficit de fondos de $ 75 millones de dólares debido a la insuficiencia crónica de fondos durante la última década y las duras medidas de austeridad.  En el Día Mundial del Refugiado, Radio Francia Internacional habló con Raquel MARTI, directora ejecutiva de UNRWA España, sobre la crisis fianciera de esta entidad de la ONU encargada de los programas para 5,9 millones de personas que contituyen una población refugiada tan antigua como el mismo conflicto que la originó.RFI: ¿Cuáles son las razones de esta crisis de financiación por la que atraviesa la UNRWA?Hay que entender que UNRWA es una agencia que nació con un mandato de tres años en el supuesto de que la crisis de los refugiados de Palestina se iba a solucionar en tres años. Sin embargo, han pasado 75 años desde que se produjo el éxodo de la población refugiada de Palestina y en estos 75 años no se ha encontrado o no se ha buscado ninguna solución definitiva para esta población. Esto ha terminado en que, en lugar de ser una agencia temporal, UNRWA es una agencia que tiene un estatus crónico, puesto que crónica es la situación de los refugiados de Palestina.Y cuando las crisis son crónicas, la comunidad internacional acaba cansándose de destinar cada año financiación para solventarlas. Y, por otro lado, cada vez hay más crisis humanitarias, ya sean naturales o las creadas por los seres humanos. También es cierto que los países que donan a UNRWA, que son todos contribuciones voluntarias, también atraviesan crisis económicas. RFI Háblenos de estos programas y sobre el número de palestinos refugiados que cobijan  Estamos hablando de 5,9 millones de refugiados de Palestina. Y la UNRWA tiene en su mandato la obligación de, en primer lugar, proveerles de educación básica. Y en ese sentido, contamos con más de 140 escuelas con medio millón de niños y niñas matriculadas. Tenemos centros de formación profesional con una media de 8000 alumnos.Nuestro segundo pilar es la salud de los refugiados de Palestina. Y en ese sentido tenemos clínicas que atienden a una media de 2 millones de refugiados anuales. Tenemos programas de microcréditos para los refugiados, sobre todo para que las mujeres más vulnerables puedan crear sus pequeñas empresas y mejorar su economía. Además, la parte de emergencias y de ayuda humanitaria. Estamos en uno de los contextos más convulsos del mundo. Tenemos que afrontar situaciones de guerra como la que hay en Siria, o un país como Líbano en el que la economía ha colapsado y que está pasando por una de las mayores dificultades socioeconómicas de las últimas décadas. Y allí también se encuentra población refugiada de Palestina. Hemos pasado además por un terremoto este año y hemos tenido que atender a más de 50.000 refugiados de Palestina que se encontraban en las localidades epicentro del terremoto. Y después tenemos población refugiada de Palestina viviendo bajo ocupación en lo que es el territorio palestino ocupado y además bajo bloqueo en Gaza. Hay 1.200.000 personas. Y esta situación de bloqueo, que cumple 16 años, ha llevado al colapso absoluto de la Franja de Gaza.  Esa situación sumada a las ofensivas militares israelíes, ha convertido a Gaza en un lugar absolutamente inhabitable. De hecho, un RA tiene que distribuir alimentos a este millón 200.000 personas que de otra manera no podrían sobrevivir. RFI Hace unos años, durante la administración de Donald Trump en Estados Unidos, hubo un cambio en la política de financiación para los palestinos y la UNRWA se vio afectada Totalmente. Durante su mandato, Trump decidió cancelar toda la financiación que destinaba a UNRWA. En ese momento era nuestro mayor donante. Dedicaba más de 360 millones de dólares a financiar los programas de UNRWA y, de repente, cortó toda esta financiación. Eso fue una catástrofe para la agencia, pues era 1/3 de nuestro presupuesto lo que financiaba Estados Unidos y realmente estuvimos al borde de tener que cerrar la agencia. Afortunadamente, la retirada de fondos de Donald Trump fue un impulso para el resto de nuestros donantes e hizo que la mayor parte de ellos salieran a nuestro rescate. Hicieron un esfuerzo enorme por incrementar sus contribuciones y ese año, finalmente, cerramos con un déficit cero por primera vez en muchos años. Evidentemente, esto ocurre una vez. Es muy difícil que luego se repita. En los años sucesivos en los que Trump siguió sin destinar financiación, nos vimos mucho más afectados y empezamos a tener arrojar un déficit financiero. Con la nueva administración norteamericana, con Biden, afortunadamente se restituyó la ayuda a UNRWA y ya casi está llegando a los mismos niveles de financiación que teníamos antes de que Trump nos recortara la financiación.     

Transformando la mente
La crisis crónica de los refugiados palestinos dejó de ser prioritaria, dice UNRWA

Transformando la mente

Play Episode Listen Later Jun 20, 2023 5:32


Peligran los programas vitales en Medio Oriente de la Agencia de la ONU para los refugiados palestinos, la población más antigua bajo ese estatus. La UNRWA opera con un déficit de fondos de $ 75 millones de dólares debido a la insuficiencia crónica de fondos durante la última década y las duras medidas de austeridad.  En el Día Mundial del Refugiado, Radio Francia Internacional habló con Raquel MARTI, directora ejecutiva de UNRWA España, sobre la crisis fianciera de esta entidad de la ONU encargada de los programas para 5,9 millones de personas que contituyen una población refugiada tan antigua como el mismo conflicto que la originó.RFI: ¿Cuáles son las razones de esta crisis de financiación por la que atraviesa la UNRWA?Hay que entender que UNRWA es una agencia que nació con un mandato de tres años en el supuesto de que la crisis de los refugiados de Palestina se iba a solucionar en tres años. Sin embargo, han pasado 75 años desde que se produjo el éxodo de la población refugiada de Palestina y en estos 75 años no se ha encontrado o no se ha buscado ninguna solución definitiva para esta población. Esto ha terminado en que, en lugar de ser una agencia temporal, UNRWA es una agencia que tiene un estatus crónico, puesto que crónica es la situación de los refugiados de Palestina.Y cuando las crisis son crónicas, la comunidad internacional acaba cansándose de destinar cada año financiación para solventarlas. Y, por otro lado, cada vez hay más crisis humanitarias, ya sean naturales o las creadas por los seres humanos. También es cierto que los países que donan a UNRWA, que son todos contribuciones voluntarias, también atraviesan crisis económicas. RFI Háblenos de estos programas y sobre el número de palestinos refugiados que cobijan  Estamos hablando de 5,9 millones de refugiados de Palestina. Y la UNRWA tiene en su mandato la obligación de, en primer lugar, proveerles de educación básica. Y en ese sentido, contamos con más de 140 escuelas con medio millón de niños y niñas matriculadas. Tenemos centros de formación profesional con una media de 8000 alumnos.Nuestro segundo pilar es la salud de los refugiados de Palestina. Y en ese sentido tenemos clínicas que atienden a una media de 2 millones de refugiados anuales. Tenemos programas de microcréditos para los refugiados, sobre todo para que las mujeres más vulnerables puedan crear sus pequeñas empresas y mejorar su economía. Además, la parte de emergencias y de ayuda humanitaria. Estamos en uno de los contextos más convulsos del mundo. Tenemos que afrontar situaciones de guerra como la que hay en Siria, o un país como Líbano en el que la economía ha colapsado y que está pasando por una de las mayores dificultades socioeconómicas de las últimas décadas. Y allí también se encuentra población refugiada de Palestina. Hemos pasado además por un terremoto este año y hemos tenido que atender a más de 50.000 refugiados de Palestina que se encontraban en las localidades epicentro del terremoto. Y después tenemos población refugiada de Palestina viviendo bajo ocupación en lo que es el territorio palestino ocupado y además bajo bloqueo en Gaza. Hay 1.200.000 personas. Y esta situación de bloqueo, que cumple 16 años, ha llevado al colapso absoluto de la Franja de Gaza.  Esa situación sumada a las ofensivas militares israelíes, ha convertido a Gaza en un lugar absolutamente inhabitable. De hecho, un RA tiene que distribuir alimentos a este millón 200.000 personas que de otra manera no podrían sobrevivir. RFI Hace unos años, durante la administración de Donald Trump en Estados Unidos, hubo un cambio en la política de financiación para los palestinos y la UNRWA se vio afectada Totalmente. Durante su mandato, Trump decidió cancelar toda la financiación que destinaba a UNRWA. En ese momento era nuestro mayor donante. Dedicaba más de 360 millones de dólares a financiar los programas de UNRWA y, de repente, cortó toda esta financiación. Eso fue una catástrofe para la agencia, pues era 1/3 de nuestro presupuesto lo que financiaba Estados Unidos y realmente estuvimos al borde de tener que cerrar la agencia. Afortunadamente, la retirada de fondos de Donald Trump fue un impulso para el resto de nuestros donantes e hizo que la mayor parte de ellos salieran a nuestro rescate. Hicieron un esfuerzo enorme por incrementar sus contribuciones y ese año, finalmente, cerramos con un déficit cero por primera vez en muchos años. Evidentemente, esto ocurre una vez. Es muy difícil que luego se repita. En los años sucesivos en los que Trump siguió sin destinar financiación, nos vimos mucho más afectados y empezamos a tener arrojar un déficit financiero. Con la nueva administración norteamericana, con Biden, afortunadamente se restituyó la ayuda a UNRWA y ya casi está llegando a los mismos niveles de financiación que teníamos antes de que Trump nos recortara la financiación.     This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/3279343/advertisement

Música Cristiana
La crisis crónica de los refugiados palestinos dejó de ser prioritaria, dice UNRWA

Música Cristiana

Play Episode Listen Later Jun 20, 2023 5:32


Peligran los programas vitales en Medio Oriente de la Agencia de la ONU para los refugiados palestinos, la población más antigua bajo ese estatus. La UNRWA opera con un déficit de fondos de $ 75 millones de dólares debido a la insuficiencia crónica de fondos durante la última década y las duras medidas de austeridad.  En el Día Mundial del Refugiado, Radio Francia Internacional habló con Raquel MARTI, directora ejecutiva de UNRWA España, sobre la crisis fianciera de esta entidad de la ONU encargada de los programas para 5,9 millones de personas que contituyen una población refugiada tan antigua como el mismo conflicto que la originó.RFI: ¿Cuáles son las razones de esta crisis de financiación por la que atraviesa la UNRWA?Hay que entender que UNRWA es una agencia que nació con un mandato de tres años en el supuesto de que la crisis de los refugiados de Palestina se iba a solucionar en tres años. Sin embargo, han pasado 75 años desde que se produjo el éxodo de la población refugiada de Palestina y en estos 75 años no se ha encontrado o no se ha buscado ninguna solución definitiva para esta población. Esto ha terminado en que, en lugar de ser una agencia temporal, UNRWA es una agencia que tiene un estatus crónico, puesto que crónica es la situación de los refugiados de Palestina.Y cuando las crisis son crónicas, la comunidad internacional acaba cansándose de destinar cada año financiación para solventarlas. Y, por otro lado, cada vez hay más crisis humanitarias, ya sean naturales o las creadas por los seres humanos. También es cierto que los países que donan a UNRWA, que son todos contribuciones voluntarias, también atraviesan crisis económicas. RFI Háblenos de estos programas y sobre el número de palestinos refugiados que cobijan  Estamos hablando de 5,9 millones de refugiados de Palestina. Y la UNRWA tiene en su mandato la obligación de, en primer lugar, proveerles de educación básica. Y en ese sentido, contamos con más de 140 escuelas con medio millón de niños y niñas matriculadas. Tenemos centros de formación profesional con una media de 8000 alumnos.Nuestro segundo pilar es la salud de los refugiados de Palestina. Y en ese sentido tenemos clínicas que atienden a una media de 2 millones de refugiados anuales. Tenemos programas de microcréditos para los refugiados, sobre todo para que las mujeres más vulnerables puedan crear sus pequeñas empresas y mejorar su economía. Además, la parte de emergencias y de ayuda humanitaria. Estamos en uno de los contextos más convulsos del mundo. Tenemos que afrontar situaciones de guerra como la que hay en Siria, o un país como Líbano en el que la economía ha colapsado y que está pasando por una de las mayores dificultades socioeconómicas de las últimas décadas. Y allí también se encuentra población refugiada de Palestina. Hemos pasado además por un terremoto este año y hemos tenido que atender a más de 50.000 refugiados de Palestina que se encontraban en las localidades epicentro del terremoto. Y después tenemos población refugiada de Palestina viviendo bajo ocupación en lo que es el territorio palestino ocupado y además bajo bloqueo en Gaza. Hay 1.200.000 personas. Y esta situación de bloqueo, que cumple 16 años, ha llevado al colapso absoluto de la Franja de Gaza.  Esa situación sumada a las ofensivas militares israelíes, ha convertido a Gaza en un lugar absolutamente inhabitable. De hecho, un RA tiene que distribuir alimentos a este millón 200.000 personas que de otra manera no podrían sobrevivir. RFI Hace unos años, durante la administración de Donald Trump en Estados Unidos, hubo un cambio en la política de financiación para los palestinos y la UNRWA se vio afectada Totalmente. Durante su mandato, Trump decidió cancelar toda la financiación que destinaba a UNRWA. En ese momento era nuestro mayor donante. Dedicaba más de 360 millones de dólares a financiar los programas de UNRWA y, de repente, cortó toda esta financiación. Eso fue una catástrofe para la agencia, pues era 1/3 de nuestro presupuesto lo que financiaba Estados Unidos y realmente estuvimos al borde de tener que cerrar la agencia. Afortunadamente, la retirada de fondos de Donald Trump fue un impulso para el resto de nuestros donantes e hizo que la mayor parte de ellos salieran a nuestro rescate. Hicieron un esfuerzo enorme por incrementar sus contribuciones y ese año, finalmente, cerramos con un déficit cero por primera vez en muchos años. Evidentemente, esto ocurre una vez. Es muy difícil que luego se repita. En los años sucesivos en los que Trump siguió sin destinar financiación, nos vimos mucho más afectados y empezamos a tener arrojar un déficit financiero. Con la nueva administración norteamericana, con Biden, afortunadamente se restituyó la ayuda a UNRWA y ya casi está llegando a los mismos niveles de financiación que teníamos antes de que Trump nos recortara la financiación.     

Dr. Stanley – Ministerios En Contacto
La crisis crónica de los refugiados palestinos dejó de ser prioritaria, dice UNRWA

Dr. Stanley – Ministerios En Contacto

Play Episode Listen Later Jun 20, 2023 5:32


Peligran los programas vitales en Medio Oriente de la Agencia de la ONU para los refugiados palestinos, la población más antigua bajo ese estatus. La UNRWA opera con un déficit de fondos de $ 75 millones de dólares debido a la insuficiencia crónica de fondos durante la última década y las duras medidas de austeridad.  En el Día Mundial del Refugiado, Radio Francia Internacional habló con Raquel MARTI, directora ejecutiva de UNRWA España, sobre la crisis fianciera de esta entidad de la ONU encargada de los programas para 5,9 millones de personas que contituyen una población refugiada tan antigua como el mismo conflicto que la originó.RFI: ¿Cuáles son las razones de esta crisis de financiación por la que atraviesa la UNRWA?Hay que entender que UNRWA es una agencia que nació con un mandato de tres años en el supuesto de que la crisis de los refugiados de Palestina se iba a solucionar en tres años. Sin embargo, han pasado 75 años desde que se produjo el éxodo de la población refugiada de Palestina y en estos 75 años no se ha encontrado o no se ha buscado ninguna solución definitiva para esta población. Esto ha terminado en que, en lugar de ser una agencia temporal, UNRWA es una agencia que tiene un estatus crónico, puesto que crónica es la situación de los refugiados de Palestina.Y cuando las crisis son crónicas, la comunidad internacional acaba cansándose de destinar cada año financiación para solventarlas. Y, por otro lado, cada vez hay más crisis humanitarias, ya sean naturales o las creadas por los seres humanos. También es cierto que los países que donan a UNRWA, que son todos contribuciones voluntarias, también atraviesan crisis económicas. RFI Háblenos de estos programas y sobre el número de palestinos refugiados que cobijan  Estamos hablando de 5,9 millones de refugiados de Palestina. Y la UNRWA tiene en su mandato la obligación de, en primer lugar, proveerles de educación básica. Y en ese sentido, contamos con más de 140 escuelas con medio millón de niños y niñas matriculadas. Tenemos centros de formación profesional con una media de 8000 alumnos.Nuestro segundo pilar es la salud de los refugiados de Palestina. Y en ese sentido tenemos clínicas que atienden a una media de 2 millones de refugiados anuales. Tenemos programas de microcréditos para los refugiados, sobre todo para que las mujeres más vulnerables puedan crear sus pequeñas empresas y mejorar su economía. Además, la parte de emergencias y de ayuda humanitaria. Estamos en uno de los contextos más convulsos del mundo. Tenemos que afrontar situaciones de guerra como la que hay en Siria, o un país como Líbano en el que la economía ha colapsado y que está pasando por una de las mayores dificultades socioeconómicas de las últimas décadas. Y allí también se encuentra población refugiada de Palestina. Hemos pasado además por un terremoto este año y hemos tenido que atender a más de 50.000 refugiados de Palestina que se encontraban en las localidades epicentro del terremoto. Y después tenemos población refugiada de Palestina viviendo bajo ocupación en lo que es el territorio palestino ocupado y además bajo bloqueo en Gaza. Hay 1.200.000 personas. Y esta situación de bloqueo, que cumple 16 años, ha llevado al colapso absoluto de la Franja de Gaza.  Esa situación sumada a las ofensivas militares israelíes, ha convertido a Gaza en un lugar absolutamente inhabitable. De hecho, un RA tiene que distribuir alimentos a este millón 200.000 personas que de otra manera no podrían sobrevivir. RFI Hace unos años, durante la administración de Donald Trump en Estados Unidos, hubo un cambio en la política de financiación para los palestinos y la UNRWA se vio afectada Totalmente. Durante su mandato, Trump decidió cancelar toda la financiación que destinaba a UNRWA. En ese momento era nuestro mayor donante. Dedicaba más de 360 millones de dólares a financiar los programas de UNRWA y, de repente, cortó toda esta financiación. Eso fue una catástrofe para la agencia, pues era 1/3 de nuestro presupuesto lo que financiaba Estados Unidos y realmente estuvimos al borde de tener que cerrar la agencia. Afortunadamente, la retirada de fondos de Donald Trump fue un impulso para el resto de nuestros donantes e hizo que la mayor parte de ellos salieran a nuestro rescate. Hicieron un esfuerzo enorme por incrementar sus contribuciones y ese año, finalmente, cerramos con un déficit cero por primera vez en muchos años. Evidentemente, esto ocurre una vez. Es muy difícil que luego se repita. En los años sucesivos en los que Trump siguió sin destinar financiación, nos vimos mucho más afectados y empezamos a tener arrojar un déficit financiero. Con la nueva administración norteamericana, con Biden, afortunadamente se restituyó la ayuda a UNRWA y ya casi está llegando a los mismos niveles de financiación que teníamos antes de que Trump nos recortara la financiación.     This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/4064350/advertisement

Gracia a Vosotros | Ps. John MacArthur
La crisis crónica de los refugiados palestinos dejó de ser prioritaria, dice UNRWA

Gracia a Vosotros | Ps. John MacArthur

Play Episode Listen Later Jun 20, 2023 5:32


Peligran los programas vitales en Medio Oriente de la Agencia de la ONU para los refugiados palestinos, la población más antigua bajo ese estatus. La UNRWA opera con un déficit de fondos de $ 75 millones de dólares debido a la insuficiencia crónica de fondos durante la última década y las duras medidas de austeridad.  En el Día Mundial del Refugiado, Radio Francia Internacional habló con Raquel MARTI, directora ejecutiva de UNRWA España, sobre la crisis fianciera de esta entidad de la ONU encargada de los programas para 5,9 millones de personas que contituyen una población refugiada tan antigua como el mismo conflicto que la originó.RFI: ¿Cuáles son las razones de esta crisis de financiación por la que atraviesa la UNRWA?Hay que entender que UNRWA es una agencia que nació con un mandato de tres años en el supuesto de que la crisis de los refugiados de Palestina se iba a solucionar en tres años. Sin embargo, han pasado 75 años desde que se produjo el éxodo de la población refugiada de Palestina y en estos 75 años no se ha encontrado o no se ha buscado ninguna solución definitiva para esta población. Esto ha terminado en que, en lugar de ser una agencia temporal, UNRWA es una agencia que tiene un estatus crónico, puesto que crónica es la situación de los refugiados de Palestina.Y cuando las crisis son crónicas, la comunidad internacional acaba cansándose de destinar cada año financiación para solventarlas. Y, por otro lado, cada vez hay más crisis humanitarias, ya sean naturales o las creadas por los seres humanos. También es cierto que los países que donan a UNRWA, que son todos contribuciones voluntarias, también atraviesan crisis económicas. RFI Háblenos de estos programas y sobre el número de palestinos refugiados que cobijan  Estamos hablando de 5,9 millones de refugiados de Palestina. Y la UNRWA tiene en su mandato la obligación de, en primer lugar, proveerles de educación básica. Y en ese sentido, contamos con más de 140 escuelas con medio millón de niños y niñas matriculadas. Tenemos centros de formación profesional con una media de 8000 alumnos.Nuestro segundo pilar es la salud de los refugiados de Palestina. Y en ese sentido tenemos clínicas que atienden a una media de 2 millones de refugiados anuales. Tenemos programas de microcréditos para los refugiados, sobre todo para que las mujeres más vulnerables puedan crear sus pequeñas empresas y mejorar su economía. Además, la parte de emergencias y de ayuda humanitaria. Estamos en uno de los contextos más convulsos del mundo. Tenemos que afrontar situaciones de guerra como la que hay en Siria, o un país como Líbano en el que la economía ha colapsado y que está pasando por una de las mayores dificultades socioeconómicas de las últimas décadas. Y allí también se encuentra población refugiada de Palestina. Hemos pasado además por un terremoto este año y hemos tenido que atender a más de 50.000 refugiados de Palestina que se encontraban en las localidades epicentro del terremoto. Y después tenemos población refugiada de Palestina viviendo bajo ocupación en lo que es el territorio palestino ocupado y además bajo bloqueo en Gaza. Hay 1.200.000 personas. Y esta situación de bloqueo, que cumple 16 años, ha llevado al colapso absoluto de la Franja de Gaza.  Esa situación sumada a las ofensivas militares israelíes, ha convertido a Gaza en un lugar absolutamente inhabitable. De hecho, un RA tiene que distribuir alimentos a este millón 200.000 personas que de otra manera no podrían sobrevivir. RFI Hace unos años, durante la administración de Donald Trump en Estados Unidos, hubo un cambio en la política de financiación para los palestinos y la UNRWA se vio afectada Totalmente. Durante su mandato, Trump decidió cancelar toda la financiación que destinaba a UNRWA. En ese momento era nuestro mayor donante. Dedicaba más de 360 millones de dólares a financiar los programas de UNRWA y, de repente, cortó toda esta financiación. Eso fue una catástrofe para la agencia, pues era 1/3 de nuestro presupuesto lo que financiaba Estados Unidos y realmente estuvimos al borde de tener que cerrar la agencia. Afortunadamente, la retirada de fondos de Donald Trump fue un impulso para el resto de nuestros donantes e hizo que la mayor parte de ellos salieran a nuestro rescate. Hicieron un esfuerzo enorme por incrementar sus contribuciones y ese año, finalmente, cerramos con un déficit cero por primera vez en muchos años. Evidentemente, esto ocurre una vez. Es muy difícil que luego se repita. En los años sucesivos en los que Trump siguió sin destinar financiación, nos vimos mucho más afectados y empezamos a tener arrojar un déficit financiero. Con la nueva administración norteamericana, con Biden, afortunadamente se restituyó la ayuda a UNRWA y ya casi está llegando a los mismos niveles de financiación que teníamos antes de que Trump nos recortara la financiación.     This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/3014864/advertisement

La Biblia
La crisis crónica de los refugiados palestinos dejó de ser prioritaria, dice UNRWA

La Biblia

Play Episode Listen Later Jun 20, 2023 5:32


Peligran los programas vitales en Medio Oriente de la Agencia de la ONU para los refugiados palestinos, la población más antigua bajo ese estatus. La UNRWA opera con un déficit de fondos de $ 75 millones de dólares debido a la insuficiencia crónica de fondos durante la última década y las duras medidas de austeridad.  En el Día Mundial del Refugiado, Radio Francia Internacional habló con Raquel MARTI, directora ejecutiva de UNRWA España, sobre la crisis fianciera de esta entidad de la ONU encargada de los programas para 5,9 millones de personas que contituyen una población refugiada tan antigua como el mismo conflicto que la originó.RFI: ¿Cuáles son las razones de esta crisis de financiación por la que atraviesa la UNRWA?Hay que entender que UNRWA es una agencia que nació con un mandato de tres años en el supuesto de que la crisis de los refugiados de Palestina se iba a solucionar en tres años. Sin embargo, han pasado 75 años desde que se produjo el éxodo de la población refugiada de Palestina y en estos 75 años no se ha encontrado o no se ha buscado ninguna solución definitiva para esta población. Esto ha terminado en que, en lugar de ser una agencia temporal, UNRWA es una agencia que tiene un estatus crónico, puesto que crónica es la situación de los refugiados de Palestina.Y cuando las crisis son crónicas, la comunidad internacional acaba cansándose de destinar cada año financiación para solventarlas. Y, por otro lado, cada vez hay más crisis humanitarias, ya sean naturales o las creadas por los seres humanos. También es cierto que los países que donan a UNRWA, que son todos contribuciones voluntarias, también atraviesan crisis económicas. RFI Háblenos de estos programas y sobre el número de palestinos refugiados que cobijan  Estamos hablando de 5,9 millones de refugiados de Palestina. Y la UNRWA tiene en su mandato la obligación de, en primer lugar, proveerles de educación básica. Y en ese sentido, contamos con más de 140 escuelas con medio millón de niños y niñas matriculadas. Tenemos centros de formación profesional con una media de 8000 alumnos.Nuestro segundo pilar es la salud de los refugiados de Palestina. Y en ese sentido tenemos clínicas que atienden a una media de 2 millones de refugiados anuales. Tenemos programas de microcréditos para los refugiados, sobre todo para que las mujeres más vulnerables puedan crear sus pequeñas empresas y mejorar su economía. Además, la parte de emergencias y de ayuda humanitaria. Estamos en uno de los contextos más convulsos del mundo. Tenemos que afrontar situaciones de guerra como la que hay en Siria, o un país como Líbano en el que la economía ha colapsado y que está pasando por una de las mayores dificultades socioeconómicas de las últimas décadas. Y allí también se encuentra población refugiada de Palestina. Hemos pasado además por un terremoto este año y hemos tenido que atender a más de 50.000 refugiados de Palestina que se encontraban en las localidades epicentro del terremoto. Y después tenemos población refugiada de Palestina viviendo bajo ocupación en lo que es el territorio palestino ocupado y además bajo bloqueo en Gaza. Hay 1.200.000 personas. Y esta situación de bloqueo, que cumple 16 años, ha llevado al colapso absoluto de la Franja de Gaza.  Esa situación sumada a las ofensivas militares israelíes, ha convertido a Gaza en un lugar absolutamente inhabitable. De hecho, un RA tiene que distribuir alimentos a este millón 200.000 personas que de otra manera no podrían sobrevivir. RFI Hace unos años, durante la administración de Donald Trump en Estados Unidos, hubo un cambio en la política de financiación para los palestinos y la UNRWA se vio afectada Totalmente. Durante su mandato, Trump decidió cancelar toda la financiación que destinaba a UNRWA. En ese momento era nuestro mayor donante. Dedicaba más de 360 millones de dólares a financiar los programas de UNRWA y, de repente, cortó toda esta financiación. Eso fue una catástrofe para la agencia, pues era 1/3 de nuestro presupuesto lo que financiaba Estados Unidos y realmente estuvimos al borde de tener que cerrar la agencia. Afortunadamente, la retirada de fondos de Donald Trump fue un impulso para el resto de nuestros donantes e hizo que la mayor parte de ellos salieran a nuestro rescate. Hicieron un esfuerzo enorme por incrementar sus contribuciones y ese año, finalmente, cerramos con un déficit cero por primera vez en muchos años. Evidentemente, esto ocurre una vez. Es muy difícil que luego se repita. En los años sucesivos en los que Trump siguió sin destinar financiación, nos vimos mucho más afectados y empezamos a tener arrojar un déficit financiero. Con la nueva administración norteamericana, con Biden, afortunadamente se restituyó la ayuda a UNRWA y ya casi está llegando a los mismos niveles de financiación que teníamos antes de que Trump nos recortara la financiación.     This show is part of the Spreaker Prime Network, if you are interested in advertising on this podcast, contact us at https://www.spreaker.com/show/3018443/advertisement

Tạp chí Việt Nam
Việt Nam : Khởi đầu của chủ nghĩa tư bản và phong trào công nhân thời Pháp thuộc

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later May 1, 2023 10:19


Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành trong những đồn điền cao su do thực dân Pháp khai thác ở Nam Kỳ từ cuối thế kỷ XIX. Cũng chính đội ngũ tiểu thực dân này đã tạo nên khu vực sản xuất tư bản, chứ không phải là những đại tập đoàn tài chính Pháp. Để phục vụ cho những doanh nghiệp công-nông nghiệp đầy lợi nhuận và “khát” nhân lực, khoảng 50.000 đến 60.000 người Bắc Kỳ và Trung Kỳ được đưa vào làm công nhân trong nửa đầu thế kỷ XX. Họ phải sống, làm việc trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt.Nam Kỳ trở thành cái nôi của chủ nghĩa tư bản, cũng như phong trào đấu tranh công nhân. Bối cảnh và quá trình này được nhà nghiên cứu Hồ Hải Quang, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Xã hội - CERESUR - Đại học La Réunion (Pháp) phân tích trong tác phẩm La Cochinchine 1859-1930 : Emergence et développement du capitalisme (tạm dịch : Nam Kỳ 1858-1930 : Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản) do NXB Spinelle phát hành năm 2022. RFI Tiếng Việt phỏng vấn ông Hồ Hải Quang. RFI : Cuốn tiểu luận của ông, tạm dịch là Nam Kỳ : Sự xuất hiện và phát triển chủ nghĩa tư bản, cho thấy chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam không phải do các đại tập đoàn tài chính tạo nên mà là do những nhà thực dân. Chủ nghĩa tư bản xuất hiện trong bối cảnh như nào ? Hồ Hải Quang : Trước tiên cần phân tích về những sự kiện lịch sử. Trong 40 năm đầu tiên thời thuộc địa, đúng là có vốn được chuyển từ Pháp sang Nam Kỳ, nhưng khối lượng rất nhỏ và số vốn này được đầu tư vào ba lĩnh vực. Thứ nhất là để thành lập Ngân hàng Đông Dương và ngân hàng này hoạt động tốt. Thứ hai là dành cho thương mại, nhưng lại không ổn vì toàn bộ nội thương ở Nam Kỳ vào thời điểm đó nằm trong tay thương lái Trung Hoa. Thương nhân Pháp muốn lập nghiệp ở Nam Kỳ chỉ có thể giao thương với Pháp, có nghĩa là nhập hàng hóa từ Pháp và xuất khẩu hàng Việt Nam sang Pháp. Nhưng như chúng ta biết người Việt lúc đó tiêu thụ rất ít hàng từ Pháp và chẳng có gì xuất sang Pháp cả. Vì thế lĩnh vực thương mại do người Pháp quản lý là vô cùng yếu kém. Liên quan đến lĩnh vực cuối cùng là công nghiệp, thì thất bại hoàn toàn. Tôi đã nghiên cứu hầu hết các doanh nghiệp hoạt động ở Việt Nam trong vòng 40 năm đầu thuộc địa, tôi nhận thấy là họ đã hoàn toàn thất bại. Thực ra, chủ nghĩa tư bản chỉ thực sự xuất hiện với việc sản xuất cao su. Hoạt động này bắt đầu vào năm 1898 và có thể phân thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, từ năm 1898 đến 1914, là thời kỳ đồn điền cao su do các thực dân cũng là các chủ đồn điền thành lập. Khi hệ thống này được triển khai và bắt đầu phát triển, hoạt động đúng cách thì bước sang giai đoạn thứ hai. Đó là kể từ năm 1920, các công ty tư bản đã đến đầu tư vốn vào Nam Kỳ để phát triển các đồn điền cao su. Lý do giải thích cho hiện tượng này là lúc đó ngành công nghiệp sản xuất ô tô phát triển mạnh và cần lốp xe. Ngành công nghiệp này đã giúp thị trường phát triển mạnh mẽ vô cùng. Tóm lại, có thể nói rằng khu vực sản xuất tư bản chủ nghĩa được hình thành bởi ý tưởng trồng và sản xuất cao su. Những lĩnh vực này trước tiên là do những chủ đồn điền nhỏ lập ra và sau đó được phát triển, chứ không phải do các tập đoàn lớn.RFI : Chủ nghĩa tư bản đã làm thay đổi Nam Kỳ như thế nào ? Hồ Hải Quang : Chủ nghĩa tư bản làm thay đổi Nam Kỳ chủ yếu trên ba lĩnh vực chính. Thứ nhất là sự phát triển của thương mại. Chúng ta biết là lĩnh vực này là rất yếu trước thời thuộc địa Pháp bởi vì sản xuất chủ yếu là lúa gạo, trong khi lúa gạo lại dành cho các nhà nông và gia đình họ tiêu thụ nên có rất ít gạo được bán trên thị trường. Mặt khác, không thể xuất khẩu thóc gạo bởi vì triều đình Việt Nam muốn để dành nhằm tránh cảnh thiếu lương thực, nạn đói… cho nên ngoại thương gần như không tồn tại. Tôi nói như vậy vì tất cả các cuốn sách lịch sử về Nam Kỳ đã cho thấy điều đó. Thực ra không có số liệu thống kê nhưng bằng cách loại trừ, người ta có thể nói rằng loại hình thương mại này cực kỳ yếu.Từ thời thuộc địa Pháp, lĩnh vực thương mại đã phát triển rất nhanh chóng vì ba lý do. Thứ nhất là vì người Pháp đã bắt nộp thuế bằng tiền. Người nông dân buộc phải bán nông sản để có tiền mặt nộp thuế, nên nền kinh tế được tiền tệ hóa. Tiếp theo là diện tích trồng lúa được mở rộng nhờ việc nạo vét kênh rạch giúp tháo lượng nước dư thừa ở đồng bằng sông Cửu Long và giúp nâng sản lượng lúa gạo nhiều hơn. Cuối cùng, chính phủ Pháp đã bãi bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo nên lĩnh vực thương mại này đã có thể phát triển rất mạnh.Thay đổi lớn thứ hai là sự phát triển khu vực sản xuất tư bản, cùng với việc trồng cây cao su gắn liền với kinh tế nông dân mà tôi vừa đề cập ở trên. Lĩnh vực này phát triển khá xa thành thị, ở những khu rừng nguyên sinh khó vào và thưa dân cư. Cho nên cần phải có vốn. Đó là lý do vốn được chuyển từ Pháp đến Nam Kỳ để lập những đồn điền như vậy. Và cũng vì có ít nhân lực nên họ đã phải tổ chức di cư lao động, đưa nhân công từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào. Đó là những người làm công ăn lương ký hợp đồng lao động từ 3 đến 5 năm. Những hợp đồng này đặc biệt ở chỗ công nhân đã ký vào chúng thì không có khả năng chấm dứt, không thể khiếu nại, do đó họ phải phục tùng các công ty tư bản từ 3 đến 5 năm mà không thể thoát được.Điểm quan trọng thứ ba trong chế độ lao động này là công việc gần như được tổ chức theo kiểu nhà binh. Để chỉ huy công nhân, các công ty tư bản chủ yếu tuyển cựu quân nhân Pháp giải ngũ. Kiểu hợp đồng lao động này khiến người lao động Việt Nam bị bóc lột vô cùng nặng nề nên sức khỏe của họ bị tổn hại. Nhiều người đã chết vì bệnh tật, còn nhiều người khác thì muốn về quê sau khi hết hạn hợp đồng. Vì thế các công ty cao su đã phải lập cơ chế quay vòng. Có nghĩa là những người lao động phần nào bị kiệt sức, không thể tiếp tục làm việc thì bị đưa trả về quê quán và người ta tuyển một đội công nhân khác. Nói một cách ẩn dụ, những công ty cao su này hoạt động như những máy bơm, hút và đổ người lao động.Thay đổi thực sự qua trọng thứ ba mà chủ nghĩa tư bản tạo ra, đó là để tự vệ, các công nhân đã bắt đầu đoàn kết với nhau. Họ thành lập các tổ chức chống chủ nghĩa tư bản. Đó là những công đoàn, những phôi thai của đảng Cộng sản bắt đầu hình thành trong các khu đồn điền. RFI : Ông cũng nêu rằng Nhà nước thuộc địa đóng vai trò quyết định trong việc thành lập các doanh nghiệp tư bản. Vai trò đó là gì ? Hồ Hải Quang : Vậy phải xem Nam Kỳ được điều hành như thế nào ? Đứng đầu Nam Kỳ là một thống đốc do chính phủ Pháp bổ nhiệm. Nhưng về mặt kinh tế, thực quyền lại thuộc về Hội đồng Thuộc địa, được thành lập năm 1880. Hội đồng này trước tiên có thể tạo ra các loại thuế mới, tăng thuế và quản lý chi tiêu mà họ muốn. Thông qua hệ thống thuế đó, Hội đồng đã có thể tích được rất nhiều tiền trong ngân khố Nhà nước, số tiền sau đó được phân phối đến các nhà thầu. Tiền thu được từ người dân Việt Nam đã cho phép tích lũy tư bản đầu tiên bằng tiền nằm trong tay người Pháp. Đây là cách để vốn đến tay những chủ đồn điền Pháp.Ngoài ra, Hội đồng Thuộc địa đã trưng thu khoảng 80% diện tích đất Nam Kỳ bằng cách trục xuất người Việt, nhiều người sống trên các vùng cao nguyên cũng bị trục xuất khỏi nơi cư trú. Hội đồng Thuộc địa đã phân chia số đất lớn đó cho các chủ đồn điền Pháp, ban đầu hầu hết là cho không, sau đó là chuyển nhượng với số tiền rất ít ỏi. Bằng cách đó, Hội đồng Thuộc địa là công cụ giúp tích lũy vốn bằng tiền và đồng thời trao phương tiện sản xuất cho các công ty tư bản. Hệ thống tư bản ra đời như vậy ở Việt Nam. Ngoài ra còn có điểm thứ ba cần nhấn mạnh, đó là chế độ lao động, cách tổ chức lao động, các quyền lao động cũng đã được thống đốc Nam Kỳ áp dụng. Và chế độ lao động đó được sắp xếp rất hiệu quả, mang lại nhiều lợi ích cho các công ty tư bản để có thể không ngừng bóc lột công nhân.RFI : Chủ nghĩa tư bản đã biến khỏi Việt Nam hay không hay đã chuyển sang một hình thức khác ? Hồ Hải Quang : Hệ thống tư bản mà tôi đề cập ở trên tồn tại ở Nam Kỳ, cũng như ở miền bắc Việt Nam trong các mỏ than. Hệ thống này tồn tại cho đến năm 1945 khi chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Sau đó Pháp điều quân đội tới và chiến tranh Đông Dương kéo dài từ năm 1946 đến 1954. Hiệp định Geneve đã chấm dứt chiến tranh Đông Dương năm 1954 và Việt Nam bị chia thành hai miền, miền bắc do chính phủ của Hồ Chí Minh quản lý, còn miền nam là Việt Nam Cộng Hòa là một nước tư bản. Ở miền bắc, các nhà lãnh đạo cố gây dựng một chế độ xã hội chủ nghĩa nên họ từng bước loại bỏ những cơ sở của hệ thống tư bản và họ đã làm được việc đó. Trong chiến tranh Việt Nam, miền bắc cũng như miền nam đều phụ thuộc chủ yếu vào hỗ trợ của các nước bạn, ví dụ Liên Xô giúp miền bắc, Mỹ giúp miền nam. Kết thúc chiến tranh năm 1975, đất nước thống nhất. Lúc đó, miền bắc Việt Nam giành chiến thắng và muốn mở rộng đến miền nam cơ cấu kinh tế đã được xây dựng ở miền bắc. Và sự mở rộng này đã dẫn đến một hệ quả vô cùng sâu sắc. Việt Nam rơi vào khủng hoảng kinh tế vô cùng nghiêm trọng. Việc này đã khiến chính phủ Việt Nam vào năm 1986 phải triển khai chính sách “Đổi mới”, một mô hình kinh tế mới gọi là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về cơ bản, hệ thống kinh tế mới này được tổ chức theo hai trục chính.Trước tiên là phát triển lĩnh vực tư nhân, có nghĩa là phần nào đó thúc đẩy tư bản chủ nghĩa. Thủ công tư nhân, thương mại tư nhân được phép phát triển. Trục thứ hai là tái hội nhập Việt Nam vào nền kinh tế thế giới. Vì thế, năm 2007, Việt Nam gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới - OMC. Trong những năm tiếp theo, Việt Nam đã ký rất nhiều hiệp định thương mại song phương với các nước khác. Cuối cùng, Việt Nam đã ưu tiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư gia tăng đáng kể đã giúp củng cố bộ máy sản xuất, giúp Việt Nam sản xuất hàng hóa. Và với việc Việt Nam gia nhập OMC, những hàng hóa này được xuất ra thị trường thế giới. Việc này đã cho phép Việt Nam cất cánh về kinh tế, tăng thu nhập bình quân đầu người một cách đáng kể. Cần biết rằng từ năm 1990 đến 2018, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam gần như đã tăng gấp 5 lần. Đó là con số rất lớn. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Hồ Hải Quang, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Xã hội, Đại học La Réunion, Pháp.

Tạp chí Việt Nam
Mỹ - Philippines thắt chặt hợp tác quân sự ở Biển Đông : Tín hiệu tốt hay xấu cho Việt Nam ?

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Mar 27, 2023 10:52


Tình hình Biển Đông có nhiều biến động trong thời gian gần đây, với trọng tâm là Philippines. Manila thắt chặt hợp tác quân sự với Washington, chuẩn bị cuộc tập trận Balikatan lớn nhất, diễn ra từ ngày 11 đến 28/04/2023, chỉ cách phía nam Đài Loan 300 km. Mỹ và Philippines cũng nhất trí nối lại các chuyến tuần tra chung ở Biển Đông. Từ tháng 02/2023, quân đội Mỹ được phép tiếp cận tổng cộng 9 căn cứ của Philippines. Trước việc hai đồng minh thắt chặt quan hệ quân sự và ngoại giao, Trung Quốc liên tục có những động thái đấu dịu. Thứ trưởng Ngoại Giao Trung Quốc Tôn Vệ Đông (Sun Weidong) công du Manila ngày 23-24/03 để phản đối việc Mỹ mở rộng hiện diện quân sự ở trong vùng, theo một quan chức ngoại giao Philippines tham gia cuộc họp khi trả lời AP. Về mặt chính thức, hai nước nhất trí rằng « các vấn đề hàng hải phải được giải quyết qua đường ngoại giao và đối thoại và không bao giờ bằng cách ép buộc và đe dọa ».Những biến chuyển trên tác động như thế nào đến Việt Nam ? Nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp, trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt.*RFI : Mỹ và Philippines tổ chức tập trận chung Balikatan có quy mô chưa từng có, từ ngày 11 đến 28/04/2023. Sự kiện này chắc chắn sẽ khiến Bắc Kinh giận dữ. Liệu Trung Quốc viện cớ đó để tỏ ra hung hăng hơn trong phát biểu và hành động ở Biển Đông không ? Laurent Gédéon : Đợt tập trận Balikatan năm 2023 chắc chắn sẽ không làm giảm căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington, cũng như giữa Bắc Kinh và Manila. Cụm từ « Balikatan » cũng có nghĩa là « vai kề vai » nhắc đến sự gần gũi giữa Mỹ và Philippines. Tôi nghĩ là cũng cần phải nhắc lại rằng đợt tập trận này diễn ra trong bối cảnh Hoa Kỳ thường xuyên trắc nghiệm khả năng đáp trả của Trung Quốc, đặc biệt là ở Biển Đông. Sự cố gần đây nhất là Trung Quốc, trong thông cáo ngày 23/03, khẳng định đã « đuổi » tàu khu trục Mỹ USS Milius ra khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Trước đó còn có nhiều sự kiện như thông báo hôm 21/02 của tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn về tăng cường quan hệ quân sự giữa Đài Bắc và Washington, hoặc đợt tập trận chung Mỹ-Hàn lớn nhất từ 5 năm qua, diễn ra từ ngày 13 đến 23/03. Đọc thêm : Trung Quốc loan báo đã « đuổi » một tàu chiến của Mỹ khỏi Hoàng SaBalikatan 2023 là cuộc tập trận có quy mô lớn nhất, huy động khoảng 18.000 quân nhân, trong đó có 12.000 người Mỹ. Theo tôi, cần chú ý theo dõi xem Balikatan 2023 diễn ra như thế nào, những đơn vị nào được huy động. Ngoài ra, cũng cần biết rằng Balikatan 2023 nhắm đến hai mục đích lớn : kiểm tra khả năng tương tác của lực lượng Hoa Kỳ và Philippines, đưa ra những kịch bản khủng hoảng trực diện, với các giả thuyết về phòng thủ và tấn công.Theo tôi, dường như những yếu tố này có ý nghĩa mấu chốt để hiểu được tuyên bố của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trước Quốc Hội ở Bắc Kinh hôm 06/03 khi ông nhấn mạnh Trung Quốc bị các nước phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ, bao vây. Phát biểu đó cho thấy rõ Trung Quốc lo lắng về sự hiện diện của Mỹ trong khu vực. Trước tình hình đó, Bắc Kinh có thể có nhiều cách đáp trả, như kịch liệt phản đối thông qua các thông cáo chính thức, hoặc có thể gây sức ép ngoại giao cũng như ban hành nhiều biện pháp nhắm vào Philippines chẳng hạn. Bắc Kinh cũng có thể tăng cường tuần tra trên không ở các vùng sát với khu vực tập trận. Cũng có thể là Hải Quân Trung Quốc lại quấy rối ngư dân Philippines, cấm họ vào các ngư trường đánh bắt như từng làm cách đây vài tháng. Cuối cùng, có thể là Hải Quân Trung Quốc tăng cường hiện diện ở Biển Đông để gây sức ép với Philippines. Đọc thêm : Biển Đông : Tầu Philippines bị tầu Trung Quốc đuổi bám ngay trong vùng đặc quyền kinh tếRFI : Cuộc tập trận Balikatan có thể có ích cho Việt Nam không ? Laurent Gédéon : Chắc chắn là có. Việt Nam được lợi khi chú ý theo dõi cuộc tập trận này vì bốn lý do. Thứ nhất là phân tích cách Hoa Kỳ sát cánh với một đồng minh. Điều này sẽ mang lại những yếu tố có ích cho Hà Nội về mức độ tin cậy vào Mỹ trong bối cảnh gần đây Washington đưa ra nhiều tín hiệu rất tiêu cực, nhất là rút quân khỏi Afghanistan mà không tham vấn đối tác, bào mòn niềm tin của các đồng minh của Mỹ. Thứ hai là Việt Nam có thể sẽ phân tích được khía cạnh thuần túy quân sự của cuộc tập trận Balikatan, những vấn đề về mô phỏng chiến lược, thiết bị quân sự được sử dụng. Điều đó sẽ mang lại những yếu tố quý giá về quân sự, chiến lược cho sĩ quan Việt Nam.Thứ ba là Việt Nam phân tích được cách đáp trả của Trung Quốc. Yếu tố này có ý nghĩa căn bản bởi vì mức độ cứng rắn trong phản ứng của Trung Quốc sẽ cho thấy quyết tâm của Bắc Kinh, các lằn ranh đỏ có thể do Trung Quốc vạch ra, cũng như ý chí bảo vệ chúng. Lý do cuối cùng là phân tích năng lực, những điểm yếu trong tác chiến của quân đội Việt Nam trong giả thuyết xảy ra một cuộc xung đột cường độ cao. Tôi cho rằng bốn lý do quan trọng này cho thấy Việt Nam tìm cách có được nhiều yếu tố và thông tin nhất liên quan đến cuộc tập trận Balikatan.RFI : Hoa Kỳ được tiếp cận nhiều căn cứ của Philippines hơn. Điều này có nghĩa là Mỹ tăng cường hiện diện quân sự ở trong vùng, gia tăng tuần tra chung với Philippines ở Biển Đông. Đây có phải là dấu hiệu tốt cho Việt Nam không trong khi Hà Nội cũng tuyên bố chủ quyền đối với nhiều thực thể hiện do Philippines kiểm soát ở quần đảo Trường Sa ? Laurent Gédéon : Đúng là Hoa Kỳ giữ vững lập trường về việc bảo vệ tự do lưu thông ở những vùng biển chung nơi luật pháp quốc tế cho phép, trong đó có Biển Đông. Ngược lại, Mỹ cũng luôn từ chối nêu quan điểm về tính chính đáng trong những đòi hỏi chủ quyền của các nước liên quan đối với các thực thể ở Biển Đông, dù thuộc quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa.Đúng là Mỹ và Philippines xích lại gần nhau có thể khiến Việt Nam quan ngại vì Hà Nội và Manila bất đồng cơ bản về chiến lược. Philippines là đồng minh chính thức của Mỹ thông qua nhiều thỏa thuận được ký từ thập niên 1950 trong khi Việt Nam không có bất kỳ thỏa thuận quân sự nào với Mỹ dù hai nước đã xích lại gần nhau từ hai thập niên gần đây. Ngoài ra, có thể thấy là Hà Nội có xu hướng kìm hãm quá trình này dù Washington liên tục đề nghị. Đọc thêm : Việt Nam chưa sẵn sàng nâng cấp quan hệ với MỹTừ đó có thể đưa ra một giả thuyết là trong trường hợp xảy ra xung đột trực tiếp giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng với các đồng minh của Mỹ ở trong vùng, trong đó có Philippines, giả sử cuộc xung đột dẫn đến thất bại của Trung Quốc hoặc ít ra là làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc và nếu Việt Nam không tham gia vào cuộc xung đột đó, thì có khả năng Philippines sẽ được Washington ủng hộ trong trường hợp đàm phán về quy chế của các thực thể. Tương tự, việc Trung Quốc bị giảm ảnh hưởng cũng khiến Việt Nam mất bớt tầm quan trọng chiến lược đối với Hoa Kỳ.Hà Nội hiện duy trì chính sách « Bốn Không » : không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc. Tôi cho rằng lập trường đang bảo vệ lợi ích của Việt Nam có thể trở thành phản tác dụng trong trường hợp xảy ra xung đột trực diện Mỹ-Trung và giả sử là cuộc xung đột đó làm giảm ảnh hưởng của Bắc Kinh. RFI : Dưới thời tổng thống Marcos Jr., Philippines tìm cách tăng cường quan hệ quân sự và ngoại giao với nhiều cường quốc trong vùng (Úc, Nhật Bản) để bảo vệ chủ quyền ở Biển Đông. Việt Nam cũng mở rộng mạng lưới đối tác quốc phòng. Có thể thấy các nước Đông Nam Á có tranh chấp ở Biển Đông vẫn thiếu tinh thần chung chống Trung Quốc ? Laurent Gédéon : Mối quan hệ giữa Việt Nam và Philippines có gì đó mơ hồ theo nghĩa hai nước tranh chấp lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa nhưng lại có một kiểu thỏa thuận ngầm chống Trung Quốc vì Hà Nội và Manila đều coi Bắc Kinh là đối thủ nguy hiểm nhất trong khu vực. Có thể nêu ví dụ chuyến công du Philippines hôm 07/11/2022 của thượng tướng Nguyễn Tân Cương, thứ trưởng bộ Quốc Phòng Việt Nam. Trong chuyến thăm này, hai bên nhất trí tăng cường hợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực như trao đổi phái đoàn cấp cao, hợp tác hàng hải, đào tạo, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm chuyên môn, cũng như việc Việt Nam và Philippines ủng hộ nhau tại các diễn đàn đa phương, đặc biệt là ở ASEAN. Dù có những chuyến thăm như vậy, Việt Nam và Philippines không có thỏa thuận rõ ràng về tranh chấp ở quần đảo Trường Sa. Hai nước vẫn duy trì sự mập mờ và đều cho là phải giải quyết vấn đề với Trung Quốc trước đã, sau đó mới có thể giải quyết được bất đồng giữa hai nước. Nói tóm lại, Hà Nội và Manila không tìm cách hoặc không triển khai được một liên minh rõ ràng. Nhiều nước Đông Nam Á khác thì không có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, trong đó có một số nước thân Bắc Kinh, như Cam Bốt. Hiện giờ, Trung Quốc đang tận dụng những lục đục này, ví dụ tranh chấp giữa Philippines và Việt Nam ở Biển Đông, để thúc đẩy lợi ích của họ. Đọc thêm : Việt Nam, Malaysia, Philippines: Gác tranh chấp, chống Trung Quốc ở Biển Đông?Vấn đề đặt ra ở trong vùng hiện nay là Hoa Kỳ có nguy cơ đưa ra một chương trình ngoại giao và chiến lược mới mà trên thực tế sẽ buộc các quốc gia trong khu vực phải thể hiện lập trường. Nếu chiến lược đó dẫn đến hệ quả là gây ra một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung, ví dụ là một cuộc đối đầu trên bộ với giả thuyết là Trung Quốc bị suy yếu, thì có khả năng là những nước thân với Washington nhất sẽ được lợi lớn. Trong bối cảnh đó, lấy ví dụ chiến lược của Việt Nam là xích lại với các nước xa hơn như Ấn Độ, có thể sẽ không phải là một lợi ích địa chiến lược vì Viêt Nam và Philippines phải ý thức được rằng sự cạnh tranh Mỹ-Trung hiện là trọng tâm địa-chính trị chính ở Đông Nam Á và Đông Bắc Á, chí ít là cho thập niên tới.Bối cảnh này phải được các nước liên quan, các nước cạnh tranh với Trung Quốc, cân nhắc đúng đắn, kể cả trong giả thuyết xấu nhất là xảy ra một cuộc xung đột với Trung Quốc. Bởi vì căn cứ vào những căng thẳng không suy giảm từ 5 năm nay, căng thẳng về Đài Loan, tiếp theo là khủng hoảng ở Ukraina, Nga-Trung xích lại gần nhau, ý đồ của Nga và Trung Quốc muốn làm lung lay thế ưu việt của Mỹ, cũng như những cơ chế liên minh do Mỹ triển khai, như AUKUS, hay các cuộc tập trận với Philippines, Hàn Quốc, Nhật Bản, thì khả năng xảy ra một cuộc xung đột cường độ cao trong khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông hay Đài Loan là một giả thuyết xuyên suốt. Giả thuyết đó cũng đáp ứng những mục tiêu mà Mỹ đề ra để ngăn chặn Trung Quốc trước khi sức mạnh hàng hải của nước này trở nên quá lớn.Dĩ nhiên cũng có giả thuyết ngược lại là ảnh hưởng của Mỹ bị giảm. Nhưng như vậy, Việt Nam sẽ không ở thế tốt vì Trung Quốc càng củng cố yêu sách tối đa ở Biển Đông và loại trừ khả năng đàm phán chia sẻ các vùng ảnh hưởng. Do đó, đây là một bối cảnh nhạy cảm, cần một tầm nhìn hiện thực địa-chính trị từ các nước trong vùng, nhất là từ Việt Nam và Philippines. Hai nước cần có chiến lược tăng cường xích lại gần nhau để cố gắng thu được tối đa lợi ích hoặc giảm thiểu tổn thất trong trường hợp xảy ra xung đột.RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.

Enfoque internacional
'Es muy difícil de superar', cuenta a RFI una mexicana que fue testigo de la tragedia de Seúl

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Nov 3, 2022 2:28


La policía sudcoreana investiga los fallos de seguridad que provocaron la mortal desbandada en Seúl en la noche del 29 de octubre, para la fiesta de Halloween, en la que fallecieron al menos 156 personas. Varios días después, Lidia Rodríguez, una estudiante mexicana, aún trata de asimilar lo sucedido en el barrio de Itaewon, donde había quedado con unas amigas. Cuenta a RFI que Corea del Sur sigue sumida en un pésame que se alarga a la espera de tener noticias esclarecedoras sobre lo ocurrido. RFI: ¿Cómo se siente el ambiente a varios días de la tragedia? Lidia Rodríguez: Claro que seguimos de luto. Yo estuve presente en toda esta situación y creo que al momento es muy difícil de superar. Obviamente a cada uno de nosotros se nos va a complicar el superar esta tragedia. Todos los días se están haciendo ceremonias. Tanto los ciudadanos como foráneos hacemos presente flores y ofrendas al lugar en donde sucedió todo. RFI: ¿A gente como tú, que viviste la tragedia en primera persona, os han ofrecido ayuda psicológica? Lidia Rodríguez: Sí, por lo que yo he visto, el gobierno de México está ofreciendo ayuda psicológica tanto como el gobierno de Corea ofreció apoyo psicológico. Lo único que tenemos que hacer es presentar nuestro pasaporte, hacer como una acta para que nos den apoyo psicológico. RFI: Cuéntame un poco qué se sabe de la investigación porque hay pocas noticias al respecto. Si hay algo por parte de la policía, del gobierno… Lidia Rodríguez: Nada. Todo lo que ha salido a la luz han sido rumores. Hasta el día siguen investigando. Ha sido porque había muchísima gente, o sea, demasiada gente, y claro, en un lugar tan pequeño de verdad, un callejón muy diminuto, con cientos de personas, claro que la gente se iba a sentir sofocada. Yo me sentía sofocada desde el metro hasta que salí a la parte superior. Había muchísima gente, o sea, era una exageración de personas los que estábamos ahí. RFI: ¿Se sigue buscando más desaparecidos? Lidia Rodríguez: Sí, sí, claro, creo que hay 200 personas más, sí, hay personas desaparecidas, no se sabe nada de ellas. E incluso hay varias personas que todavía no son identificadas.

Enfoque internacional
Científicos buscan los secretos de las plantas del desierto de Atacama

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later May 17, 2022 2:18


Investigadores chilenos y franceses estudian la extraordinaria resistencia de las plantas que crecen en la zona más árida del mundo: el desierto de Atacama del norte de Chile. Una tierra inhóspita pero que resguarda misterios biológicos que podrían ser útiles para mejorar la resistencia de los cultivos agrícolas a la sequía. En el marco de la COP15 sobre la Desertificación, que tiene lugar este año Abiyán, Costa de Marfil, la comunidad internacional busca hacer frente al creciente empobrecimiento de los suelos debido al cambio climático. En paralelo, científicos chilenos, asociados con expertos del centro de investigación de agronomía francés INRAE, ponen la lupa en el desierto de Atacama. Pese a ser una de las regiones más inhóspita del mundo por su aridez, su radiación extrema y sus oscilaciones de temperaturas, el desierto de Atacama resguarda una flora que crece entre 2.500 y 4.600 metros. Rodrigo Gutiérrez, doctor en biología e investigador en la Universidad Católica de Chile, comparte con RFI los procesos de un prometedor estudio de la resistencia de las plantas a condiciones extremas. Los científicos esperan poder adaptar las técnicas de resistencia de las plantas desérticas a la agricultura. RFI: ¿Por qué estudiar las plantas del desierto? Rodrigo Gutiérrez: “En el escenario de cambio climático actual, debido al calentamiento global, las predicciones que se han hecho por los paneles internacionales indican que va a haber un aumento de la desertificación a nivel mundial. En particular las zonas de los subtrópicos van a ser las más afectadas. Y países como Argentina, Chile vivirán con más fuerza estos procesos de desertificación. Si uno piensa en entender cómo la vida puede soportar estas condiciones de aridez cada más frecuente, ir a un lugar donde los organismos han experimentado condiciones de aridez extrema por millones de años nos pareció que era una buena idea. Para usar como laboratorio natural el desierto más antiguo del planeta. Existe una diversidad vegetal que se ha estudiado muy poco. Se sabe de sus descripciones botánicas, pero más allá de eso, la gran mayoría de ellas no se han estudiado. Hay una mina de oro desde el punto de vista genético y biológico que está esperando que lo caractericemos. RFI: ¿De qué especies se trata? Rodrigo Gutiérrez: En esta década con un poquito más de estudios, hemos identificado cerca de 78 especies. De esas, hay 32 que son las más importantes desde el punto de vista ecológico por su abundancia y su distribución. La gran mayoría son angiosperma, plantas que florecen, y dependiendo a qué altura uno este, se cambia el paisaje. En la parte alta domina el pasto, la zona intermedia hay arbustos y la parte más baja, a medida que uno se acerca hacia el desierto absoluto donde no hay vida, está dominado por plantas anuales y suculentas. Entre los 2.400 y los 4.600 metros es donde se concentra la vida vegetal. RFI: ¿Cuál es el método empleado? Rodrigo Gutiérrez: Nos hemos enfocado en tratar de entender los mecanismos que les permiten a estas especies sobrevivir del punto de vista molecular y evolutivo. Lo que hemos caracterizado es qué genes tienen estas especies. Tratando de entender cómo los genes han evolucionado en estas especies confiriendo capacidad adaptativa. Entonces nuestro foco es, a partir de lo que pasa a nivel molecular, tratar de entender los procesos biológicos que contribuyen a la sobrevida de estas especies en las condiciones desérticas. También los suelos son muy pobres y la radiación solar es realmente muy alta. RFI: ¿Y cómo se adaptan concretamente estas plantas? Rodrigo Gutiérrez: La primera etapa fue la caracterización de la biodiversidad. En ambientes extremos no es tan simple. Tomó varios años entender realmente qué especies hay. Hicimos una reconstrucción de los últimos 30.000 años de la flor en Atacama utilizando los registros fósiles. La segunda parte tenía que ver con entender a nivel molecular cuáles eran los mecanismos involucrados. Y tenemos identificados procesos que tienen que ver con cambios en las secuencias de las proteínas que hacen trabajos de manera más eficientes que les permite a las plantas sobrevivir. Y la tercera etapa, en la que estamos ahora, es seleccionar algunos de estos procesos moleculares para tratar de entenderlos con más detalles y ver si es posible tomar lo que hemos aprendido y llevarlo a plantas de interés agronómico y ver si podemos mejorarlas de alguna manera. Hay otra parte del trabajo que estamos haciendo, que tiene que con rescatar algunas de estas especies por su valor propio. Muchas de estas especies eran utilizadas por los pueblos originarios, por ejemplo, como alimentos, y estas tradiciones están un poco olvidadas. Y creemos que hay mucho potencial en algunas de estas especies como la quínoa, el maqui o el calafate que son especies que eran propias de esta zona, consumidas por los pueblos originarios pero que se ha perdido un poco la historia.

Tạp chí Việt Nam
Mỹ sát cánh lâu dài với ASEAN để kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later May 16, 2022 11:18


Cuộc họp thượng đỉnh Mỹ-ASEAN kết thúc ngày 13/05/2022 với cam kết nâng quan hệ từ “Đối tác Chiến lược” lên thành “Đối tác Chiến lược Toàn diện” vào tháng 11, cùng với hàng loạt dự án hợp tác, đầu tư mới trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, tổng thống Joe Biden vẫn không thuyết phục được khối ASEAN lên án hành động bành trướng, hăm dọa của Trung Quốc ở Biển Đông và cuộc chiến của Nga ở Ukraina. Chủ trương của các nước ASEAN là không muốn bị kẹt giữa các cường quốc. Điều này được thể hiện phần nào trong lập trường của Việt Nam, được thủ tướng Phạm Minh Chính nêu trong buổi phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ (CSIS) ngày 12/05. Ông nói : “Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc ; bình đẳng, tất cả cùng có lợi, tất cả cùng chiến thắng”. Thượng đỉnh Mỹ-ASEAN, diễn ra đúng dịp kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ song phương, có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh cả thế giới chú ý đến chiến tranh Nga ở Ukraina ? Tình hình ở Ukraina có gây hệ lụy cho khu vực Đông Nam Á không ? Liệu Mỹ có thể gia tăng sức ép để các nước ASEAN dần hạn chế mua vũ khí và dầu lửa của Nga theo các biện pháp trừng phạt của phương Tây ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon (Ecole Normale supérieure de Lyon, ENS Lyon), về chủ đề này.    ***** RFI : Cuộc họp thượng đỉnh Mỹ-ASEAN ngày 12-13/05/2022 có phải là cơ hội để Washington nhắc lại tầm quan trọng của ASEAN trong Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương (Indo-Pacific Strategy of the United States) được công bố tháng 02/2022 và khu vực này không bị “quên” trong khi Mỹ đang cùng các đồng minh tập trung vào chiến tranh ở Ukraina ?  Laurent Gédéon : Đây là một sự kiện rất quan trọng bởi vì 5 điểm chính của Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ là thúc đẩy một vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở, thiết lập những mối quan hệ bên trong và bên ngoài vùng, tạo điều kiện cho sự thịnh vượng, tăng cường an ninh ở Ấn Độ-Thái Bình Dương và tăng cường khả năng ứng phó của vùng trước những mối đe dọa xuyên quốc gia trong thế kỷ 21. Đó là những mục tiêu đầy tham vọng, hoàn toàn nhất quán với chính sách được theo đuổi trước đây dưới thời chính quyền Obama và Trump. Mối bận tâm của Washington chính là một vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở và được tổng thống Joe Biden nhắc lại thường xuyên kể từ khi ông lên nắm quyền.  ASEAN đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược này. Thực vậy, trong 10 điểm đánh dấu Kế hoạch Hành động của Mỹ ở Ấn Độ-Thái Bình Dương (Indo-Pacific Action Plan), điểm thứ 4 có tên “Strenthen an Empowred and Unified ASEAN”, có nghĩa là củng cố một ASEAN tự chủ, đoàn kết, hoàn toàn dành cho vấn đề này. Điểm này công nhận tầm quan trọng đặc biệt của hoạt động của ASEAN ở trong vùng. Ngoài ra, cũng có thể thấy việc tổng thống Joe Biden tham gia cuộc họp thường niên của các nhà lãnh đạo các nước ASEAN qua hình thức trực tuyến vào tháng 10/2021 càng củng cố sự can dự của Mỹ, đặc biệt là cuộc họp đó lại diễn ra vào lúc những hoạt động trao đổi song phương hơi mờ nhạt dưới thời chính quyền Trump. Vì thế, theo tôi, cuộc họp thượng đỉnh lần này không phải mang hiệu ứng thông báo mà cho thấy rõ mong muốn của Washington tập trung tái triển khai lực lượng và sự năng động chính trị sang châu Á, tiếp nối hoạt động đã được các chính quyền trước thực hiện, dù là dưới thời chính quyền Trump hay Obama. RFI : Xin ông nhắc lại những sáng kiến hợp tác giữa Mỹ và ASEAN ! Hoa Kỳ cũng đã mở rộng, tăng cường hợp tác sang nhiều lĩnh vực khác, đồng thời vẫn nhấn mạnh đến những cam kết về tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông. Mục đích của những sáng kiến này là gì ? Laurent Gédéon : Thực ra, mối quan hệ giữa Mỹ và ASEAN đã có từ lâu, từ năm 1977 và thực sự được tăng cường trong hai thập niên gần đây. Mối quan hệ đó được đánh dấu bằng nhiều thỏa thuận khác nhau, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế. Ví dụ Hoa Kỳ là đối tác thương mại lớn thứ 2 của ASEAN, trao đổi thương mại song phương đạt gần 300 tỉ đô la. Chúng ta cũng thấy là hai bên có nhiều thỏa thuận về kinh tế, ví dụ thỏa thuận khung về thương mại và đầu tư được ký năm 2006 tại Kuala Lumpur, cũng như nhiều kiểu cam kết về kinh tế, năng lượng được ký vào tháng 11/2012. Ngoài ra, giữa Mỹ và ASEAN còn có mối quan hệ đối tác được mở rộng và bao trùm lên nhiều lĩnh vực, chứ không chỉ dừng ở mặt quân sự. Rất nhiều kế hoạch hành động là kế hoạch 5 năm, ví dụ kế hoạch hành động hiện nay là cho giai đoạn 2021-2025.  Cuối cùng phải kể tới nhiều cơ chế hợp tác, như thỏa thuận hợp tác vì phát triển vùng được ký ngày 10/09/2020. Thỏa thuận này bao gồm cả vế chiến lược và quân sự, cho phép tăng cường sự cam kết và uy tín của Mỹ, cũng như củng cố các nguyên tắc đặt nền móng cho cam kết này, đặc biệt hơn cả là cam kết về tự do, nhất là tự do lưu thông hàng hải, mà tôi xin nhắc lại là có lợi cho hoạt động thương mại, kinh tế của Hoa Kỳ trên thế giới. RFI : Cuộc họp thượng đỉnh ASEAN, tương tự với chuyến công du ba nước Đông Nam Á (Indonesia, Việt Nam, Thái Lan) trước đó của thủ tướng Nhật Bản Kishida, cũng nhằm thuyết phục các nước ASEAN lên án cuộc chiến do Nga phát động ở Ukraina. Liệu Washington sẽ gặp khó khăn hơn không khi mà gần đây chính quyền tổng thống Joe Biden không giấu mục tiêu ủng hộ Ukraina, cung cấp vũ khí hạng nặng cho nước này để làm suy yếu Nga ? Laurent Gédéon : Lập trường của Mỹ về Ukraina và Nga rất rõ ràng. Chính quyền Joe Biden biết rằng các nước Đông Nam Á có ý kiến rất trái ngược nhau về chiến tranh ở Ukraina. Ví dụ, có những nước như Miến Điện công khai ủng hộ Nga, một số thì tương đối thân Nga như Việt Nam, một số thì tỏ ra trung lập như Indonesia, còn một số khác như Singapore thì có lập trường rất gần với Hoa Kỳ. Điều chúng ta thấy, đó là chính quyền Mỹ có lẽ sẽ gây thêm sức ép với một số đối tác để những nước đó giữ thêm khoảng cách với Nga. Nhưng đây là việc rất phức tạp, bởi vì nhiều nước trong vùng bị tác động vì giá xăng dầu, khí đốt, ngũ cốc tăng do chiến tranh gây ra. Và về sâu xa, đa số các nước trong vùng tìm cách tránh bị mắc kẹt trong khả năng xảy ra một cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ. Vì thế, mối liên hệ với Nga là lợi thế để đa dạng và cân bằng mối quan hệ giữa các cường quốc.  Đúng là các nước ASEAN ngày càng khó giữ lập trường giữ cân bằng do sức ép ngày càng lớn của Hoa Kỳ và các nước đồng minh muốn tiến gần đến các cơ chế liên minh như NATO hay Bộ Tứ - QUAD. Tôi nhắc đến NATO bởi vì ngoại trưởng Anh Liz Truss mới đây tuyên bố rằng NATO phải có một tầm nhìn toàn cầu và phải sẵn sàng đối phó với những mối đe dọa thế giới. Bà cũng nói thêm là NATO phải dự đoán được những mối đe dọa ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương và kết hợp với các đồng minh, như Nhật Bản, Úc cũng như với tất cả các nền dân chủ, như Đài Loan, để có thể phòng thủ. Ngoài những yếu tố trên, còn phải lưu ý thêm việc Washington cho biết là các nước thành viên ASEAN, nếu muốn, thì được mời tham vào nhóm Bộ Tứ - QUAD hiện có Mỹ, Úc, Ấn Độ và Nhật Bản.  Như vậy, có thể thấy là phạm vi hành động của các nước Đông Nam Á đang bị thu hẹp và ngày càng khó cho những nước không muốn thể hiện rõ lập trường hoặc tránh bày tỏ. Tôi nghĩ rằng cuộc xung đột ở Ukraina là yếu tố tăng tốc. Nếu phải thể hiện lập trường đối với Nga, các nước Đông Nam Á cũng bị gián tiếp kéo vào việc phải làm tương tự với Trung Quốc bởi vì Bắc Kinh là một trong những bên ủng hộ rõ ràng Matxcơva. Chúng ta chờ xem những tuần tới liệu Washington có gây thêm được sức ép lớn hơn đối với các nhà lãnh đạo ASEAN để giảm bớt mua vũ khí hay dầu lửa của Nga không. Tôi muốn nói thêm rằng Việt Nam là một ví dụ rất rõ cho việc khó giữ cân bằng này. Dù có mối quan hệ tốt với Hoa Kỳ nhưng hai nước lại có lợi ích trái ngược nhau. Cho đến giờ, Hà Nội vẫn từ chối lên án cuộc xâm lược của Nga ở Ukraina và vắng mặt trong các cuộc bỏ phiếu ở Liên Hiệp Quốc. Ngoài mối quan hệ gần gũi về chính trị có từ lâu với Nga, chính phủ Việt Nam không thể liên kết mà không gây ảnh hưởng đến chính an ninh quốc gia bởi vì hơn 80% thiết bị quân sự của Việt Nam là do Liên Xô hoặc Nga sản xuất. RFI : Mỹ có thể làm gì khi một số nước nhất định không thay đổi quan điểm về vai trò của Nga trong cuộc chiến ở Ukraina ? Laurent Gédéon : Tôi nghĩ là Mỹ có một nguyên tắc thực tế địa-chính trị. Họ biết rằng, ví dụ trường hợp Việt Nam, việc từ bỏ hoàn toàn vũ khí Nga, hoặc nguồn cung cấp năng lượng đến từ Nga có lẽ sẽ rất phức tạp cho các nước trong khu vực. Do đó, theo tôi, Washington sẽ cố tìm một chính sách cân bằng, bằng cách duy trì sức ép để đẩy các nước ASEAN vào hướng hành động, lựa chọn chính trị nhưng Mỹ cũng sẽ chấp nhận rằng mối quan hệ giữa các nước Đông Nam Á và Nga không bị cắt đứt. RFI : Nga khẳng định sự hiện diện tại hai thành phố Kherson, Mariupol của Ukraina bằng cách ủng hộ chính quyền địa phương thân Nga và thay đổi biển hiệu chỉ đường bằng tiếng Nga. Đây có phải là sự vi phạm chủ quyền của Ukraina trước sự bất lực của các bên liên quan ? Từ sự kiện này, có nên lo cho tình hình tương tự ở Biển Đông với việc Bắc Kinh đòi chủ quyền toàn bộ khu vực này ? Laurent Gédéon : Theo tôi, có vài điểm khác nhau giữa hai trường hợp. Tại Ukraina, Nga đã tuyên bố công nhận nền độc lập của hai nước Cộng hòa tự xưng là Donetsk và Lugansk ngày 21/02/2022, có nghĩa là trước cuộc xung đột và trước khi Nga đưa quân vào lãnh thổ Ukraina. Nhưng cho đến giờ, Matxcơva vẫn không nói đến việc sáp nhập hai vùng lãnh thổ ly khai này vào Liên bang Nga, như đã làm với bán đảo Crimée vào tháng 05/2014. Ngoài ra, điện Kremlin cũng không đưa ra bất kỳ yêu sách lãnh thổ nào đối với Ukraina bên ngoài Crimée. Trong bối cảnh đó, việc điều chỉnh tên gọi ở Mariupol và Kherson sang tiếng Nga là sự vi phạm chủ quyền của Ukraina trong khi hai địa phương này không nằm trong phạm vi của hai nước Cộng hòa tự xưng. Tình hình Biển Đông, biển Hoa Đông tương đối khác. Với trường hợp Đài Loan, Trung Quốc đã triển khai một khuôn khổ pháp lý nhằm hợp pháp hóa trước các yêu sách lãnh thổ của họ. Rất nhiều văn bản đã được Quốc Hội Trung Quốc thông qua và ghi rõ các đảo và đảo nhỏ ở Biển Đông và biển Hoa Đông là thuộc về Trung Quốc, dĩ nhiên trong đó có Đài Loan. Văn bản nổi tiếng nhất chính là Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được ban hành ngày 25/02/1992. Văn bản đó ghi rõ là các quần đảo đều thuộc chủ quyền của Trung Quốc, đặc biệt là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Để củng cố cho yêu sách này, Bắc Kinh đã đặt tên bằng tiếng Trung cho các hòn đảo và rạn san hô để tăng cường tính hợp pháp và những tên này xuất hiện trên tất cả các bản đồ khu vực được in ở Trung Quốc. Theo tôi, mối đe dọa chính ở đây không nằm ở khía cạnh tên gọi vì việc này chỉ mang tính biểu tượng và đơn phương mà chủ yếu liên quan đến hành động của quân đội Trung Quốc trên thực địa. Quân đội Trung Quốc có khả năng tìm cách dùng vũ lực để chiếm các vùng lãnh thổ đó bằng việc tận dụng một hiệu ứng bất ngờ hoặc một thời cơ địa-chính trị bỏ ngỏ. Vì thế, Trung Quốc theo dõi rất sát tình hình ở Ukraina và tiến triển chiến dịch của Nga bởi vì chiến dịch này sẽ mở ra hoặc ngược lại, sẽ hạn chế những triển vọng cho bất kỳ hành động nào của Trung Quốc trong khu vực, hoặc đối với Biển Đông, hoặc đối với Đài Loan. RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Sư phạm Lyon, Pháp.

Enfoque internacional
La batalla del Donbás, 'para ambos bandos, tiene una finalidad propagandística'

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Apr 20, 2022 3:12


Rusia anunció el martes que lanzaba una segunda fase de su operativo militar en Ucrania. Tras retirar sus tropas de Kiev, tiene ahora como objetivo la región oriental del Donbás. Ambos bandos lo presentan como "la batalla final" que definirá el futuro del país. Algunos lo comparan incluso con batallas de gran magnitud como no se veían desde la Segunda Guerra Mundial. RFI entrevistó a María José Pérez del Pozo, especialista de política exterior rusa en la Universidad Complutense de Madrid. RFI: Ucrania y Rusia ambas anunciaron el inicio de una batalla de gran envergadura en el Donbás. ¿A qué se debe la obsesión rusa por ese territorio? María José Pérez del Pozo: Ya había un despliegue militar en esa zona, ya sea del ejército ruso o de milicias prorrusas. Eso venía produciéndose con el conflicto que remonta al año 2014. Una parte importante de la población es rusófona e incluso algunos son prorrusos. Por eso desde el principio ha sido uno de los objetivos de Vladimir Putin: aumentar control que ya tenía sobre Donetsk y Lugansk y extender ese dominio hacia el sur, en Mariupol, dónde se están produciendo las últimas operaciones. RFI: ¿Cuál es el objetivo final del Kremlin? María José Pérez del Pozo: De esa forma puede tener un acceso directo por tierra con Crimea. RFI: ¿Ahí está clara una intención de anexión por parte del Rusia? María José Pérez del Pozo: Creo que nadie sabe realmente cuál es la estrategia de Putin. Si pretende una división de Ucrania, ¿en cuántas zonas? ¿Qué estatuto o qué situación tendrían esas zonas desde un punto de vista de la organización política? ¿Serían dependientes de Rusia o Estados independientes? Realmente creo que todo el mundo desconoce cuáles son los planes de Putin porque entre otras cosas todo está sometido a los resultados de las operaciones militares. RFI: Ambos bandos anunciaron el inicio de una nueva etapa en este conflicto en Ucrania, que han llamado la “batalla del Donbás”. ¿Cómo calificaría usted este nuevo operativo? María José Pérez del Pozo: El hecho de proporcionar estos titulares tiene una finalidad propagandística. Para el caso de Ucrania, como una parte de ese territorio ya no estaba controlada por el gobierno antes de iniciarse la invasión rusa, desde su punto de vista es una operación para tratar de recuperar todo el Donbás y desde luego para impedir que se amplíe la ocupación de territorios por parte de las fuerzas rusas. Para Rusia, es probable que las operaciones que llevadas a cabo en el norte entorno a Kiev no hayan tenido el resultado que esperaba. Entonces lógicamente lo que ha hecho ha sido una concentración de efectivos militares en toda esa zona para bueno tener a corto plazo un éxito que presentar a la opinión pública el próximo 9 de mayo, en el Día de la Victoria, que conmemora el fin de la Segunda Guerra Mundial. Busca vender a su opinión pública y a su oficialidad un éxito militar significativo.

TẠP CHÍ VIỆT NAM
Việt Nam trong “Tam giác chiến lược Mỹ - Trung - Đông Nam Á”

TẠP CHÍ VIỆT NAM

Play Episode Listen Later Apr 4, 2022 11:58


Vị trí của Ukraina hiện nay giữa phương Tây và Nga làm liên tưởng đến vị trí của Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, trong cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung. Mối quan hệ căng thẳng giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới hiện nay, bắt đầu từ thời Chiến tranh lạnh, cũng như những tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, gay gắt từ thập niên 1970, được phân tích trong một tác phẩm do Đại học Paul Valery Montpellier 3 phát thành vào tháng 03/2022. RFI Tiếng Việt phỏng vấn giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, chủ biên cuốn Un triangle stratégique à l'épreuve. La Chine, les États-Unis et l'Asie du Sud-Est depuis 1947 (tạm dịch : Một tam giác chiến lược qua thử thách. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Đông Nam Á từ năm 1947).   ***** RFI : Cuốn sách tổng hợp tham luận của 21 tác giả và do ông làm chủ biên bắt đầu từ năm 1947. Tại sao lại chọn cột mốc này ? Tại sao lại là “Một tam giác chiến lược” và vị trí của Việt Nam trong tam giác này ? GS. Pierre Journoud : Tại sao cuốn sách có tên là Một tam giác chiến lược ? Bởi vì có thể thấy rõ mỗi góc của hình tam giác đều liên quan chặt chẽ đến nhau. Đông Nam Á là khu vực cạnh tranh ảnh hưởng của Trung Quốc và Hoa Kỳ từ thời Chiến tranh lạnh. Chúng tôi bắt đầu cuốn sách từ năm 1947 bởi vì đó là năm chính thức bắt đầu Chiến lạnh ở châu Âu. Sự đối đầu về ý thức hệ giữa hai khối Cộng sản và chống Cộng sản định hình mối quan hệ quốc tế và gây hàng loạt tác động trên khắp thế giới, dĩ nhiên là cả Đông Nam Á với những xung đột được phân tích trong nửa đầu tác phẩm của chúng tôi. Năm 1947 cũng là năm ông Aung San, một trong những nhà thành lập nước Miến Điện đương đại, cha của bà Aung San Suu Kyi, bị sát hại. Năm 1947 cũng là năm nội chiến ở Trung Quốc… Đúng là ở châu Á, khúc ngoặt lịch sử là vào thời điểm 1949-1950. Năm 1949 với việc Mao Trạch Đông lên nắm quyền và Trung Quốc đi theo chủ nghĩa Cộng sản, với sự ảnh hưởng lớn của Matxcơva. Trong năm tiếp theo, Việt Nam cũng đi theo hướng này, cuộc chiến với Pháp vẫn tiếp tục, rồi Việt Nam bị cuốn theo bối cảnh Chiến tranh lạnh. Thực vậy, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập ngày 02/09/1945 được Trung Quốc của Mao Trạch Đông công nhận trước tiên, tiếp theo là Liên Xô và toàn khối Cộng sản. Còn một Nhà nước khác do Pháp thành lập để làm đối trọng với Nhà nước của Hồ Chí Minh, thì được Hoa Kỳ, Anh và khối “thế giới tự do” phương Tây lúc đó công nhận. Đó là một cuộc xung đột gây hệ quả tức thì cho Đông Nam Á. Tình hình hiện nay ở Đông Nam Á đúng là rất đáng quan ngại vì Đông Nam Á là khu vực cạnh tranh rất gay gắt giữa hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc, dĩ nhiên là trong bối cảnh khác với thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nhưng vẫn có thể thấy những yếu tố liên tục nào đó của sự cạnh tranh Mỹ-Trung, xuất phát từ thời đầu Chiến tranh lạnh. Mao Trạch Đông giành chiến thắng trong cuộc nội chiến và muốn biến Trung Quốc thành một cường quốc. Khi Mỹ can thiệp quân sự vào Việt Nam, họ hiểu ý đồ đó cũng như chủ trương can thiệp rất rõ ràng của Mao Trạch Đông vào các nước Đông Nam Á. Chủ tịch Trung Quốc ủng hộ tất cả các đảng Cộng Sản ở khắp Đông Nam Á, đặc biệt là ở Việt Nam, nên dẫn đến sự đối đầu ngày càng nghiêm trọng và kéo Việt Nam vào chuỗi chiến tranh. Những sự kiện này được chúng tôi nêu rất chi tiết trong cuốn sách. RFI : Lần đầu tiên, vào ngày 14/02/2022, thủ tướng Việt Nam chủ trì lễ kỉ niệm chính thức 64 quân nhân Việt Nam tử trận ở Gạc Ma (Johnson South Reef) năm 1988 khi bị Trung Quốc tấn công xâm chiếm. Sự kiện đau thương này nằm trong chuỗi căng thẳng gia tăng trong vùng, được đề cập trong phần 2 của tác phẩm về “những viễn cảnh mới về chiến tranh Đông Dương lần thứ 3”. Xin ông giải thích thêm. GS. Pierre Journoud : Tôi cũng ngạc nhiên về việc chính quyền cấp cao Việt Nam tưởng niệm 64 chiến sĩ thuộc lực lượng Hải Quân Việt Nam hy sinh ở quần đảo Trường Sa năm 1988. Thực ra, cuộc xung đột quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông, đã có từ lâu, từ thời thuộc địa những năm 1930 đến cuối Thế Chiến II, nhưng trở nên gay gắt hơn từ những năm 1970. Điều ngạc nhiên là lập trường của Trung Quốc và Việt Nam về những yêu sách chủ quyền của mỗi bên ở Biển Đông có từ rất sớm. Ví dụ, qua bài tham luận của tôi trong trong cuốn sách này, chủ yếu dựa vào nguồn tài liệu quốc tế, đặc biệt là của Liên Hiệp Quốc, các tài liệu lưu trữ của Liên Hiệp Quốc cho thấy xung đột đã được định hình ngay những năm 1970, sớm hơn cả chiến tranh biên giới năm 1979. Tóm lại, cuộc xung đột này bắt đầu từ diễn đàn ngoại giao, ở cấp Liên Hiệp Quốc, trước cả khi xảy ra xung đột trên bộ năm 1979. Cần nhắc lại rằng Trung Quốc là thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc từ năm 1971 và trong suốt thập niên đó, Trung Quốc dễ dàng tiếp cận với Liên Hiệp Quốc hơn, còn nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977. Từ đó, phái đoàn của Trung Quốc và Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc đã tìm cách thuyết phục tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc về mức độ chính xác trong lập trường của họ. Chúng tôi cũng nhận thấy là cuộc xung đột năm 1979, dĩ nhiên còn do những nguyên nhân khác, cũng xuất phát từ lĩnh vực hàng hải. Cho đến nay, khía cạnh này rất ít được khai thác nhưng lại được nêu rất rõ trong tài liệu lưu trữ ở Liên Hiệp Quốc. Năm 1979, phái đoàn Việt Nam, lúc đó do đại sứ Hà Văn Lâu dẫn đầu, đã phản ánh rằng có. rất nhiều tầu Trung Quốc thâm nhập vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông. Chúng tôi đã tham khảo được nhiều báo cáo khá quan trọng về nguồn gốc của xung đột này. Tiếp theo, trong mục Địa-Chính trị của cuốn sách, một số tác giả đề cập đến lập trường của Hoa Kỳ, của Trung Quốc, cũng như của một vài nước Đông Nam Á, đặc biệt là Indonesia. Chúng ta thấy là trong thời gian khá lâu, Indonesia giữ lập trường khá ôn hòa với Bắc Kinh, nhưng sau đó giữ khoảng cách vì chính quyền Jakarta cũng phải đối mặt với sự bành trướng của Trung Quốc và phải cứng rắn hơn trong việc bảo vệ chủ quyền của họ. Dĩ nhiên đây không phải là chủ đề duy nhất của cuốn sách. Tuy nhiên, những bài tham luận về vấn đề này giúp hiểu rõ hơn mọi khía cạnh của cuộc xung đột trên bộ, trên biển, về mặt quốc tế, ngoại giao, ở cấp Liên Hiệp Quốc, cấp ASEAN… RFI : Nhiều chuyên gia dự đoán nếu Chiến tranh Thế giới thứ 3 xảy ra thì sẽ là ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương do những căng thẳng và cạnh tranh Mỹ-Trung. Liệu mối lo vẫn này còn chính đáng khi chiến tranh lại nổ ra ở Ukraina ? GS. Pierre Journoud : Đúng. Đó là một thắc mắc lớn, một câu hỏi nghiêm túc. Tôi muốn thận trọng trong việc đưa ra một dự đoán chính xác bởi vì trường hợp Ukraina cho thấy rõ, kể cả những chuyên gia về Nga và Ukraina đã không lường trước được tốc độ, sự tàn khốc của cuộc xâm lược Nga ở Ukraina. Các nhà quan sát không nghĩ rằng tổng thống Putin sẽ đưa ra một quyết định như vậy trong bối cảnh quan hệ ở châu Âu và quốc tế tương đối thanh bình, dù căng thẳng có gia tăng kể từ khi Nga sáp nhập bán đảo Crimée năm 2014. Tại Ấn Độ-Thái Bình Dương, đúng là từ lâu đã có nhiều căng thẳng lớn giữa Bắc Kinh và Washington ở Biển Đông và rộng hơn là ở vùng Đông Nam Á, đặc biệt là từ khi ông Tập Cận Bình trở thành chủ tịch Trung Quốc. Tiếp theo là căng thẳng giữa các nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Điều quan ngại là sự cố liên tục xảy ra. Trung Quốc ngày càng điều thêm nhiều tầu chiến đến các vùng biển lân cận, điều chiến đấu cơ tuần tiễu trên eo biển Đài Loan hoặc tổ chức tập trận đơn phương và đa phương trong những vùng biển đó. Nhiều lần tầu chiến Trung Quốc và Mỹ gần như chạm mặt nhau, có lúc với tầu chiến Pháp vì thời gian gần đây Paris cũng điều chiếm hạm, tầu ngầm, tầu sân bay đến khu vực. Rất khó dự đoán được là sắp tới hay trong vài tháng, vài năm nữa sẽ xảy ra một cuộc xung đột có thể là vũ trang và có thể sẽ có quy mô như ở Ukraina hiện nay nếu như Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan. Và nếu xảy ra thì sẽ có chung kịch bản như Ukraina và sẽ gây chấn động toàn cầu. Hoa Kỳ sẽ phải phản ứng bằng cách này hay cách khác. Chúng ta không biết chính xác sẽ như thế nào nhưng các bên đều chuẩn bị. Tuy nhiên, điều tồi tệ nhất chưa chắc sẽ xảy ra bởi vì có thể thấy trong cuộc chiến ở Ukraina hiện nay, tổng thống Biden và chủ tịch Tập Cận Bình đã nhiều lần điện đàm với nhau. Do đó không loại trừ khả năng Bắc Kinh và Washington tìm được tiếng nói để giảm bớt phần nào căng thẳng, không chỉ cho cuộc chiến ở Ukraina, mà còn cho cuộc xung đột, dù hiện không phải là vũ trang nhưng ngấm ngầm, giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Biển Đông. Cả hai cường quốc này nghi ngờ nhau và đều có tham vọng thống trị không gian hàng hải, đặc biệt là ở Thái Bình Dương và Biển Đông. Trung Quốc muốn xua Hoa Kỳ ra khỏi biên giới của họ xa nhất có thể vì chẳng có lợi gì với Bắc Kinh khi Washington tăng cường hiện diện ở Biển Đông. Còn Mỹ lại muốn giữ vai trò cường quốc ở Thái Bình Dương, duy trì sự hiện diện của Hạm Đội 7, tiến hành các chuyến hải hành “qua lại vô hại” dù đó là các chiến hạm, tầu khu trục, tầu sân bay…   Có thể Mỹ và Trung Quốc sẽ tiến tới một giải pháp có tính thương lượng khá cao và từ đó sẽ dẫn đến một giải pháp trên quy mô khu vực. Đây cũng là mong muốn của các nước thành viên ASEAN, đang đàm phán bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Tuy nhiên, cũng có thể hình dung ra một sự cố, ví dụ mang tính cục bộ, biến thành xung đột khu vực. Đây chính là giả thuyết mà nhiều chuyên gia lo sợ. Tôi không hẳn là một trong những người bi quan nhất bởi vì các kênh đối thoại và đàm phán vẫn tồn tại, đặc biệt là thông qua ASEAN và tại các thể chế khác. Dù sao thì chúng ta không thể loại trừ bất cứ điều gì. RFI : Chiến sự ở châu Âu có khiến Mỹ phần nào lơ là Biển Đông không ? Liệu Washington không tìm cách làm phật lòng thêm Bắc Kinh do lo ngại Trung Quốc ủng hộ và giúp Nga lách trừng phạt ? Liên minh Nga-Trung có kéo theo rủi ro, thậm chí là mối đe dọa cho vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương không ? GS. Pierre Journoud : Có hai câu hỏi trong phần này. Về câu hỏi thứ nhất liên quan đến tác động của chiến tranh Ukraina có khiến Mỹ, và phương Tây nói chung, lơ là tình hình Biển Đông hay không, tôi nghĩ là không. Trước hết, Hoa Kỳ là một thế lực toàn cầu, luôn theo dõi mọi khu vực có nguy cơ xung đột trên thế giới. Chính sách xoay trục sang châu Á có từ thời tổng thống Obama, tập trung thêm phương tiện quân sự, tài chính, kinh tế vào châu Á, đặc biệt là ở Đông Nam Á, là điều vẫn được các tổng thống sau này tiếp tục, dù ông Trump có thể không ủng hộ chính sách đa phương như người tiền nhiệm. Chiến tranh ở Ukraina có lẽ không làm Mỹ lơ là tập trung ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông vì căng thẳng vẫn tồn tại, xung đột còn lâu mới được giải quyết. Trung Quốc ngày càng củng cố hiện diện trong vùng, quân sự hóa các đảo nhân tạo mà họ chiếm đóng ở Trường Sa và Hoàng Sa. Vài ngày sau khi Nga tấn công Ukraina hôm 24/02, Trung Quốc lại tăng ngân sách quốc phòng, đã ở mức rất cao, bỏ xa mọi ngân sách của các nước trong vùng và hiện đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Ngoài ra, Bắc Kinh tăng cường hiện đại hóa đội tầu chiến. Cứ hai năm, đội tầu Trung Quốc được cho là tăng gấp đôi về trọng tải. Theo tài liệu của Lầu Năm Góc mà tôi tra cứu năm 2021, nỗ lực và sự đầu tư ồ ạt đáng kể đó đã giúp Hải Quân Trung Quốc hiện đứng đầu thế giới về trọng tải, dù có thể không phải về chất lượng hay công nghệ.   Theo tôi, hiện tại không có gì thay đổi ở trong vùng do tác động từ chiến sự ở Ukraina. Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến câu hỏi thứ hai liên quan đến Nga. Trung Quốc là một đối tác lớn của Nga. Người ta nói đến liên minh, dù chưa biết liên minh này sẽ đi tới đâu nhưng rõ ràng là Bắc Kinh ủng hộ nước Nga của ông Putin và không nhắc đến “cuộc xâm lược Ukraina” của tổng thống Putin.  Có thể thấy là Trung Quốc không được thoải mái vì quyết định của điện Kremlin dường như không được bàn với Bắc Kinh và cản trở tham vọng của Trung Quốc trong việc duy trì hòa bình, giữ một trật tự nào đó để nước này mở rộng ảnh hưởng và có thể là sự thống trị ở trong vùng. “Chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga đã cản trở những kế hoạch và tham vọng của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, ảnh hưởng đến sự thành công nhất định cho đến giờ của trục Matxcơva-Bắc Kinh, cùng với một vài nước khác, nhằm vẽ lại các mối quan hệ quốc tế hiện tại, hình thành một mô hình thay thế mô hình của Mỹ và làm thay đổi phần nào bản chất của hệ thống quốc tế. Chính sách của ông Putin lại gây hiệu ứng ngược vì đã khiến các nước châu Âu đoàn kết hơn, hàn gắn khối NATO đang rệu rã. Các nước NATO, Liên Hiệp Châu Âu, lo chiến tranh tang thương như ở Ukraina lan sang khối này và cuối cùng khiến những nước này hình thành một mặt trận, không phải chống Nga mà là chống Putin. Không rõ kết cục sẽ đi đến đâu : khởi đầu là Crimée, tiếp theo là Donbass, rồi Ukraina, biết đâu nay mai lại là các nước Baltic, vốn từng chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Tôi nghĩ là ông Tập Cận Bình theo dõi sát sao tình hình Ukraina. Chủ tịch Trung Quốc có thể sẽ đề xuất đàm phán một giải pháp chính trị để sớm chấm dứt cuộc chiến đang làm xấu hình ảnh nước Nga. Dù sao mọi người đang chờ xem ông Tập Cận Bình sẽ có lập trường như nào, hoặc là giữ khoảng cách với đối tác Nga, hoặc làm trung gian hòa giải. Căn cứ vào mối quan hệ tương đối tốt giữa Matxcơva và Bắc Kinh, vào tiềm lực kinh tế, tài chính, quân sự của Trung Quốc, dường như chỉ có ông Tập Cận Bình mới có khả năng áp đặt, hoặc dù sao định hướng một giải pháp theo hướng này. RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, Đại học Paul Valéry - Montpellier 3. ***** Giáo sư Pierre Journoud là tác giả và là đồng tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về Việt Nam : Paroles de Dien Bien Phu (với giáo sư Hugues Tertrais), De Gaulle et le Vietnam (1945-1969), Dien Bien Phu. La fin d'un monde...

Tạp chí Việt Nam
Việt Nam trong “Tam giác chiến lược Mỹ - Trung - Đông Nam Á”

Tạp chí Việt Nam

Play Episode Listen Later Apr 4, 2022 11:58


Vị trí của Ukraina hiện nay giữa phương Tây và Nga làm liên tưởng đến vị trí của Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, trong cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung. Mối quan hệ căng thẳng giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới hiện nay, bắt đầu từ thời Chiến tranh lạnh, cũng như những tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, gay gắt từ thập niên 1970, được phân tích trong một tác phẩm do Đại học Paul Valery Montpellier 3 phát thành vào tháng 03/2022. RFI Tiếng Việt phỏng vấn giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, chủ biên cuốn Un triangle stratégique à l'épreuve. La Chine, les États-Unis et l'Asie du Sud-Est depuis 1947 (tạm dịch : Một tam giác chiến lược qua thử thách. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Đông Nam Á từ năm 1947).   ***** RFI : Cuốn sách tổng hợp tham luận của 21 tác giả và do ông làm chủ biên bắt đầu từ năm 1947. Tại sao lại chọn cột mốc này ? Tại sao lại là “Một tam giác chiến lược” và vị trí của Việt Nam trong tam giác này ? GS. Pierre Journoud : Tại sao cuốn sách có tên là Một tam giác chiến lược ? Bởi vì có thể thấy rõ mỗi góc của hình tam giác đều liên quan chặt chẽ đến nhau. Đông Nam Á là khu vực cạnh tranh ảnh hưởng của Trung Quốc và Hoa Kỳ từ thời Chiến tranh lạnh. Chúng tôi bắt đầu cuốn sách từ năm 1947 bởi vì đó là năm chính thức bắt đầu Chiến lạnh ở châu Âu. Sự đối đầu về ý thức hệ giữa hai khối Cộng sản và chống Cộng sản định hình mối quan hệ quốc tế và gây hàng loạt tác động trên khắp thế giới, dĩ nhiên là cả Đông Nam Á với những xung đột được phân tích trong nửa đầu tác phẩm của chúng tôi. Năm 1947 cũng là năm ông Aung San, một trong những nhà thành lập nước Miến Điện đương đại, cha của bà Aung San Suu Kyi, bị sát hại. Năm 1947 cũng là năm nội chiến ở Trung Quốc… Đúng là ở châu Á, khúc ngoặt lịch sử là vào thời điểm 1949-1950. Năm 1949 với việc Mao Trạch Đông lên nắm quyền và Trung Quốc đi theo chủ nghĩa Cộng sản, với sự ảnh hưởng lớn của Matxcơva. Trong năm tiếp theo, Việt Nam cũng đi theo hướng này, cuộc chiến với Pháp vẫn tiếp tục, rồi Việt Nam bị cuốn theo bối cảnh Chiến tranh lạnh. Thực vậy, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh tuyên bố thành lập ngày 02/09/1945 được Trung Quốc của Mao Trạch Đông công nhận trước tiên, tiếp theo là Liên Xô và toàn khối Cộng sản. Còn một Nhà nước khác do Pháp thành lập để làm đối trọng với Nhà nước của Hồ Chí Minh, thì được Hoa Kỳ, Anh và khối “thế giới tự do” phương Tây lúc đó công nhận. Đó là một cuộc xung đột gây hệ quả tức thì cho Đông Nam Á. Tình hình hiện nay ở Đông Nam Á đúng là rất đáng quan ngại vì Đông Nam Á là khu vực cạnh tranh rất gay gắt giữa hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc, dĩ nhiên là trong bối cảnh khác với thời kỳ Chiến tranh lạnh. Nhưng vẫn có thể thấy những yếu tố liên tục nào đó của sự cạnh tranh Mỹ-Trung, xuất phát từ thời đầu Chiến tranh lạnh. Mao Trạch Đông giành chiến thắng trong cuộc nội chiến và muốn biến Trung Quốc thành một cường quốc. Khi Mỹ can thiệp quân sự vào Việt Nam, họ hiểu ý đồ đó cũng như chủ trương can thiệp rất rõ ràng của Mao Trạch Đông vào các nước Đông Nam Á. Chủ tịch Trung Quốc ủng hộ tất cả các đảng Cộng Sản ở khắp Đông Nam Á, đặc biệt là ở Việt Nam, nên dẫn đến sự đối đầu ngày càng nghiêm trọng và kéo Việt Nam vào chuỗi chiến tranh. Những sự kiện này được chúng tôi nêu rất chi tiết trong cuốn sách. RFI : Lần đầu tiên, vào ngày 14/02/2022, thủ tướng Việt Nam chủ trì lễ kỉ niệm chính thức 64 quân nhân Việt Nam tử trận ở Gạc Ma (Johnson South Reef) năm 1988 khi bị Trung Quốc tấn công xâm chiếm. Sự kiện đau thương này nằm trong chuỗi căng thẳng gia tăng trong vùng, được đề cập trong phần 2 của tác phẩm về “những viễn cảnh mới về chiến tranh Đông Dương lần thứ 3”. Xin ông giải thích thêm. GS. Pierre Journoud : Tôi cũng ngạc nhiên về việc chính quyền cấp cao Việt Nam tưởng niệm 64 chiến sĩ thuộc lực lượng Hải Quân Việt Nam hy sinh ở quần đảo Trường Sa năm 1988. Thực ra, cuộc xung đột quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông, đã có từ lâu, từ thời thuộc địa những năm 1930 đến cuối Thế Chiến II, nhưng trở nên gay gắt hơn từ những năm 1970. Điều ngạc nhiên là lập trường của Trung Quốc và Việt Nam về những yêu sách chủ quyền của mỗi bên ở Biển Đông có từ rất sớm. Ví dụ, qua bài tham luận của tôi trong trong cuốn sách này, chủ yếu dựa vào nguồn tài liệu quốc tế, đặc biệt là của Liên Hiệp Quốc, các tài liệu lưu trữ của Liên Hiệp Quốc cho thấy xung đột đã được định hình ngay những năm 1970, sớm hơn cả chiến tranh biên giới năm 1979. Tóm lại, cuộc xung đột này bắt đầu từ diễn đàn ngoại giao, ở cấp Liên Hiệp Quốc, trước cả khi xảy ra xung đột trên bộ năm 1979. Cần nhắc lại rằng Trung Quốc là thành viên chính thức của Liên Hiệp Quốc từ năm 1971 và trong suốt thập niên đó, Trung Quốc dễ dàng tiếp cận với Liên Hiệp Quốc hơn, còn nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1977. Từ đó, phái đoàn của Trung Quốc và Việt Nam ở Liên Hiệp Quốc đã tìm cách thuyết phục tất cả các thành viên Liên Hiệp Quốc về mức độ chính xác trong lập trường của họ. Chúng tôi cũng nhận thấy là cuộc xung đột năm 1979, dĩ nhiên còn do những nguyên nhân khác, cũng xuất phát từ lĩnh vực hàng hải. Cho đến nay, khía cạnh này rất ít được khai thác nhưng lại được nêu rất rõ trong tài liệu lưu trữ ở Liên Hiệp Quốc. Năm 1979, phái đoàn Việt Nam, lúc đó do đại sứ Hà Văn Lâu dẫn đầu, đã phản ánh rằng có. rất nhiều tầu Trung Quốc thâm nhập vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông. Chúng tôi đã tham khảo được nhiều báo cáo khá quan trọng về nguồn gốc của xung đột này. Tiếp theo, trong mục Địa-Chính trị của cuốn sách, một số tác giả đề cập đến lập trường của Hoa Kỳ, của Trung Quốc, cũng như của một vài nước Đông Nam Á, đặc biệt là Indonesia. Chúng ta thấy là trong thời gian khá lâu, Indonesia giữ lập trường khá ôn hòa với Bắc Kinh, nhưng sau đó giữ khoảng cách vì chính quyền Jakarta cũng phải đối mặt với sự bành trướng của Trung Quốc và phải cứng rắn hơn trong việc bảo vệ chủ quyền của họ. Dĩ nhiên đây không phải là chủ đề duy nhất của cuốn sách. Tuy nhiên, những bài tham luận về vấn đề này giúp hiểu rõ hơn mọi khía cạnh của cuộc xung đột trên bộ, trên biển, về mặt quốc tế, ngoại giao, ở cấp Liên Hiệp Quốc, cấp ASEAN… RFI : Nhiều chuyên gia dự đoán nếu Chiến tranh Thế giới thứ 3 xảy ra thì sẽ là ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương do những căng thẳng và cạnh tranh Mỹ-Trung. Liệu mối lo vẫn này còn chính đáng khi chiến tranh lại nổ ra ở Ukraina ? GS. Pierre Journoud : Đúng. Đó là một thắc mắc lớn, một câu hỏi nghiêm túc. Tôi muốn thận trọng trong việc đưa ra một dự đoán chính xác bởi vì trường hợp Ukraina cho thấy rõ, kể cả những chuyên gia về Nga và Ukraina đã không lường trước được tốc độ, sự tàn khốc của cuộc xâm lược Nga ở Ukraina. Các nhà quan sát không nghĩ rằng tổng thống Putin sẽ đưa ra một quyết định như vậy trong bối cảnh quan hệ ở châu Âu và quốc tế tương đối thanh bình, dù căng thẳng có gia tăng kể từ khi Nga sáp nhập bán đảo Crimée năm 2014. Tại Ấn Độ-Thái Bình Dương, đúng là từ lâu đã có nhiều căng thẳng lớn giữa Bắc Kinh và Washington ở Biển Đông và rộng hơn là ở vùng Đông Nam Á, đặc biệt là từ khi ông Tập Cận Bình trở thành chủ tịch Trung Quốc. Tiếp theo là căng thẳng giữa các nước có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Điều quan ngại là sự cố liên tục xảy ra. Trung Quốc ngày càng điều thêm nhiều tầu chiến đến các vùng biển lân cận, điều chiến đấu cơ tuần tiễu trên eo biển Đài Loan hoặc tổ chức tập trận đơn phương và đa phương trong những vùng biển đó. Nhiều lần tầu chiến Trung Quốc và Mỹ gần như chạm mặt nhau, có lúc với tầu chiến Pháp vì thời gian gần đây Paris cũng điều chiếm hạm, tầu ngầm, tầu sân bay đến khu vực. Rất khó dự đoán được là sắp tới hay trong vài tháng, vài năm nữa sẽ xảy ra một cuộc xung đột có thể là vũ trang và có thể sẽ có quy mô như ở Ukraina hiện nay nếu như Trung Quốc xâm chiếm Đài Loan. Và nếu xảy ra thì sẽ có chung kịch bản như Ukraina và sẽ gây chấn động toàn cầu. Hoa Kỳ sẽ phải phản ứng bằng cách này hay cách khác. Chúng ta không biết chính xác sẽ như thế nào nhưng các bên đều chuẩn bị. Tuy nhiên, điều tồi tệ nhất chưa chắc sẽ xảy ra bởi vì có thể thấy trong cuộc chiến ở Ukraina hiện nay, tổng thống Biden và chủ tịch Tập Cận Bình đã nhiều lần điện đàm với nhau. Do đó không loại trừ khả năng Bắc Kinh và Washington tìm được tiếng nói để giảm bớt phần nào căng thẳng, không chỉ cho cuộc chiến ở Ukraina, mà còn cho cuộc xung đột, dù hiện không phải là vũ trang nhưng ngấm ngầm, giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Biển Đông. Cả hai cường quốc này nghi ngờ nhau và đều có tham vọng thống trị không gian hàng hải, đặc biệt là ở Thái Bình Dương và Biển Đông. Trung Quốc muốn xua Hoa Kỳ ra khỏi biên giới của họ xa nhất có thể vì chẳng có lợi gì với Bắc Kinh khi Washington tăng cường hiện diện ở Biển Đông. Còn Mỹ lại muốn giữ vai trò cường quốc ở Thái Bình Dương, duy trì sự hiện diện của Hạm Đội 7, tiến hành các chuyến hải hành “qua lại vô hại” dù đó là các chiến hạm, tầu khu trục, tầu sân bay…   Có thể Mỹ và Trung Quốc sẽ tiến tới một giải pháp có tính thương lượng khá cao và từ đó sẽ dẫn đến một giải pháp trên quy mô khu vực. Đây cũng là mong muốn của các nước thành viên ASEAN, đang đàm phán bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Tuy nhiên, cũng có thể hình dung ra một sự cố, ví dụ mang tính cục bộ, biến thành xung đột khu vực. Đây chính là giả thuyết mà nhiều chuyên gia lo sợ. Tôi không hẳn là một trong những người bi quan nhất bởi vì các kênh đối thoại và đàm phán vẫn tồn tại, đặc biệt là thông qua ASEAN và tại các thể chế khác. Dù sao thì chúng ta không thể loại trừ bất cứ điều gì. RFI : Chiến sự ở châu Âu có khiến Mỹ phần nào lơ là Biển Đông không ? Liệu Washington không tìm cách làm phật lòng thêm Bắc Kinh do lo ngại Trung Quốc ủng hộ và giúp Nga lách trừng phạt ? Liên minh Nga-Trung có kéo theo rủi ro, thậm chí là mối đe dọa cho vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương không ? GS. Pierre Journoud : Có hai câu hỏi trong phần này. Về câu hỏi thứ nhất liên quan đến tác động của chiến tranh Ukraina có khiến Mỹ, và phương Tây nói chung, lơ là tình hình Biển Đông hay không, tôi nghĩ là không. Trước hết, Hoa Kỳ là một thế lực toàn cầu, luôn theo dõi mọi khu vực có nguy cơ xung đột trên thế giới. Chính sách xoay trục sang châu Á có từ thời tổng thống Obama, tập trung thêm phương tiện quân sự, tài chính, kinh tế vào châu Á, đặc biệt là ở Đông Nam Á, là điều vẫn được các tổng thống sau này tiếp tục, dù ông Trump có thể không ủng hộ chính sách đa phương như người tiền nhiệm. Chiến tranh ở Ukraina có lẽ không làm Mỹ lơ là tập trung ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Biển Đông vì căng thẳng vẫn tồn tại, xung đột còn lâu mới được giải quyết. Trung Quốc ngày càng củng cố hiện diện trong vùng, quân sự hóa các đảo nhân tạo mà họ chiếm đóng ở Trường Sa và Hoàng Sa. Vài ngày sau khi Nga tấn công Ukraina hôm 24/02, Trung Quốc lại tăng ngân sách quốc phòng, đã ở mức rất cao, bỏ xa mọi ngân sách của các nước trong vùng và hiện đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ. Ngoài ra, Bắc Kinh tăng cường hiện đại hóa đội tầu chiến. Cứ hai năm, đội tầu Trung Quốc được cho là tăng gấp đôi về trọng tải. Theo tài liệu của Lầu Năm Góc mà tôi tra cứu năm 2021, nỗ lực và sự đầu tư ồ ạt đáng kể đó đã giúp Hải Quân Trung Quốc hiện đứng đầu thế giới về trọng tải, dù có thể không phải về chất lượng hay công nghệ.   Theo tôi, hiện tại không có gì thay đổi ở trong vùng do tác động từ chiến sự ở Ukraina. Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến câu hỏi thứ hai liên quan đến Nga. Trung Quốc là một đối tác lớn của Nga. Người ta nói đến liên minh, dù chưa biết liên minh này sẽ đi tới đâu nhưng rõ ràng là Bắc Kinh ủng hộ nước Nga của ông Putin và không nhắc đến “cuộc xâm lược Ukraina” của tổng thống Putin.  Có thể thấy là Trung Quốc không được thoải mái vì quyết định của điện Kremlin dường như không được bàn với Bắc Kinh và cản trở tham vọng của Trung Quốc trong việc duy trì hòa bình, giữ một trật tự nào đó để nước này mở rộng ảnh hưởng và có thể là sự thống trị ở trong vùng. “Chiến dịch quân sự đặc biệt” của Nga đã cản trở những kế hoạch và tham vọng của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, ảnh hưởng đến sự thành công nhất định cho đến giờ của trục Matxcơva-Bắc Kinh, cùng với một vài nước khác, nhằm vẽ lại các mối quan hệ quốc tế hiện tại, hình thành một mô hình thay thế mô hình của Mỹ và làm thay đổi phần nào bản chất của hệ thống quốc tế. Chính sách của ông Putin lại gây hiệu ứng ngược vì đã khiến các nước châu Âu đoàn kết hơn, hàn gắn khối NATO đang rệu rã. Các nước NATO, Liên Hiệp Châu Âu, lo chiến tranh tang thương như ở Ukraina lan sang khối này và cuối cùng khiến những nước này hình thành một mặt trận, không phải chống Nga mà là chống Putin. Không rõ kết cục sẽ đi đến đâu : khởi đầu là Crimée, tiếp theo là Donbass, rồi Ukraina, biết đâu nay mai lại là các nước Baltic, vốn từng chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Tôi nghĩ là ông Tập Cận Bình theo dõi sát sao tình hình Ukraina. Chủ tịch Trung Quốc có thể sẽ đề xuất đàm phán một giải pháp chính trị để sớm chấm dứt cuộc chiến đang làm xấu hình ảnh nước Nga. Dù sao mọi người đang chờ xem ông Tập Cận Bình sẽ có lập trường như nào, hoặc là giữ khoảng cách với đối tác Nga, hoặc làm trung gian hòa giải. Căn cứ vào mối quan hệ tương đối tốt giữa Matxcơva và Bắc Kinh, vào tiềm lực kinh tế, tài chính, quân sự của Trung Quốc, dường như chỉ có ông Tập Cận Bình mới có khả năng áp đặt, hoặc dù sao định hướng một giải pháp theo hướng này. RFI Tiếng Việt xin trân thành cảm ơn giáo sư lịch sử đương đại Pierre Journoud, Đại học Paul Valéry - Montpellier 3. ***** Giáo sư Pierre Journoud là tác giả và là đồng tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về Việt Nam : Paroles de Dien Bien Phu (với giáo sư Hugues Tertrais), De Gaulle et le Vietnam (1945-1969), Dien Bien Phu. La fin d'un monde...

En Primera Plana
La crisis de Ucrania evoca la Guerra Fría

En Primera Plana

Play Episode Listen Later Jan 14, 2022 27:01


¿Se están preparando las fuerzas rusas para la guerra en Ucrania? Ese es sin duda el miedo entre los líderes occidentales y la propia Ucrania. Y una pregunta que lleva planeando ya desde hace algunas semanas. No hay sensación de una amenaza inminente pero en esta escalada hay muchas aristas, muchos planos que analizar con Rusia, EE.UU. y Europa de tercera en discordia y buscando un poco su sitio en este rompecabezas diplomático del que muchos hacen la liason con la Guerra Fría.  Contamos en esta edición para analizar lo que ocurre en Ucrania y sus repercusiones internacionales con:  -Fernando Avakian especialista del espacio post-soviético y exconsultor ante la UNESCO -Rafael Cañas delegado de EFE en Paris, excorresponsal en Bruselas, Washington y en Pekín.  -Y en dúplex desde Moscú, Xavier Colàs corresponsal de RFI   ¿Cuál es el origen del conflicto entre Ucrania y Rusia y por qué tiene relevancia internacional? Para resituarnos en lo que ahora pasa sería conveniente explicar lo que ha pasado en los últimos años y eso es lo que pretendmeos en esta edición del programa.    #EnPrimeraPlana también en las redes sociales de RFI     Un programa coordinado por Florencia Valdés, realizado por Tiphanie Menta,Mathias Taylor y Tiphanie Menta. 

Noticias de América
‘Hay cada vez una influencia mayor de China en América latina' dice experta

Noticias de América

Play Episode Listen Later Dec 29, 2021 2:33


A principios de esta semana Nicaragua le reconoció a China la propiedad de los bienes de Taiwán en el país y se los entregó. Por otra parte Cuba y China amplían la cooperación bilateral para el desarrollo de la Nueva Ruta de la Seda, un megaproyecto a nivel mundial que pretende crear nuevas rutas marítimas y terrestres para el comercio internacional. ¿A qué se debe el despliegue de esa estrategia geopolítica? RFI entrevistó a la doctora Pamela Aróstica, Directora de la Red China y América Latina Enfoques Multidisciplinarios (REDCAEM). RFI: Actualmente ¿hay una marcada influencia de China en América Latina? Pamela Aróstica: Hay una influencia cada vez mayor, donde no solamente está el aspecto económico, comercial y de inversión, sino que también está mancomunado con la influencia de China en aspectos culturales. Por ejemplo, un establecimiento de un Centro Regional de Coordinación de los Institutos Confucio para América Latina en Chile, una coordinación absoluta entre medios de comunicación chinos con medios de comunicación de América Latina. Y vamos viendo que esta influencia es absolutamente multidimensional. Por eso hoy la observamos con mucha más claridad que en el pasado. RFI: ¿Cuál es el interés principal del gigante asiático en el continente americano?  Pamela Aróstica: A comienzos de este siglo, China fue potenciandose a otras regiones como África y América Latina. Esta última tiene una importancia cada vez mayor en perspectiva geopolítica, porque también está la disputa entre China y Estados Unidos por posicionarse como una superpotencia. El interés principal de China tiene que ver también con asegurar el acceso a alimentos, fuentes de materias primas y fuentes de energía. Y en eso América Latina es una región muy rica. Eso es súper importante para poder posicionarse y poder asegurarse como primera potencia económica mundial. Todo esto también está dentro de un plan más macro que tiene que ver con el proyecto de la Franja y la Ruta, donde América Latina también es parte y hay varios países que se han sumado. De aquí a las próximas décadas la relación más clave para América Latina va a ser con China. RFI: Da la impresión de que China es el socio mayor y América Latina el socio menor. Pamela Aróstica: Esta etapa de las relaciones bilaterales es bastante incondicional al proyecto macro de China, porque es una relación asimétrica. Es muy difícil que los países latinoamericanos puedan pedirle condiciones a China. El interés por tratar de mantener buenas relaciones para que sigan avanzando las inversiones y las relaciones económicas y comerciales de manera positiva y tratar de que China no se moleste. Y esto ya lo hemos visto con algunos proyectos en marcha.

Enfoque internacional
Enfoque Internacional - La pandemia provocó una caída récord de migraciones hacía países ricos en 2020

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Oct 28, 2021 2:30


La Organización para la Cooperación y el Desarrollo Económicos (OCDE) estima que los flujos migratorios con destino a sus países miembro cayeron en un 30% en el año 2020 debido a la pandemia de Covid-19. RFI entrevistó a Thomas Liebig, especialista en migración en la OCDE, acerca de esta caída sin precedentes. RFI: "La crisis del covid-19 provocó la caída más fuerte jamás registrada de los flujos migratorios en los países de la OCDE, de más del 30%", así lo indica el último informe de su organización. ¿De qué tipo de migrantes habla este estudio? Thomas Liebig: Estamos hablando de todas las categorías. Hay cuatro categorías principales. Primero, la migración familiar. Es el componente más importante de los flujos internacionales y la categoría que más ha disminuido. Segundo, los flujos entre los países de libre circulación, como los que ocurren en la Unión Europea o entre Australia y Nueva Zelandia. Tercero, tenemos a los migrantes trabajadores provenientes de zonas fuera de esas regiones de circulación libre. Y la cuarta categoría son los refugiados. Hemos notado que los flujos entre países de libre circulación fueron los que menos bajaron porque hay menos restricciones dentro de la Unión Europea por ejemplo. RFI: ¿Toman en cuenta a los migrantes indocumentados, clandestinos? Thomas Liebig: Para el informe nos interesamos sobre todo a los migrantes que tienen un estatuto potencialmente permanente. Pero también miramos los flujos temporales y las demandas de asilo. Las cifras de la caída conciernen únicamente los migrantes que según nuestra definición tienen vocación a quedarse de manera permanente en el país. Por ejemplo, hablamos de migrantes que están en un país con estatuto temporal y que van a tener un estatuto estable que les permita permanecer ahí. RFI: ¿Cuáles fueron las principales razones de esta disminución? Thomas Liebig: La principal fue el cierre de las fronteras por Covid. Cada día hubo restricciones importantes en casi todos los países de la OCDE. Eso ha impactado mucho. Como lo he dicho, ciertas categorías intra-europeas fueron excepciones. También los médicos u otras categorías profesionales como las agrícolas. Otro factor es que en 2020 hubo menos ofertas de trabajo. De hecho, en países como Estados Unidos, Canadá y Australia, la caída de inmigración fue mucho más importante RFI: ¿Dentro del mercado laboral cuáles son los sectores en los que se ve mayor caída de migración? Thomas Liebig: Si miramos la integración de los inmigrantes en el mercado laboral, vinculada a los flujos migratorios, pero además a los inmigrantes que ya estaban en el país antes de 2020, los sectores más afectados son los de la hostelería. En casi la totalidad de los países hay una sobrerrepresentación importante de migrantes recién llegados en esos sectores que han sufrido mucho con la pandemia.  

Enfoque internacional
Enfoque Internacional - 'Embarazadas violadas delante de sus hijos': la violencia sexual, arma de guerra en Tigré

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Aug 12, 2021 4:43


Cientos de mujeres fueron violadas y sometidas a esclavitud sexual desde octubre pasado cuando estalló la guerra en la región del Tigré en Etiopía. Según un informe de Amnistía Internacional publicado este miércoles la violencia sexual se usa como una de las principales armas de guerra por parte del ejército y de sus apoyos. Amnistía Internacional entrevistó en la región del Tigré a 63 mujeres y jóvenes víctimas. Muchas de ellas no denunciaron ni reportaron en los centros de salud las violaciones sexuales de las que fueron objeto.  RFI conversó con Donatella Rovera, quien investigó y redactó el informe de Amnistía Internacional divulgado este miércoles 11 de agosto. RFI : Usted es la principal consejera de Amnistía Internacional para las situaciones de crisis y afirma que las violencias sexuales perpetradas en la guerra del Tigré en Etiopía son de las más atroces que ha documentado a la fecha en el terreno. ¿Qué han reportado? Donatella Rovera:  Aquí lo que hemos visto son violaciones de grupo. Vimos que en varios casos las guardan a estas mujeres durante días o semanas. No solo hay violación sino también malos tratos. Las golpean y las humillan. Hay un tabú total en Tigré: existen violaciones vaginales, pero también anales. Hemos encontrado sobreviviente y médicos que no se explicaron cómo les pusieron trozos de metal o de plástico de forma profunda en sus órganos sexuales causando daños en algunos casos que no se reparan. Varias mujeres resultaron positivas al VIH. Mujeres embarazadas fueron violadas delante de sus hijos, hermanos o padres. Hubo insultos y comentarios racistas. Les decían que como perteneciente a la étnia tigré merecían ese trato humillante y degradante. RFI: ¿Qué hombres y ejércitos o grupos perpetran estas atrocidades sexuales como arma de guerra en el Tigré? Donatella Rovera: Este tipo de atrocidades empezaron desde el primer día en todos los lugares, durante todo el conflicto y por parte de todas las fuerzas gubernamentales. RFI: ¿Es decir que en este momento tenemos tanto al ejército de Etiopía como al ejército de Eritrea, que lo apoya militarmente, cometiendo sistemáticamente este tipo de atrocidades sexuales y humillaciones con las mujeres? Donatella Rovera: Sí, el ejército etíope y fuerzas armadas en la zona que lo respaldan como las fuerzas amharas. RFI: ¿Cuántas mujeres estuvieron sometidas a este tipo de humillaciones y vejaciones? Donatella Rovera: Es muy difícil evaluar porque nosotros entrevistamos 63. Muchas de ellas no habían estado nunca en ningún hospital. Los hospitales en Tigré, los tres o cuatro que han seguido funcionando, están ubicados solamente en las grandes ciudades. Así que se registraron 1.288 caso durante los tres meses entre febrero y abril. Solo en esas grandes ciudades, a sabiendas que la mayoría de la población está en zonas rurales, donde no hay hospitales o clínicas. Así que es mucho más que eso, pero no sabemos cuánto. Desde el mes de octubre pasado hubo muchas temporadas largas durante las cuales no había teléfono ni Internet. Desde 29 junio por ejemplo no los hay y no se puede comunicar con nadie. El trabajo es muy difícil y el gobierno no permite a organizaciones como Amnistía ingresar a Tigré. Muy pocos periodistas han podido ir y con muchas restricciones. Las organizaciones humanitarias denuncian todos los días que tampoco pueden trabajar libremente. El gobierno etíope se ha esforzado en mantener la región cortada del mundo.   Si hubiese hecho la mitad de los esfuerzos para parar las violaciones hubiese sido mucho más útil.

Escala en París
Escala en París - Pilar Cebrián: ‘Los europeos del Estado Islámico están en un limbo legal y diplomático'

Escala en París

Play Episode Listen Later Aug 11, 2021 12:25


Yolanda, Léonard, Romina, Tarik y Fadel son europeos que integraron el grupo terrorista EI. Solos, con otros militantes o acompañados de sus familias se instalaron en el Califato, en Siria o Irak. La periodista española Pilar Cebrián cuenta su historia en el libro ‘El Infiel que habita en mí' (Editorial Ariel, 2021). Un relato muy esclarecedor sobre su adoctrinamiento, su participación en la sangrienta guerra, su situación en las prisiones o en los campamentos donde se hacinan mujeres y niños. RFI: ¿Cuál es la situación de los miles de mujeres y niños que están esos campamentos? Pilar Cebrián: El proceso en el que se encuentran ahora una vez ha caído el Califato y ellos pasan a ser prisioneros de guerra es no solamente un limbo judicial sino que también es un limbo de derechos, es un limbo diplomático, no hay conexión con los países que en un principio se han negado en bloque a traer a estas personas de vuelta y además también hay un limbo de las necesidades más básicas: no hay atención sanitaria, en los campamentos no hay alimentos suficientes, lo que la organización mundial de alimentos reparte son cajas en las que hay pan, aceite y alguna legumbre como garbanzos, pero los niños no están teniendo acceso a carne, pescado, fruta y eso, ya lo ha dicho Save de Children, que va a provocar una generación más bajita y con problemas mentales. La situación que hay en los campamentos es de absoluta necesidad. Están en un vacío legal porque no se pueden procesar a estos prisioneros que son extranjeros, los kurdos no pueden emitir sentencias contra ellos, los países no quieren facilitar la vuelta. Es un lugar parado en el tiempo estos campamentos. RFI: Uno de los capítulos lo dedica a la familia francesa López que intentar ver a sus nietos en el campamento de Al Roj, en el noreste de Siria. ¿Por qué no les dejaron pasar? Pilar Cebrián: Fue un viaje que hice con varios padres de yihadistas occidentales que querían visitar no solamente a sus hijos, sino también a los nietos nacidos bajo el califato. Había franceses, canadienses, austriacos y suecos. La historia de la familia López de Francia fue la más impactante porque ellos querían entrar para visitar a su nuera, la mujer de su hijo Léonard López, y a sus cuatro nietos, dos nacidos en Siria, bajo el Califato. Hicimos todo el proceso de pedir los permisos a las autoridades. Los kurdos siempre se han mostrado favorables a que estos familiares visiten a sus hijos prisioneros yihadistas porque es una manera de dar visibilidad porque quieren que los países se los lleven. Obtuvimos la autorización firmada para que los López pudieran entrar en el campamento y estar una hora con su nuera y con sus nietos. Y fue en el último momento cuando estábamos entrando en el campamento Al Roj, que los guardias solo dejaron pasar a los suecos y austriacos y pararon con la mano a los franceses. Se inventaron una excusa, dijeron que era porque la nuera no era familiar directo. Al final y off the record una de las autoridades kurdas nos confesó que era porque el presidente francés Emmanuel Macron había dado la orden de que no se podía establecer ningún contacto con los yihadistas franceses. Rfi: ¿Por qué Francia no quiere repatriar a sus yihadistas? Pilar Cebrián: Es verdad que Francia se ha convertido en el epicentro de la radicalización yihadista en Europa. Es el país europeo y uno de los principales en el mundo con más gente que se desplazó al Califato, cerca de 2.000 franceses fueron a Siria y a Irak. Francia es también uno de los países donde más atentados ha habido en los últimos años. Pero también es una cuestión política, al final no solamente Francia, todos los países europeos se han negado a traerlos de vuelta porque saben que políticamente es una estrategia nefasta. Unos vuelos de repatriación con supervivientes del Estado Islámico es una imagen que tendría unas consecuencias nefastas, que daría alas a la oposición y que provocaría el auge de la extrema derecha en todos los países europeos y es por eso que ningún líder político europeo se atreve a firmar la sentencia del fin de su candidatura.   #EscalaenParís también está en Facebook. Un programa coordinado por Florencia Valdés y realizado por Yann Bourdelas, Fabien Mugneret, Vanessa Loiseau. 

TẠP CHÍ TIÊU ĐIỂM
Tạp chí tiêu điểm - Nam Thái Bình Dương: Thế thượng phong sẽ thuộc về Úc hay Trung Quốc?

TẠP CHÍ TIÊU ĐIỂM

Play Episode Listen Later Jun 17, 2021 9:30


Những cuộc khẩu chiến ngoại giao nảy lửa giữa Canberra và Bắc Kinh cùng những đòn trả đũa trực tiếp của Trung Quốc nhắm vào hoạt động xuất khẩu thương mại của Úc vẫn chưa có dấu hiệu lắng dịu và được đàm phán ôn hòa. Trong khi đó, Úc và Trung Quốc lại tiếp tục mở cuộc chạy đua ráo riết hơn bao giờ hết để tranh giành tầm ảnh hưởng của mình tại khu vực Nam Thái Bình Dương. Nếu nước Úc coi các đảo quốc Nam Thái Bình Dương là những láng giềng vốn có mối quan hệ bang giao tốt đẹp từ lâu; thì trong hơn hai thập kỷ qua, Trung Quốc coi các đảo quốc là những nơi lý tưởng thực hiện giấc mộng bá chủ thế giới của mình. Từ Sydney, nhà báo Lưu Tường Quang phân tích bức tranh toàn cảnh cuộc chạy đua đối trọng giữa Úc và Trung Quốc tại khu vực Nam Thái Bình Dương.(*) *** RFI : Thưa ông, nếu điểm qua lịch sử thiết lập ngoại giao, đặc trưng mối quan hệ giữa Úc và các đảo quốc Nam Thái Bình Dương là gì và có ý nghĩa đặc biệt như thế nào đối với vấn đề an ninh quốc phòng của nước Úc ? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Khi nói đến Nam Thái Bình Dương, chúng ta nói đến vùng biển rộng lớn phía Nam của Thái Bình Dương. Nhưng, trong quan hệ của Úc với các nước Nam Thái Bình Dương, thường gọi là các đảo quốc Nam Thái Bình Dương thì cách nhìn nhận vấn đề sẽ rõ ràng hơn. Trong lịch sử, nước Úc và các đảo quốc Nam Thái Bình Dương đã có mối bang giao tốt đẹp từ lâu. Trước năm 1999, Nam Thái Bình Dương là vùng tương đối ổn định, không có sóng gió. Từ 1999 trở đi là thời điểm Bắc Kinh bắt đầu chính sách “Vươn ra toàn cầu”. Theo đó, Nam Thái Bình Dương được coi là một vùng có thể “được” hoặc “bị” Trung Quốc ảnh hưởng, đem lại nhiều quyền lợi chiến lược cho Bắc Kinh. Mặc dù trước đây và ngay cả hiện tại, Đài Loan cũng có sự hiện diện trong vùng Nam Thái Bình Dương, nhưng Đài Loan không phải là một đối tác cạnh tranh với nước Úc. Kể từ khi có sự hiện diện của Bắc Kinh với chính sách “Vươn ra toàn cầu”, nước Úc buộc phải có những phản ứng. Đặc trưng của mối quan hệ, nói một cách tóm tắt, nước Úc có một chương trình kết hợp nâng cấp trong liên hệ với các đảo quốc Nam Thái Bình Dương. Theo đó, cụm từ mà nước Úc dùng chính thức là “Đối tác được lựa chọn” (Partner of Choice). Có nghĩa, nước Úc tôn trọng sự độc lập của các đảo quốc Nam Thái Bình Dương, và dù là những nước rất nhỏ, nhưng nước Úc muốn các quốc gia Nam Thái Bình Dương chọn mình làm đối tác. Theo nghĩa, nước Úc là một quốc gia thân hữu, đã phát triển, giàu có hơn và có khả năng giúp đỡ các nước nhỏ Nam Thái Bình Dương để họ có thể phát triển kinh tế, cho dân chúng có đời sống an bình hơn và nhất là an toàn hơn, đặc biệt trong đại dịch COVID-19 hiện nay. Tất nhiên, ngoài kinh tế và thương mại, vấn đề an ninh quốc phòng tại Nam Thái Bình Dương với các đối tác Nam Thái Bình Dương cũng rất quan trọng. Nó không chỉ quan trọng cho nước Úc mà còn cho New Zealand, Mỹ, Nhật Bản và cả Pháp. Trong Thế chiến thứ II, Nam Thái Bình Dương đã từng là địa bàn của những trận chiến hải quân rất mãnh liệt, chẳng hạn, trận chiến Coral Sea hồi tháng 05/1942 giữa hải quân Mỹ và hải quân Nhật Bản với sự tham gia của hải quân Úc. Trước đó, tháng 2/1942, Darwin, thủ phủ của lãnh thổ Bắc Úc cũng đã bị Không quân Nhật Bản tấn công. Trong bối cảnh Đệ nhị Thế chiến, Nhật Bản là quốc gia thù địch của Úc nhưng trong bối cảnh của năm 2021, Trung Quốc lại là nước có sự cạnh tranh và đe dọa được nước Úc. Nước Úc là một lục địa lớn, chưa từng bị quân ngoại nhập xâm lăng. Nếu bây giờ Trung Quốc, một quốc gia không đồng hành với nước Úc, và giả sử có một trận chiến nào đó xảy ra, miền Bắc nước Úc cũng sẽ bị ảnh hưởng, bị đe dọa bởi sức mạnh quân sự của Bắc Kinh. Sức mạnh quân sự đó tiến gần hơn khi Bắc Kinh thiết lập được những cơ sở không xa lục địa Úc Châu gọi là để phát triển kinh tế với khả năng nhằm sử dụng về mặt quân sự. RFI: Được cho như đòn trả đũa gián tiếp Canberra và lợi dụng sự liên minh lỏng lẻo giữa các đảo quốc Thái Bình Dương, trong thời gian qua, Bắc Kinh thiết lập mối quan hệ gần gũi hơn nữa với chính quyền các quốc đảo bằng các dự án viện trợ kinh phí lớn. Cụ thể, Trung Quốc thực hiện những dự án trọng điểm nào trên Thái Bình Dương, thưa ông? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Trong mối quan hệ với Nam Thái Bình Dương, Trung Quốc trải qua nhiều giai đoạn. Từ năm 1949, khi Mao Trạch Đông chiếm được Bắc Kinh và thiết lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, lúc bấy giờ, Trung Quốc hãy còn yếu và chưa được phát triển. Tuy nhiên, kể từ năm 1999 và đặc biệt là dưới thời của ông Tập Cận Bình, khi ông bắt đầu sáng kiến “Vành đai và Con đường”, vùng Nam Thái Bình Dương trở thành vùng rất quan trọng. Tại vì, ông Tập Cận Bình coi các đảo quốc Nam Thái Bình Dương là phần nối dài của kế hoạch gọi là “Đường tơ lụa hàng hải mới”, bắt đầu từ Nam Hoa đi qua Biển Đông rồi đi vào vùng các đảo quốc Nam Thái Bình Dương. Bắc Kinh có kế hoạch xây dựng hạ tầng cơ sở, đồng thời có sự vận động rất mạnh mẽ về phương diện sử dụng quyền lực mềm để “chinh phục” hay “thuyết phục” các đảo quốc Nam Thái Bình Dương. Thứ nhất, làm thế nào để làm cho các đảo quốc Nam Thái Bình Dương xoay chiều, công nhận và thiết lập mối quan hệ bang giao với Bắc Kinh thay vì Đài Bắc. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của Bắc Kinh nhằm cô lập hóa Đài Loan. Trước kia, có khoảng 13 nước thiết lập bang giao với Đài Loan với tư cách chính thức là Cộng hòa Trung Hoa Dân quốc. Nhưng, dần dần, trước sức mạnh của Bắc Kinh, rất nhiều nước, trong đó có Solomon Islands là nước sau cùng từ bỏ Đài Bắc để theo Bắc Kinh. Thứ hai, Trung Quốc thiết lập những mối quan hệ quan trọng với các đảo quốc Nam Thái Bình Dương, đặc biệt, những chương trình xây dựng hạ tầng cơ sở để gọi là giúp đỡ Nam Thái Bình Dương. Chương trình này được thảo luận rất sôi nổi, có người gọi đó là “một bẫy nợ”, tương tự như sáng kiến “Vành đai và Con đường”. Người khác cho đó là một “cử chỉ cao đẹp” của một cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới. Cựu Bộ trưởng Phát triển Quan hệ Quốc tế Úc, nghị sĩ Concetta Fierravanti-Wells gọi đó là “một con đường dẫn đến bế tắc”. Ngay cả, dưới thời Tổng thống Donald Trump (Mỹ), Phó Tổng thống Mike Pence cũng gọi những dự án xây đường, xây cầu là “những lộ đi một chiều, lộ đi về Bắc Kinh, không đem lại sự hữu ích gì cho các quốc gia Nam Thái Bình Dương”. Quan trọng hơn thế, Trung Quốc có vẻ như đang thực hiện kế hoạch tại Nam Thái Bình Dương tương tự như kế hoạch của Trung Quốc tại Biển Đông. Tức là, thiết lập những hạ tầng cơ sở kinh tế có thể sử dụng được về phương diện quân sự. Cụ thể, cách đây không lâu, Trung Quốc đã xây một phi đạo trên đảo Kanton thuộc nước Kiribati để giúp nước này phát triển. Nhưng, thật sự đây là một địa điểm mà trước kia, trong thời Đệ nhị Thế chiến, đã có một phi đạo do Hoa Kỳ xây dựng và sử dụng để chống lại Nhật Bản. Hiện giờ, Trung Quốc tái tạo lại phi trường nhỏ bởi một điểm quan trọng là vị trí này nằm giữa đường từ Hawaii (Mỹ) đến Úc và là một sự đe dọa đối với nước Úc. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng nâng cấp một phi trường nhỏ, Momote Airport, gần đảo Manus (Papua New Guinea). Đây cũng là nơi, trong Thế chiến thứ II, Mỹ và Úc đã có một căn cứ hải quân, Lombrum Naval Base. Hiện tại, với sự giúp đỡ của nước Mỹ, nước Úc tái thiết căn cứ này để trở thành một cơ sở quân sự. Với phi trường Momote, Trung Quốc có khả năng dò thính, quan sát, theo dõi các hoạt động của Mỹ và Úc. Ngoài ra, tại Hội nghị Thượng đỉnh APEC được tổ chức ở Papua New Guinea (2018), ông Tập Cận Bình còn vận động mạnh mẽ để ký thỏa hiệp MoU với nhiều nước, như Vanuatu, Fiji, Samoa, Papua New Guinea, Tonga. Riêng với Vanuatu, một nước rất nhỏ, Trung Quốc chi 60 triệu đô la để làm công tác điều tra, khám xét trong trường hợp chuyên chở hàng hải bằng container gọi là Container Inspection Equipment Project. Tương tự, một viện trợ MoU khác của Trung Quốc trị giá 70 triệu đô la để nâng cấp hạ tầng cơ sở tại đảo Tanna và Malekula của Vanuatu. Tất cả động thái đó nhằm vào mục đích gây ảnh hưởng rất lớn đối với các đảo quốc. Thêm vào đó, Bắc Kinh không chỉ có sự cạnh tranh đối với các quốc gia Tây phương mà còn có sự cạnh tranh với Đài Loan. Bắc Kinh và Đài Bắc đều chi ra số tiền khá lớn trong vấn đề giữ gìn ảnh hưởng của mình tại các đảo quốc Nam Thái Bình Dương. Một mặt, đây được coi là sự đối trọng lại sự hiện diện của Mỹ và Úc; mặt khác đó là sự đe dọa nền an ninh nước Úc. RFI: Khi nhận thấy sự ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Bắc Kinh ở Nam Thái Bình Dương, chính quyền của ông Scott Morrison làm những gì để củng cố hơn nữa mối quan hệ láng giềng vốn có với các đảo quốc, đồng thời đảm bảo an ninh quốc phòng cho nước Úc? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Nước Úc cố gắng cải thiện mối bang giao với các đảo quốc Nam Thái Bình Dương bằng chính sách “Pacific Step-up”. Có nghĩa, nước Úc muốn nâng cấp, nâng tầm quan hệ thân hữu với các đảo quốc Nam Thái Bình Dương. Theo đó, Canberra hứa viện trợ cho các đảo quốc 500 triệu Úc kim trong 5 năm để phát triển năng lượng và tái tạo. Đây là khoản kinh phí nằm trong chương trình giúp đỡ về kinh tế cho Nam Thái Bình Dương của Mỹ dưới thời tổng thống Donald Trump, Nhật và Úc gọi là “Blue Dot Network”, dựa vào nguồn vốn đầu tư của tư bản tư nhân từ ba quốc gia thân hữu. Hiện giờ, nếu tính số tiền viện trợ mà nước Úc dành cho Nam Thái Bình Dương thì thật sự nước Úc là một đối tác rất quan trọng so với Trung Quốc hay Đài Loan. Cụ thể, theo ngân sách năm tài khóa năm 2021-2022 mà Bộ trưởng Ngân khố Josh Frydenberg công bố ngày 11/05/2021 vừa qua, Úc đã dành ra 1.4 tỷ Úc kim để viện trợ cho các đảo quốc Nam Thái Bình Dương. Nếu so sánh, chúng ta thấy rằng, từ 2011-2016 Bắc Kinh cũng đã chi 1.5 tỷ Mỹ kim để viện trợ cho các quốc gia Nam Thái Bình Dương, tức là 108 Mỹ kim tính theo đầu người (per capita). Trong khi, Đài Loan chỉ còn liên hệ ngoại giao với 4 nước, nên viện trợ 217 triệu Mỹ kim là 237 Mỹ kim trên mỗi đầu người. Khi nói các quốc gia Nam Thái Bình Dương, chúng ta phải nhận thức rằng, đây là một tập hợp của rất nhiều nước nhỏ và giữa họ không có sự đồng nhất mà có sự chia rẽ. Cho nên, trong vấn đề viện trợ, nước Úc cũng phải có một chính sách rất tế nhị để làm sao các quốc gia Nam Thái Bình Dương đối với nước Úc không có lập trường chia rẽ hay chống đối lẫn nhau. Nếu các quốc gia này trong mối bang giao với nước Úc càng có sự chia rẽ và chống đối nhau, càng dễ làm cho Trung Quốc tăng phần ảnh hưởng. Bên cạnh đó, trong bối cảnh địa lý chính trị, nước Úc không thể đơn phương đối trọng lại sự ảnh hưởng ngày càng lớn lao của Trung Quốc mà cần đồng hành cùng các quốc gia dân chủ khác, dưới hình thức đa phương. Nước Úc tham gia với tư cách là thành viên trong các liên minh giữa các quốc gia có quan hệ thân hữu mà không hẳn là có những hiệp ước. Cụ thể, Úc Đại Lợi tham gia với tư cách là thành viên của tổ chức rất quan trọng “Five Eyes”, trao đổi tin tức tình báo (“Năm đôi mắt” hay “Ngũ nhãn”), bao gồm Mỹ, Anh, Canada, Úc Châu, New Zealand và gần đây là Nhật Bản. Bên cạnh đó, Úc là thành viên của “Tứ cường Kim cương” (The Quad), bao gồm Mỹ, Nhật, Ấn và Úc. Liên minh này có những kế hoạch chung, chẳng hạn, đồng ý viện trợ cả tỷ đô la giúp Nam Thái Bình Dương có những vắc-xin cần thiết chống lại đại dịch COVID-19. Ngoài ra, Úc tham gia vào một tứ cường khác mà ít khi được nói đến, đó là sự hợp tác giữa Úc, Mỹ, Pháp và New Zealand. RFI: Cuộc chạy đua xác lập mối quan hệ bằng viện trợ vào các quốc đảo Thái Bình Dương của Úc và Trung Quốc làm chúng ta liên tưởng đến một chiếc cân thăng bằng. Nếu vậy, theo ông, cán cân này sẽ có xu hướng nghiêng nặng bên Canberra của ông Scott Morrison hay Bắc Kinh của ông Tập Cận Bình? Luật sư - Nhà báo Lưu Tường Quang: Hai bạch thư (sách trắng), “Sách trắng về Quốc phòng” (2016) và “Sách trắng về Ngoại giao” của nước Úc (2017) đều đã nói rất rõ rằng, quyền lợi chiến lược của nước Úc đặc biệt bao gồm Biển Đông và Nam Thái Bình Dương. Trong đó, có các đảo quốc mà nước Úc vốn có những quan hệ tốt đẹp từ rất nhiều năm nay. Tuy nhiên, như đã nói, nếu một mình Úc đối phó với Trung Quốc, nước Úc không đủ sức để giữ được thế thăng bằng. Trong thực tế, để giữ được quân bình theo hướng có lợi cho mình, nước Úc phải hợp tác, đồng hành với các quốc gia dân chủ khác như Nhật Bản, Pháp, đặc biệt với New Zealand và Mỹ. Với New Zealand, mặc dầu có sự khác biệt nho nhỏ, nhưng trong chính sách với Nam Thái Bình Dương, tầm nhìn của Canberra và Wellington rất giống nhau. Và, trong thời gian gần đây, Hoa Kỳ cũng đã nghĩ đến Nam Thái Bình Dương với hy vọng lấy lại được sự ảnh hưởng. Chỉ vài tuần trước đây, tân Ngoại trưởng Antony Blinken đã chủ trì Hội nghị Lãnh đạo một số các quốc gia Nam Thái Bình Dương, tại Hawaii để chứng tỏ sự quan tâm của Mỹ đối với vùng quan trọng này; và làm thế nào tiến đến gần hơn trong vấn đề bang giao với các đảo quốc; đồng thời phần nào thể hiện sự răn đe Bắc Kinh. Khi Mỹ có sáng kiến như vậy, Trung Quốc cũng có sáng kiến ngược lại. Cụ thể, cũng khoảng thời gian đó, Bắc Kinh tổ chức một Hội nghị Lãnh đạo của các đảo quốc Nam Thái Bình Dương. Những động thái về ngoại giao này chứng tỏ hai bên đang có sự cạnh tranh với nhau. RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Luật sư – Nhà báo Lưu Tường Quang tại Sydney. ___ (*) Nhà báo Lưu Tường Quang nguyên là trưởng nhiệm SBS Radio (Head of SBS Radio), một Cơ quan Truyền thông Văn hóa Đa nguyên của Úc Châu.

Noticias de América
Noticias de América - México se prepara para la elección más grande de su historia

Noticias de América

Play Episode Listen Later Jun 2, 2021 2:21


El 6 de junio, México celebrará la elección más grande de su historia en la que se elegirán más de 21 cargos, entre ellos se renovarán los 500 escaños de la Cámara de Diputados y 15 gobiernos estatales. De acuerdo a previsiones, el partido del presidente Andrés Manuel López Obrador, partido Morena, será ganador en representación, pero no obtendría mayoría parlamentaria. RFI entrevistó a Leonardo Figueiras, profesor de ciencias políticas de la UNAM. RFI: ¿Qué le espera al gobierno de López Obrador frente a este nuevo escenario? Leonardo Figueiras: La aceptación del presidente no es la misma que la de su partido. El Presidente tiene cualidades y también sus  cuestionamientos. Efectivamente van a ganar las elecciones, pero los va a llevar a una situación distinta de estos dos años y medio que han transcurrido. Los discursos que se van a tener que hacer tendrán que ser un más cuidadosos en el sentido de construir, negociar y gestionar la política que tiene que ayudarnos a acercarnos a ciertos grupos. Ya no va a ser este planteamiento de radicalidad. Eso es lo que estamos suponiendo a partir de la información de las encuestas. Si las encuestas son correctas, entonces quiere decir que el mandato será para que haya este acercamiento [entre grupos políticos]. RFI: ¿Cuál debería ser el rol de la oposición ahora? Leonardo Figueiras: La oposición tiene varios problemas. Primero, ponerse de acuerdo en un proyecto alternativo al actual que es popular. Si vuelven a hacer su proyecto neoliberal, pues están acabados porque dentro de tres años van a perder las elecciones y se va a consolidar Morena. Por supuesto que hay una serie de condicionantes como quiénes eran los candidatos a la presidencia en ese entonces. Van a tener que construir un discurso y esto les va a costar mucho, porque en este mometnto no tienen una propuesta salvo oponerse al fuerte poder presidencial. Figueiras señaló también que si López Obrador desea continuar con su proyecto llamado Cuarta Transformación, su partido deberá renovar sus líderes para recuperar legitimidad y mantener ese 60% de aprobación que hoy le otorga el pueblo mexicano.

Noticias de América
Noticias de América - 'Colombia tiene una obligación constitucional: prohibición absoluta de la desaparición forzada'

Noticias de América

Play Episode Listen Later May 31, 2021 13:55


Al tiempo que se conmemoraba las Semana Mundial del detenido desaparecido, en Colombia de denunciaba la  desaparición de cientos de personas durante el último mes de protestas sociales contra el gobierno de Iván Duque que además han dejado 60 muertos. RFI entrevistó a Luz Marina Monzón, directora general de la Unidad de Búsqueda de Personas dadas por Desaparecidas en Colombia (UBPD) entidad creada por los Acuerdos de Paz en Colombia, un país con 120 mil desparecidos Colombia arrancó este fin de semana el segundo mes de estallido social con protestas masivas contra el gobierno de Iván Duque. Después de la CIDH, la ONU reclama ahora una investigación independiente en Colombia sobre la violenta represión en las protestas.   Más de 1300 detenciones arbitrarias, reprtadas por la ONG Temblores y 364 personas desaparecidas,s egun INDEPAZ o 129 aegún la Fiscalía, se salda este mas de protesta ciudadana y paro nacional.   En entrevista con Radio Francia Internacional, Luz Marina Monzón, directora general de la Unidad de Búsqueda de Personas Desaparecidas en Colombia (UBPD) alerta que el negacionismo en el que está el gobierno colombiano frente a los casos de desapariciones de personas en el último mes, tras ser detenidas por la Fuerza Pública u organismos no identificados, pone en riesgo al país de repetir el ciclo infinito de desapariciones forzadas en total impunidad. Un ritual macabro de familias que durante décadas han buscado en vano a sus seres queridos desparecidos y que se calcula alcanzan los 120 mil. RFI: ¿Cuál es la cifra real de desaparecidos en este mes de movilizaciones que se ha registrado en Colombia? ¿Y por qué no se logra llegar a un acuerdo sobre esa cifra? La cifra real no la tengo y creo que no la tiene nadie porque no hay información disponible, completa, confiable y centralizada para poder conocer cuál es la suerte de quienes han sido objeto de arrestos y han sido llevados a lugares de detención o lugares alternos a la detención, que se han denominado como lugares de protección, pero que no son lugares regulares de detención. El gran problema de las cifras es que no hay unos registros que se están llevando de manera adecuada, completa, clara y sobre todo accesible al público para poder comprender y conocer cuáles son las cifras, las personas y las condiciones en que han sido privadas de su libertad. RFI: ¿Cómo identificar quiénes están desaparecidos y quiénes podrían estar detenidos en otros lugares? ¿Y también por qué es importante saber quiénes son, cómo y por qué y quién los hizo desaparecer? Lo que lo que indican las normas internacionales es que una persona detenida, desaparecida es aquella persona que es privada de la libertad por un agente del Estado y su suerte no se vuelve a conocer y la autoridad niega la información o impide el acceso a información sobre el paradero y la suerte de esta persona. El Comité de Desaparición Forzada de Naciones Unidas, en un caso resuelto contra Argentina, declaraba que se producía la desaparición forzada cuando se negaba información sobre la suerte y paradero de una persona, aunque hubiera estado bajo el cumplimiento de una pena. La situación acá en Colombia, en el marco del paro y de las protestas sociales, la gente observa que personas son privadas de la libertad por agentes del Estado, subidas a vehículos a veces claramente de las autoridades, otras veces sin las insignias de la institución, pero que luego nunca más se vuelve a saber de ellos. Esto a pesar de que las organizaciones, los abogados o incluso la misma familia, pregunten ante las autoridades sobre el paradero de estas personas de las que se vio fueron privadas de la libertad. RFI: La canciller Marta Lucía Ramírez, en una reciente visita a Washington, sólo reconoció una persona desaparecida en este mes de movilizaciones. ¿Qué le parece la actitud del Gobierno frente a estas desapariciones? ¿Y por qué es importante el que se investigue y se reconozca el que esto está sucediendo en Colombia? La Fiscalía en este momento está hablando de algo más de 90 personas sobre las cuales se desconoce la suerte y paradero, aunque no las denomina desaparecidas, las califica de personas no localizadas. Y la Comisión Interamericana de Derechos Humanos dijo haber recibido información sobre 132 personas que permanecían en situación de desaparición. Lo que pienso de la actitud del gobierno es que incurre en un error y que no cumple con la obligación que tiene el Estado de hacer todo lo necesario para establecer cuál es la suerte de la persona y cuál es su paradero para darle las protecciones y garantías. Una de las circunstancias que llevan a que una persona desaparecida termine evidentemente desaparecida, sometiendo a la familia largos años de búsqueda, es que se niegue que la persona está desaparecida por parte de las autoridades y que no se activen los mecanismos de protección. El negacionismo o el eufemismo de denominar a la persona como no localizada, inactiva o no hace efectivos los mecanismos de protección. RFI: ¿Teme de que el hecho de que no se investiguen esas desapariciones actuales haga que en el futuro en Colombia se tenga que de nuevo volver a la necesidad de crear entidades como la que usted dirige? Es decir entidades para buscar a personas que desaparecidas en este período. El principal temor que tengo es que las familias de hoy se sometan a la búsqueda de las familias del pasado, es decir, personas que llevan 10, 15, 30 años buscando un ser querido sin tener una información. Con una angustia adicional y es que con el paso del tiempo también desaparece la información, las pruebas aunque no desaparece la esperanza de las familias. Pero sí mantienen el sufrimiento y la incertidumbre. Por eso creo que en este momento es muy importante que las autoridades activen los mecanismos.  [Tienen] la responsabilidad de que no se repitan los hechos del pasado con más de 120.000 personas desaparecidas. RFI: El mandato de la Unidad de Búsqueda de Personas que usted dirige sólo tiene competencia para las personas desaparecidas antes del 1 de diciembre de 2016. ¿Quiénes son los encargados entonces de investigar estas desapariciones actuales? Los encargados de la búsqueda e investigación de las personas desaparecidas en este momento son la Fiscalía General de la Nación y todos los entes auxiliares de Policía Judicial que les apoyan en esa actividad de investigación. Ellos son los principales responsables de esta investigación. Es muy importante que se hagan esos esclarecimientos y esa búsqueda porque es la manera en que se protege de manera efectiva a las personas que no saben dónde están sus seres queridos. Y es muy importante para la unidad [dirigida por Monzón] que esto se cumpla en este momento de manera rápida, oportuna y eficiente porque el proceso de paz cuando plantea una estructura de instituciones para satisfacer los derechos de las víctimas, también se le da un mandato de las garantías de no repetición. Estos mecanismos, aunque tengan la competencia de hacerse cargo de los hechos del pasado, tienen también la obligación de incidir para que los patrones de violencia del pasado no se repitan en el presente ni en el futuro. RFI: ¿Por qué se repite la historia en colombia? Luz Marina Monzón: Hay un desafío muy grande en relación con las fortalezas del Estado de Derecho y de la democracia en este país. Y si algo lo pone en evidencia, la manera como se están enfrentando la protesta social, es que el Estado de Derecho se encuentra en riesgo, así como la democracia en el país.  No hacer efectivos mecanismos que surgieron del largas de largas y duras experiencias como el mecanismo de búsqueda, como la regulación de la fuerza pública en el ejercicio de la fuerza, creo que es algo que el Estado tendría que estar acotando. Pero por el contrario, lo que vemos es una opción por la salida militar frente a una protesta social que tiene fundamentos, reclamos históricos. La salida debería ser en un contexto democrático y de Estado de Derecho, un diálogo, unas conversaciones y unas propuestas que ayuden a canalizar esas necesidades históricas. RFI: ¿Piensa usted que la presión internacional podría lograr que se esclarezcan estos hechos? ¿Qué es lo que debería pasar justamente en el ámbito internacional para que esto ocurra? La comunidad internacional ha jugado un papel fundamental en Colombia, no solamente para llamar la atención del Estado en relación con las medidas que tiene que tomar para garantizar los derechos humanos en el país a través del ejercicio de las competencias de los órganos internacionales, tanto de Naciones Unidas como el Sistema Interamericano de Derechos Humanos. Sino también ha jugado un papel fundamental en apoyarnos para alcanzar el acuerdo de paz, que es una conquista social para plantearse un futuro distinto. En ese sentido, creo que el papel que puede jugar la comunidad internacional es fundamental también para hacer un llamado a no echar para atrás en lo que han sido los avances en la garantía de derechos. En este momento el Estado no puede echar para atrás cuando tiene la obligación de implementar un acuerdo de paz que transforme las desigualdades y discriminaciones que han llevado a tanta violencia en este país. El Estado colombiano hace parte de un concierto internacional donde se ha comprometido con unos principios, con unos valores y unas obligaciones que hacen parte de su pertenencia tanto a las Naciones Unidas como a la OEA. La comunidad internacional no solamente es importante y necesaria, sino es legítima para llamar la atención del Estado. RFI: ¿Cuál es el llamado al gobierno colombiano que hace usted como directora de la Unidad de Búsqueda de Personas dadas por Desaparecidas en Colombia? El llamado que yo hago es que asuman de manera decidida, determinada, oportuna y eficiente la implementación de los mecanismos jurídicos que existen para buscar y proteger a las personas que puedan encontrarse en riesgo de desaparición forzada. Esos mecanismos existen de hace más de 20 años, están a disposición de las autoridades y demandan la voluntad y determinación de esas autoridades para que efectivamente se pongan en marcha y se les pueda dar información creíble, confiable y completa a los familiares sobre la suerte y paradero de los desaparecidos. Hago un llamado muy urgente y definitivo para que no vayan a repetirse las desapariciones. El país tiene una obligación constitucional, que es la prohibición absoluta de la desaparición forzada en Colombia. Eso tiene que ser una realidad. Entrevista realizada por Paula Estañol. Adaptación Hugo Passarello Luna.

Noticias de América
Noticias de América - Elecciones en Ecuador: ‘El pueblo está cansado de una izquierda populista’ dice Yaku Pérez a RFI

Noticias de América

Play Episode Listen Later Apr 13, 2021 4:14


Luego de la segunda vuelta electoral en Ecuador que dio la victoria a Guillermo Lasso, próximo presidente del país, RFI entrevistó en exclusiva al líder indígena de izquierda Yaku Pérez, quien obtuvo el tercer puesto en la primera vuelta, con apenas de 0,35% menos de votos que Lasso. Las elecciones generales en Ecuador sirvieron para que el conservador Guillermo Lasso se alzase con la presidencia del país en su pugna con el correísta Andrés Arauz, aunque no habrá que olvidar la figura de un tercer hombre, Yaku Pérez. El líder indígena que quedó tercero por un escaso margen en la primera vuelta y que recurrió sin éxito ante el tribunal contencioso electoral para la revisión de los votos, ha sido el hombre clave para que Lasso se llevase la presidencia en la que fue su tercera candidatura. Pérez, un abogado de 52 años, un declarado opositor a Lasso y anticorreísta consumado, se ubicó tercero en la primera vuelta del 7 de febrero con 19,39% de los votos, frente a 32,72% del ganador de la jornada, el economista de izquierda Arauz, y 19,74% del exbanquero de derecha Lasso. RFI ¿Cuál es su análisis personal de la elección presidencial en Ecuador? Yaku Pérez [Considerando que] en el histórico hay un voto nulo, que generalmente era el 10% y ahora llega al 17%, y que nosotros hicimos una campaña sin gastar un solo centavo, creo que es una elección que está dando al país y al nuevo presidente en que tiene que escucharnos. Como ya no quedamos en el balotaje, ya no teníamos mayor entusiasmo. Muchos han dicho, incluso el New York Times, que el candidato ganador de la primera vuelta no aparece en las papeletas de la segunda vuelta. Eso dice bastante. Nos indigna el fraude. Pero eso ya es historia y lo que toca es desearle éxitos al nuevo presidente electo. Nosotros seguiremos en nuestra orilla de la resistencia pacífica, en defensa del agua, de la ecología, de los derechos comunitarios, de las libertades. RFI ¿Dónde cree usted que han ido a parar los votos que obtuvo en la primera vuelta? Yaku Pérez Si leemos los resultados, habrían ido al candidato Lasso. Nosotros ganamos en 13 de las 24 provincias. [Ganamos] en toda la Amazonía ecuatoriana. Y [en la segunda vuelta] en la sierra y en la Amazonía, gana el señor Lasso. Quizás el pueblo ya está cansado de la violencia, del extractivismo, de esa izquierda populista, que no es una izquierda real, auténtica que está con los obreros, con los maestros, con la clase indígena, con la clase abierta, con los que fuimos vilipendiados, perseguidos, criminalizados. Sólo ante la faz internacional aparece el progresismo. Es una izquierda que en realidad se camufla. Es una izquierda que aparece como derecha que ha estado recibiendo el apoyo de un multimillonario como es Isidro Romero para la candidatura de el correísmo. RFI ¿Qué espera usted de Guillermo Lasso al frente del país en los próximos años? Yaku Pérez Yo le deseo mucha suerte. Si gobierna bien seremos felices. Pero lo dudo. Cuando Lasso dijo que iba a abrir las urnas para que se transparente los votos [NdlR: luego de la primera vuelta para aclarar dudas si Pérez o Lasso habían obtenido el segundo] y luego rompió esa promesa, nos invadió la desconfianza. Creo que esta fiesta de hoy [por su elección] se transformará en seis meses, tal vez menos, en decepción, frustración. El tiempo nos absolverá, es el mejor juez. Tarda, pero es infalible. RFI ¿Cuál va a ser su rol en la oposición? Yaku Pérez [Haré] lo que digan los electores, lo que diga mi pueblo, lo que diga la Pacha Mamita. Yo no tengo ninguna obsesión por una candidatura. Si se da bien, si no, no pasa nada. Desde mi espacio, desde la abogacía, desde la academia, desde la chacra, o sea, desde el cuidado de los alimentos, el cuidado del agua, seguiré contribuyendo al país y creando conciencia que tenemos que cuidar el planeta. Si no queremos morir tostados por el calentamiento global. RFI ¿Se retira de la política? Yaku Pérez No estoy ni retirado, ni jubilado, ni activo en la política electoral. No es eso una una obsesión de mi parte. Si el pueblo me pide que sea candidato, pues pondré todos mis contingentes para bien del país. Con AFP

Noticias de América
Noticias de América - "Quino abría las mentes de los lectores" dice a RFI su editora desde los inicios

Noticias de América

Play Episode Listen Later Oct 1, 2020 2:39


Mafalda, la niña irreverente e idealista más conocida del mundo es sin duda el personaje más emblemático que creó Joaquín Salvador Lavado, conocido como Quino. El dibujante falleció a los 88 años en Argentina, su país de origen aunque vivió varios años en el extranjero tras el golpe militar. Con decenas de traducciones en el mundo, la galería de personajes de Mafalda permitió a Quino acceder a la fama internacional. En 2014, fue galardonado con el Premio Príncipe de Asturias en la categoría comunicaciones y humanidades. En conversación con RFI, la directora de Ediciones de la Flor, Ana María Miller rinde un homenaje a un amigo, y a un dibujante que abrió y que seguirá abriendo las mentes de sus lectores. RFI: ¿Cuál es el legado de Quino? Ana María Miler : Yo acompañé casi siempre a Quino en las firmas. Y la gente siempre agradecía a Quino porque les abría la mente. Independientemente de su excelencia en el dibujo, deja personajes que son humanistas, inteligentes y que ayudan a la gente a reflexionar sobre el mundo que vivimos, sobre la familia y sobre todos los temas que Mafalda y sus amigos han desarrollado a través del tiempo, que, indudablemente, es lo que pensaba Quino y lo que trató de transmitir. RFI: ¿Cómo nació el personaje de Mafalda? A.M.M.:Le pidieron a Quino que ideara algún personaje para una marca que se llamaba Marsal. Era para hacer avisos comerciales. Quino buscó un nombre que empezara con las mismas letras y desarrolló el personaje. Pero la publicidad, finalmente nunca salió. Entonces le quedó todo el material que había desarrollado, lo fue trabajando y terminó siendo lo que todos conocemos. Él siempre dijo que cada personaje era una partecita suya. Cuando le preguntaban con quién se identificaba o cuál personaje tenía más de él. Y siempre dijo Mafalda. RFI :Una última pregunta sobre la censura a la que se enfrentó Quino. Usted, como su editora, quizás nos podría hacer algunos comentarios al respecto. A.M.M.: Curiosamente, durante la dictadura argentina, en donde nosotros como editores tuvimos que exiliarnos, como Quino también, sus libros no fueron prohibidos.  RFI: Y sin embargo, Mafalda es muy irreverente contra el poder A.M.M.: Efectivamente. No puedo ponerme en la mentalidad de la gente que efectuaba la censura porque es un pensamiento opuesto al mío. Pero quizás el hecho de considerar su trabajo como humor, hizo que no lo prohibieran. Entrevistada: Ana Maria Miller, directora de Ediciones de la Flor, que a acompañado a Quino desde sus inicios.

Enfoque internacional
Enfoque Internacional - Guatemala: ‘Tenemos casos confirmados en distintas instituciones de gobierno’

Enfoque internacional

Play Episode Listen Later Jul 1, 2020 2:53


En entrevista con RFI, la flamante ministra de Salud de Guatemala, Doctora María Amelia Flores González, responde sobre las expectativas y desafíos que enfrenta en el marco de la pandemia de Covid-19 No es una cara nueva en la política guatemalteca, ya que ocupó el cargo de viceministra técnica durante el gobierno de Óscar Berger. La Doctora María Amelia Flores González, nueva ministra de Salud en Guatemala, sustituye a Hugo Monroy, destituido por el presidente Alejandro Giammattei el pasado 19 de junio, debido a su cuestionada gestión en la crisis sanitaria por el coronavirus. RFI: ¿Cómo acoge este cargo en mitad de una crisis mundial generada por la pandemia del Covid 19? Su su nombramiento ha supuesto una nueva esperanza para los grupos de derechos humanos y de salud en el país… María Amelia Flores González (AMFG):  Lo asumimos como equipo, al que me dieron la oportunidad de escoger. No vengo sola. Es un gran reto saber que hay muchas expectativas en cuanto a nuestra gestión, lo estamos haciendo no solamente con el compromiso, sino asumiendo el reto de trabajar con transparencia para que la población conozca la realidad de la pandemia y sepa cómo protegerse. RFI: ¿Cuáles son las nuevas medidas decretadas por Guatemala para frenar los contagios por covid-19? AMFG: El pasado fin de semana se anunció el seguimiento a las medidas asumidas las dos semanas anteriores, en las cuales se baja el movimiento de personas a través de la circulación de vehículos a la mitad: un día placas pares y otro impares. La circulación ha disminuido significativamente. Del mismo modo, el día domingo todos deben permanecer en casa. Además seguimos insistiendo en el distanciamiento social, el uso de mascarillas y el lavado de manos. Aunque estamos reconociendo que ahorita el pico está bastante alto. Tenemos evidentes casos confirmados en distintas instituciones de gobierno. Los estamos abordando con seriedad. RFI: ¿Confirmamos que el estado de calamidad sigue vigente en Guatemala por lo menos 15 días más, luego de la ratificación aprobada por el Congreso de la república? AMFG: Así es, por el momento está firmado para 15 días. Depende de cómo se evoluciones puede haber un cambio a más o a menos. El ministerio de Salud en Guatemala informó esta semana que el país registró un total de 16.930 contagios de Covid-19. Hasta el sábado pasado se sumaron 533 casos nuevos de contagios de coronavirus y 21 fallecidos.  

Escala en París
Escala en París - [Redifusión] Ana Soto, 30 años de activismo científico contra los disruptores endocrinos

Escala en París

Play Episode Listen Later Jun 17, 2020 14:31


La bióloga argentina es una de las pioneras en las investigaciones sobre los disruptores endocrinos. Descubrió el nonilfenol en 1987 junto al también argentino Carlos Sonnenschein en la Universidad estadounidense de Tufts, en Boston. Trabaja entre Estados Unidos y París sus aportaciones a la investigación sobre estas sustancias que alteran las hormonas y que estarían detrás de las principales patologías de los países desarrollados han sido galardonadas en París.  RFI: Sabemos que es muy discreta y que no le gusta mucho hablar de premios, pero siempre es agradable que se reconozca el trabajo. Ana Soto: Fue una linda sorpresa porque es sobre todo un reconocimiento al trabajo que yo he hecho, a lo que ellos llaman activismo científico. Cuando uno encuentra algo que afecta a la salud de la población y ONG o gobiernos me piden la opinión, yo la doy porque considero que es mi obligación. Hay dos tipos de científicos. El que se queda en la torre de marfil y el científico que dice a mí me ha pagado el Estado y por lo tanto los que pagan impuestos. Así que ellos tienen derecho a saber cuáles son las consecuencias de los resultados que obtuvimos en nuestros laboratorios. Por lo tanto, para mí es una parte muy importante de mi trabajo y entonces esto es lo que ha reconocido la Alcaldía de París que no da premios científicos, pero reconoce a la gente que ha hecho algo que es importante para ellos. Fuimos convocados cuando estaban pensando qué hacer con los biberones de plástico que contenían Bisfenol A y los suspendieron hace ya diez años. También hemos dado nuestro testimonio en la Asamblea Nacional y ya hay dos leyes que han sido creadas para proteger a la población de los disruptores endocrinos. Así que Francia está en la vanguardia de todo esto. RFI: Explíquenos qué es exactamente un disruptor endocrino. AS: Es una sustancia química que afecta al sistema endocrino. Es decir, las hormonas que regulan nuestro metabolismo, la reproducción y el comportamiento. Todas esas cosas que están reguladas por las hormonas que se producen. El disruptor endocrino puede imitar a la hormona, como el que nosotros descubrimos, el nonilfenol, imita al estrógeno, la hormona femenina, que normalmente es producida por el ovario. Hay otros disruptores que actúan contra las hormonas masculinas, que son antiandrógenos, y hay otras que afectan al metabolismo. Es decir cómo esas hormonas son sintetizadas o cómo son destruidas por el organismo. Es complejo. Pero a fin de cuentas, el animal o la persona expuesta va a tener problemas importantes porque esas hormonas controlan un montón de facetas de nuestra salud. RFI: ¿Qué provocan los disruptores endocrinos? Se pone muchas veces el ejemplo del adelanto de la pubertad en las niñas. AS: Primero hay que destacar que están los estudios epidemiológicos y luego los estudios hechos en animales. Los estudios con los animales son más sensibles porque desde el laboratorio lo puedo controlar todo y puedo exponer en un momento dado y preciso.  Entonces son mucho más confiables. Los estudios epidemiológicos nos dan una pauta de lo que está pasando en la población pero no nos dan el refinamiento de los otros. Es decir, que necesitamos ambos. Y cuando se hacen estudios con animales se ve que la exposición a ciertos disruptores endocrinos produce efectos diversos durante la vida fetal, no se ve mucho, pero uno si diseca al animal ve que hay alteraciones. Luego cuando este animal crece se empiezan a encontrar fenómenos como que hay un avance de la pubertad, que hay alteraciones de comportamiento, que los animales comienzan a tener comportamientos ansiosos y otros efectos de comportamiento como que las madres no cuidan bien a sus crías. Las ratas, por ejemplo, cuando las separo de las crías tardan unos segundos en encontrarlas, pero si a las ratas las hemos expuesto a ciertos disruptores endocrinos, no lo hacen. Es como si la madre hubiera tomado cocaína. Pasan muchas cosas que no son normales, que parecen sutiles, pero que después se agravan. Por supuesto, también encontramos cáncer de mama y eso con una exposición pequeña en el laboratorio, a unos niveles a los que estamos expuestos en la vida. En resumen, alteración del comportamiento, obesidad, diabetes, cáncer de mama, cáncer de próstata. Y si usted ve, las patologías que van en aumento en las poblaciones del primer mundo coinciden. Pero no tenemos los estudios epidemiológicos porque es muy difícil seguir qué pasó en la vida fetal de una persona cincuenta años más tarde. RFI: Usted ya descubre un disruptor endocrino en 1987. Se trata del nonilfenol. Lo hizo en la Universidad de Tufts de Boston, en Estados Unidos. Lo descubre junto a otro argentino, su socio Carlos Sonnenschein. Un descubrimiento por casualidad. AS: Estábamos investigando sobre la proliferación de células y de golpe los resultados que habíamos obtenido durante diez años no se reproducían más. Es decir, aquellas células a las que les habíamos puesto estrógenos proliferaban y a las que no, no. Había una diferencia numérica de cinco veces entre uno y otro. Y de golpe todas las células proliferaban, incluso a las que no les habíamos puesto estrógeno. Tardamos cuatro meses en identificar de dónde venía eso. Si eran las pipetas o los frascos de cultivo. Y al final encontramos que eran unos tubos donde guardábamos unos componentes de medio cultivo. Llamamos a la empresa que los produce y nos explicaron que habían cambiado la fórmula para su fabricación para que fueran más resistentes a los impactos. Preguntamos qué tenían y nos dijeron que no lo podían decir porque era secreto de fabricación. Y allí estuvimos un año y medio investigando. Estudiamos las analíticas de química que se usaban en ese momento, porque tanto Carlos como yo somos médicos. Y finalmente en 1991 publicamos el resultado. Era nonilfenol, un antioxidante. Cuando lo descubrimos, vimos que también se usaba como detergente. El nonilfenol ya estaba en la mira de los suizos porque esta sustancia es tóxica para las agallas de los peces. También se usaba como antiespermicida en las cremas y en los condones. Entonces nos dimos cuenta de que la gente estaba expuesta pero no teníamos el dato preciso de qué iba a producir esa exposición en el feto. Y recién empezó a haber dinero para investigar en 1995. Así que comenzamos a realizar los estudios con animales en 1996. RFI: ¿Cuántos disruptores endocrinos hay identificados en la actualidad? AS: Hay entre 80.000 y 90.000 productos de síntesis que existen en el mercado que están en el registro federal estadounidense y hay otro registro similar en Europa. Pero de esos hay muy pocos detectados. En nuestro laboratorio hicimos un barrido de unos 150 y unos 40 tenían actividad estrogénica. No se ha hecho un estudio sistemático, pero hay muchos. RFI: ¿Hay urgencia en hacer un registro? AS: Sí, hay urgencia. Pero lo que está pasando es lo siguiente. Por ejemplo, cuando nosotros y otros publicaron que el bisfenol A, que se usa para hacer plásticos de policarbonato, en las lentes de contacto o en las latas de conserva, tenían una actividad hormonal, algunos países empezaron a preocuparse para limitar la exposición. Y se retiraron botellas de agua y biberones y se reemplazó el bisfenol A por bisfenol AF y Bisfenol S que también tienen actividad estrogénica. Ese fue un mal movimiento. Pero desde que los franceses sacaron una ley que fue implementada en 2016, los plásticos que están en contacto con la comida no pueden tener ciertos ftalatlos o bisfenol A. O sea que ya se está actuando para evitar la exposición a estas sustancias.

Escala en París
Escala en París - [Redifusión] Santiago Amigorena: “Siempre sentí que de mi abuelo había heredado el silencio”

Escala en París

Play Episode Listen Later Apr 8, 2020 13:05


Santiago Amigorena (Buenos Aires, 1962) ha escrito una decena de libros autobiográficos, ha dirigido tres películas y escrito el guion de más de 30. Su último libro ‘Le guétto intérieur’ está teniendo un eco especial. Fue nominado al premio Goncourt, el más importante de la literatura francesa, y va a ser traducido a doce idiomas, entre ellos el español, cuya publicación se espera para mayo (Literatura Random House). En la novela, Amigorena cuenta la historia de su abuelo materno, Vicente Rosenberg, judío polaco, que se instala en Buenos Aires en 1928. En Polonia se quedan la madre de Vicente, Gustava y su hermano que luego quedarán encerrados en el gueto de Varsovia. Como millones de judíos serán asesinados por los nazis durante la segunda guerra mundial. Durante meses, Gustava, que finalmente morirá en el campo de exterminio de Treblinka II, le escribirá cartas a su hijo explicando la situación cada vez más precaria que viven. Ante la incapacidad de poder ayudar a su familia y carcomido por la culpa, Vicente se sumirá por siempre en el silencio, construyendo un muro y encerrándose en su gueto interior. RFI: ¿Cuándo se enteran de que existen estas cartas de Gustava a Vicente y por qué decide escribir su historia? Santiago Amigorena: Las cartas las tenía mi tía en Buenos Aires y mi madre las hizo traducir hace unos cinco años. Las leí en ese momento y enseguida tomó forma la idea de que tenía desde hace mucho tiempo que era hablar sobre el silencio de mi abuelo. Escribí muchos libros que tienen que ver con el silencio y el silencio de mi abuelo es algo que me tendía las manos. RFI: Su abuelo murió cuando usted tenía siete años, apenas lo conoció, ¿cómo consigue recrear sus historia y su personalidad de esos años? SA: Es una novela, hablo de mi abuelo en un momento en que no lo conocí. Lo que yo escribo, cuando es más autobiográfico, más explícito, siempre trato de entender cuál es el eco del pasado en el presente. No es simplemente buscar el pasado y respetarlo totalmente. Entonces, aquí a partir de recuerdos de mi abuelo, recuerdos de mi abuela también, historias que escucho desde siempre, una especie de mitología familiar que hay en todas las familias, todo eso hacía un murmullo y en cierto momento, leyendo las cartas y también un libro de mi primo Martín Caparrós, que escribió sobre este mismo abuelo, pensé que la forma que tenía que tomar la novela eran cuatro años en Buenos Aires entre 1940 y 1944, cuando recibe las cartas y se vuelve muy melancólico y silencioso. RFI: La inquietud mayor de ‘Le guetto intérieur’ es la culpabilidad que siente Vicente Rosenberg por no poder ayudar a sus familiares que están atrapados en el gueto de Varsovia y opta por el silencio. ¿Por qué se calla Vicente? SA: “Me parece que es una reacción que tuvieron muchos sobrevivientes de la Shoah. La particularidad de mi abuelo es que estaba a 12.000 km de distancia de donde ocurría el drama y el silencio en ciertas circunstancias es la única arma que queda. No es una negación de lo que está pasando pero es una expresión de la imposibilidad de hacer cualquier cosa. Mi abuelo, cuando se fue Argentina en 1928, pensaba que si pasaba algo en Europa podría hacer algo para salvar a su familia y lo que pasó es que se dio cuenta demasiado tarde de lo que estaba pasando y en cuanto se dio cuenta era demasiado tarde y no podía salvar más a su madre y a su hermano. RFI: En la novela, Vicente tiene un sueño recurrente en el que se construye un muro a su alrededor y cuando quiere destruirlo se da cuenta de que es su propia piel porque sangra, ese es su gueto interior. SA: Ese es su gueto, es su manera de construir un gueto estando a 12.000 kilómetros de distancia. Es una prolongación del muro del gueto de Varsovia. Eso es una invención. Mi abuelo no me contó ese sueño. RFI: ¿Qué parte de ese silencio y de esa culpabilidad hereda usted de su abuelo? SA: Eso es lo que también está en el inicio del libro. Cómo se puede heredar un silencio, en general lo que se hereda es por una transmisión, por palabras, y yo siempre sentí que de este abuelo lo que había heredado era el silencio y fue esto lo que me hizo escribir cuando empecé a escribir cuando empecé el proyecto autobiográfico de diez libros, fue el silencio y la relación ante el silencio y la escritura, por qué el silencio provoca la escritura y por qué la escritura es una forma de silencio. RFI: ¿Un silencio provocado por una culpabilidad? SA: Cuando uno se mira a sí mismo siempre encuentra culpabilidades. En el libro, en cierto momento, comparo la culpabilidad de mi abuelo con la culpabilidad que pueda haber tenido yo por haber venido a Europa en los años 70 y no haberme quedado en Argentina o en Uruguay, donde vivía en ese momento. Yo tenía entonces 12 años, vine con mis padres, no es mi responsabilidad directamente, no es que huyera de la situación en América del sur en los años 70, pero lo que pasó también es que estaba viviendo en Francia cuando estaba ocurriendo un drama que pasaba en mi país. RFI: Otra de las cuestiones que se plantean en el libro es la de la identidad porque Vicente llega a Buenos Aires en 1928 como polaco, pero enseguida empieza a sentirse argentino y luego judío por el antisemitismo. “¿Qué es lo que hace que nos sintamos una cosa u otra? ¿Y por qué a veces nos sentimos seguros de ser solo una cosa? » escribe en el libro. ¿Le preocupa el tema de la identidad? SA: Sí, me preocupa y me di cuenta escribiéndolo. No era una intención que tenía antes. Pero me di cuenta que incluso ahora con la situación política actual no solo en Francia sino en todas partes, muy seguido se definen identidades y eso impide ser algo que está más vivo que una identidad. Lo que yo siento respecto a mi identidad es que soy un escritor francés, no me gusta cuando me dicen que soy un escritor franco argentino o un escritor argentino afincado en Francia porque mi idioma para escribir, el único, es el francés. Como escritor soy francés, pero si veo un partido de fútbol soy argentino y si estoy con mis hijos soy padre, si estoy con mi mujer, soy amante. Y todas esas cosas, cuando uno trata de definir una sola identidad o si desde fuera nos dan una identidad que nos impide ser todo el resto, es una situación bastante terrible. Lo que hizo el nazismo fue claramente eso, decirles a todos los judíos que solo eran eso, judíos. Pero es algo que sigue pasando hoy en día y que obviamente siento como todo ser humano. RFI: ¿Nunca ha querido escribir en español? ¿No le tienta? SA: Escribí guiones en español, muy de vez en cuando me sale algún poema en español, pero no. Leí mucho más en francés que en español. Llegué a Francia a los 12 años y entonces mis lecturas fueron sobre todo en francés y me parece que la lengua para escribir es la lengua de las lecturas sobre todo. Además en Francia hay algo que no hay en España o en América del sur y es que hay una gran tradición de gente que no es francesa y que escribe en francés. Esto empezó con un escritor polaco, Jan Potocki (1761-1815), hay muchos autores como el rumano Emil Cioran (1911-1995) o el irlandés Samuel Beckett (1906-1989). También me gustó o tratar de formar parte de esta tradición. RFI: En los próximos meses ‘Le guetto intérieur’ se va a publicar en español y el encargado de traducirlo es su primo el escritor y periodista argentino Martín Caparrós, que además también es nieto de Vicente. Es una situación bastante peculiar… SA: Me gustó mucho la idea porque él escribió un libro sobre sus dos abuelos sobre todas sus vidas pero también hablaba de ese momento en el que nuestro abuelo común Vicente Rosenberg recibía las cartas en Buenos Aires. Y apenas leí ese libro, enseguida le dije que algún día iba a escribir un libro sobre este periodo y cuando lo leyó aceptó traducirlo. También se llamará ‘El gueto interior’. Está terminando la traducción ahora, así que si no me traiciona más que eso se llamará así. RFI:¿Qué planes tiene para el 2020? ¿Más guiones, más libros? SA: Los guiones siempre están ahí. Es mi trabajo. Es como ir a la oficina. Y con la escritura de libros, cuando termino un libro, siempre empiezo a escribir el siguiente, antes de que se publique. Apenas le doy un manuscrito a mi editor, ya estoy escribiendo. Así que ya voy por la mitad. RFI: ¿Sigue en la vena autobiográfica o será ficción? SA: Los dos.   #EscalaenParís también está en Facebook. Un programa coordinado por Florencia Valdés y realizado por Souheil Khedir, Mathias Taylor y Vanessa Loiseau.  

Escala en París
Escala en París - Santiago Amigorena: “Siempre sentí que de mi abuelo había heredado el silencio”

Escala en París

Play Episode Listen Later Jan 8, 2020 13:05


Santiago Amigorena (Buenos Aires, 1962) ha escrito una decena de libros autobiográficos, ha dirigido tres películas y escrito el guion de más de 30. Su último libro ‘Le guétto intérieur’ está teniendo un eco especial. Fue nominado al premio Goncourt, el más importante de la literatura francesa, y va a ser traducido a doce idiomas, entre ellos el español, cuya publicación se espera para mayo (Literatura Random House). En la novela, Amigorena cuenta la historia de su abuelo materno, Vicente Rosenberg, judío polaco, que se instala en Buenos Aires en 1928. En Polonia se quedan la madre de Vicente, Gustava y su hermano que luego quedarán encerrados en el gueto de Varsovia. Como millones de judíos serán asesinados por los nazis durante la segunda guerra mundial. Durante meses, Gustava, que finalmente morirá en el campo de exterminio de Treblinka II, le escribirá cartas a su hijo explicando la situación cada vez más precaria que viven. Ante la incapacidad de poder ayudar a su familia y carcomido por la culpa, Vicente se sumirá por siempre en el silencio, construyendo un muro y encerrándose en su gueto interior. RFI: ¿Cuándo se enteran de que existen estas cartas de Gustava a Vicente y por qué decide escribir su historia? Santiago Amigorena: Las cartas las tenía mi tía en Buenos Aires y mi madre las hizo traducir hace unos cinco años. Las leí en ese momento y enseguida tomó forma la idea de que tenía desde hace mucho tiempo que era hablar sobre el silencio de mi abuelo. Escribí muchos libros que tienen que ver con el silencio y el silencio de mi abuelo es algo que me tendía las manos.   RFI: Su abuelo murió cuando usted tenía siete años, apenas lo conoció, ¿cómo consigue recrear sus historia y su personalidad de esos años? SA: Es una novela, hablo de mi abuelo en un momento en que no lo conocí. Lo que yo escribo, cuando es más autobiográfico, más explícito, siempre trato de entender cuál es el eco del pasado en el presente. No es simplemente buscar el pasado y respetarlo totalmente. Entonces, aquí a partir de recuerdos de mi abuelo, recuerdos de mi abuela también, historias que escucho desde siempre, una especie de mitología familiar que hay en todas las familias, todo eso hacía un murmullo y en cierto momento, leyendo las cartas y también un libro de mi primo Martín Caparrós, que escribió sobre este mismo abuelo, pensé que la forma que tenía que tomar la novela eran cuatro años en Buenos Aires entre 1940 y 1944, cuando recibe las cartas y se vuelve muy melancólico y silencioso.   RFI: La inquietud mayor de ‘Le guetto intérieur’ es la culpabilidad que siente Vicente Rosenberg por no poder ayudar a sus familiares que están atrapados en el gueto de Varsovia y opta por el silencio. ¿Por qué se calla Vicente? SA: “Me parece que es una reacción que tuvieron muchos sobrevivientes de la Shoah. La particularidad de mi abuelo es que estaba a 12.000 km de distancia de donde ocurría el drama y el silencio en ciertas circunstancias es la única arma que queda. No es una negación de lo que está pasando pero es una expresión de la imposibilidad de hacer cualquier cosa. Mi abuelo, cuando se fue Argentina en 1928, pensaba que si pasaba algo en Europa podría hacer algo para salvar a su familia y lo que pasó es que se dio cuenta demasiado tarde de lo que estaba pasando y en cuanto se dio cuenta era demasiado tarde y no podía salvar más a su madre y a su hermano.   RFI: En la novela, Vicente tiene un sueño recurrente en el que se construye un muro a su alrededor y cuando quiere destruirlo se da cuenta de que es su propia piel porque sangra, ese es su gueto interior. SA: Ese es su gueto, es su manera de construir un gueto estando a 12.000 kilómetros de distancia. Es una prolongación del muro del gueto de Varsovia. Eso es una invención. Mi abuelo no me contó ese sueño.   RFI: ¿Qué parte de ese silencio y de esa culpabilidad hereda usted de su abuelo? SA: Eso es lo que también está en el inicio del libro. Cómo se puede heredar un silencio, en general lo que se hereda es por una transmisión, por palabras, y yo siempre sentí que de este abuelo lo que había heredado era el silencio y fue esto lo que me hizo escribir cuando empecé a escribir cuando empecé el proyecto autobiográfico de diez libros, fue el silencio y la relación ante el silencio y la escritura, por qué el silencio provoca la escritura y por qué la escritura es una forma de silencio.   RFI: ¿Un silencio provocado por una culpabilidad? SA: Cuando uno se mira a sí mismo siempre encuentra culpabilidades. En el libro, en cierto momento, comparo la culpabilidad de mi abuelo con la culpabilidad que pueda haber tenido yo por haber venido a Europa en los años 70 y no haberme quedado en Argentina o en Uruguay, donde vivía en ese momento. Yo tenía entonces 12 años, vine con mis padres, no es mi responsabilidad directamente, no es que huyera de la situación en América del sur en los años 70, pero lo que pasó también es que estaba viviendo en Francia cuando estaba ocurriendo un drama que pasaba en mi país.   RFI: Otra de las cuestiones que se plantean en el libro es la de la identidad porque Vicente llega a Buenos Aires en 1928 como polaco, pero enseguida empieza a sentirse argentino y luego judío por el antisemitismo. “¿Qué es lo que hace que nos sintamos una cosa u otra? ¿Y por qué a veces nos sentimos seguros de ser solo una cosa? » escribe en el libro. ¿Le preocupa el tema de la identidad? SA: Sí, me preocupa y me di cuenta escribiéndolo. No era una intención que tenía antes. Pero me di cuenta que incluso ahora con la situación política actual no solo en Francia sino en todas partes, muy seguido se definen identidades y eso impide ser algo que está más vivo que una identidad. Lo que yo siento respecto a mi identidad es que soy un escritor francés, no me gusta cuando me dicen que soy un escritor franco argentino o un escritor argentino afincado en Francia porque mi idioma para escribir, el único, es el francés. Como escritor soy francés, pero si veo un partido de fútbol soy argentino y si estoy con mis hijos soy padre, si estoy con mi mujer, soy amante. Y todas esas cosas, cuando uno trata de definir una sola identidad o si desde fuera nos dan una identidad que nos impide ser todo el resto, es una situación bastante terrible. Lo que hizo el nazismo fue claramente eso, decirles a todos los judíos que solo eran eso, judíos. Pero es algo que sigue pasando hoy en día y que obviamente siento como todo ser humano.   RFI: ¿Nunca ha querido escribir en español? ¿No le tienta? SA: Escribí guiones en español, muy de vez en cuando me sale algún poema en español, pero no. Leí mucho más en francés que en español. Llegué a Francia a los 12 años y entonces mis lecturas fueron sobre todo en francés y me parece que la lengua para escribir es la lengua de las lecturas sobre todo. Además en Francia hay algo que no hay en España o en América del sur y es que hay una gran tradición de gente que no es francesa y que escribe en francés. Esto empezó con un escritor polaco, Jan Potocki (1761-1815), hay muchos autores como el rumano Emil Cioran (1911-1995) o el irlandés Samuel Beckett (1906-1989). También me gustó o tratar de formar parte de esta tradición.   RFI: En los próximos meses ‘Le guetto intérieur’ se va a publicar en español y el encargado de traducirlo es su primo el escritor y periodista argentino Martín Caparrós, que además también es nieto de Vicente. Es una situación bastante peculiar… SA: Me gustó mucho la idea porque él escribió un libro sobre sus dos abuelos sobre todas sus vidas pero también hablaba de ese momento en el que nuestro abuelo común Vicente Rosenberg recibía las cartas en Buenos Aires. Y apenas leí ese libro, enseguida le dije que algún día iba a escribir un libro sobre este periodo y cuando lo leyó aceptó traducirlo. También se llamará ‘El gueto interior’. Está terminando la traducción ahora, así que si no me traiciona más que eso se llamará así.   RFI:¿Qué planes tiene para el 2020? ¿Más guiones, más libros? SA: Los guiones siempre están ahí. Es mi trabajo. Es como ir a la oficina. Y con la escritura de libros, cuando termino un libro, siempre empiezo a escribir el siguiente, antes de que se publique. Apenas le doy un manuscrito a mi editor, ya estoy escribiendo. Así que ya voy por la mitad.   RFI: ¿Sigue en la vena autobiográfica o será ficción? SA: Los dos.     #EscalaenParís también está en Facebook. Un programa coordinado por Florencia Valdés y realizado por Souheil Khedir, Mathias Taylor y Vanessa Loiseau.  

Francia hoy
Francia hoy - Mauro Colagreco, un chef sin fronteras

Francia hoy

Play Episode Listen Later Oct 1, 2019 16:42


El chef argentino Mauro Colagreco no para de sumar medallas. Sus pares franceses lo designaron en septiembre mejor cocinero del país luego de que su restaurante Mirazur, en la ciudad mediterranea de fuera coronado con la tarcera estrella de la guía Michelin y que la lista 50 Best lo catapultara como el mejor del mundo. Desde su santuario del buen comer reivindica su concepción de la cocina como un lenguaje sin fronteras y un medio para transmitir amor: "Estoy convencido de que una cocina sin amor, no tiene camino" explicó a RFI en español. Colagreco, ya había recibido en enero la tercera estrella Michelin, convirtiéndose en el único extranjero en Francia en obtener la máxima distinción gastronómica . El chef argentino de 42 años, que debía convertirse en contador, un buen día entró en una cocina profesional y descubrió su verdadera vocación. Transcribimos parte de la entrevista con RFI realizada en junio 2019 en el restaurant Mirazur. RFI :Este lugar donde estamos, es Francia pero también Italia. En una entrevista dijiste, citando a un autor muy conocido: “¿Fronteras? Nunca he visto ninguna. Pero he oído que existen en la mente de algunas personas". Sí es verdad, yo tengo esa visión de la frontera, como un lugar de confluencias, no un lugar de división. Aquí en Mirazur ampliamos esa noción de frontera como un lugar de intercambio. La riqueza natural que surge en un lugar de fronteras naturales: es entre las corrientes frías y cálidas, donde se encuentran las más ricas zonas de pesca. En este caso tenemos el mar y la montaña, es otra especie de frontera... Es un lugar rico, natural y culturalmente. Yo creo que ese mensaje, hoy en día cuando algunos países y mucha gente está pasando por un momento de encerrarse en sí misma, de temor hacia el otro, de radicalización; este es un mensaje muy lindo, de la frontera que une y no de la frontera que divide, la cocina tiene eso, es un idioma que atraviesa todas fronteras. RFI ¿Cuál es tu relación con los productores? Por mi manera de trabajar y por mi manera de ver la cocina, creo que las verdaderas estrellas de la gastronomía no somos los chefs, sino los productores. Creo que hay que darles el lugar que se merecen, porque dependemos de ellos -la buena alimentación- no hablo de los restaurants sino de la alimentación de todo el mundo. Si queremos una buena alimentación para nuestros hijos, dependemos de los pequeños productores, que son gente consciente de su relación con el medio ambiente. Debemos ayudarlos para que puedan subsistir, lo que hoy no es el caso, en una Europa donde cada vez les cuesta más a causa de legislaciones, muchas veces y lamentablemente, en favor de la gran industria agroalimentaria y que responden a un lobby feroz de la industria. Algo que conocemos muy bien en América Latina. RFI Algunos productos que sirven aquí en el Mirazur, vienen de la propia huerta… Empezamos con una, aquí al pie del restaurant, donde tenemos unas 25 plantas de cítricos, -no olvidemos que estamos en Menton- y todas las hierbas aromáticas que usamos en el restaurant. Después tenemos un terreno que ya lo estamos trabajando desde hace unos años, a 300 metros del restaurant, donde tenemos las verduras y un gallinero. El famoso gallinero, donde tenemos nueve variedades de gallinas diferentes. Es un lugar hermoso, con mucha diversidad, colmenas de abejas…, y el hecho de trabajar la tierra dándole cariño y respetándola; se siente que toda la energía que ponemos en ella nos la devuelve con creces. ¿Podrían ser autosuficientes? Talvez con las verduras, pero no es nuestro objetivo, porque creemos que también debemos ayudar a los pequeños productores de la zona; porque les cuesta vivir de su trabajo y creo que restaurants como el nuestro, también pueden influir en la economía local y los hábitos, particularmente en materia de agricultura y pesca, colaborando con los artesanos.